Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Đề tài ô nhiễm môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (558.7 KB, 31 trang )

Nhóm 2:
Lê Đình Thắng
Nguyễn Huy Đức
Lê Anh Duy
Nguyễn Thanh Bình
Phạm Hoàng Minh


MỤC LỤC

Ô Nhiễm Môi Trường
• Các loại Ô nhiễm môi trường: nước, không khí, khói,
bụi, tiếng ồn, các chất hóa học độc hại, ô nhiễm ánh
sáng, ô nhiễm sóng.








Ô nhiễm môi trường là khái niệm để chỉ sự xuất hiện
của một chất lạ trong môi trường tự nhiên hoặc làm
biến đổi thành phần, tỷ lệ về hàm lượng của các yếu tố
có sẵn, gây độc hại cho cơ thể sinh vật và con người
nếu như hàm lượng của các chất đó vượt khỏi
giới hạn thích nghi tiềm tàng của cơ thể.
Sự ô nhiễm môi trường có thể là hậu quả của các
hoạt động tự nhiên, như hoạt động núi lửa, thiên tai
lũ lụt, bão,… hoặc các hoạt động do con người thực


hiện trong công nghiệp, giao thông, chiến tranh và công
nghệ quốc phòng, trong sinh hoạt, trong đó công
nghiệp được xem là nguyên nhân lớn nhất.
Chất gây ô nhiễm môi trường rất đa dạng về nguồn gốc
và chủng loại, tuy vậy chúng được phân chia thành 3
nhóm lớn: chất thải rắn, chất thải lỏng và chất thải khí.
Mỗi dạng có thể chứa đựng nhiều chất, từ các hóa
chất, các kim loại nặng, đến chất phóng xạ và vi trùng.
Nhiệt cũng là tác nhân trực tiếp hay gián tiếp gây nên
sự ô nhiễm môi trường.
Ô nhiễm môi trường đang trở thành hiểm họa đối với
đời sống của sinh giới và cả đối với con người ở bất kỳ
phạm vi nào, từ quốc gia, khu vực đến toàn cầu. Ô
nhiễm môi trường là sản phẩm của quá trình công
2


1.

nghiệp hóa và đô thị hóa diễn ra trên 200 năm nay. Ô
nhiễm hiện nay đã lan tràn vào mọi nơi, từ đất, nước
đến khí quyển, từ bề mặt đất đến các lớp sâu của đất
và của đại dương.
• Việt Nam chúng ta đang trong quá trình hiện đại hóa,
công nghiệp hóa đất nước, hơn nữa sự đô thị hóa cũng
như giao thông vận tải chưa phát triển vì thế sự ô
nhiễm môi trường nói chung chưa xãy ra trên diện
rộng, nhưng ô nhiễm môi trường đã xãy ra cục bộ,
từng lúc, từng nơi. Có thể nêu ra như sau:
Ô nhiễm môi trường nước.


Hiện nay tình trạng ô nhiễm và suy thoái nguồn nước
(nước mặt và nước ngầm) đang xãy ra phổ biến ở nhiều
nơi, đặc biệt là ở các khu đô thị và các thành phố công
nghiệp. Chẳng hạn như nước ngầm đang được khai thác
ở một số nhà máy nước thành phố Hà Nội cũng đã bị ô
nhiễm như Pháp Vân, Mai Động hoặc như ở thành phố
Hồ Chí Minh nước ngầm bắt đầu bị nhiễm mặn và suy
giảm khả năng khai thác.
Ô nhiễm nước

là hiện tượng các vùng nước như sông, hồ, biển, nước
ngầm... bị các hoạt động của con người làm nhiễm các
chất có thể gây hại cho con người và cuộc sống các sinh
vật trong tự nhiên.

Ô nhiễm nước là sự thay đổi thành phần và chất lượng
nước không đáp ứng cho các mục đích sử dụng khác
nhau, vượt quá tiêu chuẩn cho phép và có ảnh hưởng
xấu đến đời sống con người và sinh vật.

Nước trong tự nhiên tồn tại dưới nhiều hình thức khác
nhau: nước ngầm, nước ở các sông hồ, tồn tại ở thể hơi
trong không khí. Nước bị ô nhiễm nghĩa là thành phần


3















của nó tồn tại các chất khác, mà các chất này có thể gây
hại cho con người và cuộc sống các sinh vật trong tự
nhiên. Nước ô nhiễm thường là khó khắc phục mà phải
phòng tránh từ đầu.
Trong quá trình sinh hoạt hàng ngày, dưới tốc độ phát
triển như hiện nay con người vô tình làm ô nhiễm
nguồn nước bằng các hóa chất, chất thải từ các nhà
máy, xí nghiệp. Các đơn vị cá nhân sử dụng nước ngầm
dưới hình thức khoan giếng, sau khi ngưng không sử
dụng không bịt kín các lỗ khoan lại làm cho nước bẩn
chảy lẫn vào làm ô nhiễm nguồn nước ngầm. Các nhà
máy xí nghiệp xả khói bụi công nghiệp vào không
khí làm ô nhiễm không khí, khi trời mưa, các chất ô
nhiễm này sẽ lẫn vào trong nước mưa cũng góp phần
làm ô nhiễm nguồn nước.
Hiến chương châu Âu về nước đã định nghĩa: "Ô nhiễm
nước là sự biến đổi nói chung do con người đối với
chất lượng nước, làm nhiễm bẩn nước và gây nguy
hiểm cho con người, cho công nghiệp, nông nghiệp,

cho động vật nuôi và các loài hoang dã."
Ô nhiễm nước có nguồn gốc tự nhiên: do mưa, tuyết
tan, gió bão, lũ lụt đưa vào môi trường nước các chất
thải bẩn, các sinh vật có hại kể cả xác chết của chúng.
Ô nhiễm nước có nguồn gốc nhân tạo: quá trình thải
các chất độc hại chủ yếu dưới dạng lỏng như các chất
thải sinh hoạt, công nghiệp, nông nghiệp, giao thông
vào môi trường nước.
Theo bản chất các tác nhân gây ô nhiễm, người ta phân
ra các loại ô nhiễm nước: ô nhiễm vô cơ, hữu cơ, ô
nhiễm hóa chất, ô nhiễm sinh học, ô nhiễm bởi các tác
nhân vật lý.
Ô nhiễm nước mặt, ô nhiễm nước ngầm và biển.

4


2.

Ô nhiễm không khí.




Ô nhiễm không khí là sự thay đổi lớn trong thành phần
của không khí hoặc có sự xuất hiện các khí lạ làm cho
không khí không sạch, có sự tỏa mùi, làm giảm tầm nhìn
xa, gây biến đổi khí hậu, gây bệnh cho con người và sinh
vật.
Mặc dù đất nước chúng ta nền công nghiệp chưa phát

triển nhưng ô nhiễm không khí đã xãy ra. Ở Hà Nội, tại
khu vực nhà máy dệt 8 – 3, nhà máy cơ khí Mai Động.
Khu công nghiệp Thượng Đình, khu công nghiệp Văn
Điển, nhà máy Rượu…không khí đều đã bị ô nhiễm
nặng. Ở Hải Phòng , ô nhiễm nặng ở khu nhà máy Xi
mămg, nhà máy Thủy Tinh và Sắt tráng men…Ở Việt Trì,
ô nhiễm nặng xung quanh nhà máy Supe phốtphát Lâm
Thao, nhà máy Giấy, nhà máy Dệt. Ở Ninh Bình và Phả
Lại ô nhiễm nặng do nhà máy Nhiệt điện, các nhà máy
vật liệu xây dựng, lò vôi. Ở thành phố Hồ Chí Minh và
cụm công nghiệp Biên Hòa không khí cũng bị ô nhiễm
bởi nhiều nhà máy. Hầu như tất cả các nhà máy hóa
chất đều gây ô nhiễm không khí. Dân cư sống ở các
vùng nói trên thường mắc các bệnh đường hô hấp, da
và mắt.

5


Tác nhân gây ô nhiễm
+Các loại khí oxit: CO, CO2, SO2, NOx...
+Các hợp chất khí halogen: HCl, HF, HBr
+Các chất hữu cơ tổng hợp RH, bay hơi xăng, sơn
+Các khí quang hóa: PAN, O3
+Các chất lơ lửng: sương mù, bụi
+Nhiệt, tiếng ồn, phóng xạ

Các hoạt động gây ô nhiễm
Tự nhiên
• Do các hiện tượng tự nhiên gây ra: núi lửa, cháy rừng.

Tổng hợp các yếu tố gây ô nhiễm có nguồn gốc tự nhiên
rất lớn nhưng phân bố tương đối đồng đều trên toàn
thế giới, không tập trung trong một vùng. Trong quá
trình phát triển, con người đã thích nghi với các nguồn
này.
Công nghiệp
• Đây là nguồn gây ô nhiễm lớn nhất của con người. Các
quá trình gây ô nhiễm là quá trình đốt các nhiên
liệu hóa thạch:than, dầu, khí đốt tạo ra: CO2, CO, SO2,
NOx, các chất hữu cơ chưa cháy hết: muội than, bụi,
quá trình thất thoát, rò rỉ trên dây truyền công nghệ,
các quá trình vận chuyển các hóa chất bay hơi, bụi.
• Đặc điểm: nguồn công nghiệp có nồng độ chất độc hại
cao, thường tập trung trong một không gian nhỏ. Tùy
thuộc vào quy trình công nghệ, quy mô sản xuất và
nhiên liệu sử dụng thì lượng chất độc hại và loại chất
độc hại sẽ khác nhau.
Giao thông vận tải
• Đây là nguồn gây ô nhiễm lớn đối với không khí đặc biệt
ở khu đô thị và khu đông dân cư. Các quá trình tạo ra
các khí gây ô nhiễm là quá trình đốt nhiên liệu động cơ:
6


CO, CO2, SO2, NOx, Pb,CH4 Các bụi đất đá cuốn theo
trong quá trình di chuyển. Nếu xét trên từng phương
tiện thì nồng độ ô nhiễm tương đối nhỏ nhưng nếu mật
độ giao thông lớn và quy hoạch địa hình, đường xá
không tốt thì sẽ gây ô nhiễm nặng cho hai bên đường.
Sinh hoạt

• Là nguồn gây ô nhiễm tương đối nhỏ, chủ yếu là các hoạt
động đun nấu sử dụng nhiên liệu nhưng đặc biệt gây ô
nhiễm cục bộ trong một hộ gia đình hoặc vài hộ xung
quanh. Tác nhân gây ô nhiễm chủ yếu: CO, bụi, khí thải từ
các nhà máy, xe cộ,..

3. Ô nhiễm đất.
• Hiện nay chưa thấy có tài liệu nào đề cập đến môi
trường đất bị ô nhiễm bởi các tác nhân công nghiệp,
nông ngiệp nhưng đất đã bị ô nhiễm bởi tác nhân sinh
học. Đó là do tập quán dùng phân bắc và phân chuồng
tươi theo các hình thức (bón lót, pha loãng để tưới,…)
trong canh tác vẫn còn phổ biến. Tại vùng trồng rau
Mai Dịch, Từ Liêm, Hà Nội mật độ trứng giun đũa là
27,4 trứng/100g đất, trứng giun tóc 3,2 trứng/100g đất
(Trần Khắc Thi, 1966). Theo điều tra của Viện Thổ
nhưỡng Nông hóa (1993 – 1994) tại một số vùng trồng
rau, người dân chủ yếu sử dụng phân bắc tươi với liều
lượng khoảng từ 7 – 12 tấn/ha. Do vậy trong 1 lít nước
7


mương máng của khu trồng rau có tới 360 E. coli ;
ở giếng nước công cộng là 20, còn trong đất lên tới 2
x 105/100g đất. Chính vì thế, khi điều tra sức khỏe
người trồng rau thường xuyên sử dụng phân bắc tươi
có tới 60% số người tiếp xúc với phân bắc từ 5 – 20 năm
bị bệnh thiếu máu và các bệnh ngoài da.
Đất ô nhiễm
• Bị gây ra bởi sự có mặt của hóa chất xenobiotic (sản

phẩm của con người) hoặc do các sự thay đổi trong môi
trường đất tự nhiên. Nó được đặc trưng gây nên bởi
các hoạt động công nghiệp, các hóa chấtnông nghiệp,
hoặc do vứt rác thải không đúng nơi quy định . Các hóa
chất phổ biến bao gồm hydrocacbon dầu , hydrocacbon
thơm nhiều vòng (như là naphthalene and
benzo(a)pyrene), dung môi, thuốc trừ sâu, chì, và
cáckim loại nặng. Mức độ ô nhiễm có mối tương quan
với mức độ công nghiệp hóa và cường độ sử dụng hóa
chất.
• Các mối quan tâm về ô nhiễm đất bắt nguồn chủ yếu từ
nguy cơ về sức khỏe, sự tiếp xúc trực tiếp với đất bị ô
nhiễm, hơi từ các chất gây ô nhiễm, ô nhiễm thứ cấp từ
[1]
các nguồn cung cấp nước trong đất. Lập bản đồ và
làm sạch các vùng đất bị ô nhiễm thường tốn thời gian
và tốn kém, đòi hỏi kiến thức phong phú về địa
chất, thủy văn, hóa học, kỹ năng mô hình máy tính,
và GIS trong ô nhiễm môi trường, cũng như sự đánh giá
cao về lịch sử của công nghiệp hóa chất.
• Ở Bắc Mỹ và Tây Âu có mức độ ô nhiễm đất được biết
đến nhiều nhất, với nhiều nước trong các khu vực này
có một khuôn khổ pháp lý để xác định và giải quyết vấn
đề môi trường này. Các nước đang phát triển có xu

8
























hướng quy định ít chặt chẽ hơn mặc dù một số nước
này đã trải qua công nghiệp hóa.
Nguyên nhân
Ô nhiễm đất có thể gây ra bởi:
Tai nạn tràn chất ô nhiễm
Mưa acid
Thâm canh
Nạn phá rừng
Cây biến đổi gen
Rác thải phóng xạ
Tai nạn công nghiệp

Bãi chôn lấp và vứt bỏ rác thải bất hợp pháp
Hoạt động nông nghiệp, chẳng hạn như sử dụng thuốc
trừ sâu, thuốc diệt cỏ và phân bón
Khai thác mỏ và các ngành công nghiệp khác
Dầu và nhiên liệu thải bỏ
Chôn lấp rác thải
Thải bỏ tro than
Nước mặt bị ô nhiễm thấm vào đất
Xả nước tiểu và phân tự do
Rác thải điện tử
Các hóa chất phổ biến nhất liên quan
là hydrocarbon dầu, dung môi, thuốc trừ sâu, chì, và
các kim loại nặng khác.

Tro than


Tro than được sử dụng cho các khu dân cư, thương mại,
và công nghiệp sưởi ấm, cũng như cho quá trình công
nghiệp như nấu chảy quặng, là một nguồn ô nhiễm phổ
biến trong một quốc gia đã được công nghiệp hóa trước
năm 1960. Than tự nhiên tập trung chì và kẽm trong
thời gian hình thành của nó, cũng như các kim loại nặng
ở mức độ thấp hơn. Khi than được đốt cháy, hầu hết
9


các kim loại tập trung trong tro (ngoại trừ thủy ngân).
Tro than và xỉ có thể chứa đủ lượng chì để trở thành
một " chất thải nguy hại đặc trưng ", theo quy định tại

Hoa Kỳ có chứa hơn 5 mg / L chì chiết bằng cách sử
dụng thủ tục TCLP. Ngoài chì, tro than thường chứa các
chất có nồng độ khác nhau nhưng đáng kể là
polynuclear aromatic hydrocarbons (PAHs, ví dụ như,
benzo (a) anthracene, benzo (b) fluoranthene, benzo (k)
fluoranthene, benzo (a) pyrene, indeno (cd) pyrene,
phenanthrene, anthracene, và những chất khác). Các
PAHs được biết đến là chất gây ung thư cho con người
và nồng độ chấp nhận được của chúng trong đất
thường khoảng 1 mg / kg. Tro than và xỉ có thể được
nhận biết bởi sự hiện diện của các hạt màu trắng trong
đất, đất màu xám không đồng nhất, hoặc (xỉ than) nhiều
bọt, hạt sỏi có lỗ hổng.
Nước thải
• Xử lý bùn thải, được biết đến trong ngành công nghiệp
như là chất rắn sinh học, và được tranh cãi như một loại
phân bón cho đất. Vì nó là sản phẩm phụ của xử lý nước
thải, nó thường chứa nhiều chất gây ô nhiễm như sinh
vật, thuốc trừ sâu và kim loại nặng khác.
• Trong Liên minh châu Âu, Hướng dẫn xử lý nước thải đô
thị cho phép bùn thải được phun vào đất. Khối lượng
dự kiến sẽ tăng gấp đôi lên 185.000 tấn chất rắn khô
năm 2005. Điều này tốt cho nông nghiệp do hàm
lượng nitơ và photpho cao. Trong 1990/1991, 13%
trọng lượng ướt được phun lên 0,13 % diện tích đất;
Tuy nhiên, điều này được dự kiến sẽ tăng 15 lần vào
năm 2005. Những người ủng hộ nói rằng có một sự cần
thiết để kiểm soát này để các vi sinh vật gây bệnh không
thâm nhập vào các dòng nước và để đảm bảo rằng
không có tích lũy kim loại nặng trong lớp đất trên cùng.

10


Thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ
• Thuốc trừ sâu là một chất hoặc hỗn hợp các chất dùng
để tiêu diệt sâu bệnh. Một loại thuốc trừ sâu có thể là
một chất hóa học, tác nhân sinh học (như một virus
hoặc vi khuẩn), kháng khuẩn, khử trùng hoặc là một
thiết bị dùng để chống lại bất kỳ các loại sâu bệnh. Sâu
bệnh bao gồm côn trùng, tác nhân gây bệnh, cỏ dại,
động vật thân mềm, loài chim, động vật có vú, cá, giun
tròn (giun tròn) và vi khuẩn cạnh tranh với con người
trong thực phẩm, hủy hoại tài sản, lây lan hoặc là một
véc tơ bệnh hoặc gây ra một mối phiền toái. Mặc dù sử
dụng thuốc trừ sâu là có ích nhưng cũng có nhược
điểm, chẳng hạn như độc tính tiềm tàng đối với con
người và các sinh vật khác.
• Thuốc diệt cỏ được sử dụng để tiêu diệt cỏ dại, đặc biệt
là trên vỉa hè và đường sắt. Chúng tương tự như auxin
và hầu hết có thể phân hủy bởi vi khuẩn trong đất. Tuy
nhiên, một nhóm có nguồn gốc từ trinitrotoluene (2:4 D
và T 2:04:05) có tạp chất dioxin, rất độc hại và gây tử
vong ngay cả ở nồng độ thấp. Thuốc diệt cỏ khác
là Paraquat. Nó là có độc tính cao nhưng nó nhanh
chóng bị giảm nồng độ trong đất do tác động của vi
khuẩn và không giết chết động vật đất.
• Thuốc trừ sâu được sử dụng để đưa các trang trại thoát
khỏi tình trạng sâu bệnh phá hoại cây trồng. Các loài
côn trùng gây hại không chỉ phá hoại cây chưa thu
hoạch mà còn những nơi lưu trữ và ở vùng nhiệt đới, nó

được cho rằng, một phần ba tổng sản lượng bị mất
trong quá trình lưu trữ thực phẩm. Như với thuốc diệt
nấm, thuốc trừ sâu đầu tiên được sử dụng trong thế kỷ
XIX là loại vô cơ egParis xanh và các hợp chất khác của
asen. Nicotine cũng đã được sử dụng từ cuối thế kỷ
XVIII.
11






Hiện nay có hai nhóm chính của thuốc trừ sâu tổng hợp
- 1. Organochlorines bao gồm DDT, Aldrin, Dieldrin và
BHC. Chúng có giá rẻ để sản xuất, mạnh và bền vững.
DDT đã được sử dụng trên quy mô lớn từ năm 1930, với
đỉnh điểm là 72.000 tấn được sử dụng năm 1970. Sau
đó việc sử dụng nó được giảm do các tác động có hại
của nó đến môi trường. Nó đã được tìm thấy trên toàn
thế giới trong cá và các loài chim và thậm chí còn phát
hiện ra trong tuyết ở Nam Cực. Nó ít tan trong nước
nhưng rất hòa tan trong máu. Nó ảnh hưởng đến hệ
thần kinh, nội tiết và làm cho vỏ trứng của các loài chim
thiếu canxi nên làm cho chúng dễ dàng vỡ. Nó được cho
là chịu trách nhiệm cho sự suy giảm của số lượng các
loài chim săn mồi như chim ưng biển và chim ưng trong
những năm 1950 - bây giờ những loại chim này đang
phục hồi.
Cũng như sự tập trung nồng độ thông qua chuỗi thức

ăn, nó được biết đến có thể thâm nhập qua màng thẩm
thấu, vì vậy cá hấp thụ nó qua mang. Vì nó có khả năng
hòa tan nước thấp, nó có xu hướng ở lại trên bề mặt
nước, vì thế sinh vật sống ở đó bị ảnh hưởng nhiều
nhất. DDT được tìm thấy trong cá và vì cá tạo thành một
phần của chuỗi thức ăn của con người nên đã gây ra
mối quan tâm, nhưng mức được tìm thấy trong các mô
gan, thận và não ít hơn 1 ppm và chất béo là 10 ppm,
đó là dưới mức có thể gây ra thiệt hại. Tuy nhiên, DDT
đã bị cấm ở Anh và Mỹ để ngăn chặn việc tiếp tục tích
lũy của nó trong chuỗi thức ăn. Các nhà máy của Mỹ
tiếp tục bán DDT cho các quốc gia đang phát triển,
những quốc gia không có đủ khả năng thay thế bằng các
hóa chất đắt tiền và những quốc gia không có quy định
nghiêm ngặt về việc sử dụng thuốc trừ sâu.

12






Tiếp xúc mãn tính với Benzene ở nồng độ đủ được biết
là có liên quan với tỷ lệ cao của bệnh bạch cầu. Thủy
ngân và cyclodienes được biết là gây ra tỷ lệ mắc cao
hơn về tổn thương thận. PCBs và cyclodienes có liên
quan đến nhiễm độc gan. Organophosphates và
carbomates có thể gây ra một chuỗi các phản ứng dẫn
đến tắc nghẽn thần kinh cơ. Nhiều loại dung môi clo gây

ra những thay đổi gan, thận và thay đổi hệ thống thần
kinh trung ương. Một loạt những ảnh hưởng đến sức
khỏe như nhức đầu, buồn nôn, mệt mỏi, kích ứng mắt
và phát ban da cho các hóa chất được trích dẫn ở trên
và khác. Ở liều lượng đủ một số lượng lớn các chất gây
ô nhiễm đất có thể gây tử vong do thông qua tiếp xúc
trực tiếp, hít hoặc nuốt phải các chất ô nhiễm trong
nước ngầm bị ô nhiễm qua đất.
Chính phủ Scotland đã đưa Viện Y học lao động thực
hiện các phương pháp đánh giá rủi ro đối với sức khỏe
con người từ đất bị ô nhiễm. Mục tiêu tổng thể của dự
án là làm những hướng dẫn mà có ích cho chính quyền
địa phương người Scotland trong việc đánh giá liệu các
môi trường đại diện có khả năng thiệt hại đáng kể
(SPOSH) đối với sức khỏe con người hay không. Dự kiến
là đầu ra của dự án sẽ là một tài liệu ngắn hướng dẫn
cấp cao về đánh giá rủi ro sức khỏe có sự tham khảo
hướng dẫn hiện hành được xuất bản và các phương
pháp đã được xác định là đặc biệt phù hợp và hữu ích.
Dự án sẽ xem xét hướng dẫn chính sách được phát triển
như thế nào để xác định khả năng chấp nhận rủi ro đối
với sức khỏe con người và đề xuất một cách tiếp cận
cho việc đánh giá những nguy cơ không thể chấp nhận
phù hợp với tiêu chí SPOSH theo quy định của pháp luật
và theo luật định Hướng dẫn Scotland.

13


Ảnh hưởng đến hệ sinh thái

• Thật không mong đợi, chất gây ô nhiễm đất có thể có
những hậu quả có hại đáng kể đối với các hệ sinh
thái. Có những thay đổi hóa học cơ bản của đất mà có
thể phát sinh từ sự hiện diện của nhiều hóa chất độc
hại ngay cả ở nồng độ thấp. Những thay đổi này có thể
biểu hiện ở sự thay đổi của chuyển hóa của loài vi sinh
vật đặc hữu và động vật chân đốt trong một môi trường
đất nhất định. Kết quả có thể mất đi một số các chuỗi
thức ăn chính, từ đó có thể có những hậu quả lớn
chođộng vật ăn thịt hoặc loài người. Thậm chí nếu có
hiệu lực hóa học trên các dạng sống thấp hơn là nhỏ,
đáy kim tự tháp của chuỗi thức ăn có thể ăn các hóa
chất ngoại lai, thứ thường trở nên tập trung nhiều hơn
cho mỗi bậc tiêu thụ của chuỗi thức ăn. Những ảnh
hưởng này hiện đang được biết đến, chẳng hạn như sự
duy trì nồng độ của vật liệu DDT cho người tiêu dùng gia
cầm, dẫn đến sự suy yếu của vỏ trứng, tăng số gà
con chết và tuyệt chủng tiềm tàng của các loài.
• Những ảnh hưởng xảy ra với đất nông nghiệp nơi có
một số loại đất ô nhiễm. Chất gây ô nhiễm thường làm
thay đổi quá trình chuyển hóa thực vật, thường gây
giảm năng suất cây trồng. Điều này có một tác dụng phụ
khi bảo tồn đất, kể từ khi cây tiều tụy nên không thể
bảo vệ đất của Trái Đất khỏi sự xói mòn. Một số các chất
gây ô nhiễm hóa học có thời gian sốnglâu và trong các
trường hợp khác dẫn xuất hóa chất được hình thành từ
sự phân rã của chất gây ô nhiễm đất chính.
• Vi khuẩn có thể được sử dụng để làm sạch đất
• Làm sạch hoặc xử lý môi trường được phân tích bởi
các nhà khoa học môi trường, những người đo lường và

am hiểu về các lĩnh vực hóa chất đất và cũng áp dụng
các Mô hình máy tính(GIS trong ô nhiễm môi trường) để
14



















phân tích sự lan truyền chất ô nhiễm [7] và thời gian tồn
tại của các hóa chất trong đất. Có một số chiến lược chủ
yếu để khắc phục hậu quả:
Đào đất và mang nó đến một bãi thải ra xa khỏi những
con đường tiếp xúc với con người và hệ sinh thái nhạy
cảm. Kỹ thuật này cũng được áp dụng để nạo vét
những vịnh bùn có chứa độc tố.
Sục khí đất tại địa điểm bị ô nhiễm (với nguy cơ ô nhiễm

không khí)
Khắc phục bằng cách dùng nhiệt để nâng cao nhiệt độ
dưới bề mặt đủ cao để hơi các chất gây ô nhiễm hóa học
bay ra khỏi đất. Công nghệ bao gồm ISTD, nhiệt điện trở
(ERH), và ET-DSP tm .
Xử lý sinh học, liên quan đến sự tiêu hóa các hóa chất
hữu cơ của vi khuẩn. Kỹ thuật được sử dụng trong xử lý
sinh học bao
gồm landfarming, biostimulation và bioaugmentating đất
sinh vật với các vi khuẩn có trên thị trường.
Chiết xuất nước ngầm hoặc hơi đất với hệ
thống điện hoạt động, với việc bỏ đi chất ô nhiễm có
được do chiết xuất.
Ngăn chặn các chất gây ô nhiễm đất (chẳng hạn như
đóng nắp hoặc mở nắp hóa chất).
Phytoremediation, hoặc sử dụng các thực vật (chẳng hạn
như cây liễu) để trích xuất các kim loại nặng
Ở các quốc gia
Tiêu chuẩn nồng độ các chất ô nhiễm ở quốc gia là khác
nhau, đặc biệt bao gồm Hoa Kỳ EPA khu vực 9 mục tiêu
xử lý sơ bộ chất ô nhiễm (US PRGS), khu vực EPA Hoa
Kỳ 3 đánh giá rủi ro dựa trên nồng độ (U.S. EPA RBCs)
và Hội đồng Bảo vệ môi trường quốc gia của Úc hướng
dẫn về mức nghiên cứu trong đất và nước ngầm.
15


Trung Quốc
Sự phát triển to lớn và bền vững của Cộng hòa Nhân
dân Trung Hoa từ những năm 1970 đã phải trả một giá

cho sự tăng ô nhiễm đất. Cục Quản lý bảo vệ môi
trường Nhà nước tin rằng nó là một mối đe dọa đối với
môi trường, an toàn thực phẩm và nông nghiệp bền
vững. Theo một mẫu nghiên cứu khoa học, 150 triệu
dặm (100.000 km vuông) đất canh tác của Trung Quốc
đã bị ô nhiễm, với nước bị ô nhiễm đang được sử dụng
để tưới thêm 31,5 triệu dặm (21.670 km vuông.) Và 2

triệu dặm khác (1.300 km vuông ) bị phủ hoặc bị phá
hủy bởi chất thải rắn. Tổng cộng, khu vực ô nhiễm này
chiếm một phần mười của đất canh tác của Trung
Quốc, và chủ yếu là ở các vùng kinh tế phát triển. Ước
tính có khoảng 12 triệu tấn ngũ cốc bị ô nhiễm kim loại
nặng mỗi năm, gây thiệt hại trực tiếp là 20 tỷ nhân dân
tệ (2.57 tỷ USD).
4. Ô nhiễm phóng xạ
Ô nhiễm phóng xạ

Là việc chất phóng xạ nằm trên các bề mặt, hoặc trong
chất rắn, chất lỏng hoặc chất khí (kể cả cơ thể con
người), nơi mà sự hiện diện của chúng là ngoài ý muốn
hoặc không mong muốn, hoặc quá trình gia tăng sự
hiện diện của các chất phóng xạ ở những nơi như vậy.
16










Sự ô nhiễm phóng xạ cũng được sử dụng ít chính thức
để chỉ một số lượng, cụ thể là các hoạt động phóng xạ
trên một bề mặt (hoặc trên một đơn vị diện tích bề
mặt).
Ô nhiễm phóng xạ chỉ đề cập đến sự hiện diện của
phóng xạ không mong muốn hoặc không mong muốn,
và không đưa ra dấu hiệu cho thấy mức độ nguy hiểm
có liên quan.
Thực trạng ô nhiễm phóng xạ Urani
Theo uỷ ban năng lượng Hoa Kỳ, phóng xạ urani ở
các nhà máy điện hạt nhân, kho vũ khí, trung tâm
nghiên cứu và các khu vực trước kia có xảy ra nổ hạt
nhân như Hiroshima, Nagasaki, Chernobyl v.v hằng năm
làm nhiễm độc 2.500 tỉ lít nước ngầm của thế giới.
Nguồn nước nhiễm phóng xạ này sau đó sẽ ngấm vào
cây cối, động vật uống phải, hoặc hoà tan vào nguồn
nước sinh hoạt của con người và cuối cùng tích luỹ vào
cơ thể.
Đây chính là nguyên nhân gây nên những đột biến dị
dạng, bệnh tật,… cho các cơ thể sống tự nhiên. Cũng
theo điều tra của uỷ ban này, thực chất, lượng phóng xạ
rò rỉ trong không khí, không gây nguy hiểm nhiều cho
con người bằng lượng phóng xạ vào nguồn nước. Bởi vì,
trong không khí – các tia phóng xạ chỉ có một không
gian tác động rất hạn chế và giảm dần theo thời gian;
còn trong nước, nó có thể đi xa hơn và gây độc cho
những vùng lân cận. Không những thế ảnh hưởng của

chúng ngày càng tăng theo thời gian do sự tích tụ phóng
xạ trong nước ngày càng lớn hơn. Vì vậy,
khi Hiroshima vàChernobyl bị ảnh hưởng trực tiếp của
phóng xạ hạt nhân nhưng những vùng rất xa ở xung
quanh cũng bị tác động theo, do nguồn nước ngầm liên
thông giữa các vùng. Người ta đã phát hiện những triệu
17


chứng nhiễm độc phóng xạ trên cơ thể con người sống
ở những vùng rất xa hai trung tâm phóng xạ này, dù
theo lý thuyết thì những vùng đó không thể bị ảnh
hưởng vì nằm quá tầm hoạt động của các tia phóng xạ
sau các vụ nổ. Tuy nhiên, kết quả thực tế cho thấy
chúng vẫn bị ảnh hưởng….






Xử lý ô nhiễm phóng xạ urani bằng vi khuẩn
Trong hơn một thập niên qua, các nhà khoa học thuộc
trường Đại học Columbia (Hoa Kỳ) nghiên cứu đã tìm ra
loại siêu vi khuẩn có khả năng giúp con người xử lý
được các phân tử urani phóng xạ. Tên khoa học của loài
vi khuẩn đó làTshewanella oneidensis thuộc
chi Tshewanella. Trong đời sống tự nhiên, chúng liên kết
thành các tập đoàn không bền vững có cấu trúc giống
như những chuỗi hạt ngọc trai mà mỗi hạt ngọc trai là

một vi khuẩn. Mỗi chuỗi như vậy dài 5 mm, các chuỗi
được liên kết lại với nhau tạo nên một mạng lưới chằng
chịt.
Đây là một chủng kị khí không bắt buộc khi không có
ôxy, chúng sẽ sử dụng nguồn năng lượng cung cấp từ
các phân tử phóng xạ. Theo đó chúng sẽ tiến hành tách
lấy các điện tử của phân tử urani có khả năng gây độc
cực mạnh cho nguồn nước vì chúng tan vô hạn trong
nước thì uranit trở thành phân tử lành tính. Chúng còn
được gọi là điôxít urani (UO2), không tan trong nước và

khá trơ về mặt hoá học. Vì vậy, người ta có thể thu hồi
chúng bằng các phương pháp lọc truyền thống hay bằng
các cột trao đổi iôn. Khi hoạt động Tshewanella
oneidensis sẽ tiết ra một loại chất nhờn khô đi, nó sẽ
tạo thành một lớp vỏ cứng ngăn cản sự rò rỉ của urani
18


hoà tan ở bên trong ra bên ngoài, điều này cũng giống
như Tshewanella oneidensis cũng tạo ra một nhà tù để
nhốt urani lại vậy.
Làm giàu, tái chế

19




Do trữ lượng urani là có hạn và nhu cầu sử dụng nó

ngày càng nhiều nên việc tận dụng và tìm nguồn thay
thế là một vấn đề đang được quan tâm. Các lò phản
ứng tái sinh hoặc tái sinh nhanh tạo ra ít chất thải hơn
các lò bình thường khác trong khi sản xuất ra cùng một

năng lượng. Hàm lượng thori gấp 5 lần urani trong vỏ

Trái Đất và đây được xem là một nguồn có thể được sử
dụng thay cho urani chỉ với những cải tiến nhỏ trong các
lò phản ứng hiện đại, đặc biệt là ở Ấn Độ

20


5. Ô nhiễm tiếng ồn
Ô nhiễm tiếng ồn
là tiếng ồn trong môi trường vượt quá ngưỡng nhất định gây khó
chịu cho người hoặc động vật.
Do nguồn gốc thiên nhiên
• Do hoạt động của núi lửa và động đất.Tuy nhiên đây chỉ
là 1 nguyên nhân thứ yếu mà thôi. Bởi do chỉ lúc nào có
núi lửa và động đất thì lúc đó mới có ô nhiễm về tiếng
ồn, hơn nữa nó chỉ thực sự tác động đến các hộ dân
sống gần khu vực núi lửa hoặc động đất.Mặt khác đây
không phải là nguyên nhân có tính chu kỳ mà nó xảy ra
1 cách ngẫu nhiên.
Do nguồn gốc nhân tạo
• Đây được xem là nguyên nhân chủ yếu gây ra hiện
tượng ô nhiễm tiếng ồn.
Giao thông

• Hiện nay phương tiện giao thông đang ngày càng tăng
với mức độ chóng mặt, mật độ xe lưu thông trên đường
phố ngày càng lớn gây nên ô nhiễm về tiếng ồn do tiếng
của động cơ, tiếng còi cũng như tiếng phanh xe. Bên
cạnh đó, số lượng phương tiện kém chất lượng lưu
thông trên đường phố của Việt Nam là khá nhiều đã tạo
nên sự ô nhiễm về tiếng ồn đáng kể.
• Máy bay cũng là 1 nguồn gây ô nhiễm không thể bỏ
qua.Lúc máy bay cất cánh hoặc hạ cánh là lúc mà các hộ
dân sống gần sân bay phải chịu 1 tần số âm thanh
không nhỏ.Vì vậy, nên di dời sân bay ra xa khu vực đông
dân cư để giảm thiểu tiếng ồn.
Xây dựng
• Hiện nay, việc sử dụng các loại máy móc trong xây dựng
là khá phổ biến.Đây là 1 nguồn gây ô nhiễm tiếng ồn
đáng kể.
21


Công nghiệp và sản xuất
• Trong công nghiệp và sản xuất hiện nay,việc sử dụng
máy móc được xem là không thể thiếu.Tuy nhiên do ý
thức của các cơ sở sản xuất và của 1 số khu công nghiệp
đã làm cho mức độ ô nhiễm tiếng ồn đang ngày càng
tăng cao.
Sinh hoạt
Việc bật máy nghe nhạc quá lớn cũng tác động không
nhỏ đến thính giác của người xung quanh,nhất là trong
các vũ trường hay quán bar.Đây là nguồn gây ô nhiễm
mà được xem

6. Ô nhiễm sóng
• Tại các thành phố, hầu hết các đài, cột phát sóng điện
từ (viễn thông, phát thanh truyền hình...) đều nằm ngay
trong khu dân cư; số đài phát sóng của các hãng taxi
cũng ngày một tăng. Hậu quả là người dân đang phải
sống trong "bể sóng điện từ". Nhiều nghiên cứu cho
thấy, loại sóng này có những ảnh hưởng nguy hại đối
với sức khỏe.
• Tiến sĩ Bùi Thanh Tâm, thuộc Đại học Y tế Công cộng,
cho biết sóng điện từ tần số radio (300 KHz-300 GHz)
được ứng dụng rộng rãi trong liên lạc vô tuyến, phát
thanh, truyền hình, viễn thông, radar quân sự... Đối với
con người, nó có thể làm nóng sâu vào bên trong cơ thể
hàng chục cm, gây sốt. Với năng lượng thấp, nó không
gây sốt nhưng có thể làm rối loạn điện tích và sự chuyển
hóa trong tế bào... Một số khảo sát sức khỏe ở bộ đội
radar cho thấy, tỷ lệ có trạng thái tình dục yếu, sinh con
gái nhiều... ở những người này cao hơn so với người
bình thường.
• Ông Tâm cũng cho biết, những người làm việc lâu năm
trong các đài phát thanh truyền hình (nhất là bộ phận
phát sóng, kỹ thuật) dễ bị rối loạn sức khỏe. Điển hình
22






là hiện tượng suy nhược cơ thể, gầy gò, da dẻ không

tươi tắn, luôn mệt mỏi, ăn uống kém, mất ngủ, trí nhớ
giảm... Các triệu chứng này chỉ thể hiện rõ sau 5-10 năm
tiếp xúc thường xuyên với sóng điện từ và chúng sẽ tự
hết khi bệnh nhân thay đổi môi trường làm việc. Ngoài
các đối tượng trên, sóng điện từ còn ảnh hưởng đến
sức khỏe của người dân sống xung quanh các đài phát
sóng.
Các nghiên cứu cho thấy, sóng càng ngắn thì năng lượng
bức xạ được cơ thể người hấp thu càng nhiều, tác hại
đến sức khỏe càng lớn. Sóng cực ngắn có thể gây những
biến đổi chức năng và bệnh lý ở các hệ thống thần kinh,
tim mạch, nội tiết và nhiều cơ quan khác. Sóng ngắn
làm giảm số lượng bạch cầu, gây các rối loạn ở tuyến
yên, vỏ thượng thận, tim mạch, nội tiết... Các dải sóng
dài và sóng trung làm giảm các quá trình hưng phấn
thần kinh, giảm các phản xạ có điều kiện, gây rối loạn
chức năng tạo glucozen của gan, rối loại dinh dưỡng ở
não và các cơ quan nội tạng, sinh dục... Hiện nay, các
loại sóng thường được sử dụng trong phát thanh truyền
hình đều là sóng trung đến sóng cực ngắn.
Điều nguy hiểm là các giác quan của con người không
thể nhận biết tình trạng ô nhiễm sóng điện từ. Với các
tác động khác như ánh sáng, tiếng động, mùi vị, nhiệt
độ..., chúng ta có thể cảm nhận và nếu các yếu tố trên
có liều lượng vượt quá sức chịu đựng, cơ thể sẽ có
những phản xạ như nhắm mắt, bịt tai, bịt mũi. Còn với
sóng điện từ, ngay cả khi ta đứng trong trường bức xạ
cường độ rất cao, các giác quan đều vô cảm và do đó cơ
thể không thể phát sinh các phản ứng tự vệ. Ngoài ra,
các tác hại do ô nhiễm điện từ gây ra lại xuất hiện âm

thầm sau một thời gian khá dài nên con người hầu như
không biết đến nó.
23


















Do nhận thức được những nguy hiểm mà sóng điện từ
có thể gây ra cho sức khỏe con người, nhiều quốc gia đã
có quy định: các đài phát sóng phải được đặt cách xa
khu dân cư một khoảng nhất định. Ở Việt Nam, hiện
chưa có quy định về vấn đề này. Ông Trần Ngọc Chính,
Viện trưởng Viện Quy hoạch Đô thị Nông thôn, cho biết,
hệ thống Tiêu chuẩn xây dựng của Việt Nam hiện không
có quy định về việc đài phát sóng điện từ phải cách xa
khu dân cư bao nhiêu, mà chỉ có quy định trong lĩnh vực

phóng xạ, đường điện cao tần.
Giáo sư Lê Minh Triết (Trung tâm Khoa học tự nhiên và
Công nghệ quốc gia) cũng bức xúc: "Trước đây, khi xây
dựng các đài phát thanh, truyền hình và các trạm radar,
người ta chỉ chọn địa điểm thuận lợi trong việc thu phát
tín hiệu chứ không quan tâm đến ảnh hưởng của sóng
điện từ đối với sức khỏe con người. Trong khi đó, nhiều
nghiên cứu được công bố trên thế giới hàng chục năm
qua đều chứng minh, sóng điện cao tần tác động trực
tiếp đến thần kinh và tim mạch, gây một số bệnh ở
những cơ quan này. Với xu thế phát triển, tại Việt Nam
chắc chắn sẽ xảy ra tình trạng ô nhiễm bức xạ điện từ".
Hiện nay trong nhiều ngành kinh tế, quốc phòng , trong
các phòng nghiên cứu
chúng ta sử dụng nhiều thiết bị máy móc liên quan đến
điện trường tần số cao như
rađa trong quốc phòng và các sân bay....
Ở nhiều ngành công nghiệp năng lượng của dòng điện
tần số cao được dùng để
đốt nóng kim loại như khi đúc, rèn nhiệt luyện, tán nối
và còn dùng để sấy, dán thiêu
kết các chất phi kim loại.
Trường điện từ tần số cao thường là trường điện từ
của các thiết bị công
24


nghiệp có tần số trong khoảng từ 3.104

đến 3.106 Hz.

• Ta nhận thấy rằng xung quanh dòng điện xuất hiện đồng
thời điện trường và từ
• trường. Khi dòng điện là dòng xoay chiều thì điện
trường và từ trường liên hệ với
• nhau coi chung thành một trường điện từ thống nhất.
• Trường điện từ tần số cao có khả năng lan truyền trong
không gian với vân tốc
• gần bằng vận tốc ánh sáng, và khi lan truyền nó mang
theo năng lượng
• Trường điện từ có tác dụng bất lợi đến cơ thể con người
và đáng ngại là cơ thể
• con người không có cảm giác gì khi có tác dụng của
trường điện từ.
Sóng điện từ có ảnh hưởng đến con người?
• Phạm vi sóng điện từ tồn tại ở khắp mọi nơi, có sóng
dài, sóng ngắn, sóng chất lượng cao, sóng chất lượng
thấp, sóng cường độ mạnh hoặc cường độ yếu, có sóng
có thể nhìn thấy hoặc không nhìn thấy, mà những loại
sóng không nhìn thấy thường nhiều hơn sóng có thể
nhìn thấy. Mỗi một loại sóng điện từ thực ra là một loại
năng lượng, thể tích của nó bằng không, nhưng mang
điện, tên gọi là lượng tử, chuyển động với tốc độ ánh
sánh trong môi trường chấn động. Sóng điện từ va đập
với các sóng điện từ trong không trung ở khắp nơi trong
vũ trụ. Những lượng tử nhỏ bé trong thế giới ánh sáng
này có thể gọi là quang tử, con người định nghĩa nó
theo 3 phương diện là cường độ, bước sóng và tần suất.
Bước sóng gần giống như bước chân của con người,
bước sóng có thể ngắn bằng nanometer, cũng có thể dài
đến mấy triệu Km. Tần suất có thể so sánh với hơi thở



25


×