Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THANH TOÁN QUỐC TẾ THEO PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG CHI NHÁNH HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.44 MB, 68 trang )

PHẦN 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ HIỆU QUẢ THANH TOÁN QUỐC TẾ THEO
PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TẠI NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.1. Thanh toán quốc tế tại ngân hàng thƣơng mại
1.1.1. Khái niệm
Nền kinh tế ngày càng phát triển khiến cho các mối quan hệ thương mại vượt qua
khỏi phạm vi quốc gia và hình thành nên thương mại quốc tế.
Thương mại quốc tế là sự trao đổi mua bán hàng hóa dịch vụ của các chủ thể tại
những quốc gia khác nhau. Để quá trình trao đổi mua bán hoàn thành thì người mua
phải nhận được hàng hóa dịch vụ cũng như người bán phải thu về được tiền nhưng do
khoảng cách về mặt địa lý, sự khác nhau về tiền tệ, ngôn ngữ… dẫn đến quá trình trao
đổi tiền hàng trở nên khó khăn và bất tiện. Chính vì vậy, ngân hàng đã tham gia vào
thương mại quốc tế với vai trò trung gian thanh toán và hình thành nên thanh toán
quốc tế trong ngân hàng thương mại.
Có thể hiểu, “Thanh toán quốc tế là việc thực hiện nghĩa vụ chi trả và quyền
hưởng lợi về tiền tệ phát sinh trên cơ sở các hoạt động kinh tế và phi kinh tế giữa các
tổ chức, cá nhân nước này với tổ chức, cá nhân nước khác hay giữa quốc gia với tổ
chức quốc tế thông qua quan hệ giữa các ngân hàng của các nước liên quan.” (Nguồn:
Giáo trình thanh toán quốc tế và tài trợ ngoại thương, nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội
– 2009, PGS TS Nguyễn Văn Tiến)
1.1.2. Vai trò của thanh toán quốc tế
1.1.2.1 Vai trò của thanh toán quốc tế đối với nền kinh tế:
Kinh tế đối ngoại ngày nay đã thành mối quan tâm hàng đầu của các quốc gia bởi
đây là chiến lược tất yếu để phát triển kinh tế quốc gia và hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong quá trình hội nhập và cạnh tranh gay gắt như hiện nay, không ai dám phủ nhận
vai trò to lớn của hoạt động ngoại thương. Thực tế đã chứng minh rằng nền kinh tế của
một nước không thể phát triển với một chính sách đóng cửa, chỉ dựa vào tích lũy và
trao đổi trong nước mà phải biết phát huy điểm mạnh, tận dụng những lợi thế bên
ngoài và kết hợp sức mạnh trong kinh tế quốc tế. Thông qua việc bảo lãnh cho khách
hàng trong nước, thanh toán cho khách hàng nước ngoài,… sẽ góp phần thúc đẩy quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế của một quốc gia. Việc nâng cao uy tín trong lĩnh vực


thanh toán quốc tế sẽ góp phần thu hút thêm nhiều đối tác đầu tư nước ngoài.
1

Thang Long University Library


Thêm vào đó, hoạt động thanh toán quốc tế được tổ chức một cách nhanh chóng,
chính xác, an toàn sẽ trực tiếp tác động vào việc rút ngắn thời gian chu chuyển vốn,
giảm bớt và khắc phục rủi ro liên quan tới sự biến động của tiền tệ, tỷ giá, đồng thời
đây cũng là một động lực đối với các nhà sản xuất đẩy mạnh hoạt động xuất nhập
khẩu, qua đó thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển.
Ngoài ra, thanh toán quốc tế giúp cho việc quản lý của nhà nước đối với các
doanh nghiệp xuất nhập khẩu đạt hiệu quả cao hơn: Thông qua thông tin và số liệu do
ngân hàng cung cấp, các cơ quan có thẩm quyền thực hiện việc giám sát tình hình kinh
doanh của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong nước theo đúng chính sách kinh tế
đối ngoại, đồng thời có chính sách phù hợp khuyến khích và tài trợ xuất nhập khẩu
phù hợp theo định hướng của nhà nước trong từng thời kì.
1.1.2.2 Vai trò của thanh toán quốc tế đối với hoạt động ngân hàng:
Trong hoạt động ngân hàng, việc hoàn thiện và phát triển hệ thống thanh toán
quốc tế là vô cùng quan trọng. Nó không chỉ là một hoạt động thanh toán thuần túy mà
còn được coi là một mặt không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng
bởi nó bổ sung và hỗ trợ cho các mặt hoạt động kinh doanh khác. Nếu như hoạt động
thanh toán quốc tế phát triển cũng sẽ kéo theo sự phát triển của một loạt các nghiệp vụ
kinh doanh như: tài trợ xuất nhập khẩu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, mua bán ngoại
tệ... Trên cơ sở đó giúp ngân hàng tăng doanh thu, tăng lợi nhuận cho ngân hàng từ đó
tiếp tục củng cố niềm tin cho khách hàng. Điều đó không chỉ giúp ngân hàng mở rộng
qui mô hoạt động mà còn là một ưu thế tạo nên sức cạnh tranh cho ngân hàng trong cơ
chế thị trường
Hoạt động thanh toán quốc tế làm tăng tính thanh khoản cho ngân hàng. Khi thực
hiện các nghiệp vụ thanh toán quốc tế, ngân hàng có thể thu hút được nguồn vốn ngoại

tệ tạm thời nhàn rỗi của các doanh nghiệp có quan hệ thanh toán quốc tế với ngân hàng
dưới hình thức các khoản ký quỹ chờ thanh toán
Nghiệp vụ thanh toán quốc tế phát triển sẽ giúp cho ngân hàng nâng cao được uy
tín của mình trên trường quốc tế, trên cơ sở đó có thể khai thác được nguồn vốn tài trợ
của các ngân hàng nước ngoài và nguồn vốn trên thị trường tài chính thế giới nhằm
đáp ứng cao hơn nhu cầu vay vốn cho khách hàng.
Hoạt động thanh toán quốc tế giúp cho ngân hàng tăng thu nhập và tăng cường
khả năng cạnh tranh của ngân hàng trong cơ chế thị trường đồng thời nó giúp hoạt

2


động ngân hàng vượt ra khỏi phạm vi quốc gia và hòa nhập với hệ thống ngân hàng
thế giới.
1.1.2.3 Vai trò của thanh toán quốc tế đối với doanh nghiệp xuất nhập khẩu:
Ngay từ khi bắt đầu đàm phán và kí kết hợp đồng kinh doanh xuất nhập khẩu
thanh toán đã là một điều khoản không thể thiếu trong hợp đông mà các bên tham gia
phải thoả thuận để đảm bảo lợi ích của mình, điều khoản về thanh toán được thoả
thuận một cách thống nhất và chặt chẽ sẽ tạo điều kiện cho các bên tham gia tiến hành
tốt các điều khoản khác quy định trong hợp đồng như: Bên xuất khẩu dựa vào đó
chuẩn bị hàng, lập chứng từ về hàng hoá, tiến hành giao hàng, bên nhập khẩu tiến hành
các thủ tục nhận hàng, chuẩn bị thanh toán tiền hàng… Dựa vào các điều khoản về
thanh toán có thể tránh cho các bên tham gia những rủi ro có thể xảy ra. Hoạt động
thanh toán quốc tế nhanh chóng, chính xác, thuận tiện, đúng luật sẽ thúc đẩy nhanh tốc
độ lưu chuyển hàng hoá, lưu chuyển vốn của các bên tham gia, mở rộng và củng cố
quan hệ hợp tác buôn bán làm ăn giữa các nước. Hoạt động thanh toán có thể đảm bảo
cho nhà kinh doanh xuất nhập khẩu thu được tiền về và nhận được hàng hoá vì khi
tham gia vào hoạt động TTQT không chỉ có người xuất khẩu và người nhập khẩu mà
còn có NHTM tham gia với vai trò là trung gian đảm bảo quyền lợi của các bên.
TTQT là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh. Nó ảnh hưởng

trực tiếp đến vòng quay vốn của doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập
khẩu, từ đó ảnh hưởng đến doanh thu cũng như lợi nhuận của doanh nghiệp. Nếu quy
định điều khoản thanh toán hợp lý có thể giúp doanh nghiệp tránh được những rủi ro
và mang lại lợi ích to lớn cho các doanh nghiệp. Thêm vào đó, thông qua hoạt động
thanh toán, các doanh nghiệp cũng có thể đánh giá khả năng tài chính, uy tín cũng như
tiềm lực của doanh nghiệp khác. Trên cơ sở đó, giúp doanh nghiệp tìm được đối tác,
bạn hàng kinh doanh tốt nhất.
1.1.3. Một số phƣơng thức thanh toán quốc tế
Trong ngoại thương, việc thanh toán giữa các nhà xuất khẩu và nhập khẩu thuộc
hai quốc gia khác nhau nếu như không thông qua ngân hàng thì sẽ vô cùng khó khăn,
bất tiện do khoảng cách về mặt địa lý, sự khác nhau về ngôn ngữ, tiền tệ cũng như sự
hạn chế về mặt chuyên môn của cả nhà nhập khẩu và xuất khẩu. Chính vì vậy, quá
trình thanh toán quốc tế cần phải được thực hiện thông qua một tổ chức chuyên nghiệp
đó chính là ngân hàng. Tuy rằng việc thanh toán này thông qua ngân hàng không phải
là không có rủi ro nhưng bằng những phương thức thanh toán nhất định trong ngân
3

Thang Long University Library


hàng, cùng với đặc tính làm việc chuyên nghiệp, năng lực chuyên môn cao và mạng
lưới quan hệ đại lý rộng khắp sẽ làm cho quá trình trao đổi hàng và tiền hàng giữa bên
mua và bên bán trở nên nhanh chóng và thuận tiện hơn rất nhiều.
Có thể hiểu phương thức thanh toán quốc tế nói chung là cách thức thực hiện chi
trả xuyên quốc gia mà thường là thanh toán cho một hợp đồng xuất nhập khẩu thông
qua trung gian ngân hàng bằng cách trích tiền từ tài khoản của người nhập khẩu
chuyển vào tài khoản của người xuất khẩu căn cứ vào hợp đồng thương mại và chứng
từ do hai bên cung cấp cho ngân hàng.
Hiện nay, có một số phương thức được sử dụng phổ biến trong thanh toán quốc
tế như phương thức chuyển tiền, phương thức nhờ thu và phương thức tín dụng

chứng từ.
-

Phương thức chuyển tiền: Chuyển tiền là phương thức thanh toán trong đó
một khách hàng của ngân hàng (gọi là người chuyển tiền) yêu cầu ngân
hàng chuyển một số tiền nhất định cho người thụ hưởng ở một địa điểm và
trong một thời gian nhất định.

Nhận xét: Phương thức chuyển tiền có ưu điểm là thời gian thanh toán nhanh
chóng, thủ tục thanh toán đơn giản, không nhất thiết phải làm nhiều thủ tục giấy tờ
ngoài bộ chứng từ và hợp đồng mua bán của bên nhập khẩu và bên xuất khẩu. Tuy
nhiên phương thức này chỉ sử dụng khi hai bên xuất khẩu và nhập khẩu có quan hệ lâu
dài và tín nhiệm lẫn nhau nếu không sẽ phát sinh nhiều rủi ro bởi việc giao hàng của
bên xuất khẩu và trả tiền của bên nhập khẩu phụ thuộc hoàn toàn vào khả năng và
thiện chí mỗi bên, ngân hàng lúc này chỉ nhận chuyển tiền chứ không phải chịu bất kì
trách nhiệm gì về rủi ro đạo đức của khách hàng.
Phương thức thanh toán chuyển tiền có thể thực hiện theo một trong hai hình
thức là trả trước và trả sau. Trong quá trình thực hiện chuyển tiền ở hình thức trả tiền
sau, nếu như người nhập khẩu vì lý do gì đó lập lệnh chuyển tiền gửi cho ngân hàng
muộn thì người xuất khẩu sẽ chậm nhận được tiền thanh toán mặc dù hàng hóa đã
được chuyển đi và người nhập khẩu đã nhận được hàng hóa đó rồi. Trong trường hợp
này, người xuất khẩu có thể bị thiệt hại trong khi ngân hàng không có nhiệm vụ và
cách thức gì để đốc thúc người nhập khẩu nhanh chóng chuyển tiền chi trả để đảm bảo
quyền lợi cho người xuất khẩu.
Còn trong quá trình thực hiện chuyển tiền ở hình thức trả tiền trước, người xuất
khẩu lúc này đã nhận được tiền mà chưa phải giao hàng vì vậy cũng không thể tránh
4


khỏi rủi ro cho người nhập khẩu trong trường hợp người xuất khẩu cố tình không giao

hàng hoặc giao hàng chậm trễ.
Chính bởi sự khó khăn này dẫn đến sự ra đời của các hình thức khác tốt hơn, ưu
việt hơn đối với các hợp đồng xuất nhập khẩu.
-

Phương thức nhờ thu: Nhờ thu là phương thức thanh toán trong đó người
xuất khẩu sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ
tiến hành uỷ thác cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ tiền từ người nhập
khẩu dựa trên cơ sở hối phiếu và chứng từ do người xuất khẩu lập ra. Trong
phương thức này, bên bán chủ động đòi tiền bên mua thông qua ngân hàng
uỷ nhiệm thu. Để ngân hàng có thể thực hiện uỷ nhiệm thu, bên bán phải
lập chỉ thị nhờ thu để gửi đến ngân hàng. Phương phức nhờ thu gồm có nhờ
thu hối phiếu trơn và nhờ thu hối phiếu kèm chứng từ
 Nhờ thu hối phiếu trơn:

Phương thức nhờ thu hối phiếu trơn (Clean Collection) là phương thức thanh
toán trong đó người xuất khẩu uỷ thác cho ngân hàng thu hộ tiền từ người nhập khẩu
căn cứ vào chứng từ tài chính (hối phiếu) còn chứng từ thương mại (chứng từ hàng
hoá) thì gửi thẳng cho người nhập khẩu, không thông qua ngân hàng.
Nhận xét: Phương thức nhờ thu hối phiếu trơn có ưu điểm hơn phương thức
chuyển tiền ở chỗ người xuất khẩu có thể chủ động đòi tiền sau khi giao hàng. Tuy
nhiên trong phương thức này, ngân hàng vẫn chỉ đóng vai trò trung gian thanh toán, bộ
chứng từ hàng hóa người xuất khẩu đã giao cho người nhập khẩu, có nghĩa người nhập
khẩu đã có thể nhận được hàng khi chưa trả tiền. Việc đòi được tiền hay không còn tùy
thuộc vào thiện chí và khả năng của người nhập khẩu.
Còn đối với nhà nhập khẩu, rủi ro cũng có thể phát sinh khi hối phiếu đòi tiền
đến trước và phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thanh toán, trong khi hàng hóa không
được gửi đi hoặc đã gửi đi nhưng chưa tới, hoặc khi nhận hàng hóa có thể không đảm
bảo đúng chất lượng, chủng loại và số lượng như đã thỏa thuận trong hợp đồng thương
mại.

Vì những hạn chế kể trên mà phương thức nhờ thu hối phiếu trơn chỉ nên áp
dụng trong những trường hợp nhà xuất khẩu và nhập khẩu thực sự tin tưởng lẫn nhau,
cụ thể, nhà xuất khẩu phải có thiện chí giao hàng và nhà nhập khẩu phải có thiện chí
thanh toán. Còn trong trường hợp hai bên xuất nhập khẩu là những đối tác mới của
nhau, chưa từng có quan hệ mua bán trước đây thì việc áp dụng phương thức thanh
5

Thang Long University Library


toán nhờ thu hối phiếu trơn vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Chính điều này đã khiến cho
phương thức nhờ thu kèm chứng từ ra đời.
 Nhờ thu hối phiếu kèm chứng từ:
Nhờ thu hối phiếu kèm chứng từ (Documentary Collection) là phương thức thanh
toán trong đó chứng từ gửi đi nhờ ngân hàng thu hộ không chỉ bao gồm chứng từ tài
chính mà còn chứng từ thương mại. Ngân hàng chỉ trao bộ chứng từ cho người nhập
khẩu nhận hàng hóa sau khi người này đã thanh toán hoặc ký chấp nhận thanh toán hối
phiếu kì hạn.
Nhận xét: Ở phương thức này, ngân hàng kiểm soát cả chứng từ hàng hóa, hối
phiếu và chỉ thị nhờ thu qua đó đảm bảo an toàn hơn cho người xuất khẩu bởi hàng sẽ
chỉ được giao cho người nhập khẩu khi người nhập khẩu quyết định thanh toán. Còn
đối với nhà nhập khẩu, có thể xem xét, kiểm tra bộ chứng từ trước khi thanh toán hay
chấp nhận thanh toán.
Tuy nhiên, phương thức nhờ thu kèm chứng từ vẫn còn một số hạn chế. Đó là khi
hàng hóa đã chuyển đến hoặc đang trên đường đến nhưng nhà nhập khẩu không chấp
nhận thanh toán, không nhận hàng thì nhà xuất khẩu sẽ phải tốn chi phí cho việc vận
chuyển hàng về. Hay rủi ro có thể xảy đến với nhà nhập khẩu khi nhà xuất khẩu cố ý
thực hiện hành vi gian lận thương mại, lập bộ chứng từ giả…
Trong hai phương thức chuyển tiền và nhờ thu thì vai trò của ngân hàng vẫn chỉ
là tổ chức cung cấp dịch vụ, trung gian thu hộ tiền, còn việc thu được hay không phụ

thuộc hoàn toàn vào ý chí của người nhập khẩu. Ngân hàng cũng không chịu trách
nhiệm nếu chứng từ là giả mạo hoặc có sai sót, không khớp với hàng hóa trong
phương thức nhờ thu kèm chứng từ. Hay ngân hàng cũng không chịu trách nhiệm đốc
thúc người nhập khẩu nhanh chóng chuyển tiền chi trả trong phương thức thanh toán
chuyển tiền. Vì vậy, cần có một phương thức thanh toán có thể gắn kết được nghĩa vụ
của ngân hàng, đem lại sự cam kết an toàn cho cả 2 bên, nhất là khi người mua và
người bán chưa hiểu rõ về nhau, hoặc ở các giao dịch mua bán lần đầu. Đó cũng là lý
do vì sao phương thức tín dụng chứng từ ra đời. Tuy rằng đây chưa phải là một
phương thức thanh toán an toàn tuyệt đối nhưng cho đến nay thì phương thức tín dụng
chứng từ vẫn có thể được coi là phương thức thanh toán có nhiều ưu điểm và được sử
dụng với tỷ trọng nhiều hơn cả so với các phương thức thanh toán quốc tế khác tại
ngân hàng. Với phương thức này, vai trò của ngân hàng đã được nâng lên, không còn
chỉ đơn thuần là trung gian thanh toán nữa mà đã thực sự tham gia vào quá trình thanh
6


toán, làm cho cả nhà nhập khẩu và xuất khẩu có thể yên tâm hơn khi sử dụng phương
thức tín dụng chứng từ.
1.2. Phƣơng thức thanh toán tín dụng chứng từ
1.2.1. Khái niệm
Phương thức thanh toán bằng tín dụng chứng từ là một sự thỏa thuận, trong đó,
theo yêu cầu của khách hàng (người yêu cầu mở L/C), một ngân hàng (ngân hàng phát
hành L/C) sẽ phát hành một bức thư tín dụng chứng từ, gọi là L/C ( Letter of Credit),
theo đó, ngân hàng phát hành cam kết trả tiền hoặc chấp nhận hối phiếu cho một bên
thứ ba ( người thụ hưởng L/C) khi người này xuất trình cho ngân hàng phát hành bộ
chứng từ thanh toán phù hợp với điều kiện và điều khoản quy định trong L/C (Nguồn:
Cẩm nang thanh toán quốc tế bằng L/C, nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội – 2007, PGS
TS Nguyễn Văn Tiến)
Nhìn chung, phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là phương thức thanh
toán khá an toàn cho cả doanh nghiệp xuất khẩu, doanh nghiệp nhập khẩu và có sự

tham gia của ngân hàng. Đồng thời, đây cũng là phương thức thanh toán phức tạp nhất,
đòi hỏi các bên tham gia phải am hiểu về thanh toán quốc tế nói chung và về nghiệp vụ
thanh toán tín dụng chứng từ nói riêng. Và như đã nói ở trên, vì phương thức tín dụng
chứng từ không phải là phương thức thanh toán tuyệt đối an toàn nên các doanh
nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu cũng như ngân hàng khi sử dụng phương thức này
trong thanh toán quốc tế vẫn cần phải thận trọng.
1.2.2. Cơ sở pháp lý:
Hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ chịu sự điều
chỉnh đồng thời bởi các nguồn luật, công ước quốc tế liên quan và các văn bản pháp
luật, thông tư của các quốc gia cũng như chịu sự điều chỉnh trực tiếp bởi các thông lệ
và tập quán quốc tế, đó là:
-

Các quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ gọi tắt là UCP.
Phiên bản mới nhất của UCP là UCP 600, có hiệu lực từ ngày 1/7/2007.
Bản UCP 600 ra đời không mang tính chất triệt tiêu những bản UCP trước
đó nhưng do khắc phục được một số hạn chế của các bản trước (UCP 400,
UCP500) cho nên đến nay UCP 600 đã được các ngân hàng cũng như
doanh nghiệp nhập khẩu tại Việt Nam tin dùng và sử dụng nhiều hơn cả.

-

Tập quán Ngân hàng tiêu chuẩn quốc tế để kiểm tra chứng từ theo thư tín
dụng tuân thủ UCP-600/2007/ICC (ISBP)
7

Thang Long University Library


-


Bản phụ trương UCP về xuất trình chứng từ điện tử (eUCP 1.1)

-

Quy tắc thống nhất về hoàn trả tiền giữa các ngân hàng theo thư tín dụng
(URR-725/2008/ICC)

Trong các văn bản này, UCP là văn bản chính, còn các văn bản khác có tính chất
giải thích và làm rõ việc áp dụng và thực hiện UCP.
1.2.3. Thƣ tín dụng chứng từ
Khái niệm:
Theo UCP 600, điều 2 quy định: “Thư tín dụng chứng từ là một sự thỏa thuận bất
kì, cho dù được mô tả hoặc gọi tên như thế nào, thể hiện một cam kết chắc chắn và
không hủy ngang của ngân hàng phát hành về việc thanh toán khi xuất trình phù hợp”.
Bản chất thƣ tín dụng:
Thư tín dụng thực chất là một cam kết bằng văn bản được ngân hàng viết ra theo
yêu cầu của nhà nhập khẩu cam kết trả cho nhà xuất khẩu số tiền nhất định, trong một
thời gian nhất định với điều kiện nhất định là nhà xuất khẩu phải thực hiện đúng và
đấy đủ những điều khoản quy định trong L/C.
Thư tín dụng có tính chất quan trọng, nó hình thành trên cơ sở hợp đồng ngoại
thương nhưng sau khi được thiết lập thì nó hoàn toàn độc lập với hợp đồng này. Một
khi L/C đã dược mở và được các bên chấp nhận thì cho dù nội dung L/C có đúng với
hợp đồng ngoại thương hay không cũng không làm thay đổi quyền lợi và nghĩa vụ của
các bên có liên quan. Điều này hàm ý, khi nhà xuất khẩu trình bộ chứng từ phù hợp về
mặt hình thức với những điều khoản quy đinh trong L/C thì ngân hàng phát hành L/C
phải trả tiền vô điều kiện cho nhà xuất khẩu mặc dù trên thực tế hàng hóa không đúng
như đã ghi trên chứng từ. Như vậy việc thanh toán L/C không hề căn cứ vào tình hình
thực tế của hàng hóa; nếu hàng hóa không khớp với chứng từ thì hai bên mua bán trực
tiếp giải quyết với nhau, không liên quan đến ngân hàng phát hành L/C. Chỉ trong

trường hợp chứng từ không phù hợp với các điều khoản của L/C mà ngân hàng vẫn cứ
thanh toán cho người xuất khẩu thì ngân hàng phải chịu hoàn toàn trách nhiệm, bởi vì
người nhập khẩu có quyền từ chối thanh toán lại tiền cho ngân hàng.
Trong thực tế, nhà nhập khẩu có thể sử dụng L/C như là công cụ dự phòng để cụ
thể hóa, chi tiết hóa hoặc bổ sung những điều khoản mà hợp đồng thương mại còn sót;
ngoài ra còn để đính chính, sửa chữa những nội dung bất lợi trong hợp đồng ngoại
thương.
8


Nội dung chủ yếu của thƣ tín dụng:
-

Số hiệu L/C: Tất cả các L/C đều có số hiệu riêng của nó, nhằm tạo điều kiện
có thuận tiện trong việc trao đổi thư từ, điện tín hoặc để ghi vào các chứng
từ có liên quan trong bộ chứng từ thanh toán L/C.

-

Địa điểm phát hành L/C: Đây là một nội dung bắt buộc trong L/C. Đây là
nơi NHPH viết cam kết trả tiền cho người xuất khẩu. Địa điểm phát hành
L/C có ý nghĩa trong việc xác định nguồn luật điều chỉnh khi có tranh chấp
xảy ra.

-

Ngày phát hành L/C: Là ngày bắt đầu phát sinh cam kết của ngân hàng phát
hành đối với người xuất khẩu và là ngày bắt đầu L/C có hiệu lực. Đồng thời
nó cũng là mốc để nhà xuất khẩu kiểm tra xem người nhập khẩu có mở L/C
đúng hạn như quy định trong hợp đồng ngoại thương hay không.


-

Tên và địa chỉ của những người có liên quan: Đây là một nội dung bắt buộc
phải có trong L/C.

-

Số tiền của L/C: Số tiền trong L/C phải được ghi vừa bằng số vừa bằng chữ
và phải thống nhất với nhau. Tên của đơn vị tiền tệ phải rõ ràng, cụ thể.

-

Thời hạn hiệu lực của L/C: Thời hạn hiệu lực của L/C là thời hạn mà ngân
hàng phát hành cam kết trả tiền cho nhà xuất khẩu nếu nhà xuất khẩu xuất
trình được bộ chứng từ trong thời hạn đó và phù hợp với những điều quy
định trong L/C. Thời hạn hiệu lực của L/C tính từ ngày L/C đó được phát
hành đến hết ngày hiệu lực của L/C.

-

Thời hạn giao hàng: Thời hạn giao hàng do hai bên mua bán thỏa thuận khi
kí kết hợp đồng. Thời hạn này phải nằm trong thời hạn hiệu lực của thư tín
dụng và không trùng với ngày hết hạn hiệu lực của L/C. Ngày mở L/C phải
trước ngày giao hàng một thời gian hợp lý và không trùng với ngày giao
hàng nhằm đảm bảo thời gian thông báo L/C, lưu L/C tại Ngân hàng, chuẩn
bị hàng để giao,… Ngày hết hạn hiệu lực của L/C phải sau ngày giao hàng
một thời gian hợp lý nhằm đảm bảo thời gian lập bộ chứng từ, luân chuyển
chứng từ, lưu chứng từ tại Ngân hàng.


-

Thời hạn trả tiền của L/C: Nội dung này tùy thuộc vào hợp đồng thương
mại. Có thể là trả nay hoặc trả sau.

-

Ngày giao hàng: Căn cứ vào hợp đồng ngoại thương mà ngày giao hàng
cũng được quy định trong L/C. Thời hạn giao hàng có quan hệ chặt chẽ với
thời hạn hiệu lực của L/C.

9

Thang Long University Library


-

Địa điểm xuất trình thư tín dụng: là địa điểm của Ngân hàng mà tại đó L/C
có giá trị thanh toán hoặc chiết khấu.

-

Mô tả hàng hóa: Là những nội dung liên quan cụ thể đến hàng hóa như: số
lượng, khối lượng, giá cả, mã hàng, bao bì, miêu tả hàng hóa,… Ngoài ra
trong phần mô tả hàng hóa còn phải chỉ rõ phương thức vận chuyển được sử
dụng là gì, phương tiện, cách thức giao hàng.

-


Những nội dung về vận tải, giao nhận hàng hóa như điều kiện cơ sở giao
hàng (CIF, FOB, CFR,…), nơi gửi, nơi giao hàng, cách vận chuyển, cách
giao hàng,…

-

Bộ chứng từ mà nhà xuất khẩu phải xuất trình: Đây là nội dung quan trọng
của L/C vì bộ chứng từ quy định theo L/C là bằng chứng chứng minh người
xuất khẩu đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng đúng như L/C đã quy định.

Các chứng từ thương mại quốc tế rất quan trọng bởi chúng kiểm soát sự vận
động của hàng hóa, nhà xuất khẩu có nhận được tiền nhanh hay chậm phụ thuộc vào
chứng từ. Vì vậy, yêu cầu lập chứng từ phải nghiêm ngặt, hoàn hảo, phù hộ với những
điều khoản cũng như những điều kiện của L/C.
-

Nguồn luật điều chỉnh L/C: Tùy thuộc vào sự thỏa thuận của các bên tham
gia. Nếu sử dụng nguồn luật điều chỉnh là UCP thì phải ghi rõ là L/C đó áp
dùng bản UCP nào.

-

Sự cam kết trả tiền của ngân hàng mở L/C: Đây là nội dung cuối cùng của
L/C và nó rằng buộc trách nhiệm của ngân hàng mở L/C với L/C này. Sự
cam kết nổi bật trên 3 ý: Một là, đây là cam kết thực sự, tức là ngân hàng
mở L/C sẽ cam kết trả tiền bằng uy tín và trách nhiệm của mình đối với
khách hàng; Hai là, đây là cam kết có điều kiện, ngân hàng chỉ thực hiện
cam kết với điều kiện người xuất trình hối phiếu phải có bộ chứng từ thanh
toán phù hợp với nội dung đã quy định của L/C; Ba là đây là sự cam kết dự
phòng, có nghĩa ngân hàng chỉ tôn trọng các hối phiếu xuất trình đúng hạn

và phù hợp với các điều kiện của L/C, việc trả tiền hay không phụ thuộc
vào việc xem xét các chứng từ thanh toán có phù hợp với L/C và có mâu
thuẫn với nhau không.

Chức năng của thƣ tín dụng:
-

Chức năng thanh toán: L/C là một phương thức thanh toán rất thông dụng
trong mua bán quốc tế. L/C thường được sử dụng như là một công cụ thanh
toán không dùng tiền mặt.
10


-

Chức năng tín dụng: Thư tín dụng cũng có thể được coi như một hình thức
cấp tín dụng cho nhà xuất khẩu bằng cách chiết khấu chứng từ hàng xuất
với điều kiện là những chứng từ đó hoàn toàn hợp lệ. Nó cũng có thể được
coi như một hình thức cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu trong trường hợp
nhà nhập khẩu kí quỹ dưới 100% để được phát hành L/C.

-

Chức năng bảo đảm: Thư tín dụng chứng từ là một cam kết có điều kiện và
độc lập của ngân hàng phát hành, bảo đảm là người thụ hưởng sẽ được tiền
hàng nếu xuất trình được bộ chứng từ hợp lệ mà không còn bị phụ thuộc
vào thiện chí thanh toán của người mua.

Các loại thƣ tín dụng
-


Thư tín dụng không huỷ ngang (Irrevocable L/C): Đây là loại L/C sau khi
đã phát hành thì mọi việc liên quan đến sửa đổi, bổ sung hay hủy bỏ L/C
chỉ có thể thực hiện khi có sự đồng ý của các bên có liên quan. Đây là loại
L/C được sử dụng phổ biến hiện nay do nó đảm bảo quyền lợi cho các bên
tham gia.

-

Thư tín dụng tuần hoàn (Revolving L/C): Là loại thư tín dụng không hủy
ngang mà sau khi đã sử dụng hết giá trị của nó hoặc đã hết thời hạn hiệu lực
thì nó tự động có giá trị như cũ và tiếp tục tuần hoàn trong một thời gian
nhất định và cứ như vậy, nó tuần hoàn cho đến khi nào tổng giá trị hợp
đồng được thực hiện hoàn tất. Loại L/C này có hai loại là L/C tuần hoàn có
tích luỹ và loại L/C tuần hoàn không tích luỹ. Loại L/C này thường được
dùng trong việc mua bán những mặt hàng có số lượng lớn, giá trị lớn, có
quan hệ cung cấp hàng hóa dịch vụ thường xuyên, giao hàng nhiều lần với
số lượng đều đăn. Loại L/C này giúp cho doanh nghiệp tránh được ứ đọng
vốn, giảm chi phí tạo lập L/C mới, đơn giản hóa thủ tục.

-

Thư tín dụng chuyển nhượng ( Transferable L/C): Là loại L/C không hủy
ngang cho phép chuyển từ người hưởng lợi ban đầu sang một hay nhiều bên
khác theo yêu cầu của người hưởng lợi thứ nhất. Đây là loại L/C được sử
dụng trong trường hợp khi người hưởng lợi thứ nhất không tự cung cấp
được háng hóa mà chỉ là người môi giới và người này muốn chuyển nhượng
từng phần hay toàn bộ quyền lợi của mình cho người hưởng lợi thứ hai. Sự
chuyển nhượng này phải được thực hiện theo những điều khoản của L/C
gốc ngoại trừ những điều khoản sau có thể thay đổi: tên và địa chỉ của

người hưởng ban đầu, đơn giá, thời hạn hiệu lực của L/C… L/C chuyển
nhượng chỉ được phép chuyển nhượng một lần, chi phí chuyển nhượng
11

Thang Long University Library


thường là do người hưởng lợi đầu tiên chi trả. L/C chuyển nhượng phải có
lệnh đặc biệt của Ngân hàng mở L/C và trên L/C phải ghi chữ
“transferable”.
-

L/C giáp lưng (Back to back L/C ): Là loại L/C không hủy ngang được mở
ra căn cứ vào L/C khác là đảm bảo. Sau khi nhận được một L/C (L/C gốc)
của ngân hàng nước ngoài phát hành, nhà xuất khẩu sử dụng L/C này để thế
chấp mở một L/C khác cho người thụ hưởng ở nước ngoài với nội dung
tương tự như L/C gốc. L/C mở sau được gọi là L/C giáp lưng. L/C giáp
lưng phải thoả mãn những điều kiện là 2 L/C phải mở thông qua một Ngân
hàng trực tiếp phục vụ tổ chức xuất khẩu và số tiền trên L/C thứ nhất phải
lớn hơn hoặc bằng L/C thứ hai. Loại L/C này thường được sử dụng trong
trường hợp người mua muốn mua hàng ở nước ngoài nhưng vì lí do gì đó
họ không thể mở được L/C trực tiếp cho người hưởng mà phải thông qua
người trung gian.

-

L/C điều khoản đỏ (Red clause L/C): Là loại L/C mà ngân hàng phát hành
cho phép ngân hàng thông báo ứng trước cho người thụ hưởng để mua hàng
hóa, nguyên liệu phục vụ sản xuất hàng hóa theo L/C đã mở. Và khoản tiền
ứng trước được lấy chính từ tài khoản của người mở L/C. Việc ứng trước

tiền được ngân hàng phát hành ủy quyền cho ngân hàng thông báo thực
hiện. Sau đó (hoặc trước đó) ngân hàng phát hành (NHPH) sẽ (hoặc đã)
trích tài khoản của người mở L/C chuyển (hoặc hoàn trả) cho ngân hàng
thông báo. Được gọi là L/C điều khoản đỏ là vì trước đây L/C này thường
được in bằng mực đỏ để thu hút sự chú ý. Ngày nay loại L/C này còn có
nhiều tên gọi khác như L/C điều khoản ứng trước (Advance Clause), hay
L/C điều khoản đặc biệt (Special Clause). Ngày nay L/C điều khoản đỏ
được sử dụng khá rộng rãi trong thương mại quốc tế, nhất là trong các quan
hệ mua bán các hàng hóa như nông sản, lâm, thổ sản, các mặt hàng có tính
thời vụ như cà phê, lúa, gạo, …

-

L/C dự phòng (Standby L/C): L/C dự phòng là một tín dụng chứng từ hay là
dàn xếp tương tự, thể hiện nghĩa vụ của ngân hàng phát hành tới người thụ
hưởng trong thanh toán lại khoản tiền mà người yêu cầu mở L/C dự phòng
đã vay hoặc được ứng trước, thanh toán khoản nợ của người mở L/C dự
phòng, bồi thường những thiệt hại do người mở L/C dự phòng không thực
hiện nghĩa vụ của mình. Do đó L/C dự phòng được xem như là phương tiện
thanh toán thứ yếu. Sự khác nhau về L/C thương mại và L/C dự phòng là
L/C thương mại hoạt động trên cơ sở thực hiện hợp đồng của người bán.
12


Ngược lại, L/C dự phòng đảm bảo cho người thụ hưởng trong trường hợp
nghĩa vụ không được thực hiện.
Thư tín dụng đối ứng (Reciprocal L/C): Là loại L/C có giá trị hiệu lực khi

-


L/C đối ứng với nó được mở ra. Loại L/C này có nghĩa là người xuất khẩu
khi nhận được L/C do người nhập khẩu mở thì phải mở lại L/C tương ứng
thì mới có giá trị. Loại này thường được chỉ sử dụng trong phương thức
mua hàng đổi hàng hoặc gia công. Trong quan hệ giao dịch này người bán
đồng thời là người mua và ngược lại.
Thư tín dụng không thể hủy ngang có xác nhận(Confirmed irrevocable

-

L/C): Là loại L/C không thể huỷ bỏ, được một Ngân hàng khác đảm bảo trả
tiền L/C theo yêu cầu của Ngân hàng mở L/C. Ngân hàng xác nhận chịu
trách nhiệm trả tiền cho người bán nếu như Ngân hàng mở L/C không trả
tiền. Loại L/C này người xuất khẩu kí phát hối phiếu đòi tiền Ngân hàng
mở L/C nhưng gửi thẳng tới Ngân hàng xác nhận để thanh toán. Do quyền
lợi của nguời xuất khẩu đảm bảo hơn nên loại L/C này được sử dụng rộng
rãi trong TTQT. Đây là loại L/C đảm bảo nhất cho quyền lợi của người xuất
khẩu.
1.2.4. Quy trình thực hiện phƣơng thức thanh toán tín dụng chứng từ
Sơ đồ 1.1: Trƣờng hợp L/C thanh toán tại ngân hàng phát hành
(3)
Ngân hàng mở
L/C (ngân hàng

Ngân hàng thông
báo L/C

(6)

phát hành)


(9)

(8)

(2)

(6)

(7)

(4)

(5)
Người nhập khẩu

Người xuất khẩu
(1)

(1) Hai bên xuất khẩu và nhập khẩu ký kết hợp đồng thương mại. Nếu người xuất
khẩu yêu cầu thanh toán hàng hóa theo phương thức tín dụng chứng từ thì trong
hợp đồng thương mại phải có điều khoản thanh toán theo phương thức tín dụng
chứng từ.
13

Thang Long University Library


(2) Người nhập khẩu căn cứ vào hợp đồng thương mại làm thủ tục xin mở L/C yêu
cầu ngân hàng mở L/C cho người xuất khẩu thụ hưởng.
(3) Ngân hàng phát hành sẽ kiểm tra xem đơn mở thư tín dung đã hợp lệ hay chưa.

Nếu hồ sơ đã hợp lý, hợp lệ, ngân hàng sẽ mở L/C và thông báo qua ngân hàng
đại lý của mình ở nước người xuất khẩu về việc mở L/C và chuyển một bản gốc
cho người xuất khẩu. Nếu hồ sơ chưa hợp lệ thì đề nghị người nhập khẩu hoàn
thiện, bổ sung
(4) Khi nhận được thông báo về mở L/C và một bản gốc L/C, ngân hàng thông báo
sẽ chuyển nguyên vẹn ngay L/C cho nhà xuất khẩu.
(5) Nếu người xuất khẩu đồng ý mọi điều kiện điều khoản trong L/C thì sẽ tiến
hành giao hàng cho người nhập khẩu theo đúng quy định đã ký kết trong hợp
đồng. Nếu không họ sẽ đề nghị sửa đổi, bổ sung L/C.
(6) Người xuất khẩu sau khi giao hàng thì lập bộ chứng từ thanh toán theo quy định
của L/C gửi tới ngân hàng phát hành để được thanh toán.
(7) Ngân hàng phát hành sau khi kiểm tra chứng từ nếu thấy phù hợp thì thanh toán
tiền ngay hoặc chấp nhận thanh toán. Nếu không phù hợp thì từ chối thanh toán
và gửi lại bộ chứng từ cho người xuất khẩu.
(8) Sau khi tiến hành thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán cho người hưởng lợi,
ngân hàng phát hành sẽ giao lại bộ chứng từ thanh toán cho người nhập khẩu và
yêu cầu trả tiền.
(9) Người nhập khẩu kiểm tra bộ chứng từ và tiến hành hoàn trả tiền cho ngân
hàng.
Sơ đồ 1.2: Trƣờng hợp L/C thanh toán tại ngân hàng thông báo
(3)
Ngân hàng mở
L/C (ngân hàng

(8)

phát hành)

(9)


(11)

(10)

Ngân hàng thông
báo L/C

(2)

(7)

(6)

(4)

(5)
Người nhập khẩu

Người xuất khẩu
(1)
14


Các bước từ (1) đến (5) giống như trường hợp thanh toán tại ngân hàng phát hành
L/C
(6) Sau khi giao hàng, nhà xuất khẩu lập bộ chứng từ theo yêu cầu của L/C và xuất
trình cho ngân hàng thông báo để được thanh toán.
(7) Ngân hàng thông báo sau khi kiểm tra bộ chứng từ nếu thấy phù hợp với L/C do
mình thông báo thì tiến hành thanh toán tiền cho nhà xuất khẩu; nếu không phù
hợp thì từ chối thanh toán và gửi trả lại toàn bộ nguyên vẹn bộ chứng từ cho

nhà xuất khẩu.
(8) Ngân hàng thông báo gửi bộ chứng từ cho ngân hàng phát hành L/C để được
hoàn trả.
(9) Ngân hàng phát hành L/C sau khi kiểm tra bộ chứng từ, nếu thấy phù hợp với
L/C do mình phát hành thì tiến hành thanh toán cho ngân hàng thông báo, nếu
thấy không phù hợp thì từ chối thanh toán và gửi trả lại toàn bộ nguyên vẹn bộ
chứng từ cho ngân hàng thông báo.
(10)

Ngân hàng phát hành L/C đòi tiền nhà nhập khẩu và chuyển bộ chứng từ

cho người nhập khẩu sau khi đã nhận được tiền hoặc chấp nhận thanh toán
(11)

Nhà nhập khẩu kiểm tra bộ chứng từ, nếu thấy phù hợp với L/C thì trả

tiền hoặc chấp nhận hối phiếu, nếu thấy không phù hợp thì có quyền từ chối trả
tiền
1.2.5. Các bên tham gia quy trình nghiệp vụ tín dụng chứng từ
Các bên tham gia:
-

Người yêu cầu mở L/C: Là người yêu cầu ngân hàng phục vụ mình phát
hành một L/C và có trách nhiệm pháp lý về việc trả tiền của ngân hàng cho
người bán theo L/C này. Tùy hoàn cảnh cụ thể mà người xin mở L/C có thể
có những tên gọi khác nhau như: người mua, người nhập khẩu, người mở
L/C, người trả tiền, người ủy thác.

-


Người thụ hưởng: Theo quy định của L/C, người thụ hưởng là người được
hưởng tiền thanh toán. Tùy hoàn cảnh cụ thể mà người thụ hưởng L/C có
thể có những tên gọi khác nhau như: người bán, nhà xuất khẩu, người ký
phát hối phiếu

-

Các ngân hàng:

15

Thang Long University Library


 Ngân hàng phát hành L/C (Issuing Bank) hay ngân hàng mở L/C
(Opening Bank): là ngân hàng mà theo yêu cầu của người mua, phát hành một
L/C cho người bán hưởng. Ngân hàng phát hành thường được hai bên mua
bán thoả thuận và quy định trong hợp đồng mua bán.
 Ngân hàng thông báo (Advising Bank): là ngân hàng được ngân hàng
phát hành yêu cầu thông báo L/C cho người thụ hưởng. Ngân hàng thông báo
thường là một ngân hàng đại lý hay một chi nhánh của ngân hàng phát hành ở
nước nhà XK.
 Ngân hàng xác nhận (Confirming Bank): trong trường hợp nhà XK
muốn có sự đảm bảo chắc chắn của thư tín dụng, thì một ngân hàng có thể
đứng ra xác nhận L/C theo yêu cầu của ngân hàng phát hành. Thông thường
ngân hàng xác nhận là một ngân hàng lớn có uy tín và trong nhiều trường hợp
ngân hàng thông báo được đề nghị là ngân hàng xác nhận L/C.
 Ngân hàng được chỉ định (Nominated Bank): là ngân hàng được ngân
hàng phát hành uỷ nhiệm để khi nhận được bộ chứng từ phù hợp với những
qui định trong L/C thì:

 Thanh toán (pay) cho người thụ hưởng
 Chấp nhận (accept) hối phiếu kỳ hạn
 Chiết khấu (negotiate) bộ chứng từ
Ƣu điểm của phƣơng thức tín dụng chứng từ đối với các bên tham gia
-

Đối với nhà nhập khẩu:
 Nhà nhập khẩu chỉ phải thanh toán khi nhận được bộ chứng từ phù hợp
với các điều kiện và điều khoản của L/C.
 Được sự trợ giúp của ngân hàng trong việc đảm bảo các điều kiện của
L/C được tuân thủ; được các điều khoản của UCP bảo vệ.
 Ngoài ra, thông qua việc sử dụng hình thức thanh toán tín dụng chứng
từ, người nhập khẩu sẽ nhận được sự tài trợ của NH về mặt tài chính cũng
như uy tín. Đây là một điều rất quan trọng nhất là đối với những doanh
nghiệp vừa và nhỏ, chưa có tiếng tăm trên thị trường.

-

Đối với nhà xuất khẩu:
 Là người hưởng lợi L/C, người xuất khẩu được đảm bảo rằng khi xuất
trình bộ chứng từ phù hợp với điều khoản của L/C thì sẽ nhận được tiền thanh
16


toán mà không cần phải chờ đến khi người nhập khẩu chấp nhận hàng hóa
hay chấp nhận bộ chứng từ
 Tình trạng tài chính của người mua được thay thế bằng cam kết của
ngân hàng phát hành L/C là sẽ trả tiền, chấp nhận hoặc chiết khấu trên cơ sở
chứng từ xuất trình phù hợp các điều khoản của L/C. Đây là lợi thế vượt trội
của phương thức tín dụng chứng từ so với phương thức nhờ thu

 Thông qua phương thức tín dụng chứng từ, người xuất khẩu cũng có thể
nhận được tài trợ của ngân hàng (trong trường hợp ngân hàng chấp nhận chiết
khấu), hoặc của người nhập khẩu (L/C điều khoản đỏ)
-

Đối với các ngân hàng:
 Ngân hàng phát hành/ thông báo/ xác nhận/chỉ định khi tiến hành
nghiệp vụ thanh toán quốc tế theo L/C đều thu được lợi ích khá lớn từ các
khoản thu phí dịch vụ, tạo điều kiện mở rộng tín dụng, bảo lãnh quốc tế, kinh
doanh ngoại tệ,…
 Ngân hàng phát hành L/C có thể huy động thêm được một khoản tiền
gửi (khi có kí quỹ mở L/C) phục vụ cho các hoạt động nghiệp vụ khác.
 Ngoài ra, nếu bảm bảo được chất lượng thanh toán TDCT sẽ tạo điều
kiện tốt cho các ngân hàng nâng cao uy tín của mình đối với các ngân hàng ở
các quốc gia khác, điều này là tiền đề để ngân hàng có thể mở rộng mạng lới
chi nhánh, đại lý của mình, có nghĩa là mở rộng thêm thị trường.

Rủi ro có thể xảy ra với các bên khi tham gia phƣơng thức tín dụng chứng
từ
-

Đối với nhà nhập khẩu: Việc thanh toán của ngân hàng cho nhà xuất khẩu
chỉ căn cứ vào bộ chứng từ xuất trình mà không căn cứ và việc kiểm tra
thực tế hàng hóa. Ngân hàng chỉ kiểm tra tính hợp lệ bề ngoài của chứng từ.
Nếu nhà xuất khẩu chủ tâm gian lận có thể xuất trình chứng từ giả mạo cho
ngân hàng chỉ định để thanh toán. Như vậy, sẽ không có sự đảm bảo nào
cho nhà nhập khẩu rằng hàng hóa sẽ đúng như hợp đồng về số lượng, chủng
loại và không bị hư hỏng gì. Trong trường hợp này nhà nhập khẩu vẫn phải
hoàn trả đầy đủ tiền đã thanh toán cho NHPH.


-

Đối với nhà xuất khẩu: Khi nhà xuất khẩu xuất trình bộ chứng từ không phù
hợp với L/C thì mọi thanh toán đều có thể bị từ chối và nhà xuất khẩu sẽ
phải tự giải quyết. Nhà xuất khẩu phải trả các khoản chi phí như tàu lưu quá
hạn, phí lưu kho, mua bảo hiểm hàng hóa,… trong khi không biết nhà nhập
17

Thang Long University Library


khẩu có đồng ý nhận hàng hay từ chối nhận hàng vì lý do bộ chứng từ bị sai
sót.Ngoài ra, nếu ngân hàng phát hành (hoặc ngân hàng xác nhận) mất khả
năng thanh toán, thì cho dù bộ chứng từ xuất trình là hoàn hảo thì nhà xuất
khẩu cũng sẽ không được thanh toán.
-

Đối với ngân hàng phát hành: Ngân hàng phát hành phải thực hiện thanh
toán cho người thụ hưởng theo quy định của L/C ngay cả trong trường hợp
nhà nhập khẩu chủ tâm không hoàn trả hoặc không có khả năng hoàn trả.
Với lý do này, rủi ro tín dụng đối với ngân hàng phát hành là rất hiện hữu.
Do đó, trước khi chấp nhận phát hành L/C, ngân hàng cần áp dụng một quy
trình thẩm định chặt chẽ giống như việc cấp tín dụng cho khách hàng.

-

Đối với ngân hàng thông báo: Ngân hàng thông báo phải chịu trách nhiệm
về tính chân thật, hợp lệ của thư tín dụng (bao gồm cả việc xác minh chữ kí,
khóa mã, mẫu điện,…) trước khi gửi thông báo cho nhà xuất khẩu. Rủi ro
đối với ngân hàng thông báo (NHTB) xảy ra khi gặp phải một L/C giả

(hoặc sửa đổi giả) mà không có ghi chú gì. Theo thông lệ quốc tế thì NHTB
phải chịu trách nhiệm hoàn toàn với các bên liên quan.

-

Đối với ngân hàng được chỉ định: Ngân hàng được chỉ định không có một
trách nhiệm nào phải thanh toán cho nhà xuất khẩu trước khi nhận được tiền
từ ngân hàng phát hành. Tuy nhiên trong thực tế, các ngân hàng được chỉ
định thường ứng trước tiền cho nhà xuất khẩu với điều kiện có truy đòi để
trợ giúp cho nhà xuất khẩu. Do đó, ngân hàng này thường phải tự chịu rủi
ro tín dụng đối với ngân hàng phát hành (NHPH) hoặc nhà xuất khẩu.

-

Đối với ngân hàng xác nhận: Ngân hàng xác nhận thường là ngân hàng lớn
có uy tín hoặc ngân hàng có quan hệ tiền gửi, tiền vay với NHPH, được
NHPH yêu cầu xác nhận và cam kết trả tiền cho người bán nếu NHPH
không thực hiện được nghĩa vụ của mình. Đối với ngân hàng xác nhận, khi
tham gia xác nhận là họ đã tự ràng buộc trách nhiệm của mình vào nghĩa vụ
thanh toán L/C khi có tranh chấp giữa hai bên. Rủi ro của ngân hàng xác
nhận xảy ra khi họ không nắm vững được năng lực tài chính của NHPH mà
xác nhận theo yêu cầu của NHPH để rồi khi xảy ra hậu quả thì lại phải chịu
trách nhiệm thanh toán thay cho NHPH hoặc có thể do NHPH không có
thiện chí trả tiền hoặc NHPH đang rơi vào tình trạng mất khả năng thanh
toán.

18


Đặc trƣng của phƣơng thức thanh toán tín dụng chứng từ

Có thể nói, trong các phương thức thanh toán quốc tế thì tín dụng chứng từ
(TDCT) là phương thức thanh toán đặc biệt nhất. Nếu như ở các phương thức thanh
toán khác như chuyển tiền hay nhờ thu, vai trò của ngân hàng thương mại (NHTM) chỉ
dừng lại ở vị trí người trung gian thì trong phương thức TDCT vai trò của NHTM trở
nên rõ nét. Không còn ở vị trí trung gian cho người nhập khẩu và người xuất khẩu,
NHTM đã trở thành một mắt xích quan trọng, không thể thiếu trong phương thức này.
Khi NHPH phát hành ra một L/C cũng là lúc NHTM đó bị ràng buộc trách nhiệm
thanh toán cho người xuất khẩu ở nước ngoài.
Một điểm đặc biệt nữa của phương thức thanh toán này đó là việc thanh toán có
liên quan đến việc xuất trình chứng từ. Sự tồn tại của các chứng từ này cũng như sự
phù hợp của nó với các thời hạn tín dụng tạo nên cơ sở và nền tảng cho phương thức
TDCT. Các NHTM tham gia vào phương thức TDCT không quan tâm đến vấn đề
hàng hóa. Công việc của NHTM chỉ là kiểm tra sự phù hợp của bộ chứng từ được xuất
trình với những điều khoản đã quy định trong L/C. Bộ chứng từ cần được xuất trình
bao gồm:
-

Hối phiếu thương mại

-

Hoá đơn thương mại

-

Bảo hiểm đơn

-

Vận đơn (Bill of Lading)


-

Giấy chứng nhận kiểm định, giấy chứng nhận xuất xứ (Certificate of
Ogriginal) và bảng kê khai hàng hoá (Packing List)

Chứng từ là bộ phận rất quan trọng trong phương thức TDCT. Trên lí thuyết để
thực hiện thanh toán thì ngân hàng luôn đòi hỏi người xuất khẩu xuất trình một bộ
chứng từ hoàn hảo. Đó là bộ chứng từ thỏa mãn đồng thời các điều kiện sau:
-

Phải xuất trình đúng thời hạn hiệu lực

-

Nội dung của chứng từ phải phù hợp với từng điều khoản quy định trong
L/C như: Số lượng chứng từ, người kí phát, ngày tháng lập chứng từ…….

Thêm một điều đặc trưng cho phương thức thanh toán TDCT đó là TDCT không
chỉ dừng lại là một phương thức thanh toán đơn thuần mà còn là một hình thức tài trợ
cho hoạt động xuất nhập khẩu của NHTM dành cho các doanh nghiệp. Trong phương
thức này, ngân hàng sử dụng uy tín của mình để tạo nên sự tin tưởng giữa các bên
tham gia quan hệ mua bán bằng cách phát hành L/C, trong đó quy định những điều
19

Thang Long University Library


khoản cần thiết để tiến hành thanh toán. Ngân hàng đảm bảo việc thanh toán đối với
người bán và người mua bằng việc xuất trình chứng từ đại diện hàng hoá. Khi mở L/C

doanh nghiệp nếu phải kí quỹ 100% số tiền trong L/C thì không có nghĩa là doanh
nghiệp không nhận được sự tài trợ từ phía ngân hàng, mà lúc này NHPH đang tài trợ
về mặt uy tín cho doanh nghiệp. Còn nếu doanh nghiệp nhập khẩu khi mở L/C không
phải thực hiện việc kí quỹ (kí quỹ 0%) thì có nghĩa là doanh nghiệp đã được NHTM
tài trợ cả về uy tín lẫn tài trợ về mặt thương mại.
1.3. Hiệu quả thanh toán quốc tế theo phƣơng thức tín dụng chứng từ
1.3.1. Khái niệm hiệu quả thanh toán quốc tế theo phƣơng thức tín dụng chứng
từ
Xét trên lĩnh vực kinh tế thì trong nền kinh tế thị trường, các chủ thể luôn phải
đảm bảo việc sản xuất kinh doanh tốt, thu được nhiều lợi nhuận để có thể tồn tại và
phát triển cũng như nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Hiệu quả sản xuất kinh
doanh thể hiện ở chất lượng sản phẩm đầu ra, những giá trị mà nó mang lại cho người
dùng và kết quả kinh doanh mà chủ thể đạt được từ việc sản xuất, cung ứng sản phẩm
đó. Hay có thể hiểu, hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh thể hiện ở hai khía
cạnh: Một là mức độ đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Hai là lợi ích doanh nghiệp thu
được từ sản phẩm đó. Nếu doanh thu càng nhiều, chi phí bỏ ra càng ít thì doanh nghiệp
đang tối đa hóa được lợi nhuận của mình, có nghĩa là doanh nghiệp đang làm ăn có
hiệu quả.
Từ những lý luận chung về hiệu quả, có thể hiểu hiệu quả thanh toán quốc tế theo
phương thức tín dụng chứng từ tại ngân hàng đầu tiên sẽ được đánh giá thông qua việc
đáp ứng nhu cầu khách hàng. Nếu ngân hàng càng thu được nhiều khách hàng, số món
càng nhiều, số sản phẩm phát triển hơn đi kèm với chất lượng tốt hơn; ngân hàng trở
nên uy tín hơn thì ngân hàng đó được coi là hoạt động có hiệu quả. Thứ hai, hiệu quả
còn được đánh giá dựa trên sự so sánh giữa doanh thu và chi phí, ngân hàng cần phải
tối đa hóa doanh thu cũng như tối thiểu hóa chi phí để nhằm nâng cao lợi nhuận, đạt
được kết quả kinh doanh cao từ hoạt động này.

20



1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả thanh toán quốc tế theo phƣơng thức tín
dụng chứng từ
1.3.2.1 Các chỉ tiêu định lượng
-

Doanh số thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ: là tổng giá trị
các khoản thanh toán tín dụng chứng từ mà khách hàng đã thực hiện tại
ngân hàng.

Doanh số thanh toán tín dụng chứng từ = Doanh số thanh toán L/C nhập + doanh
số thanh toán L/C xuất
-

Tỷ trọng doanh số TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ trên doanh số
TTQT: Tỷ trọng này càng cao chứng tỏ khách hàng sử dụng phương thức
thanh toán tín dụng chứng từ càng nhiều. Số lượng khách hàng gia tăng đó
phản ánh sự hiệu quả trong hoạt động thanh toán theo phương thức L/C.

-

Doanh thu từ hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng
chứng từ: Doanh thu từ hoạt động từ hoạt động TTQT theo phương thức
L/C của Ngân hàng là số phí dịch vụ thu được qua hoạt động đó. Bao gồm
doanh thu từ phiếu mở L/C, chỉnh sửa L/C,… Trong trường hợp NH mở
L/C hoặc chiết khấu chứng từ thì thu nhập từ hoạt động thanh toán nhập
khẩu của NH, ngoài phí dịch vụ còn tính đến cả phần chênh lệch tỷ giá.
Trong các giao dịch thương mại quốc tế, người ta thường dung ngoại tệ
mạnh làm đơn vị tiền tệ để thanh toán L/C. Và do đó, có thể NH phải mua
ngoại tệ khi thanh toán L/C hay chiết khấu chứng từ để thanh toán. Khi
người nhập khẩu trả tiền cho NH (thường bằng ngoại tệ có giá trị tương

đương theo tỷ giá của NH tại thời điểm trả), nếu tỷ giá tăng thì NH thu
được lợi nhuận cao hơn vì ngoài các khoản chi phí dịch vụ, còn có thêm
một khoản chênh lệch tỷ giá.

-

Chi phí từ hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng
từ : Bao gồm chi phí tiền công, tiền lương cho cán bộ trực tiếp làm công tác
TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ, chi phí quản lý khác, chi phí
khấu hao máy móc, rủi ro trong TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ,
chi phí điện, nước,…

-

Thu nhập ròng từ hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng
chứng từ: Thu nhập ròng đánh giá chất lượng của hoạt động TTQT theo
phương thức tín dụng chứng từ. Một cách đơn giản, chỉ tiêu này được tính
theo công thức sau:

21

Thang Long University Library


Thu nhập ròng từ

Doanh

thu


từ

hoạt động TTQT =
theo phương thức

hoạt động TTQT theo
phương

L/C

thức L/C

Chi phí từ hoạt
động TTQT theo
phương thức L/C

Thu nhập ròng từ hoạt động thanh toán L/C ngày càng cao là mong muốn của tất cả
các ngân hàng, làm thế nào để tăng càng nhiều doanh thu mà lại tối thiểu hóa chi phí là
mục tiêu cơ bản của ngân hàng để tối đa hóa lợi nhuận, nâng cao hiệu quả hiệu quả
hoạt động của phương thức thanh toán L/C
-

Tỷ lệ thu nhập ròng từ hoạt động thanh toán L/C so với doanh thu theo
phương thức thanh toán L/C: Chỉ tiêu này thể hiện một đồng doanh thu thu
được theo phương thức L/C đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận cho ngân
hàng.

-

Tỷ lệ chi phí thanh toán quốc tế bằng L/C so với doanh thu thanh toán quốc

tế bằng L/C: Chỉ số này cho thấy khi thu được một đồng doanh thu từ
nghiệp vụ thanh toán quốc tế L/C thì phải bỏ ra bao nhiêu đồng chi phí

-

Số lượng khách hàng sử dụng phương thức L/C: Số lượng khách hàng sử
dụng phương thức thanh toán L/C lớn chứng tỏ ngân hàng có uy tín cao
cũng như doanh thu của hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức
L/C lớn, từ đó nói lên được sự hiệu quả trong phương thức kinh doanh này.

-

Số món thanh toán và số tiền trên một món theo phương thức tín dụng
chứng từ: Một trong những mục tiêu của ngân hàng là có được doanh số
thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ ngày càng cao. Để đạt được
điều này thì tốt nhất là ngân hàng phải tăng được cả số món thanh toán và
giá trị của từng món. Trong trường hợp số món không tăng thì bù lại giá trị
trên từng món thanh toán phải cao mới có thể làm cho doanh số thanh toán
theo phương thức tín dụng chứng từ tăng lên. Tuy nhiên, giá trị món thanh
toán lại phụ thuộc vào hợp đồng mua bán. Chính vì vậy, ngân hàng cần phải
tăng được số món thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ, số món
thanh toán ngày càng nhiều phản ánh khách hàng ngày càng tin tưởng vào
ngân hàng và tìm đến với ngân hàng nhiều hơn.

-

Số vụ tranh chấp trong thanh toán L/C: Khi sử dụng phương thức thanh
toán tín dụng chứng từ cũng có thể xảy ra những tranh chấp giữa các bên,
dẫn đến rủi ro cho ngân hàng làm cho doanh thu từ hoạt động này giảm đi.
Không những thế, tranh chấp còn làm giảm uy tín của ngân hàng. Chính vì

22


vậy, số vụ tranh chấp cũng là một trong những chỉ tiêu phản ánh hiệu quả
của ngân hàng trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ.
1.3.2.2 Các chỉ tiêu định tính
Để đánh giá hiệu quả thanh toán quốc tế, ngoài các chỉ tiêu có thể lượng hóa
được thì còn có những yếu tố không thể lượng hóa được, đó là các chỉ tiêu định tính.
Các chỉ tiêu định tính này được thể hiện qua:
-

Công nghệ thanh toán: Để xét tính hiệu quả của hoạt động thanh toán quốc
tế nói chung cũng như hoạt động thanh toán theo phương thức tín dụng
chứng từ nói riêng không thể không nói đến yếu tố công nghệ. Khi công
nghệ thanh toán của ngân hàng được tối ưu hóa, bỏ qua được nhiều khâu
rườm rà trong việc lập giấy tờ ban đầu thì hiệu quả hoạt động TTQT theo
phương thức tín dụng chứng từ của ngân hàng sẽ gia tăng đáng kể.

-

Trình độ của cán bộ, nhân viên ngân hàng trong lĩnh vực TTQT theo
phương thức tín dụng chứng từ: Ngoài yếu tố công nghệ thì con người là
một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu mang lại tính hiệu quả trong
hoạt động thanh toán L/C. Ở đây, hiệu quả hoạt động thể hiện ở khả năng
xử lý các nghiệp vụ thanh toán, sự chính xác, chuyên nghiệp cũng như hạn
chế tối đa sai sót, giúp khách hàng yên tâm tin tưởng ngân hàng.

-

Chất lượng dịch vụ TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ: Nếu như

chất lượng dịch vụ tốt, quy trình thanh toán L/C rõ ràng, được kiểm soát
chặt chẽ, thời gian giao dịch nhanh chóng thì sẽ đem lại sự thuận tiện cho
khách hàng, làm cho khách hàng cảm thấy hài lòng và sẽ trở thành khách
hàng trung thành với ngân hàng.

-

Các hoạt động hỗ trợ thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng
từ: Các hoạt động như cho vay kí quỹ mở L/C, chiết khấu bộ chứng từ hay
bảo lãnh nhận hàng hoặc bảo lãnh mở L/C trả chậm nếu được diễn ra
thường xuyên sẽ hỗ trợ cho nhà nhập khẩu và xuất khẩu làm tăng hiệu quả
công tác thanh toán tín dụng chứng từ.

-

Số lượng ngân hàng đại lý: Để hoạt động thanh toán quốc tế nói chung hay
thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ nói riêng đạt hiệu quả thì
cần phải có số lượng ngân hàng đại lý rộng khắp. Số lượng ngân hàng đại lý
ở nước ngoài càng nhiều và ngược lại, số lượng ngân hàng nước ngoài chọn
NHTM trong nước làm đại lý càng nhiều chứng tỏ ngân hàng đã thực hiện
nhiều hoạt động TTQT có hiệu quả và tao được lòng tin với các ngân hàng
trên thế giới.
23

Thang Long University Library


-

Số vốn ngoại tệ của ngân hàng: Hoạt động huy động vốn ngoại tệ và thanh

toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ có quan hệ mật thiết với
nhau. Nếu như ngân hàng có một lượng ngoại tệ dồi dào thì có thể dễ dàng
chuyển đổi để tài trợ cho khách hàng trong hoạt động xuất nhâp khẩu.
Ngược lại, hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chúng
từ cũng là một nguồn cung cấp ngoại tệ cho ngân hàng, chính vì vậy khi
tăng được nguồn vốn ngoại tệ cũng thể hiện được phần nào hiệu quả hoạt
động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ.

1.3.3. Các nhân tố ảnh hƣởng đến hiệu quả thanh toán quốc tế theo phƣơng thức
tín dụng chứng từ
Để thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ hoạt động một các có
hiệu quả thì đòi hỏi các NHTM phải xác định rõ các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả
hoạt động của mình để từ đó tìm ra những giải pháp. Có thể chia các nhân tố ảnh
hưởng tới hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ của ngân
hàng thành 2 nhóm: nhóm các nhân tố chủ quan và nhóm các nhân tố khách quan.
1.3.3.1 Nhân tố chủ quan
Nhóm các nhân tố chủ quan là các nhân tố từ trong nội tại của ngân hàng, các
nguồn lực của ngân hàng như:
-

Năng lực quản trị điều hành: Năng lực quản trị, đặc biệt là năng lực quản
trị nội bộ của ngân hàng là yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại
trong kinh doanh của ngân hàng nói chung, của phương thức tín dụng
chứng từ nói riêng. Năng lực quản trị điều hành được thể hiện qua việc xây
dựng các quy chế quản lý, quy trình hoạt động phù hợp sao cho giảm thiểu
chi phí hoạt động, sử dụng các nguồn lực có sẵn để đạt được kết quả tối ưu..

-

Năng lực tài chính của ngân hàng: Tiềm lực về vốn chính là sự thể hiện

năng lực tài chính của ngân hàng. Nếu ngân hàng có vốn lớn thì ngân hàng
sẽ có điều kiện mở rộng hoạt động kinh doanh của mình, có điều kiện để
trang bị máy móc, công nghệ hiện đại để phục vụ cho quá trình thanh toán
quốc tế nói chung và phục vụ cho quá trình thanh toán theo phương thức tín
dụng nói riêng.

-

Công nghệ thanh toán: Khả năng trang bị các phương tiện vật chất kĩ thuật
của NH là các phương tiện hữu hình mà khách hàng có thể nhận biết được
tính hiện đại của ngân hàng. Nó thể hiện ở cấu trúc giao dịch cũng như các
phương tiện phục vụ giao dịch (mạng vi tính, máy móc thanh toán…). Công
24


nghệ thanh toán càng hiện đại thì càng giúp ngân hàng thu thập được nhiều
thông tin một cách nhanh chóng, chính xác, giúp ngân hàng ra quyết định
kịp thời, đúng đắn. Công nghệ hiện đại tạo nên sức cạnh tranh của ngân
hàng, thể hiện trên các mặt: tiết kiệm chi phí, đẩy nhanh tốc độ thanh toán
và lưu chuyển tiền tệ, quản lý tập trung và sử dụng hiệu quả đồng vốn kinh
doanh…
-

Năng lực, trình độ của nhân viên ngân hàng: Năng lực, trình độ chuyên
môn và phẩm chất của cán bộ ngân hàng là một trong những yếu tố quyết
định đến số lượng, chất lượng hoạt động dịch vụ và sự thành công của hoạt
động ngân hàng. Nhân viên ngân hàng là lực lượng chủ yếu truyền tải
những thông tin, tín hiệu từ thị trường, từ khách hàng, từ đối thủ cạnh tranh
đến các nhà quản lý và hoạch định chính sách ngân hàng. Phong cách giao
tiếp của cán bộ ngân hàng có thể tạo cho khách hàng ấn tượng tốt đẹp về

ngân hàng. Cán bộ ngân hàng có trình độ chuyên môn cao sẽ làm giảm rủi
ro trong hoạt động thanh toán quốc tế và thực hiện tốt vai trò tư vấn, giú đỡ
khách hàng và xử lý thành thạo nghiệp vụ thanh toán XNK.

-

Các hoạt động hỗ trợ thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng
từ: Trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ, có thể nói
rằng các hoạt động hỗ trợ như cho vay nhập khẩu hay bảo lãnh ảnh hưởng
trực tiếp tới hiệu quả công tác thanh toán theo phương thức tín dụng chứng
từ của ngân hàng, ngân hàng có thể hỗ trợ nhà nhập khẩu dưới các hình
thức như cho vay kí quỹ mở L/C, chiết khấu bộ chứng từ hay bảo lãnh nhận
hàng hoặc bảo lãnh mở L/C trả chậm.

-

Uy tín và hệ thống mạng lưới đại lý của NHTM: Có uy tín tốt trên thị
trường sẽ là điều kiện đầu tiên để khách hàng lựa chọn các sản phẩm, dịch
vụ của ngân hàng. Uy tín của ngân hàng được thể hiện trên các khía cạnh:
khả năng thanh toán, kĩ thuật xử lý nghiệp vụ, thời gian thanh toán, khả
năng đáp ứng các phương tiện thanh toán, sự đa dạng của các sản phẩm,
dịch vụ, khả năng marketing, quảng cáo... Ngân hàng có hệ thống mạng
lưới đại lý càng rộng thì càng có tác động tích cực đến hiệu quả thanh toán.

1.3.3.2 Nhân tố khách quan
Nhân tố khách quan là các nhân tố nằm bên ngoài tầm kiểm soát của Ngân hàng,
bao gồm các nhân tố từ phía khách hàng và các nhân tố từ môi trường vĩ mô.

25


Thang Long University Library


×