Tải bản đầy đủ (.pdf) (251 trang)

ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA CƯ DÂN VEN BIỂN HÀ TĨNH THỜI KÌ CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN ĐẠI HÓA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.76 MB, 251 trang )

1

B VN HO, TH THAO V DU LCH

B GIO DC V O TO

TRNG I HC VN HO H NI

NG TH THUí HNG

ĐờI Sống VĂN HóA CủA CƯ DÂN VEN BIểN Hà TĩNH
THờI Kỳ CÔNG NGHIệP HóA, HIệN ĐạI HóA

LUN N TIN S VN HO HC

H NI - 2015


2

B VN HO, TH THAO V DU LCH

B GIO DC V O TO

TRNG I HC VN HO H NI

NG TH THUí HNG

ĐờI Sống VĂN HóA CủA CƯ DÂN VEN BIểN Hà TĩNH
THờI Kỳ CÔNG NGHIệP HóA, HIệN ĐạI HóA


Chuyờn ngnh : Vn hoỏ hc
Mó s

: 62310640

LUN N TIN S VN HO HC

Ngi hng dn khoa hc: 1, PGS.TS. Trnh Th Minh c
2, PGS.TS. Lờ Quý c

H NI - 2015


3

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án tiến sĩ “Đời sống văn hóa của cư dân
ven biển Hà Tĩnh thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa” là công trình
nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, hình ảnh và kết quả
nghiên cứu của luận án là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
Tác giả luận án

Đặng Thị Thúy Hằng


4

MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT,
KHÁI QUÁT VỀ VÙNG VEN BIỂN HÀ TĨNH

1.1.
1.2.
1.3.

Tổng quan tình hình nghiên cứu
Cơ sở lý thuyết
Khái quát về vùng ven biển Hà Tĩnh
Tiểu kết
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ CỦA CƢ DÂN
VEN BIỂN HÀ TĨNH QUA TÍN NGƢỠNG, LỄ HỘI, PHONG TỤC

2.1.
2.2.
2.3.

Tín ngưỡng
Lễ hội
Phong tục
Tiểu kết
Chƣơng 3:
THỰC TRẠNG ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ CỦA
CƢ DÂN VEN BIỂN HÀ TĨNH QUA TIÊU DÙNG VĂN HOÁ

3.1.

3.2.
3.3
3.4

Các phương tiện tiêu dùng văn hoá
Nhu cầu tiêu dùng văn hóa
Mức độ tiêu dùng văn hóa
Nội dung tiêu dùng văn hóa
Tiểu kết
Chƣơng 4:
XU HƢỚNG BIẾN ĐỔI ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ
CỦA CƢ DÂN VEN BIỂN HÀ TĨNH THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HOÁ,
HIỆN ĐẠI HOÁ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

4.1.
4.2.
4.3.

1
2
3
8
8
17
33
54
56
56
70
78

89
91
91
105
112
116
124

126
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá tiếp tục được đẩy mạnh ở vùng 126
ven biển Hà Tĩnh
Xu hướng biến đổi đời sống văn hoá của cư dân ven biển Hà Tĩnh
130
Những vấn đề đặt ra
146
Tiểu kết
154
155
KẾT LUẬN
158
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
159
TÀI LIỆU THAM KHẢO
168
PHỤ LỤC


5

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


ADB

: Ngân hàng phát triển Châu Á

BCH

: Ban chấp hành

CNH, HĐH

: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

CN

: Công nghiệp

ĐSVH

: Đời sống văn hoá

HN

: Hội nghị

KHCN

: Khoa học công nghệ




: Lao động

NCS

: Nghiên cứu sinh

Nxb

: Nhà xuất bản

PL

: Phụ lục

PLA

: Phụ lục ảnh

QL

: Quốc lộ

SCN

: Sau công nguyên

TDVH

: Tiêu dùng văn hoá


TP HCM

: Thành phố Hồ Chí Minh

TTCN

: Tiểu thủ công nghiệp

TW

: Trung ương

UBND

: Uỷ ban nhân dân

VBHT

: Ven biển Hà Tĩnh

XHH

: Xã hội học

XD

: Xây dựng



6

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1.Việt Nam có 3/4 diện tích là biển và đại dương, đường bờ biển dài
3260km kéo từ Móng Cái cho tới Hà Tiên, bao bọc lấy phía Đông, Nam và một
phần phía Tây của Tổ quốc, được xếp là quốc gia có đường bờ biển dài thứ 27 trong
tổng số 165 quốc gia có biển trên thế giới. Nếu tính vùng biển bao gồm cả nội thuỷ,
lãnh hải thì diện tích vùng biển của Việt Nam là 226.000 km2 và vùng đặc quyền
kinh tế biển là 1.000.000 km2 (theo Công ước quốc tế về Luật biển năm 1982 và
1994). Từ xa xưa, con người Việt Nam đã có sự gắn kết chặt chẽ với biển, nhóm cư
dân cư trú ở khu vực ven biển trong quá trình sinh tồn, để thích nghi được với môi
trường biển, khai thác, đánh bắt nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có của biển đảm
bảo cho nhu cầu mưu sinh, họ đã tích luỹ được các tri thức, kinh nghiệm, hiểu biết
về biển, về nguồn tài nguyên sinh vật biển, từ đó hình thành nên những nét văn hoá
đặc trưng so với các vùng, miền khác.
1.2. Bước vào giai đoạn CNH, HĐH đất nước, Đảng và Nhà nước đã ban
hành nhiều Nghị quyết, Chỉ thị về phát triển kinh tế vùng biển, ven biển và hải đảo.
Đặc biệt, có Nghị quyết số 09-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X
(ngày 9-2-2007) đã ban hành “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”, đánh một
dấu mốc quan trọng, thể hiện tầm nhìn mới của Đảng và Nhà nước về vai trò kinh tế
biển đối với sự nghiệp CNH, HĐH hiện nay. Trước sự tác động mạnh mẽ của sự
nghiệp CNH, HĐH và Chiến lược biển, đời sống kinh tế của cư dân vùng ven biển
nước ta tăng trưởng nhanh, kéo theo những biến đổi về đời sống văn hoá, dẫn đến
đời sống văn hoá của cư dân vùng ven biển đứng trước những cơ hội và thách thức
mới. Vấn đề bảo tồn, phát huy văn hoá truyền thống, chọn lọc tiếp thu văn hoá thời
đại, hình thành nên những giá trị văn hoá vừa tiên tiến, vừa đậm đà bản sắc dân tộc,
góp phần đưa văn hoá Việt Nam thực sự trở thành nền tảng tinh thần, là mục tiêu, là
động lực thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, đang được đặt ra đối với vùng ven biển
của cả nước nói chung và ven biển của tỉnh Hà Tĩnh nói riêng.

1.3. Hà Tĩnh là tỉnh duyên hải Bắc Trung Bộ, có địa hình phong phú, bao gồm
miền núi - trung du, đồng bằng và ven biển. Sự phong phú về địa lý, địa hình, tự nhiên,


7

đã tạo cho địa bàn cư trú của cư dân Hà Tĩnh rất đa dạng: có nhóm cư dân cư trú ở
vùng núi như một số xã của huyện Hương Sơn, Hương Khê, Vũ Quang, Kỳ Anh; có
nhóm cư dân cư trú ở vùng ven sông (như sông Lam, sông La của huyện Đức Thọ,
sông Ngàn Phố của huyện Hương Sơn); có nhóm cư dân cư trú ở vùng đồng bằng màu
mỡ như cư dân ở các huyện: Can Lộc, Hồng Lĩnh, Đức Thọ,…Hà Tĩnh còn có đường
bờ biển dài (137km), với 4 cửa biển là cửa Hội, cửa Sót, cửa Nhượng và cửa
Khẩu. Do đó, cư dân cư trú ở vùng ven biển Hà Tĩnh trải dài từ đầu đến cuối tỉnh
(dọc theo đường bờ biển) qua năm huyện: Nghi Xuân, Lộc Hà, Thạch Hà, Cẩm
Xuyên, Kỳ Anh. Nhóm cư dân ven biển Hà Tĩnh sống chủ yếu bằng nghề đánh bắt
hải sản, có kết hợp với một số nghề phụ khác.
Do tụ cư ở các vùng địa lý, địa hình khác nhau, tạo ra sự đa dạng về đời sống
văn hoá của cư dân Hà Tĩnh. Trong sự phong phú, đa dạng đó có dấu ấn văn hoá của
nhóm cư dân định cư ở vùng ven biển, vì sống trong môi trường biển, nhóm cư dân này
đã tạo ra những bản sắc văn hoá riêng. Có thể nhận diện nét khác biệt về đời sống văn
hoá của nhóm cư dân này so với các vùng khác trong tỉnh qua các yếu tố: tín ngưỡng,
lễ hội; phong tục, tập quán,…
Hiện nay, dưới tác động của CNH, HĐH, đặc biệt là “Chiến lược biển Việt
Nam đến năm 2020” của Đảng và Nhà nước, vùng ven biển Hà Tĩnh đang có nhiều
thay đổi. Từ những làng quê nghèo, sống nhờ vào nguồn cá tự nhiên kiếm được ở biển,
đời sống kinh tế-xã hội rất khó khăn đã trở thành trung tâm kinh tế trọng điểm của khu
vực Bắc Trung bộ, với những khu kinh tế đặc thù, chuyên biệt, mang đậm dấu ấn của
thời kỳ CNH, HĐH. Đời sống vật chất của cư dân vùng ven biển Hà Tĩnh thời kỳ
CNH, HĐH được nâng lên một cách nhanh chóng, kéo theo đời sống văn hoá có những
biến đổi sâu sắc. Sự biến đổi về đời sống văn hoá của cư dân ven biển Hà Tĩnh được

thể hiện với những xu hướng khác nhau, dẫn đến tính thuần nhất và nét đặc trưng độc
đáo về văn hoá của cư dân vùng ven biển Hà Tĩnh trước thời kỳ CNH, HĐH có xu thế
bị phá vỡ, nguy cơ đánh mất bản sắc, đánh mất truyền thống, ảnh hưởng văn hoá
ngoại lai, sự xâm nhập của văn hoá phẩm độc hại, hiện tượng chạy đua theo trào lưu
văn hoá mới, bỏ quên, xa rời văn hoá truyền thống, chạy theo văn hoá thực dụng mà
xa rời các yếu tố văn hoá nhân bản, tiếp nhận các luồng văn hoá mới chưa được gạn
lọc, khơi trong,… đang có chiều hướng gia tăng ở vùng ven biển Hà Tĩnh trong thời


8

kỳ CNH, HĐH.
Với những lý do trên, việc nghiên cứu Đời sống văn hoá của cư dân ven biển
Hà Tĩnh thời kỳ CNH, HĐH, nhận diện xu hướng vận động biến đổi là vấn đề trở
nên cấp thiết đối với giới nghiên cứu văn hoá ở nước ta hiện nay.Tuy vậy, cho đến
nay chưa có công trình chuyên sâu nào đề cập một cách đầy đủ, sâu sắc và hệ thống
về vấn đề này, do đó NCS chọn đề tài “Đời sống văn hoá của cư dân ven biển Hà
Tĩnh thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa” để làm luận án tiến sĩ, chuyên ngành
Văn hoá học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Chỉ ra thực trạng và bước đầu nhận diện xu hướng biến đổi Đời sống văn hóa
của cư dân ven biển Hà Tĩnh thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tập hợp và phân tích các công trình nghiên của các nhà nghiên cứu đi trước
đã viết về Hà Tĩnh, cư dân, văn hóa của cư dân ven biển Hà Tĩnh.
- Trình bày cơ sở lý thuyết nghiên cứu, khái niệm đời sống văn hoá, cơ cấu
của đời sống văn hoá và giới thuyết nội dung nghiên cứu của đề tài.
- Khảo sát, phân tích, nhận diện thực trạng Đời sống văn hoá của cư dân ven
biển Hà Tĩnh trước những tác động của sự nghiệp CNH, HĐH và xu hướng vận động,

biến đổi.
- Nhận định những vấn đề đặt ra đối với đời sống văn hóa của cư dân ven
biển Hà Tĩnh thời kỳ CNH, HĐH, qua đó có những khuyến nghị, đề xuất.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu về đời sống văn hoá tinh thần của cư dân ven
biển Hà Tĩnh trong bối cảnh CNH, HĐH.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
* Phạm vi vấn đề nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu đời sống văn hoá tinh thần qua một số thành tố: tín
ngưỡng, lễ hội, phong tục (có tính truyền thống); tiêu dùng văn hoá (có tính hiện


9

đại) của cư dân ven biển Hà Tĩnh trong thời kỳ CNH, HĐH.
* Phạm vi không gian
Nghiên cứu các làng/xã ven biển của 5 huyện: Kỳ Anh, Cẩm Xuyên, Thạch
Hà, Lộc Hà, Nghi Xuân (lựa chọn một số làng/xã điển hình để khảo sát sâu).
* Phạm vi thời gian: Nghiên cứu đời sống văn hoá của cư dân ven biển hiện
nay (thời điểm khảo sát 2013- 2015), có đề cập đến đời sống văn hoá xưa (truyền
thống, trước CNH, HĐH - mốc trước 1995-Hội nghị TW7 khoá VII) để đối chiếu,
so sánh, nhận diện xu hướng biến đổi.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Luận án dựa vào cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm lãnh đạo, chỉ đạo
của Đảng và Nhà nước về xây dựng đời sống văn hoá trong quá trình kiến tạo xã hội
mới. Từ cơ sở phương pháp luận này, tác giả vận dụng vào nghiên cứu thực trạng
đời sống văn hoá tinh thần của cư dân ven biển Hà Tĩnh hiện nay, nhận diện xu

hướng vận động, biến đổi và những vấn đề đặt ra trong biến đổi đời sống văn hoá
của cư dân ven biển Hà Tĩnh thời kỳ CNH, HĐH.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành trong văn hoá học: Luận án sử dụng
các khái niệm, phạm trù, kết quả của các ngành khoa học có liên quan đến văn hoá
học để nghiên cứu về đời sống văn hoá của cư dân ven biển Hà Tĩnh như: Dân tộc
học/ nhân học văn hoá, Xã hội học văn hoá, Folklore học, Tâm lý học,…
- Phương pháp phân tích và tổng hợp hệ thống tư liệu của các học giả đi
trước đã nghiên cứu những vấn đề có liên quan đến vùng ven biển Hà Tĩnh, cư dân
ven biển Hà Tĩnh và văn hoá ven biển Hà Tĩnh. Qua sự phân tích này, tác giả luận
án kế thừa và đưa ra những nhận định liên quan đến các vấn đề của đề tài luận án.
- Phương pháp khảo sát - điền dã của nhân học/dân tộc học văn hoá ở những
điểm nằm trong không gian nghiên cứu, để tìm hiểu thực tế, sưu tầm thu thập tư
liệu, thông tin qua cộng đồng cư dân tại thực địa.
- Phương pháp điều tra xã hội học thông qua việc phỏng vấn sâu và bảng hỏi,
để có những tư liệu định lượng, minh chứng cho những nhận xét, đánh giá định tính


10

về biến đổi văn hoá của cư dân ven biển Hà Tĩnh.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu giữa đời sống văn hoá truyền thống và hiện
đại của cư dân vùng ven biển Hà Tĩnh để tìm ra xu hướng vận động biến đổi.
- Phương pháp nghiên cứu đại diện: Chọn một số địa điểm ven biển tiêu
biểu của Hà Tĩnh để minh chứng cho vấn đề mà đề tài đang đề cập, đánh giá,
và bàn luận,…
5. Đóng góp mới của luận án
5.1. Đóng góp về mặt khoa học
- Luận án là công trình đầu tiên vận dụng lý luận về đời sống văn hoá với
nội hàm là đời sống văn hoá tinh thần vào nghiên cứu đời sống văn hoá của cư dân

vùng ven biển Hà Tĩnh thời kỳ CNH, HĐH.
- Nhận diện xu hướng vận động, biến đổi về đời sống văn hoá tinh thần của
cư dân vùng ven biển Hà Tĩnh thời kỳ CNH, HĐH.
- Phân tích, làm rõ những vấn đề đặt ra trong đời sống văn hoá tinh thần của
cư dân vùng ven biển Hà Tĩnh thời kỳ CNH - HĐH.
5.2. Đóng góp về mặt thực tiễn
- Giúp các nhà lãnh đạo, quản lý tham khảo để hoạch định các chính sách
xây dựng, phát triển kinh tế-văn hoá -xã hội ở vùng ven biển Hà Tĩnh hiện nay.
- Làm tài liệu tham khảo để giảng dạy các chuyên ngành văn hoá tại các
trường cao đẳng, đại học.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án chia làm 4 chương:
Chƣơng 1:Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết, khái quát về
vùng ven biển Hà Tĩnh
Chƣơng 2: Thực trạng đời sống văn hoá của cư dân ven biển Hà Tĩnh qua tín
ngưỡng, lễ hội, phong tục
Chƣơng 3: Thực trạng đời sống văn hoá của cư dân ven biển Hà Tĩnh qua tiêu
dùng văn hoá
Chƣơng 4: Xu hướng biến đổi đời sống văn hoá của cư dân ven biển Hà Tĩnh
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và những vấn đề đặt ra


11

Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ
KHÁI QUÁT VỀ VÙNG VEN BIỂN HÀ TĨNH
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Hà Tĩnh, được mệnh danh là vùng “địa linh, nhân kiệt”, mang nhiều nét đặc
trưng về địa lý, tự nhiên, đã sản sinh ra nhiều anh hùng dân tộc, nhiều nhà khoa

học lớn của đất nước… Nơi đây cũng đã lắng đọng nhiều giá trị văn hoá dân tộc,
kết hợp với đặc trưng vùng, tạo nên một Hà Tĩnh khác với các vùng, miền trong cả
nước,… Trong thời kỳ CNH, HĐH, Hà Tĩnh là một trong những vùng kinh tế
trọng điểm của đất nước. Thế nhưng, những nghiên cứu về Hà Tĩnh, về văn hoá
Hà Tĩnh thời hiện đại còn là một khoảng trống, đặc biệt còn thiếu những công
trình nghiên cứu chuyên sâu về văn hoá vùng ven biển Hà Tĩnh. Đây là vùng mà
hiện nay đang có nhiều biến đổi trước những chủ trương lớn của Đảng, chiến lược
phát triển mới của đất nước. Tuy vậy, vẫn có thể tìm thấy những nội dung có liên
quan đến đề tài luận án trong các công trình nghiên cứu đi trước để NCS có thể tiếp
thu, kế thừa, tìm ra cái mới. Vấn đề này, NCS xin được tổng hợp, phân tích, chia
làm ba nhóm nội dung cụ thể như sau:
1.1.1. Các công trình viết về vùng ven biển Hà Tĩnh
Đại Nam nhất thống chí, tập 2 [59] (Quốc sử quán triều Nguyễn), viết về đạo
Hà Tĩnh, chỉ có ba huyện nhưng cả ba huyện đều có phía đông giáp biển, đó là:
Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh (đạo Hà Tĩnh lúc đó chỉ có ba huyện). Vì vậy, Hà
Tĩnh khi đó chỉ có hai cửa biển là cửa Nhượng và cửa Khẩu, cả hai cửa biển đều
nắm giữ vị trí chiến lược quan trọng của đất nước. Về địa hình của Hà Tĩnh, Đại
Nam nhất thống chí nhận định: dài và hẹp “Xung quanh là núi giáp biển. Chiều nam
bắc dài mà chiều đông tây ngắn, từ biển lên núi chỉ nửa ngày đường”[59, tr.87].
Bùi Dương Lịch trong công trình Nghệ An ký [49] gồm hai quyển viết về
Thiên chí, Địa chí và Nhân chí trên đất Nghệ An (bao gồm cả Hà Tĩnh ngày nay).
Trong công trình này tác giả đã đề cập đến núi, sông và các cửa biển của Hà Tĩnh,


12

là cửa Hội, cửa Sót, cửa Nhượng và cửa Khẩu (trong tổng số 12 cửa biển của Nghệ
An thời đó). Tuy nhiên, về các ngọn núi được đề cập trong công trình này, ngày nay
tên gọi đã khác và địa giới hành chính giữa các xã, huyện của tỉnh Hà Tĩnh ngày
nay đã có nhiều thay đổi.

Đất nước Việt Nam qua các đời [1] của Đào Duy Anh (các trang 194-195;
208-209) ghi chép về sự thay đổi phạm vi hành chính của tỉnh Hà Tĩnh dưới thời
Minh Mệnh và Tự Đức (những năm 1822-1852). Ở thời điểm đó, tỉnh Hà Tĩnh chỉ
có hai phủ Đức Thọ và Hà Hoa (bao gồm Thạch Hà, Cẩm Xuyên và Kỳ Anh ngày
nay), hai huyện Cam Môn, Cam Cớt (của nước Lào) thuộc trấn Đinh Lệ phủ Đức Thọ.
Về sau hai huyện Cam Môn, Cam Cớt thuộc lãnh thổ nước Lào (như ngày nay) và
tỉnh Hà Tĩnh về sau gồm có các huyện: Kỳ Anh, Cẩm Xuyên, Can Lộc, Nghi
Xuân, Hương Sơn, Hương Khê, Đức Thọ và phủ Hà Thanh (Hà Hoa).
Phong thổ ký các huyện tỉnh Hà Tĩnh [56] (nhiều tác giả), giới thiệu rất khái
quát các huyện thuộc tỉnh Hà Tĩnh (lúc đó chưa có huyện Vũ Quang và huyện Lộc
Hà như hiện nay) về các mặt: Lịch sử, địa dư, sơn lĩnh, sông hói (những lạch nước
nhỏ, khe nước nhỏ, nhánh nhỏ của dòng sông), nhân dân (nhân vật lịch sử), đường
sá,… Cho biết bốn huyện Nghi Xuân, Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh (4/5 huyện
ven biển của Hà Tĩnh hiện nay), có phía đông giáp biển. Đặc biệt Phong thổ ký các
huyện tỉnh Hà Tĩnh đã đề cập đến nghề biển và một số nghề có liên quan đến biển ở
bốn huyện này, như: nghề tết buồm cói ở Yên Hội, nghề nước mắm ở Cương Gián
(huyện Nghi Xuân), làm cá, làm muối (huyện Cẩm Xuyên), đánh cá, đan lưới
(huyện kỳ Anh), làm muối ở Hộ Độ, làm nước Mắm ở cửa Sót (thuộc hai xã Hộ Độ
và Thạch Kim của huyện Lộc Hà ngày nay).
Địa chí Cẩm Nhượng [48] (Phạm Lê chủ biên), khái quát lên bức tranh toàn
cảnh về xã cửa biển Cẩm Nhượng, từ cảnh quan thiên nhiên đến các phong tục tập
quán, tín ngưỡng lễ hội, phương thức đánh bắt, các ngành nghề chủ yếu của cư dân xã
Cẩm Nhượng từ những năm trước 1945 cho đến thời kỳ Đổi mới (1986),… Đây là
nguồn tư liệu quý, NCS sử dụng để so sánh đối chiếu với những biến đổi đời sống
văn hoá cư dân của xã Cẩm Nhượng ngày nay, và đối chiếu, so sánh với 34 xã ven


13

biển khác của Hà Tĩnh.

Việt Nam lãnh thổ và các vùng địa lý [65] của tác giả Lê Bá Thảo, đề cập đến
địa lý, địa hình của các khu vực trong cả nước, đưa ra nhận định về miền Trung và
ven biển miền Trung (trong đó có Hà Tĩnh) rằng: đây là vùng có chiều dài gấp
nhiều lần chiều rộng, điều kiện tự nhiên có nhiều khó khăn, về tài nguyên thiên
nhiên “những tài nguyên với tới được thì không thật giàu hoặc đã bị phá hoại gần
hết, có những tài nguyên có tiềm năng lớn, thí dụ như tài nguyên hải sản hoặc
khoáng sản thì điều kiện khai thác khó khăn” [65, tr.386].
Như vậy, các công trình nghiên cứu đi trước trên đây đã cho biết địa danh một
số huyện giáp biển của Hà Tĩnh, cũng như các cửa biển thuộc về Hà Tĩnh xưa và nay.
Tuy nhiên số liệu không còn phù hợp, vì hiện nay các huyện của Hà Tĩnh đã khác.
1.1.2. Các công trình viết về cư dân ven biển Hà Tĩnh
Cư dân ven biển Hà Tĩnh đã được đề cập khá sớm ở một số công trình của
các học giả trong và ngoài nước.
Trước hết phải kể đến An - Tĩnh cổ lục [37] của Hippolyte le Breton, gồm hai
thiên, trong đó một thiên viết về người tiền sử trên mảnh đất An - Tĩnh (Nghệ An và
Hà Tĩnh). Từ những di vật tìm thấy ở các di chỉ khảo cổ học, Hippolyte le Breton
khẳng định: tất cả những “di vật đồ ăn thừa”ở vùng An - Tĩnh thuộc thời đại đồ đá
mới và con người thời đại đồ đá mới chỉ xuất hiện ở các đồng bằng ven biển của An Tĩnh và Quảng Bình, đó chính là cư dân Bàu Tró, nhóm cư dân này ngoài bắt các
nhuyễn thể ở các đầm phá ven biển và sông hồ để ăn, đã tiến hành đánh bắt các loài
cá ở biển, với dấu tích để lại ở các di chỉ khảo cổ học có xương của các loại cá biển
rất lớn. Thiên thứ hai trong An - Tĩnh cổ lục, Hippolyte le Breton ghi chép những
danh lam thắng cảnh và những di tích mang tính chất truyền thuyết và lịch sử của
vùng An - Tĩnh xưa, có nhắc đến núi Nam Giới (biên giới phía nam nước ta với
Chiêm Thành vào thế kỷ thứ VII-X, một ngọn núi giáp biển thuộc huyện Thạch Hà
ngày nay), đền Lê Khôi (ở cửa Sót – huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh) và bốn cửa biển
của Hà Tĩnh hiện nay (thuộc An - Tĩnh hồi đó) là cửa Hội, cửa Sót, cửa Nhượng,
cửa Khẩu,…


14


Biển với người Việt cổ [19] công trình của Viện nghiên cứu Đông Nam Á,
nghiên cứu về người Việt cổ với việc khai thác tài nguyên sinh vật biển. Những kết
quả nghiên cứu của công trình đã cung cấp cái nhìn lịch đại để nhận thấy người Việt
thời tiền, sơ sử cho đến thời kỳ độc lập tự chủ và kể cả ngày nay luôn có mối quan
hệ khăng khít không tách rời biển. Vì vậy, mối quan hệ giữa người Việt với biển
được xem như là một tất yếu, khi mà đất nước Việt Nam có chiều dài bờ biển lên tới
3.260km, các vùng biển và thềm lục địa của Việt Nam rộng gấp ba lần diện tích
lãnh thổ trong đất liền, lại nằm trên trục đường giao thông của ngã ba Đông Nam Á,
thuộc khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, một vị trí chiến lược quan trọng cho sự
phát triển kinh tế - chính trị - quân sự - văn hoá - xã hội, vị trí chiến lược cho việc
“tiến ra biển”,... Do đó, việc cư dân Việt sớm tiếp cận với biển theo các tác giả là
một tất yếu. Công trình nghiên cứu này còn cung cấp những thông tin cho thấy ở Hà
Tĩnh vào thời tiền sử (Đồ đá mới) có hai nhóm cư dân cư trú đã biết khai thác tài
nguyên sinh vật biển để sinh tồn, mặc dù chưa phải là chuyên hoá nghề biển, nhưng
đã biết khai thác biển bên cạnh sản xuất nông nghiệp và săn bắn, đó là cư dân của
văn hoá Quỳnh Văn với dấu vết để lại là di chỉ Phái Nam (Thạch Lâm - Thạch Hà)
và cư dân của văn hoá Bàu Tró - Thạch Lạc (Thạch Hà) với dấu vết để lại là 13 địa
điểm khảo cổ học trên đất Hà Tĩnh. Từ những nghiên cứu này cho thấy cư dân tiền
trú ở Hà Tĩnh đã tiếp xúc với biển.
Văn hoá Bàu Tró [55] của tác giả Phạm Thị Ninh, đã xác lập rõ những nét
đặc trưng của nền văn hoá Bàu Tró nói chung và văn hoá Bàu Tró trên đất Hà Tĩnh
nói riêng. Theo Phạm Thị Ninh về tính chất biển ở các địa điểm di tích của Hà Tĩnh
đậm nét hơn cả, thể hiện qua các di tích cồn sò điệp, các hiện vật và các dấu ấn hoạt
động kinh tế khai thác biển và sản xuất nông nghiệp của cư dân văn hoá Thạch Lạc
để lại. Như vậy, có thể nói vào thời tiền sử, Hà Tĩnh là địa điểm cư trú thích hợp
cho cư dân Bàu Tró sinh sống, trung bình các di tích cồn vỏ sò điệp của văn hoá
Bàu Tró có độ dày từ 4-5m, trong khi đó ở di tích Thạch Lạc (Thạch Hà - Hà Tĩnh)
dày tới 12m và có tới 4-5 tầng văn hoá; địa bàn phân bố của các di tích văn hoá Bàu
Tró ở Hà Tĩnh nơi gần biển nhất (hiện nay) là 4km, nơi xa nhất là 12km [55, tr.44].



15

Trong loại hình Thạch Lạc không chỉ dừng lại ở thu lượm những động vật thân
mềm sẵn có ở ven bờ, mà còn tiến hành đi khơi, đi lộng để đánh bắt cá, có di tồn
xương của những loài cá rất to thu được từ các cồn sò điệp Thạch Lạc, Thạch Lâm
đã chứng minh cho nhận định này. Tất cả những nghiên cứu về văn hoá Bàu Tró
trên đất Nghệ An - Hà Tĩnh, theo Phạm Thị Ninh đã nói lên cư dân văn hoá Bàu Tró
không chỉ có cuộc sống ổn định, lâu dài trên mảnh đất này, mà cuộc sống của họ
còn rất phong phú, sôi động. Dù cư trú ở cồn sò điệp ven biển, hay những cồn đất,
cồn cát ven cửa sông, lạch đều có xu hướng hướng ra biển, khai thác biển và gần
gũi với các nguồn nước, họ đã có sự phân công lao động và quan hệ trao đổi với
các nhóm cư dân văn hoá Bàu Tró ở các vùng. Kết luận cho cuốn sách, Phạm Thị
Ninh đưa ra nhận định: Văn hoá Bàu Tró có một vị trí quan trọng trong hệ thống
văn hoá vùng ven biển miền trung, là chiếc cầu nối giữa văn hoá Quỳnh Văn với
văn hoá Sa Huỳnh.
Cộng đồng ngư dân ở Việt Nam [70] của tác giả Nguyễn Duy Thiệu, là công
trình nghiên cứu tương đối toàn diện và sâu các mặt đời sống của cộng đồng ngư
dân, về cơ cấu tổ chức xã hội và các phương thức, ngư cụ đánh bắt truyền thống, tác
giả cũng đã giới thiệu ba tín ngưỡng có tính đại diện của ngư dân trong đời sống
sinh hoạt tinh thần, đó là: thờ cá Ông, thờ Mẫu và thờ Thánh. Đặc biệt, công trình
đã đề cập đến cộng đồng ngư dân Cửa Sót (một trong bốn cửa biển của Hà Tĩnh) và
đưa ra nhận định: đây là vùng có đặc điểm cư dân bác tạp và đông đúc, đất đai chật
hẹp và cằn cỗi, khí hậu khắc nghiệt, cửa biển bé nhỏ,… tác giả cũng đã giới thiệu
phương thức đánh bắt của ba nhóm cư dân chính ở cửa Sót, mà theo tác giả đã lấy
đánh cá làm nghề sống chính, đó là: nhóm thuỷ cư trên sông, nhóm thuỷ cư ở cửa
biển, và nhóm ngư dân sống trên đất liền. Tuy nhiên, hiện nay cả ba nhóm cư dân đều
sống trên đất liền và đã có những biến đổi.
Nghiên cứu về cư dân ven biển Việt Nam, tác giả Nguyễn Duy Thiệu còn

có một số công trình công bố trên các tạp chí, như: Các cộng đồng ngư dân thuỷ
cư tại vùng biển Việt Nam [75]; Người Bồ Lô và Vạn Kỳ Xuyên [69]; Nhật trình đi
biển của người Bồ Lô tại vùng biển Bắc Trung Bộ [71]; Người Việt (Kinh) vùng


16

ven biển miền Trung hội nhập cùng biển cả [76];… Trong các công trình này, hầu
hết Nguyễn Duy Thiệu quan tâm đề cập đến nhóm cư dân thuỷ cư chính (nhóm cư
dân chuyên nghề đánh bắt, có thuyền và các ngư cụ), trong đó có nhóm cư dân Bồ
Lô (nhóm cư dân này rất giỏi đánh bắt ở vùng biển, có cư trú ở một số địa điểm ven
biển Hà Tĩnh),...
Các công trình nghiên cứu về cư dân Hà Tĩnh trên đây, chủ yếu nhắc đến cư
dân tiền trú và có chung nhận định cư dân tiền trú trên đất Hà Tĩnh là cư dân văn hoá
Quỳnh Văn và cư dân văn hoá Bàu Tró. Nhóm cư dân tiền trú ở Hà Tĩnh chủ yếu
sống ở đồng bằng ven biển, đánh bắt cá và các loài nhuyễn thể ở biển, sông, hồ. Về
cư dân hiện đại được các công trình đi trước đề cập có nguồn gốc bác tạp.
1.1.3. Các công trình viết về văn hoá ven biển Hà Tĩnh
Làng cổ Hà Tĩnh, 2 tập [29, 31] do Thái Kim Đỉnh chủ biên, đã giới thiệu 78
làng, xã của Hà Tĩnh, trong đó có 11 làng, xã ven biển. Về cơ bản, Làng cổ Hà Tĩnh
là cuốn biên niên sử về các làng, xã của Hà Tĩnh, nên tác giả chủ yếu tập trung viết
về lịch sử làng gắn với các truyền thuyết, các huyền thoại, các sự tích hình thành
làng, các dòng họ chính đã sinh cơ lập nghiệp ở làng. Tuy nhiên, trong đó tác giả đã
đề cập đến những nghề nghiệp chính của cư dân trong làng, mà đối với các làng ven
biển đó là nghề đánh cá và nấu muối.
Lễ hội dân gian ở Hà Tĩnh [30], Thái Kim Đỉnh chủ biên, giới thiệu một số
lễ hội tiêu biểu ở Hà Tĩnh, trong đó có ba lễ hội thuộc vùng ven biển, là: Tục thờ
Ngư Thần và lễ Cầu Ngư ở Hội Thống, lễ Cầu Ngư và hội Đua Thuyền ở Nhượng
Bạn, lễ hội du xuân - Cầu Ngư ở làng Động Gián. Khi giới thiệu các lễ hội này, tác
giả chỉ dừng ở cung cấp tên lễ hội, ngày diễn ra lễ hội, chưa mô tả tiến trình, cũng

như các yếu tố tín ngưỡng văn hoá diễn ra trong lễ hội.
Địa chí văn hoá dân gian Nghệ Tĩnh [12], Nguyễn Đổng Chi chủ biên, gồm
bảy phần, trong đó giới thiệu về đặc trưng tính cách của người xứ Nghệ, những tri
thức, hiểu biết về địa lý, kỹ thuật, y dược, lịch sử, triết lý sống, thơ, ca, âm nhạc,
nghệ thuật, món ăn dân gian, phong tục tập quán dân gian,… của người dân xứ
Nghệ từ những năm trước cách mạng Tháng Tám (1945). Đây là công trình công
phu của tập thể tác giả, việc giới thiệu văn hoá dân gian (folklore) của một không


17

gian rộng lớn mang nhiều nét đặc trưng vùng (huyện, làng, xã), thậm chí là từng
nhóm cư dân như xứ Nghệ không phải là điều dễ làm. Lời đầu cuốn sách Nguyễn
Đổng Chi đã tự nhận xét: “công trình nghiên cứu này mang tính giới thiệu hết sức
khái lược, vẫn chỉ có tính chất cưỡi ngựa xem hoa. Có lẽ cần chờ sự bổ sung của
những bộ địa chí về văn hoá dân gian của những đơn vị nhỏ (như huyện, xã) hay
của từng tộc người Nghệ Tĩnh,…” [12, tr.13]. Mặc dù là khái lược (như tác giả tự
nhận xét), nhưng Địa chí văn hoá dân gian Nghệ Tĩnh, luôn là nguồn tư liệu quý, gợi
mở nhiều hướng nghiên cứu mới, chỉ ra các con đường mà những nhà nghiên cứu đi
sau có thể dựa vào đó để sưu tầm, thu thập tư liệu, khảo sát thực địa,…
Trong Địa chí văn hoá dân gian Nghệ Tĩnh, đã đề cập đến ba huyện ven biển
phía nam Hà Tĩnh là Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh (Thạch, Cẩm, Kỳ). Tác giả
cũng đã nhắc đến một số phong tục, kiêng kỵ, và sinh hoạt văn hoá dân gian của cư
dân vùng ven biển xứ Nghệ trước những năm 1945, trong đó có đề cập đến các
phường, hội nghề nghiệp của người dân Nghệ Tĩnh. Hội Vạn Chài được tác giả
nhắc đến với tư cách là một tổ chức hội nghề truyền thống, mở rộng ra toàn tỉnh,
lấy các cửa lạch làm đơn vị, luân phiên các địa điểm khác nhau hàng năm vào
tháng giêng họp lại để cúng Tứ vị mà đứng đầu là Thánh Mẫu (Bà Cờn), lễ cúng
có tam sinh và đặc biệt là có uống máu ăn thề, lời thề là cứu giúp nhau khi hoạn
nạn, tương thân tương ái, ai làm trái thì bị thần thánh làm hại,…

Văn hoá làng biển ở xứ Nghệ [35] của tác giả Ninh Viết Giao, đi vào phân
tích đặc điểm của các làng biển ở Nghệ Tĩnh (Nghệ An, Hà Tĩnh) cũng như khắp
cõi Việt Nam, trước đây có hai dạng cơ bản là Bãi dọc và Bãi ngang, gần đây có
thêm một dạng mới là biển - đô thị, tác giả đi vào giải thích thế nào là làng bãi dọc
và làng bãi ngang. Tác giả Ninh Viết Giao khẳng định: Cư dân sớm nhất ở các làng
biển Nghệ Tĩnh phải kể đến là cư dân văn hoá Quỳnh Văn và cư dân văn hoá Bàu
Tró, hai nhóm cư dân tiền sử này có mặt ở cả Nghệ An và Hà Tĩnh. Đồng thời tác
giả có nhiều minh chứng từ các công trình nghiên cứu trong lịch sử cho rằng Nghệ
Tĩnh là một trong những vùng đất cổ, tác giả đưa ra những chứng minh, rồi nhận
định rằng trong số cư dân ven biển xứ Nghệ nói chung, Hà Tĩnh nói riêng hiện nay
có người bản địa từ xa xưa, có người ở đồng bằng Bắc Bộ, có người ở Thanh Hoá,


18

có người ở phương Bắc, có người ở phương Nam (tức là có người Việt Nam, có
người Trung Quốc, có người Chiêm Thành, có người Bồ Lô). Về nghề nghiệp của
cư dân ven biển Nghệ Tĩnh, theo tác giả vẫn tồn tại song song hai nghề: nông
nghiệp và đánh cá. Ninh Viết Giao quan tâm trình bày các phương thức đánh bắt và
các ngư cụ đánh bắt, quan tâm đến cuộc sống vất vả tất bật và không chắc chắn về
sinh mạng của cư dân nơi đây (khi không được nhà nước phong kiến quan tâm dự
báo thời tiết, khí hậu, thuỷ văn,...) được thể hiện qua những bài vè - một nét đặc
trưng văn hoá dân gian xứ Nghệ, nặng về phản ánh cuộc sống sinh hoạt hàng ngày
của người dân. Từ cuộc sống bấp bênh và bấp bênh đến cả tính mạng của cư dân
vùng ven biển Nghệ Tĩnh, ông nêu một số tín ngưỡng mà ngư dân tin tưởng thờ
cúng bằng những liệt kê: “Từ Quỳnh Lưu cho đến Kỳ Anh, dọc bờ biển ta thấy ngư
dân thờ các vị thần: Tứ vị thánh nương, Sát Hải đại vương Hoàng Tá Thốn, Chiêu
Trưng vương Lê Khôi, Loan Nương Nguyễn Thị Bích Châu, Cao Sơn Cao Các,
Tam toà Thánh Mẫu mà đứng đầu là Liễu Hạnh công chúa, Ông Cá (tức cá Voi),
Tam toà đại vương Lý Nhật Quang,v.v…” [35, tr. 20].

Văn hoá dân gian làng ven biển [84], Ngô Đức Thịnh chủ biên, giới thiệu
văn hoá dân gian của cư dân một số vùng ven biển Việt Nam, trong số chín vùng
ven biển được giới thiệu trong công trình, tỉnh Hà Tĩnh có hai vùng là: Vùng biển
Cửa Sót (của tác giả Nguyễn Duy Thiệu) và làng biển Nhượng Bạn (của tác giả Võ
Quang Trọng). Trong đó, vùng biển Cửa Sót được tác giả Nguyễn Duy Thiệu đề cập
nhiều đến phương thức đánh bắt, các tri thức kinh nghiệm đánh bắt, cơ cấu tổ chức
xã hội truyền thống. Còn ở làng Cẩm Nhượng, Võ Quang Trọng đề cập đến các sinh
hoạt văn hoá dân gian của cư dân xã Cẩm Nhượng trước thời kỳ đổi mới. Cả hai tác
giả đã cung cấp nguồn tư liệu có giá trị làm cơ sở kế thừa và so sánh, đối chiếu với
các làng ven biển này trong thực tế xã hội hiện nay.
Văn hoá biển miền Trung và văn hoá biển Tây Nam Bộ [41], ở công trình
nghiên cứu này, có bài viết của Nguyễn Trí Sơn đề cập đến hò Chèo Cạn và Hội
Đám Chay - nét sinh hoạt văn hoá tinh thần của ngư dân làng biển Nhượng Bạn (xã
Cẩm Nhượng, huyện Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh). Bài viết tập trung giới thiệu hai trong
số rất nhiều những lễ hội, trò diễn truyền thống tiêu biểu của ngư dân vùng biển


19

Cẩm Nhượng. Tuy vậy, hiện nay hội Đám Chay không còn tồn tại, còn hò Chèo
Cạn đã được phục dựng và có nhiều yếu tố mới mang màu sắc thời đại.
Đề cập đến văn hoá ven biển thời kỳ đổi mới có bài viết của Lê Hồng Lý,
Đôi nét về văn hoá dân gian ven biển trong nền kinh tế thị trường [52]. Trong bài
viết của mình, tác giả đã khẳng định: Biển luôn ở cạnh người Việt, nhưng hình như
nó không được người Việt chú ý đến và việc khai thác biển của người Việt chủ yếu
là khai thác ven bờ và vùng nước lợ. Tác giả đã giới thiệu một số sinh hoạt văn hóa
tiêu biểu của các cộng đồng cư dân ven biển nước ta như: lễ hội cá Ông, lễ hội thờ
Thành Hoàng làng, tín ngưỡng thờ tổ tiên với vấn đề nhà thờ họ hiện nay, các
phong tục thuyền mới, lưới mới. Tác giả cho rằng với cư dân ven biển, thường cùng
thờ nhiều vị thần có công trong dịp lễ hội,…Vấn đề mới trong bài viết của Lê Hồng

Lý là tác giả đã đề cập đến những tác động của thời kinh tế mở cửa, của nền kinh tế
thị trường, làm cho bộ mặt đời sống của cư dân ven biển có nhiều thay đổi, trở
thành nơi giao lưu buôn bán sầm uất và cũng từ nền kinh tế thị trường đã làm cho
nhiều yếu tố văn hoá biến đổi, tác giả đã chấm phá một số nét thay đổi cơ bản nhất
trong đời sống của cư dân ven biển.
Văn hoá dân gian người Bồ Lô ven biển Hà Tĩnh [87], luận án Tiến sĩ của
Phạm Thanh Tịnh, đã khái quát lên bức tranh toàn cảnh về người Bồ Lô ven biển
Hà Tĩnh trong xã hội truyền thống cho đến hiện nay. Tuy nhiên, cư dân Bồ Lô chỉ là
một bộ phận rất nhỏ của cư dân ven biển Hà Tĩnh, sống tập trung chủ yếu ở hai
trong số bốn cửa biển của Hà Tĩnh là Cửa Nhượng và Cửa Sót.
Tóm lại, từ những tập hợp, tổng thuật, phân tích các công trình nghiên cứu đi
trước có liên quan đến đề tài luận án, nhận thấy:
- Về phương diện địa lý, tự nhiên, các công trình nghiên cứu đi trước nhận
định Hà Tĩnh là tỉnh có bờ biển dài, biển Hà Tĩnh có nguồn tài nguyên sinh vật
phong phú, có nhiều hải sản quý, các cửa biển Hà Tĩnh đóng vai trò quan trọng về
kinh tế, quân sự, văn hoá, giao lưu,... Dọc bờ biển Hà Tĩnh về phía nam từ núi
Nam Giới (huyện Thạch Hà) trở vào (hết huyện Kỳ Anh) có đan xen những ngọn
núi mọc ra tận biển… Đây là các điều kiện tài nguyên, khoáng sản, địa lý tự
nhiên để Hà Tĩnh có một bộ phận cư dân sinh sống ở dọc ven biển, tạo dựng nên


20

một nền văn hoá biển và ngày nay trở thành trung tâm CNH, HĐH của tỉnh.
- Từ các di chỉ khảo cổ học trên đất Hà Tĩnh, các công trình nghiên cứu đi
trước đã khẳng định cư dân tiền sử đã từng cư trú trên đất Hà Tĩnh, chủ yếu là sinh
sống ở các vùng ven sông biển, ăn các loài nhuyễn thể và đã để lại dấu vết đánh bắt
ở vùng khơi, vùng lộng bên cạnh sản xuất nông nghiệp, đó là cư dân văn hoá Quỳnh
Văn và cư dân văn hoá Bàu Tró. Ngoài cư dân tiền trú, một số công trình nghiên
cứu còn nhận định vào khoảng từ thế kỷ thứ II - VIII (SCN) - vào đời Nam Tống

đến các triều đại phong kiến sau này, ở Hà Tĩnh còn có người Trung Quốc, người
Chiêm Thành, người Bồ Lô, người miền Bắc, người Thanh Hoá, người Quảng Bình
do chạy loạn hoặc đến làm quan hoặc do di cư đã đến lánh nạn, cư trú ở Hà Tĩnh và
họ sống chủ yếu ở các làng ven biển. Những công trình nghiên cứu này góp phần
khẳng định cư dân vùng ven biển Hà Tĩnh có nguồn gốc bác tạp.
- Một số công trình nghiên cứu văn hoá đã đề cập đến các phương thức đánh
bắt, phương thức tổ chức đời sống xã hội, các nghề thủ công nổi tiếng ở một số
vùng thuộc ven biển Hà Tĩnh và một số nét sinh hoạt phong tục, tập quán, lễ hội của
cư dân ven biển Hà Tĩnh, nhưng chủ yếu đề cập ở góc độ xã hội truyền thống. Cũng
có công trình đề cập đến văn hoá ven biển trong nền kinh tế thị trường, nhưng chỉ
dừng ở một vài nét chấm phá về xu hướng biến đổi của văn hoá ven biển Việt Nam
nói chung trong phạm vi một bài báo. Hoặc như ở Luận án tiến sĩ của Phạm Thanh
Tịnh lại chỉ đề cập đến những biến đổi về văn hoá của một bộ phận cư dân Bồ Lô
ven biển Hà Tĩnh, cũng chỉ đến thời kỳ đổi mới, chưa có công trình chuyên sâu
nào đề cập đến đời sống văn hoá của cư dân ven biển Hà Tĩnh thời kỳ CNH, HĐH.
Vì vậy, việc nghiên cứu có hệ thống đời sống văn hoá của cư dân ven biển Hà
Tĩnh thời kỳ CNH, HĐH, nhận diện xu hướng biến đổi, là những vấn đề có giá trị,
ý nghĩa về mặt khoa học và thực tiễn, đây chính là nội dung cơ bản mà đề tài luận
án tập trung giải quyết.
1.2. Cơ sở lý thuyết
1.2.1. Khái niệm đời sống văn hoá và cơ cấu của nó
1.2.1.1. Khái niệm đời sống văn hoá
Ở nước ta thuật ngữ “Đời sống văn hóa” được đề xướng từ Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ V của Đảng cộng sản Việt Nam (năm 1981). Văn kiện của Đại


21

hội đưa ra chủ trương xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở: “Một nhiện vụ của cách
mạng tư tưởng và văn hóa là đưa văn hóa thâm nhập vào cuộc sống hàng ngày của

nhân dân. Đăc biệt chú ý xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, bảo đảm cho mỗi nhà
máy, công trường, nông trường, lâm trường, mỗi đơn vị lực lượng vũ trang, công an
nhân dân, mỗi cơ quan, trường học, bệnh viện, cửa hàng, mỗi xã, hợp tác xã,
phường, ấp, đều có đời sống văn hóa‟‟ [21]
Từ năm 1981 đến nay, thuật ngữ ĐSVH đã được sử dụng khá phổ biến trong
các sách báo, trong đời sống thực tiễn, song chưa có một quan niệm thống nhất. Tuy
có nhiều quan niệm khác nhau về ĐSVH, nhưng tựu trung có hai loại quan niệm
rộng và hẹp sau đây:
- Quan niệm rộng: Quan điểm của Viện Văn hóa-Bộ văn hóa trong sách Xây
dựng đời sống văn hóa ở cơ sở (năm 1984) „„Đời sống văn hóa là gì? Đó là một bộ
phận của đời sống con người nói chung, nhưng là một bộ phận đặc biệt bao trùm
mọi lĩnh vực của đời sống con người, đời sống con người là một tổng thể, một tập
hợp những yếu tố vật chất và tinh thần là toàn bộ những hoạt động của con người để
thỏa mãn những yêu cầu vật chất và tinh thần của nó nhằm duy trì sự sống từ thế hệ
này sang thế hệ khác”‟[101, tr.21].
Cũng trong tài liệu trên, tác giả Mai Luân tán thành quan niệm Đời sống văn
hóa theo nghĩa rộng của Viện văn hóa và giải thích thêm: “ĐSVH bao trùm lên toàn
bộ đời sống con người (cũng là toàn bộ đời sống xã hội), hai khái niệm “đời sống
con người” và “đời sống văn hóa” cùng có một phạm vi giống nhau. Bởi vì con
người chỉ có thể trở thành con người khi con người trở thành con người văn hóa
(còn vấn đề con người trở thành con người- văn hóa đến mức nào đó là một vấn đề
khác)”[101, tr.121-122]. Ông đưa ra sơ đồ về mối quan hệ giữa đời sống con người
và đời sống văn hóa như sau:
Đời sống con người = đời sống văn hóa

Đời sống vật chất = đời
sống văn hóa vât chất

Đời sống tinh thần = đời
sống văn hóa tinh thần



22

Tác giả Hoàng Vinh trong tài liệu Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng
văn hóa ở nước ta (năm 1999) cho rằng: “Đời sống văn hóa là một bộ phận của đời
sống xã hội, mà đời sống xã hội là một phức thể những hoạt động của con người,
nhằm đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của nó. Nhu cầu vật chất được đáp ứng
làm cho con người tồn tại như một sinh thể. Còn nhu cầu tinh thần thì giúp con
người tồn tại như một sinh thể xã hội, tức là một nhân cách văn hóa. Hai nhu cầu
này xuất hiện khi con người hình thành về mặt giống loài, tức là từ buổi bình minh
của xã hội loài người. Tuy vậy, khi xã hội phát triển lên cao, đạt tới trình độ phát
triển tương ứng. Từ hai nhu cầu cơ bản nêu trên hình thành nhu cầu văn hóa, thể
hiện khía cạnh, chất lượng của trình độ đáp ứng nhu cầu” [105, tr.262]
Cùng với quan điểm của các tác giả trên, tác giả Nguyễn Thị Phương Lan lại
diễn giải về ĐSVH như sau: “Đời sống văn hóa là tổng thể những yếu tố văn hóa
vật chất và tinh thần nằm trong những cảnh quan văn hóa, những yếu tố hoạt động
văn hóa, những sự tác động lẫn nhau trong đời sống xã hội tạo ra những quan hệ có
văn hóa trong cộng đồng người, trực tiếp làm hình thành lối sống của con người
trong xã hội” [47, tr.15].
Như vậy, các tác giả dù có diễn giải khác nhau (đôi chỗ mâu thuẫn với nhau)
song đều thống nhất với nhau rằng: “phải hiểu đời sống văn hóa theo nghĩa rộng
không bó hẹp tính văn hóa vào một lĩnh vực nào đó mà coi đời sống văn hóa là khái
niệm rộng rãi bao quát mọi mặt của đời sống xã hội: sản xuất, trao đổi, tiêu dùng,
nhận thức, sáng tạo”… “cả trong lĩnh vực sản xuất, trao đổi và tiêu dùng của cải vật
chất” [101, tr.24].
NCS cho rằng các quan niệm trên về ĐSVH tuy ít nhiều có sự hợp lý, nhưng
qúa rộng. Đúng là đời sống con người khác về bản chất so với đời sống động vật.
Bởi đời sống con người có sự thẩm thấu và bị quy định bởi thuộc tính văn hóa- một
thuộc tính đặc hữu, mang tính tộc loại của con người. Song dẫu vậy, đời sống con

người cũng không thể qui vào ĐSVH chỉ vì nó mang thuộc tính văn hóa. Đời sống
con người cũng còn mang và bị chi phối bởi thuộc tính sinh học. Song cũng không
ai qui đời sống con người là đời sống sinh học.
Nếu ĐSVH được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm toàn bộ các hoạt động liên
quan đến các sản phẩm vật chất và sản phẩm tinh thần của xã hội, thì nội hàm của


23

khái niệm này quá rộng lớn, khó có thể nghien cứu thấu đáo. Hơn thế, nếu nói
ĐSVH Là toàn bộ hoạt đông sống của con người, bao gồm cả hoạt động vật chất lẫn
hoạt động tinh thần, thì điều đó có nghĩa là chúng ta đồng nhất “ĐSVH” với “hoạt
động sống”. Khi đó không cần phải có khái niệm đời sống văn hóa nữa, mà chỉ cần
nghiên cứu “hoạt động sống” là đủ [102, tr.68].
Chính vì vậy, cũng ngay trong sách Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở của
Viện Văn hóa-Bộ văn hóa, các tác giả đã đề xuất cách hiểu đời sống văn hóa theo
nghĩa hẹp: “Tuy nhiên, trong khi giữ quan niệm tổng thể về đời sống văn hóa,
chúng ta có thể nói tới “đời sống văn hóa” theo nghĩa hẹp hơn: đó là lĩnh vực đời
sống con người có liên quan tới hưởng thụ và sáng tạo những sản phẩm văn hóa
được gọi là “tác phẩm văn hóa”. Đó là những sản phẩm mang tính biểu tượng được
thể hiện dưới hình thức:ngôn ngữ nói, văn tự, dấu hiệu đồ thị, dấu hiệu âm thanh,
dấu hiệu hình ảnh, dấu hiệu ứng xử, dấu hiệu pha trộn (…). Việc sản xuất và tiêu
thụ các tác phẩm văn hóa được tiến hành theo phương thức thẩm mỹ và chủ yếu
trong thời gian rỗi, nhất là về mặt tiếp thu” [101, tr.26]. Quan niệm về đời sống văn
hóa theo nghĩa “hẹp” này có mấy nội dung cơ bản:
-Đời sống văn hóa là một lĩnh vực của đời sống con người có liên quan đến việc
sáng tạo, hưởng thụ (tiêu dùng) sản phẩm văn hóa tinh thần hay “tác phẩm văn hóa”.
-Tác phẩm văn hóa dưới hình thức biểu tượng được tiến hành theo phương
pháp thẩm mỹ (đáp ứng nhu cầu sáng tạo, hưởng thụ mang tính thẩm mỹ). Nhu cầu
thẩm mỹ chính là nhu cầu tinh thần chứ không phải là nhu cầu vật chất.

-Đời sống văn hóa diễn ra trong thời gian rỗi là chủ yếu (nhất là viêc tiếp
thu/hưởng thụ và đáp ứng nhu cầu hưởng thụ của con người).
Từ sự phân tích trên, NCS cho rằng: quan niệm về đời sống văn hóa theo
nghĩa “hẹp” gắn với đời sống tinh thàn của con người hơn và đặc biệt gắn với các
hoạt động tinh thần trong thời gian rỗi là chủ yếu. Nó đã khu biệt được nội hàm và
ngoại diên của khái niệm ĐSVH không có sự lẫn lộn giữa ĐSVH với đời sống con
người hay đời sống xã hội. Nó được diễn đạt một cách rõ ràng không còn trìu tượng
như cách hiểu theo nghĩa rộng: “Đó là một bộ phận của đời sống con người nói
chung, nhưng nó là một bộ phận đặc biệt, bao trùm mọi lĩnh vực của đời sống con
người”[101, tr.21]. Nó cũng không giống như cách giải thích của tác giả Mai Luân,


24

Hoàng Vinh mà luận án đã dẫn ở trên. Đồng thời nó cũng khác với quan niệm của
tác giả Nguyễn Thị Phương Lan về đời sống văn hóa lẫn lộn với môi trường văn
hóa “đời sống văn hóa là những yếu tố văn hóa vật chất và tinh thần nằm trong cảnh
quan văn hóa…”.
NCS dựa vào quan niệm về ĐSVH theo nghĩa “hẹp” của Viện Văn hóa- Bộ
Văn hóa (đã trình bày ở trên) để đưa ra quan niệm về đời sống văn hóa sau đây: Đời
sống văn hóa là tổng thể sống động những hoạt động tinh thần của con người (cá
nhân và cộng đồng) trong thời gian rỗi là chủ yếu, bao gồm: sáng tạo, biểu hiện,
truyền bá, thưởng thức, tiêu dùng … các sản phẩm văn hóa nhằm thỏa mãn nhu cầu
tinh thần của con người.
Quan niệm mà NCS đưa ra có những nội dung đáng chú ý sau:
- Đời sống văn hóa là tổng thể sống động những hoạt động tinh thần trong
thời gian rỗi là chủ yếu. Như vậy, ĐSVH gắn với hoạt động tinh thần hay nói cách
khác ĐSVH được dệt nên bởi hoạt động tinh thần.
Song có những hoạt động tinh thần không thuộc về ĐSVH khi nó được
tiến hành trong thời gian tất yếu (thời gian lao động tất yếu, bắt buộc của cá nhân

hoặc cộng đồng) như các hoạt động học tập, giảng dạy, nghiên cứu khoa học, thậm
chí sáng tạo nghệ thuật do nghĩa vụ mà chủ thể của nó phải làm. Ngược lại có
những hoạt động tinh thần tuy diễn ra trong thời gian tất yếu như hoạt động tín
ngưỡng, tôn giáo, lễ hội, ma chay, cưới xin,… lại thuộc về ĐSVH vì nó thể hiện
nhu cầu tinh thần, tâm linh của con người một cách tự do, tự nguyện. Về phương
diện xã hội, thời gian dành cho các hoạt động trên cũng là thời gian “rỗi” mà xã hội
tạo được, khi người ta có thể rút bớt được thời gian lao động tất yếu.
-

Đời sống văn hóa là những hoạt động văn hóa tinh thần, nên chủ thể hoạt

động (con người văn hóa), thiết chế, thể chế văn hóa (cơ sở vật chất, bộ máy tổ
chức, quản lý văn hóa) tuy rất cần thiết cho hoạt động văn hóa nhưng không được coi
là yếu tố của đời sống văn hóa. Vì chúng là các yếu tố tĩnh, yếu tố có sẵn thuộc về
môi trường văn hóa - bảo đảm cho hoạt động văn hóa diễn ra. Do vậy, khi nghiên
cứu, khảo sát ĐSVH nếu cần thiết có thể đề cập đến các yếu tố đó như những tiền đề
quan trọng. Ngược lại các hoạt động xây dựng các cơ sở vật chất, bộ máy quản lý,


25

thậm chí cả việc kiến tạo môi trường văn hóa lại được xem là hoạt động văn hóa
thuộc ĐSVH. Bởi đó là một bộ phận hoạt động tinh thần của con người, biểu hiện
sự sáng tạo của con người. Tóm lại, NCS sử dụng quan niệm “hẹp” về ĐSVH như
trình bày ở trên làm cơ sở lý thuyết cho việc nghiên cứu đề luận án là phù hợp.
1.2.1.2. Cơ cấu của đời sống văn hoá
Từ nhận thức trên đi đến việc xác lập cơ cấu (cấu trúc) của ĐSVH. Theo
NCS, các tác giả khi bàn về ĐSVH với nội dung quá rộng đã đưa ra một cơ cấu đời
sống văn hóa cũng rất phức tạp và chồng lấn sang nội dung và cơ cấu của môi trường
văn hóa, không gian văn hóa. Chẳng hạn, tác giả Hoàng Vinh cho rằng đời sống văn

hoá “phải có ba yếu tố: sản phẩm văn hoá, thể chế văn hoá, các dạng hoạt động văn
hoá và con người văn hoá. Ba yếu tố ấy tạo thành cấu trúc của đời sống văn hoá”
[104, tr. 266]. Tác giả Nguyễn Thị Phương Lan lại đưa ra một mô hình cấu trúc đời
sống văn hoá gồm: con người văn hoá, nhu cầu văn hoá, hoạt động văn hoá và sản
phẩm văn hoá tác động lẫn nhau trong môi trường văn hoá. Mô hình đó được sơ đồ
hoá như sau:

Nhu cầu

Môi
trường
văn hóa
Con người

Hoạt động
văn hóa

Sản phẩm
văn hóa

Điều đáng nói là các tác giả đã khẳng định “đời sống văn hoá là một tổng


×