Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

CHƯƠNG II: LÝ THUYẾT CUNG CẦU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.42 KB, 13 trang )

CHƯƠNG II: LÝ THUYẾT CUNG, CẦU
1. Cầu (Demand)
1.1. Khái niệm

1 Cầu là số lượng hàng hoá dịch vụ mà người tiêu dùng (với tư cách là người mua) có
khả năng và sẵn sàng mua ở các mức giá khác nhau (mức giá chấp nhận được)
trong phạm vi không gian và thời gian nhất định khi các yếu tố khác không thay đổi.
1.2. Một số thuật ngữ khác có liên quan đến cầu
Ngoài khái niệm về cầu đã trình bày ở trên, khi nghiên cứu về cầu hàng hoá dịch vụ
người ta thường đề cập đến một số thuật ngữ sau đây.
a. Lượng cầu. Là số lượng hàng hoá dịch vụ mà người tiêu dùng có khả năng và sẵn sàng mua ở
một mức giá cụ thể (khi các yếu tố khác không thay đổi).
Như vậy, lượng cầu chỉ ra rằng ở một mức giá cụ thể nào đó thì số lượng hàng hoá dịch
vụ mà những người tiêu dùng trên thị trường sẽ mua vào là bao nhiêu. Chẳng hạn, nếu giá gạo là
4.000đ/kg thì lượng cầu là 22 ngàn tấn, với giá là 4.200đ/kgthì lượng cầu tương ứng là 21 ngàn
tấn…
Bảng 1.2. Biểu cầu gạo ở thị trường huyện A, thành phố Hà Nội năm 2004
Giá P (ngàn đ/kg)

4,0

4,2

4,4

4,6

4,8

5,0


Lượngcầu QD (ngàn tấn)

22

21

20

19

18

17

b. Biểu cầu. Khi tập hợp các lượng cầu vào một biểu ta có biểu cầu. Biểu cầu thể hiện mối quan
hệ giữa giữa sự thay đổi của giá và lượng cầu tương ứng.
c. Đường cầu. Khi minh hoạ biểu cầu lên đồ thị người ta được một đường biểu diễn gọi là đường
cầu. Đường cầu thị trường hàng hoá dịch vụ thường có hai đặc trưng phổ biến: là đường cong
dốc xuống dưới về phía phải.
+ Đường cầu thị trường thường là một đường cong bởi vì nó được tập hợp từ đường của
các cá nhân có tham gia thị trường. ở cùng một mức giá của hàng hoá dịch vụ, những cá nhân
khác nhau, do thu nhập và sở thích khác nhau nên lượng cầu của họ không giống nhau. Do vậy
đường cầu của mỗi cá nhân về hàng hoá dịch vụ cũng rất khác nhau. Theo đó, tập hợp theo chiều
ngang đường cầu của tất cả các cá nhân có tham gia thị trường ta sẽ có đường cầu thị trường là
đường cong.
+ Đường cầu thị trường thường dốc xuống dưới về phía phải cho biết, khi giá của hàng
hoá dịch vụ giảm xuống thì lượng cầu thị trường sẽ tăng lên. Tại sao lại có hiện tượng này? Có
thể giải thích bằng ba lý do sau đây:
- Thứ nhất: Khi giá cả hàng hoá dịch vụ giảm xuống sẽ tạo ra động lực lôi kéo thêm một số
người tiêu dùng mới tham gia thị trường và làm cho lượng cầu thị trường tăng lên.

- Thứ hai: Khi giá của một hàng hoá dịch vụ thì một số người tiêu dùng sẽ chuyển sang mua
hàng hoá dịch vụ này để thay thế cho hàng hoá dịch vụ họ đang sử dụng và làm cho lượng cầu
hàng hoá dịch vụ đang xét tăng lên. Chẳng hạn khi giá thịt lợn giảm xuống, một số người tiêu
dùng chuyển sang sử dụng thịt lợn để thay thế cho thực phẩm họ đang dùng (thịt bò, gà, vịt,


ngan…). Khi đó lượng cầu thịt lợn sẽ tăng lên do có nhiều người tiêu dùng sử dụng loại thực
phẩm này. Người ta gọi đó là hiệu quả thay thế trong sử dụng hàng hoá dịch vụ.
- Thứ ba: Khi giá cả hàng hoá dịch vụ giảm xuống, người tiêu dùng cảm thấy mình giàu có hơn
trước, bởi vì với thu nhập như cũ họ có thể mua với số lượng nhiều hơn trước và làm cho lượng
cầu thị trường tăng lên - đó chính là hiệu quả thu nhập.
P

P3
P2
D

P1
Q3 Q2

Q1

Q

Hình 1.2. Đường cầu thị trường hàng hoá dịch vụ

Ngoài hình dạng đường cầu phổ biến đã nghiên cứu trên, trong thực tế ta còn bắt gặp một số
đường cầu đặc biệt (hay còn gọi là trường hợp ngoại lệ của đường cầu).

P


2.2a

P

D

2.2b

D
Q
P

Q
2.2c

D

P

D

2.2d

P1

Q

Q
Q1


Hình 2.2.Các dạng đường cầu đặc biệt: tuyến tính, dốc lên trên, nằm ngang và thẳng đứng


+ Trường hợp 1 (hình 2.2.a): đường cầu tuyến tính dốc lên trên thể hiện mối quan hệ
tuyến tính giữa giá cả P và lượng cầu Q D tức là: khi P tăng hoặc giảm một lượng ∆P thì lượng
cầu cũng giảm hoặc tăng tương ứng ∆Q.
+ Trường hợp 2 (hình 2.2b): đường cầu dốc lên trên về phía phải. Khi giá P tăng thì Q D
cũng tăng và ngược lại. Một số hàng hoá đang thịnh hành về “Mốt”mặc dù giá tăng người tiêu
dùng vẫn sử dụng nhiều hàng hoá đó, hoặc do ảnh hưởng yếu tố khách quan cầu hàng hoá chỉ
xuất hiện trong những thời điểm nhất định (ngày lễ, ngày tết) dù giá tăng cao người ta vẫn phải
mua hàng hoá đó (hoa, cây cảnh… ngày tết).
+ Trường hợp 3 (hình 2.2c): đường cầu nằm ngang so với lượng cầu. Ở một mức giá
thịnh hành P1 của thị trường thì người tiêu dùng sẽ mua vào bất cứ khối lượng nào (đường cầu thị
trường dịch vụ: ăn, uống, vui chơi, giải trí…)
+ Trường hợp 4 (hình 2.2d): đường cầu thẳng đứng. Dù giá cả tăng giảm nhưng không
làm lượng cầu thay đổi (Q1). Đây là đường cầu hàng hoá mà giá của nó rất nhỏ so với thu nhập
của người tiêu dùng (muối ăn chẳng hạn).
d. Luật cầu. Là luật của người tiêu dùng (người mua), bởi vì họ bao giờ cũng thích mua rẻ. Luật
cầu chỉ ra rằng: có một mối quan hệ nghịch biến giữa giá cả và lượng cầu hàng hoá dịch vụ .
Điều đó có nghĩa là: khi giá cả hàng hoá dịch vụ giảm xuống thì lượng cầu thị trường sẽ tăng lên
và ngược lại (với điều kiện các yếu tố khác không thay đổi).
Trên hình 1.2. nếu giá tăng từ P1 lên P3 thì lượng cầu sẽ giảm từ Q 1 xuống Q3 và ngược lại.
Nghiên cứu luật cầu rất có ý nghĩa trong thực tiễn: muốn bán được nhiều hàng hoá thì người sản
xuất phải giảm giá bán.
1.3. Hàm cầu và các yếu tố ảnh hưởng đến cầu

(1) Cầu thị trường một loại hàng hoá dịch vụ phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, cho nên sự thay
đổi của những yếu này sẽ ảmh hưởng trực tiếp đến cầu hàng hoá đó. Để nghiên cứu mối
quan hệ giữa cầu hàng hoá và các yếu tố ảnh hưởng đến nó, người ta sử dụng một hàm số

gọi là hàm số của cầu (hàm cầu).
Hàm cầu có dạng tổng quát: QD (x,t) = f (PX ; I; PY; T; N; E …)
Trong đó: + QD (x,t) là cầu hàng hoá X xác định trong khoảng thời gian t (ngày, tháng,
quý, năm…) và đóng vai trò hàm số cầu.
+ PX; I; PY; T; N; E… là các yếu tố ảnh hưởng đến cầu hàng hoá X và đóng
vai trò như những biến của hàm cầu. Cụ thể, PX là giá cả hàng hoá X; I là thu nhập của người tiêu
dùng; PY là giá cả hàng hoá liên quan; T là chuẩn mực về thị hiếu sở thích của người tiêu dùng;
N là quy mô dân số; E là kỳ vọng của người tiêu dùng về sự thay đổi các yếu tố trên.
Như vậy cầu hàng hoá X phụ thuộc vào sự thay đổi của rất nhiều yếu tố, nhưng để đơn
giản cho nghiên cứu người ta thường dựa vào hai giả định sau đây:
+ Thứ nhất: để nghiên cứu ảnh hưởng của từng yếu tố đến cầu, người ta thường giả sử
các yếu tố còn lại không thay đổi.


+ Thứ hai: hàm cầu có dạng tuyến tính, tức là quan hệ giữa từng yếu tố với cầu là quan hệ
tuyến tính. Chẳng hạn, hàm cầu phụ thuộc giá hàng hoá có dạng QD = a1P + b1
Trong đó: - QD là lượng cầu hàng hoá X với vai trò hàm số, P X là giá hàng hoá X với vai
trò là biến số.
- Tham số a 1 thể hiện quan hệ tuyến tính giữa PX và QD (khi PX tăng hoặc giảm 1
đơn vị thì QD sẽ giảm hoặc tăng a1 đơn vị), vì vậy a1 luôn có trị số âm (a 1< 0). Tham số b1 là một
hằng số cho biết ảnh hưởng không đổi của các yếu tố khác (ngoài PX)
Chẳng hạn: từ biểu cầu ở bảng 1.2 ta thiết lập được hàm cầu của thị trường QD = -5P + 42
Trong đó: a1 = -5 có nghĩa là, khi giá gạo tăng hoặc giảm 1.000đ/kg thì lượng cầu sẽ giảm hoặc
tăng tương ứng 5 ngàn tấn. Còn b1 = 42 có nghĩa là: khi giá gạo thị trường P = 0 thì lượng cầu tối
đa là 42 ngàn tấn. Đó chính là ảnh hưởng của các yếu tố khác ngoài giá gạo.
Dưới đây ta sẽ nghiên cứu ảnh hưởng của từng yếu tố đến cầu hàng hoá.
a. Giá cả hàng hoá dịch vụ đang xét (P X ): Nếu các yếu tố khác không đổi, khi giá hàng hoá X
tăng thì lượng cầu của nó giảm và ngược lại. Nói cách khác: giữa P X và QD tồn tại mối quan hệ
nghịch biến như trong luật cầu đã chỉ ra. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng này còn phụ thuộc vào X
là loại hàng hoá dịch vụ nào.

b. Thu nhập của người tiêu dùng (I ): Thu nhập thể hiện khả năng thanh toán của người tiêu
dùng khi mua hàng hoá dịch vụ. Do đó, sự thay đổi thu nhập sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến cầu
hàng hoá trên thị trường. Ta xét trong hai trường hợp sau:
+ Đối với hàng hoá dịch vụ thông thường (bình thường, chính phẩm) bao gồm hàng thiết yếu
(cơ bản) và hàng xa xỉ (cao cấp) khi thu nhập tăng cầu hàng hoá tăng lên và ngược lại. Nhà thống
kê người Đức Ernst Engel (1821 – 1896) đã nghiên cứu sự chi tiêu của nhiều hộ gia đình và công
bố luật về mối quan hệ thuận giữa thu nhập và cầu hàng hoá. Khi biểu diễn quan hệ này lên đồ
thị người ta được đường cầu theo thu nhập và thường gọi là đường Engel.
+ Đối với hàng hoá dịch vụ thứ cấp (cấp thấp, thứ phẩm) là những mặt hàng chất lượng thấp
hoặc lạc hậu về “Mốt” khi thu nhập tăng cầu hàng hoá này sẽ giảm xuống và ngược lại, tức là
giữa thu nhập và cầu hàng hoá tồn tại mối quan hệ nghịch biến.
Như vậy, khi thu nhập tăng cầu hàng hoá thông thường tăng còn cầu hàng hoá thứ cấp
giảm và ngược lại. Mối quan hệ này được thể hiện trên đồ thị của hình 3.2.
I

(a)
D

I

(b)

D
Q

Hình 3.2. Đường Engel với hàng hoá thông thường (a) và hàng hoá thứ cấp (b)

Q



c. Giá cả hàng hoá liên quan(PY ): Cầu của hàng hoá không những chỉ phụ thuộc vào giá của
hàng hoá đó mà nó còn phụ thuộc vào giá của các hàng hoá có liên quan. Các hàng hoá liên quan
được chia làm hai loại: hàng hoá thay thế và hàng hoá bổ sung
+ Hàng hoá thay thế: Hai hàng hoá được gọi là thay thế khi người ta có thể sử dụng hàng
hoá này thay thế cho hàng hoá kia và ngược lại mà không làm thay đổi giá trị sử dụng của chúng.
Ví dụ: cơm và phở, thịt lợn và thịt gà (ăn); chè và cà phê, coca cola và pepsi, bia và rượu (uống);
ô tô và tàu hoả, tàu hoả và máy bay (đi lại)… Khi đó, nếu giá thịt gà tăng thì người tiêu dùng
chuyển sang mua thịt lợn thay thế và làm cầu thịt lợn tăng và ngược lại (với điều kiện giữ
nguyên các yếu tố khác). Như vậy, khi X và Y là hai hàng hoá thay thế thì quan hệ giữa giá hàng
hoá Y (PY) và cầu hàng hoá X (QD X) là quan hệ đồng biến.
+ Hàng hoá bổ sung: Hai hàng hoá được gọi là bổ sung khi sử dụng hàng hoá này thì phải
kèm theo hàng hoá kia. Ví dụ: xe máy, ô tô và xăng, dầu, nhớt; bếp ga và ga; đồ dùng điện và
điện… Khi đó, nếu giá xăng tăng lên thì cầu xe máy, ô tô sẽ giảm xuống và ngược lại (với điều
kiện các yếu tố khác không thay đổi). Như vậy, khi X và Y là hai hàng hoá bổ sung thì quan hệ
giữa giá hàng hoá Y (PY) và cầu hàng hoá X (QDX) là quan hệ nghịch biến.
d. Thị hiếu, sở thích người tiêu dùng (T): Nó là ý thích, ý muốn chủ quan của người tiêu dùng
khi sử dụng hàng hoá dịch vụ. Vì vậy, thị hiếu phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như: giới tính, dân
tộc, tuổi tác, môi trường sống, “mốt” tiêu dùng… Nhìn chung, yếu tố này ít thay đổi vì thị hiếu
người tiêu dùng rất đa dạng và phức tạp, nó thuộc yếu tố tâm lý - xã hội nên khi nghiên cứu phải
chọn mẫu đại diện, từ đó có thể lượng hoá và suy rộng cho tổng thể.
e. Quy mô dân số hay số lượng người tiêu dùng (N): Như phần trên đã phân tích, cầu thị trường
được tập hợp từ cầu của các cá nhân có tham gia thị trường. Do đó, khi số lượng người tiêu dùng
tăng thì cầu hàng hoá sẽ tăng và ngược lại. Chẳng hạn, cùng mức giá gạo 4.000đ/kg nhưng cầu
về gạo ở thành phố Hà Nội sẽ lớn hơn rất nhiều so với cầu về gạo ở tỉnh Hà Nam, mặc dù thu
nhập khác nhau thì điều này vẫn đúng vì Hà Nội có dân số lớn hơn Hà Nam
f. Kỳ vọng của người tiêu dùng (E): Cầu hàng hoá sẽ thay đổi vì nó phụ thuộc các kỳ vọng của
người tiêu dùng. Kỳ vọng được xem là sự mong đợi, dự đoán của người tiêu dùng về sự thay đổi
các yếu tố xác định cầu trong tương lai nhưng lại ảnh hưởng tới cầu hàng hoá hiện tại. Nếu người
tiêu dùng dự đoán giá xe máy sẽ giảm trong tương lại thì cầu xe máy hiện tại sẽ giảm và ngược
lại. Các kỳ vọng về thu nhập, thị hiếu hoặc số lượng người tiêu dùng, đều tác động đến cầu hàng

hoá đang xét.
Ngoài ra, điều kiện tự nhiên, chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước (như chính sách trợ
cấp, thuế thu nhập)… cũng ảnh hưởng đến cầu hàng hoá dịch vụ. Chẳng hạn, về mùa hè cầu về
nước giải khát, cầu quạt điện, máy điều hoà, cầu về dịch vụ du lịch sẽ tăng; còn về mùa đông,
cầu về quần áo ấm, cầu về chè, cà phê, thức ăn nóng sẽ tăng…
2. Cung (Supply)
2.1. Khái niệm

(2) Cung là số lượng hàng hoá dịch vụ mà người sản xuất (với tư cách là người bán) có khả
năng và sẵn sàng bán ở các mức giá khác nhau (mức giá có thể chấp nhận được) trong
phạm vi không gian và thời gian nhất định khi các yếu tố khác không thay đổi.
2.2. Một số thuật ngữ có liên quan


Ngoài khái niệm trên, khi nghiên cứu cung người ta cần phải quan tâm đến những thuật
ngữ sau:
a. Lượng cung. Là số lượng hàng hoá dịch vụ mà người sản xuất có khả năng và sẵn sàng bán ở
một mức giá cụ thể (khi các yếu tố khác không thay đổi).
Như vây, lượng cung chỉ ra rằng: tại một mức giá nào đó thì những người sản xuất sẽ bán
ra thị trường một lượng hàng hoá là bao nhiêu? Chẳng hạn, khi giá gạo trên thị trường là P 1 =
4.000đ/kg thì lượng cung tương ứng Q S 1 là 18 ngàn tấn. Nếu giá gạo P2 = 4.200đ/kg thì lượng
cung QS 2 = 19 ngàn tấn.
b. Biểu cung. Khi tập hợp các lượng cung vào một biểu ta có biểu cung. Biểu cung thể hiện mối
quan hệ giữa giữa sự thay đổi giá cả hàng hoá và lượng cung tương ứng với từng mức giá đó.
Giả sử có biểu cung được thể hiện ở bảng 2.2.
Bảng 2.2. Biểu cung về gạo ở thị trường huyện A, thành phố Hà Nội năm 2004
Giá P (ngàn đ/kg)

4,0


4,2

4,4

4,6

4,8

5,0

Lượng cung QS (ngàn tấn)

18

19

20

21

22

23

c. Đường cung. Khi minh hoạ biểu cung lên đồ thị ta được một đường biểu diễn gọi là đường
cung. Đường cung phổ biến của thị trường hàng hoá dịch vụ thường có có 2 đặc trưng cơ bản:
đường cong dốc lên trên về phía phải.
+ Đường cung thị trường thường là đường cong bởi vì nó được tập hợp từ đường cung cá nhân
các nhà sản xuất có tham gia thị trường. ở cùng một mức giá, các nhà sản xuất có điều kiện khác
nhau sẽ bán ra một lượng không giống nhau. Vì vậy, nếu cộng theo chiều ngang đường cung của

các cá nhân theo từng mức giá ta có đường cung thị trường hàng hoá đó và đó là một đường
cong.
P

S
P3
P2
P1
Q1

Q2 Q3

Q

Hình 5.2. Đường cung thị trường hàng hoá dịch vụ

+ Đường cung thị trường dốc lên trên về phía phải cho biết, khi giá cả tăng lên các nhà sản xuất
sẽ bán ra một lượng nhiều hơn trước. Tại sao lại như vây? Vấn đề ở đây là lợi nhuận, nếu chi phí
sản xuất ra một đơn vị hàng hoá không đổi, khi giá cả của hàng hoá tăng lên đồng nghĩa với việc
làm tăng thêm lợi nhuận cho các nhà sản xuất. Chính điều này đã tạo ra động lực để các nhà sản
xuất mở rộng quy mô và làm tăng lượng cung trên thị trường. Mặt khác, khi giá cả tăng sẽ lôi
kéo thêm một số nhà sản xuất tham gia vào thị trường và làm cho lượng cung thị trường tăng lên.


Ngoài đường cung phổ biến đã nghiên cứu trên, trong thực tế ta còn gặp một số trường hợp ngoại
lệ của đường cung (đường cung đặc biệt).
P

6.2a


S

P

6.2b

S
Q
P

Q
6.2c

P

S

S

6.2d

P1

Q

Q

Q1
Hình 6.2 Các dạng đường cung đặc biệt: tuyến tính, dốc xuống dưới, nằm ngang, thẳng đứng
+ Trường hợp 1 (hình 6.2.a): Đường cung tuyến tính dốc lên trên thể hiện mối quan hệ

tuyến tính giữa giá cả P và lượng cung Q S tức là: khi P tăng hoặc giảm một lượng ∆P thì lượng
cầu cũng tăng hoặc giảm tương ứng một lượng ∆Q.
+ Trường hợp 2 (hình 6.2b): Đường cung dốc xuống dưới về phía phải. Khi giá P giảm
thì lượng cung QD sẽ tăng và ngược lại. Một số hàng hoá là loại hàng nông sản tươi sống, vào vụ
thu hoạch rộ, nếu không tiêu thụ ngay sẽ giảm phẩm cấp nên mặc dù giá giảm người sản xuất
vẫn phải bán sản phẩm đó với lượng nhiều hơn để thu hồi vốn; hoặc một số hàng hoá đã lạc hậu
về “mốt” nên người ta vẫn phải bán nó cho dù giá giảm
+ Trường hợp 3 (hình 6.2c): Đường cung nằm ngang so với lượng cung. Ở một mức giá
thịnh hành P1 của thị trường thì người sản xuất sẽ bán ra bất cứ khối lượng nào (đường cung thị
trường dịch vụ: ăn, uống, vui chơi, giải trí…)
+ Trường hợp 4 (hình 6.2d): Đường cầu thẳng đứng. Dù giá cả tăng giảm nhưng không
làm lượng cung thay đổi (Qs1). Đây là hình ảnh đường cung đất đai trong dài hạn, vì đất đai là
sản phẩm do thiên nhiên ban tặng cho loài người và chỉ ban tặng một lần duy nhất cho nên về lâu
dài tổng diện tích đất đai là cố định, theo đó sự thay đổi giá thuê đất sẽ không ảnh hưởng gì đến
lượng cung đất đai.
d. Luật cung. Là luật của người sản xuất (người bán) vì họ luôn muốn bán đắt. Vì thế, luật cung
chỉ ra rằng, có một mối quan hệ đồng biến giữa giá cả và lượng cung hàng hoá. Cụ thể, khi giá cả
hàng hoá dịch vụ tăng lên thì lượng cung trên thị trường sẽ tăng và ngược lại (khi các yếu tố
khác không thay đổi). Trên hình 5.2. nếu giá tăng từ P1 lên P2 thì lượng cung sẽ tăng từ Q 1 lên Q2
và ngược lại.


2.3. Hàm cung và các yếu tố ảnh hưởng đến cung

1 Cung hàng hoá trên thị trường phụ thuốc vào rất nhiều yếu tố. Do vây, để biểu hiện mối
quan hệ giữa cung hàng hoá và các yếu tố xác định nó người ta thường sử dụng một hàm
số gọi là hàm số của cung hay còn gọi là hàm cung.

2 Hàm cung thị trường có dạng tổng quát: QS (x,t) = f (PX ; Pi ; T ; G ; N ; E ...)
Trong đó: QS (x,t) là cung hàng hoá X xác định trong khoảng thời gian t (t là thời gian nghiên

cứu cung: ngày, tháng, quý, năm cụ thể) đóng vai trò là hàm cung.
PX ; Pi ; T ; G ; N ; E ...là các yếu tố xác định cung, đóng vai trò là các biến của hàm
cung. Đó là: giá cả bản thân hàng hoá đang xét (P X ); giá cả các yếu tố đầu vào (P i); công nghệ
sản xuất (T); các chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ (G); số lượng nhà sản xuất (N); kỳ
vọng của nhà sản xuất (E).
Như vậy cung hàng hoá X cùng một lúc phụ thuộc vào sự thay đổi tất cả các yếu tố trên,
nhưng để đơn giản trong nghiên cứu người ta thường dựa vào hai giả định sau đây:
+ Thứ nhất: để nghiên cứu ảnh hưởng của từng yếu tố đến cung hàng hoá, người ta
thường giả sử các yếu tố còn lại không thay đổi.
+ Thứ hai: hàm cung có dạng tuyến tính, tức là quan hệ giữa từng yếu tố với cung là quan
hệ tuyến tính. Chẳng hạn, hàm cung phụ thuộc giá hàng hoá có dạng QD = a2P + b2
Trong đó: - QS là lượng cung hàng hoá X với vai trò hàm số, P X là giá hàng hoá X với
vai trò là biến số.
- Tham số a 2 thể hiện quan hệ tuyến tính giữa PX và QS (khi PX tăng hoặc giảm 1 đơn vị
thì QS sẽ tăng hoặc giảm tương ứng a 2 đơn vị), vì vậy a 2 luôn có trị số dương (a 2 > 0). Tham số b2 là
một hằng số cho biết ảnh hưởng không đổi của các yếu tố khác (ngoài PX)
Chẳng hạn: từ biểu cung ở bảng 2.2 ta thiết lập được hàm cung của thị trường QS = 5P - 2
Trong đó: a2 = 5 có nghĩa là, khi giá gạo tăng hoặc giảm 1.000đ/kg thì lượng cung sẽ tăng hoặc giảm
tương ứng 5 ngàn tấn; Còn b2 = - 2 có nghĩa là: khi giá gạo thị trường P = 0 thì lượng cung tối thiểu là - 2
ngàn tấn. Đó chính là ảnh hưởng của các yếu tố khác ngoài giá gạo.
Dưới đây ta sẽ nghiên cứu ảnh hưởng của từng yếu tố đến cung hàng hoá.
a. Giá cả hàng hoá đang xét (P X ): Nếu các yếu tố khác không đổi, khi giá hàng hoá X tăng thì
lượng cầu hàng hoá đó sẽ tăng và ngược lại. Nói cách khác: giữa P X và QDX tồn tại mối quan hệ
đồng biến như trong luật cung đã chỉ ra. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng này còn phụ thuộc vào X
là loại hàng hoá dịch vụ nào.
b. Giá cả các yếu tố đầu vào (Pi): Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, nhà sản xuất phải
mua hoặc thuê các yếu tố đầu vào (thuê địa điểm kinh doanh, mua nguyên nhiên vật liệu, thuê
lao động...). Do đó, sự thay đổi giá cả các yếu tố đầu vào sẽ ảnh hưởng đến chi phí sản xuất, giá
thành sản phẩm và từ đó tác động trực tiếp đến lợi nhuận. Nếu các yếu tố khác không đổi, khi giá
đầu vào giảm thì chi phí để tạo ra sản phẩm giảm xuống tạo cơ hội để người sản xuất kiếm được

lợi nhuận cao hơn. Khi đó các nhà sản xuất sẽ mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh và bán nhiều
hàng hoá hơn làm cho cung thị thị trường tăng lên. Ngược lại, nếu giá đầu vào tăng các nhà sản
xuất có xu hướng bán ít hàng hoá hơn làm cho cung thị trường giảm đi. Chẳng hạn trong nông


nghiệp, khi giá giống, phân bón, xăng dầu, thức ăn chăn nuôi, thuốc phòng trừ dịch bệnh… tăng
cao thì cung sản phẩm nông nghiệp có xu hướng giảm xuống và ngược lại.
c. Trình độ công nghệ sản xuất (T): Công nghệ thể hiện phương pháp phối hợp đầu vào để tạo ra
sản phẩm. Nó là yếu tố quan trọng góp phần nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Vì vây,
nếu công nghệ được cải tiến và phù hợp với điều kiện sản xuất sẽ góp phần tạo ra nhiều sản
phẩm với chi phí thấp, chất lượng cao. Nhờ đó làm tăng cung hàng hoá trên thị trường và ngược
lại. Chẳng hạn, sản xuất lúa có sự thay giống cũ bằng giống mới (có năng suất chất lượng sản
phẩm cao, thích hợp với điều kiện tự nhiên) thì cung về thóc sẽ tăng.
d. Các chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ (G): Bao gồm chính sách thuế, giá, đầu tư, tín
dụng…mà Chính phủ sử dụng để điều tiết sản xuất và tiêu dùng của nền kinh tế. Chẳng hạn khi
Chính phủ đánh thuế vào việc sản xuất kinh doanh hàng hoá sẽ lấy đi một phần lợi nhuận của
người sản xuất và làm cung hàng hoá trên thị trường giảm xuống. Ngược lại khi Chính phủ trợ
giá đầu vào, trợ giá đầu ra, giảm lãi suất cho vay vốn sẽ khuyến khích các nhà sản xuất mở rộng
quy mô kinh doanh tăng cung trên thị trường.
e. Số lượng nhà sản xuất (N). Nếu các yếu tố khác không đổi, khi có nhiều nhà sản xuất tham gia
thị trường thì cung thị trường sẽ tăng và ngược lại. Chẳng hạn, ở đồng bằng sông Hồng và đồng
bằng sông Cửu Long có rất nhiều hộ nông dân sản xuất lúa gạo nên cung lúa gạo ở Việt Nam chủ
yếu do hai khu vực này cung cấp.
f. Kỳ vọng của người sản xuất (E): Đó là sự dự đoán, mong đợi của người sản xuất về sự thay
đổi giá hàng hoá, giá đầu vào, chính sách thuế …trong tương lai đều có ảnh hưởng đến cung
hàng hoá hiện tại. Nếu sự dự đoán mong đợi đó thuận lợi cho sản xuất thì cung sẽ được mở rộng
và ngược lại. Giả sử, nếu người sản xuất dự đoán rằng tới đây giá hàng hoá sẽ giảm thì cung
hàng hoá hiện tại sẽ tăng.
Ngoài ra các yếu tố trên, điều kiện tự nhiên cũng ảnh hưởng rất lớn đến cung hàng hoá.
Chẳng hạn,về mùa hè cung về tủ lạnh, máy điều hoà, quạt điện, dịch vụ du lịch..sẽ tăng; còn về

mùa đông, các nhà sản xuất thường tăng cung quần áo ấm, chè cà phê, thức ăn nóng trên thị
trường để đáp ứng cầu người tiêu dùng.
3. Quan hệ cung cầu
Nghiên cứu quan hệ cung cầu tức là nghiên cứu quan hệ giữa người những người bán và
những người mua, người sản xuất và người tiêu dùng trên thị trường. Chính quan hệ này sẽ hình
thành hoặc làm thay đổi giá cả hàng hoá trên thị trường. Trên thực tế, giữa cung và cầu thường
tồn tại ba trạng thái sau đây.
3.1.Trạng thái cân bằng cung cầu
Là trạng thái tại đó tổng lượng cung bằng tổng lượng cầu hàng hoá. Tại đây, người sản
xuất thì bán hết hàng và người tiêu dùng mua đủ hàng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của mình.
Người ta gọi đó là điểm cân bằng thị trường (E). Tại đó ta có mức giá cân bằng hay còn gọi là
giá thị trường (PE). Đây là mức giá người sản xuất đồng ý bán, người tiêu dùng chấp nhận mua
trong khoảng không gian và thời gian nhất định. Cũng tại điểm cân bằng ta xác định được lượng
cân bằng thị trường (QE), là lượng hàng hoá trao đổi tại mức giá cân bằng. Đây chính là cơ chế
hình thành giá thị trường hàng hoá dịch vụ. Điều đó có nghĩa là, trong cơ chế thị trường tự do,
giá của hàng hoá dịch vụ đều được hình thành trước hết do quan hệ cung cầu hàng hoá dịch vụ
đó. Ở trạng thái cân bằng thị trường, việc phân bố và khai thác, sử dụng các nguồn lực là có hiệu
quả, phân phối thoả đáng lợi ích giữa người sản xuất, người tiêu dùng và xã hội. Trên bảng 3.2


cho thấy, tại mức giá 4.400 đ/kg thì lượng cung của người bán vừa đủ đáp ứng lượng cầu của
những người mua là 20.000 tấn. Như vậy, mức giá 4.400đ/kg là mức giá cân bằng thị trường
(PE) và 20.000 tấn là sản lượng cân bằng thị trường (Q E ). Trên đồ thị hình 8.2, điểm cân bằng thị
trường là điểm giao nhau của đường cung (S) và đường cầu thị trường(D). Đó chính là điểm E,
với giá cân bằng PE = 4.400đ và lượng cân bằng QE = 20.000 tấn.

(1) Bảng 3.2. Quan hệ cung cầu về gạo ở thị trường huyện A Thành phố Hà Nội năm 2004
(2)
P


QD

QS

Quan hệ

Sức ép

(1000 đ/kg)

(1000 tấn)

(1000 tấn)

Cung cầu

đối với giá cả

4,0

22

18

Thiếu hụt (dư cầu)

Tăng

4,2


21

19

Thiếu hụt (dư cầu)

Tăng

4,4

20

20

Cân bằng

Không đổi

4,6

19

21

Dư thừa (dư cung)

Giảm

4,8


18

22

Dư thừa (dư cung)

Giảm

5,0

17

23

Dư thừa (dư cung)

Giảm

P (1000 đ/kg)

Dư thừa
S

P1 = 4,6
PE = 4,4

E
D

P2 = 4,0

Thiếu hụt
QE = 20

Q (1000 tấn)

Hình 8.2. Cân bằng cung cầu và trạng thái dư thừa, thiếu hụt

3.2. Trạng thái không cân bằng (trạng thái dư thừa, thiếu hụt)
Ở các mức giá ngoài giá cân bằng thì thị trường sẽ tồn tại trạng thái không cân bằng.
+ Trường hợp thứ nhất: nếu giá hiện tại cao hơn giá cân bằng thì tại đó lượng cung của
người bán sẽ lớn hơn lượng cầu của người mua. Khi đó, thị trường sẽ tồn tại trạng thái dư thừa
(dư cung) tạo ra sức ép làm giảm giá từ phía người bán (người bán tự động hạ giá để bán được
hàng). Khi giá giảm thì lượng cung sẽ giảm (theo luật cung), còn lượng cầu sẽ tăng lên (theo luật
cầu) đến khi lượng cung bằng lượng cầu thì thị trường lại trở về trạng thái cân bằng ban đầu.
Chẳng hạn, trên bảng 3.2 và hình 8.2, với mức giá P 1 = 4.600 đ/kg thì lượng cung của người bán
là QS1 = 21.000 tấn nhưng lượng cầu người mua chỉ là Q D1 =19.000 tấn, khi đó thị trường dư thừa

Q


2.000 tấn. Chính điều này đã tạo ra sức ép làm giá giảm xuống tới mức giá cân bằng P E = 4.000
đ/kg.
+ Trường hợp thứ hai: nếu giá hiện tại thấp hơn giá cân bằng thì tại đó lượng cầu của
người mua sẽ lớn hơn lượng cung của người bán. Khi đó, thị trường sẽ tồn tại trạng thái thiếu hụt
(dư cầu) tạo ra sức ép làm tăng giá từ phía người mua (người mua tự động trả giá cao để mua
được hàng). Khi giá tăng thì lượng cung sẽ tăng (theo luật cung), còn lượng cầu sẽ giảm xuống
(theo luật cầu) đến khi lượng cung bằng lượng cầu thì thị trường lại trở về trạng thái cân bằng
ban đầu. Như vậy, ở bất cứ mức giá nào thấp hơn giá cân bằng thị trường đều tạo ra trạng thái
thiếu hụt và tạo ra sức ép làm giá cả tăng lên. Chẳng hạn, trên bảng 3.2 và hình 8.2, với mức giá
P2 = 4.000 đ/kg thì lượng cầu của người mua là Q D2 = 22.000 tấn nhưng lượng cung người bán

chỉ là QS2 =18.000 tấn, khi đó thị trường thiếu hụt 4.000 tấn. Chính điều này đã tạo ra sức ép làm
giá tăng lên tới mức giá cân bằng PE = 4.000 đ/kg.
Như vậy, ở bất cứ mức giá nào cao hơn hoặc thấp hơn giá cân bằng thị trường đều tạo ra
trạng thái dư thừa hoặc thiếu hụt của thị trường và tạo ra sức ép làm giảm giá hoặc tăng giá để
điều tiết thị trường trở về trạng thái cân bằng. Đó cũng chính là cơ chế hoạt động của thị trường
thông qua sự dẫn dắt của “bàn tay vô hình”.
4. Kiểm soát giá cả thị trường
4.1. Tại sao Chính phủ phải kiểm soát giá cả
Trong nền kinh tế thị trường, giá thị trường được hình thành trước hết do quan hệ cung cầu hàng
hoá dịch vụ. Nhưng trong một số trường hợp cụ thể (mang tính thời điểm) do tác động của các yếu tố xác
định cầu, cung làm cho giá cả thị trường đột biến tăng lên hoặc giảm đi (người ta thường gọi đây là
những cơn sốt giá). Khi điều này xảy ra sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của người tiêu dùng và các
nhà sản xuất. Vì vậy, để ổn định giá và bảo vệ quyền lợi cho các cá nhân tham gia thị trường, Chính phủ
phải can thiệp vào thị trường bằng các biện pháp kiểm soát giá cả được thực hiện dưới 2 hình thức: quy
định “giá trần” và “giá sàn”.
4.2. Giá trần (Price Ceiling - PC)
- Khái niệm: Giá trần (PC) là mức giá tối đa hay còn gọi là giới hạn trên của giá được
Chính phủ quy định cho một loại hàng hoá dịch vụ nào đó khi giá của chúng trên thị trường tự do
là quá cao. Thông thường giá trần quy định thường thấp hơn giá cân bằng thị trường nên mục
đích của nó là bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dùng thông qua việc giảm giá cho họ. Đồng thời
về mặt pháp lý những người bán không được phép bán cao hơn mức giá trần mà Chính phủ đã
quy định.
- Hệ quả của việc quy định giá trần: vì giá trần thấp hơn giá thị trường nên lượng cầu của
người tiêu dùng vượt quá lượng cung của người sản xuất. Khi đó thị trường sẽ tồn tại trạng thái
thiếu hụt (dư cầu) hàng hoá dịch vụ. Theo đó sẽ nảy sinh hiện tượng tiêu cực để mua được hàng
hoá và hưởng chênh lệch giá. Đồng thời việc đặt ra mức giá quá thấp sẽ ảnh hưởng xấu đến động
cơ kinh doanh của người sản xuất. Điều này thể hiện rất rõ ở chất lượng giảm sút của hàng hoá.
Ví dụ, để bảo vệ quyền lợi cho một nhóm người có thu nhập thấp (sinh viên, người nghèo…),
Chính phủ quy định giá thuê nhà, giá một số sản phẩm thiết yếu (điện, nước sinh hoạt, xăng
dầu…), hoặc trợ giá đầu vào cho sản xuất nông nghiệp (giá phân bón, thuốc trừ sâu, nước tưới

tiêu…) là những hình thức cụ thể của giá trần.


Trên đồ thị hình 10.2 , tại giá trần P c thì lượng cầu của người tiêu dùng Q DC vượt quá
lượng cung người sản xuất QSC làm cho thị trường thiếu hụt một lượng QDC - QSC. Để cho giá trần
PC có hiệu lực, Chính phủ phải tham gia vào thị trường với tư cách là người bán để cung ra thị
trường phần hàng hoá thiếu hụt đó. Khi đó, đường cung thị trường sẽ dịch chuyển theo hướng
tăng từ S sang S1 để tạo nên điểm cân bằng mới E1 với giá cân bằng PE1 đúng bằng giá trần và
lượng cân bằng QE1 vừa bằng lượng cầu mà người tiêu dùng muốn mua tại mức giá trần PC.
S

P

S1

E

PE

E1

PC =PE1

Thiếu hụt
D

QSC QE QDC = QE1

Q


4.3. Giá sàn ( Price Floor -Hình
PF) 10.2. Ảnh hưởng của giá trần
- Khái niệm: Giá sàn (PF) là mức giá tối thiểu hay còn gọi là giới hạn dưới của giá được Chính
phủ quy định cho một loại hàng hoá dịch vụ nào đó khi giá của nó trên thị trường tự do là quá thấp. Trên
thực tế giá sàn Chính phủ quy định thường cao hơn giá thị trường nên hàm ý của nó là bảo vệ quyền lợi
cho người sản xuất, tức là tăng giá cho họ. Mặt khác, về mặt pháp lý thì những người mua không được
phép mua thấp hơn giá sàn Chính phủ đã quy định.
P
Dư thừa

PF = PE1

S

E1

E

PE

D
D

QDF

QE QSF = QE1 Q

Hình 11.2. Ảnh hưởng của giá sàn
- Hệ quả: Trên đồ thị hình 11.2 cho thấy, tại mức giá sản P F cao hơn giá thị trường nên
lượng cung của người sản xuất QSF thường vượt quá lượng cầu của người tiêu dùng Q DF tại mức

giá này làm cho thị trường tồn tại trạng thái dư thừa (dư cung) hàng hoá một lượng Q SF – QDF .
Ví dụ điển hình về giá sàn là mức tiền công tối thiểu. Bằng cách quy định mức tiền công tối


thiểu, Chính phủ muốn duy trì một mức sống nhất định cho người làm thuê. Song trên thực tế,
mức tiền công tối thiểu cao hơn tiền công thị trường sẽ nảy sinh tình trạng dư thừa lao động và là
nguyên nhân dẫn đến thất nghiệp.
Để giá sàn có hiệu lực về mặt pháp lý Chính phủ phải tham gia vào thị trường như là một
khách hàng để mua vào phần hàng hoá dư thừa do việc quy định giá sàn tạo nên. Hành vi này sẽ
làm cho đường cầu thị trường dịch chuyển theo hướng tăng từ D sang D 1 tạo nên điểm cân bằng
mới E1 với giá cân bằng PE1 đúng bằng giá sàn, lượng cân bằng mới vừa bằng lượng cung mà các
nhà sản xuất cần bán tại mức giá sàn.
Vận dụng kiểm soát giá thông qua định “giá sàn” có ý nghĩa lớn đối với sản xuất nông
nghiệp khi được mùa, giá cả nông sản phẩm (ví dụ giá thóc) ở mức giá quá thấp, Chính phủ sử
dụng ngân sách của mình để mua sản phẩm của nông dân với giá cao hơn giá thị trường. Đây
chính là hình thức trợ giá đầu ra nhằm khuyến khích nông nghiệp phát triển.
Như vậy, việc can thiệp của Chính phủ vào thị trường dưới các hình thức kiểm soát giá cả
sẽ dẫn đến sự dư thừa hay thiếu hụt ở các mức giá quy định và làm giảm tính hiệu quả của thị
trường chứ không phải là một giải pháp cho vấn đề phân bố tài nguyên



×