Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.5 KB, 12 trang )

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM

-

-

-

-

1.1. Rủi ro – nguồn gốc của bảo hiểm
1.1.1. Khái niệm về rủi ro
Ở bất kỳ nơi nào và thời đại nào, con người luôn phải đồng hành cùng rủi ro. Nhu cầu an
toàn đối với con người là vĩnh cửu. Lúc nào con người cũng tìm cách để bảo vệ bản thân và
tài sản của mình trước những tổn thất do rủi ro. Trong các biện pháp con người đã thực hiện
để xử lý rủi ro thì bảo hiểm được coi là biện pháp tối ưu nhất. Rủi ro chính là nguồn gốc phát
sinh nhu cầu về bảo hiểm. Ngay từ thời tiền sử đã có xuất hiện những hoạt động gần giống
với bảo hiểm. Từ thời Trung cổ, các quy tắc bảo hiểm hàng hải đã dần được hình thành, song
phải đến thế kỷ 19 bảo hiểm hiện đại mới có bước phát triển kéo theo sự ra đời và phát triển
đa dạng của bảo hiểm.
Có rất nhiều các quan điểm khác nhau về rủi ro đã được các nhà nghiên cứu đưa ra. Sau đây
là một số định nghĩa tiêu biểu:
Rủi ro là một sự cố không may mà người ta có thể gặp phải.
Theo nhiều tác giả Theo nhiều tác giả trong cuốn Dictionnaire d'assurance (Francias –
Vietnamien), Ha Noi 1994 định nghĩa: “Rủi ro là một sự cố không chắc chắn xảy ra hoặc ngày
giờ xảy ra không chắc chắn. Để chống lại điều đó, người ta có thể yêu cầu bảo hiểm” Ví dụ:
Cái chết là chắc chắn nhưng ngày giờ xảy ra là không chắc chắn
Rủi ro là sự không thể đoán trước được của một khuynh hướng dẫn đến kết quả thực
khác với kết quả dự đoán. Theo tác giả Allan Willett trong sách “The Economic theory of
risk and insurance”- Philadelphia University of Pensylvania press, USA 1951: “Rủi ro là sự
bất trắc cụ thể liên quan đến việc xuất hiện một biến cố không mong đợi”


Rủi ro là sự bất trắc cụ thể liên quan đến việc xuất hiện một biến cố không mong đợi.
Rủi ro là một sự kiện không chắc chắn, có khả năng gây ra hậu quả xấu.
Rủi ro là sự kiện không chắc chắn về cơ may và bất hạnh.
Các cách biểu đạt trên dù ít nhiều khác nhau song đều đề cập đến hai vấn đề cơ bản của rủi
ro
Sự không chắc chắn, yếu tố bất trắc (tính ngẫu nhiên)
Một khả năng xấu: một biến cố không mong đợi, không xác định thời điểm rủi ro xảy
ra, xảy ra như thế nào, hậu quả nó mang lại ra sao
Như vậy, có thể kết luận rủi ro là khả năng xảy ra biến cố bất thường có hậu quả thiệt hại
hoặc mang lại kết quả không mong đợi.


1.1.2. Phân loại rủi ro
Tùy theo mục đích của việc đánh giá và quản lý rủi ro, rủi ro được phân loại cụ thể theo
nhiều tiêu thức khác nhau. Liên quan đến kỹ thuật bảo hiểm, rủi ro thường được xếp thành
những cặp như sau
- Rủi ro thuần túy và rủi ro đầu cơ:
Rủi ro thuần túy (rủi ro tĩnh) là những rủi ro chỉ có thể dẫn đến một tổn thất hoặc thiệt hại.Ví
dụ: mưa đá, bão lụt, hạn hán…. Rủi ro thuần túy phát sinh có thể làm tổn thất xảy ra đối với
cả ba đối tượng: tài sản, con nguời, trách nhiệm.
Rủi ro đầu cơ (rủi ro động, hay rủi ro suy tính) là loại rủi ro vừa có thể mang lại hậu quả xấu,
vừa có thể dẫn đến cơ hội kiếm lời. Ví dụ sự biến động của giá vàng hay giá cổ phiếu có thể
là cơ hội để tăng lợi nhuận nhưng cũng có thể gây ra những thiệt hại cho các nhà đầu tư.
Ba điểm khác nhau cơ bản giữa rủi ro động và rủi ro tĩnh là:
+ Rủi ro tĩnh thường liên quan đến sự huỷ hoại vật chất, còn rủi ro động liên quan đến sự
thay đổi giá cả, giá trị;
+ Rủi ro tĩnh tồn tại với cả tổng thể nhưng chỉ phát động ảnh hưởng tới một vài phần tử,
ngược lại, rủi ro động khi phát động sẽ ảnh hưởng đến tất cả các phần tử trong tổng thể đó;
+ Xét về mặt thời gian, rủi ro tĩnh phổ biến hơn
- Rủi ro cơ bản và rủi ro riêng biệt:

Rủi ro cơ bản là những rủi ro xảy ra ngoài tầm kiểm soát của cộng đồng và có khả năng gây
thiệt hại trên một phạm vi rộng. Trận động đất kèm theo sóng thần ngày 26/12/2004 ở các
nước Nam Á và Đông Nam Á; hay trận động đất ở Tứ Xuyên Trung Quốc ngày 12/5/2008 là
những ví dụ điển hình của rủi ro cơ bản. Hầu hết các rủi ro cơ bản là những rủi ro có nguồn
gốc khách quan và tác động trên một phạm vi lớn.
Trái với rủi ro cơ bản, các rủi ro riêng biệt thường gây hậu quả cá biệt cho cá nhân, tổ
chức…như một lái xe bị tai nạn giao thông, một con tàu bị đắm hay một người bị mất
trộm…
- Rủi ro tài chính và rủi ro phi tài chính: Căn cứ vào tính chất hậu quả của biến cố có thể
chia rủi ro thành rủi ro tài chính và rủi ro phi tài chính.
Rủi ro tài chính là những rủi ro mà hậu quả của nó có thể xác định được bằng tiền.
Rủi ro phi tài chính thì không thể tính toán hậu quả bằng tiền.
Cần lưu ý là một số rủi ro có thể vừa là rủi ro tài chính vừa là rủi ro phi tài chính. Một vụ tai
nạn giao thông vừa có thể gây ra những tổn thất về vật chất và đồng thời cũng gây ra những
mất mát về mặt tinh thần.


Phân loại rủi ro theo các tiêu thức nêu trên là cơ sở cho việc xây dựng các biện pháp đối phó
với rủi ro và xác định rủi ro có thể được bảo hiểm và rủi ro không được bảo hiểm. Mỗi loại
rủi ro phụ thuộc vào đặc tính riêng của nó cần được xây dựng nhóm biện pháp đối phó cho
phù hợp. Ví dụ để hạn chế tổn thất của các rủi ro thuần tuý cần có các biện pháp ngăn ngừa,
hạn chế thiệt hại; còn rủi ro đầu cơ thì lại có thể hạn chế được bằng các phương pháp phân
tích đánh giá rủi ro và đưa ra các giải pháp phù hợp với từng giai đoạn phát triển của thị
trường. Cũng cần lưu ý nhà bảo hiểm không thể nhận bảo hiểm tất cả các loại rủi ro mà chỉ
chấp nhận bảo hiểm một số rủi ro nhất định dựa trên cơ sở đánh giá rủi ro và theo một số tiêu
chí nhất định, ví dụ nhà bảo hiểm không thể bù đắp được những rủi ro phi tài chính nên các
rủi ro được bảo hiểm phải là những rủi ro tài chính, những rủi ro được bảo hiểm còn phải là
những rủi ro thuần túy và rủi ro riêng... Vì thế cách phân loại này có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng trong việc đề ra các biện pháp để đối phó với rủi ro.
1.1.3. Các biện pháp đối phó với rủi ro

Rủi ro thường để lại những hậu quả thiệt hại hay những kết quả không mong đợi. Ví
dụ: tàu bị nạn đắm ngoài khơi, hay lạm phát làm thu nhập thực tế giảm…Để đối phó với
các rủi ro con người đã có nhiều biện pháp khác nhau nhằm phòng tránh, kiểm soát và
khắc phục hậu quả của chúng. Hiện nay, theo quan điểm của các nhà quản lý rủi ro, có
hai biện pháp đối phó với rủi ro và hậu quả của rủi ro gây ra, đó là nhóm biện pháp kiểm
soát rủi ro và nhóm biện pháp tài trợ rủi ro.
1.1.3.1. Nhóm biện pháp kiểm soát rủi ro
Nhóm biện pháp kiểm soát rủi ro bao gồm các biện pháp tránh né rủi ro, ngăn ngừa
và giảm thiểu tổn thất. Các biện pháp này thường dùng để ngăn chặn hay giảm thiểu khả
năng xảy ra rủi ro.
a. Tránh né rủi ro
- Tránh né rủi ro: Đây là biện pháp được sử dụng thường xuyên trong cuộc sống.
Mỗi người, mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh đều lựa chọn những biện pháp thích hợp để
né tránh rủi ro có thể xảy ra, để loại trừ những nguy cơ dẫn đến tổn thất. Theo các nhà
nghiên cứu, tránh né rủi ro là việc thực hiện những lựa chọn tốt, lấy các quyết định thích
nghi trong cuộc sống hàng ngày. Ví dụ: sau vụ 11/09/2001 tại Mỹ, một số người không đi
máy bay để né tránh rủi ro khủng bố; một số người muốn tránh rủi ro nhiễm bệnh đường
hô hấp do môi trường bị ô nhiễm bụi khói công nghiệp thì có thể chuyển về vùng nông
thôn hay vùng đồi núi để sinh sống…
Tuy nhiên, trên thực tế có rất nhiều rủi ro bất ngờ mà con người không thể né tránh
được. Ví dụ: ốm đau, bệnh tật, chết chóc…
Như vậy con người không thể lợi dụng phương pháp này vì bản thân cuộc sống của
con người đã hàm chứa sự chấp nhận và đương đầu với rủi ro.


b. Ngăn ngừa và giảm thiểu tổn thất
- Ngăn ngừa tổn thất: là hành động của con người đưa ra để làm giảm mức thiệt hại
nếu tổn thất gây ra. Ví dụ: để ngăn ngừa xảy ra tai nạn lao động người ta tổ chức các
khoá tập huấn nâng cao trình độ người lao động hay nâng cao chất lượng đảm bảo an
toàn lao động; để phòng ốm đau bệnh tật người ta thực hiện khám chữa bệnh định kỳ…

Biện pháp này người ta còn gọi là biện pháp giảm thiểu nguy cơ gây ra tổn thất.
- Giảm thiểu tổn thất: khi tổn thất xảy ra người ta có thể giảm thiểu tổn thất thông
qua các biện pháp làm giảm giá trị thiệt hại. Ví dụ: khi bị hoả hoạn người ta cố gắng cứu
những tài sản còn dùng được…
Ngăn ngừa và giảm thiểu tổn thất là hai biện pháp hai biện pháp có liên quan chặt
chẽ với nhau. Các cuộc khám bệnh không ngăn ngừa được bệnh mà chỉ phát hiện và chữa
trị kịp thời cho người mắc bệnh, nhưng việc khám sức khỏe định kỳ đó lại có tác dụng
nhắc nhở mọi người tuân thủ đúng nguyên tắc phòng bệnh dẫn đến số người mắc bệnh vì
vậy sẽ ít đi.
Mặc dù biện pháp kiểm soát rủi ro rất có hiệu quả trong việc ngăn chặn hoặc giảm
thiểu rủi ro nhưng khi rủi ro đã xảy ra người ta không thể lường trước được hậu quả.
1.1.3.2. Nhóm biện pháp tài trợ rủi ro
Nhóm biện pháp tài trợ rủi ro bao gồm chấp nhận rủi ro và hoán chuyển rủi ro
(trong đó có bảo hiểm)
a) Chấp nhận rủi ro (Chấp nhận tự gánh chịu):
Đây là hình thức mà các cá nhân hoặc tổ chức tự gánh chịu trách nhiệm về hậu quả
thiệt hại vật chất, tài chính mà rủi ro gây ra cho họ, có nhiều nguyên nhân dẫn đến quyết
định lựa chọn phương pháp này như:
+ Có đủ khả năng tài chính để bù đắp các thiệt hại về vật chất mà rủi ro gây ra. Ví
dụ: trong sản xuất kinh doanh người ta lập quỹ dự phòng để tự bù đắp các tổn thất…
+ Không còn phương pháp nào khác tốt hơn để giải quyết. Ví dụ: chúng ta chấp
nhận rủi ro cháy nổ, rơi phương tiện khi di chuyển từ nơi này sang nơi khác mà không thể
tránh né nó bằng cách đi bộ.…
+ Thiếu hiểu biết về quản lý rủi ro. Ví dụ: một người có thể tránh rủi ro bị bệnh
đường hô hấp đi về vùng đồi núi sinh sống, có thể lúc nào đó họ sẽ là nạn nhân của của
một vụ lở đất do vô tình xây cất nhà trên vùng địa chất phức tạp, không ổn định…
+ Chấp nhận gánh chịu một rủi ro suy tính, một rủi ro đầu cơ. Điều này dễ thấy
trong kinh doanh. Mức độ rủi ro càng cao, khoản lời có thể mang lại càng lớn. Ví dụ: một
cascadeur chấp nhận đóng thế vai trong các pha nguy hiểm để được nhận tiền công hậu
hĩnh…



Có rất nhiều cách thức khác nhau trong biện pháp chấp nhận rủi ro, tuy nhiên có thể
phân làm hai nhóm: chấp nhận rủi ro thụ động và chấp nhận rủi ro chủ động. Trong chấp
nhận rủi ro thụ động, người gặp tổn thất không có sự chuẩn bị trước và họ có thể vay
mượn để khắc phục hậu quả tổn thất. Trong chấp nhận rủi ro chủ động người ta lập quỹ
dự phòng, dự trữ tiết kiệm và quỹ này chỉ sử dụng để bù đắp tổn thất do rủi ro gây ra.
Tuy nhiên việc lập quỹ dự phòng chưa đủ để chống đỡ với những rủi ro nguy hiểm với
khả năng xảy ra tổn thất lớn vì rủi ro hoàn toàn có thể xảy ra với một cá nhân, một gia
đình trước khi họ tiết kiệm đủ lượng vốn cần thiết để khắc phục hậu quả. Quy mô của dự
phòng rủi ro không thể quá lớn và một doanh nghiệp không thể trông đợi vào quỹ đó để
khôi phục hoạt động sản xuất kinh doanh khi xảy ra tai hoạ thiêu huỷ toàn bộ hoặc phần
lớn tài sản hiện có của doanh nghiệp. Mặt khác, việc lập quỹ dự phòng dẫn đến nguồn
vốn không được sử dụng một cách tối ưu hay nếu đi vay thì sẽ thụ động về vốn và còn
gặp phải vấn đề gia tăng về lãi suất…
b) Hoán chuyển rủi ro
Sử dụng phương pháp này, hậu quả tài chính của rủi ro xảy ra cho cá nhân hay tổ
chức được chuyển giao cho các cá nhân hoặc tổ chức khác cùng gánh chịu. Một số hình
thức hoán chuyển rủi ro có thể kể đến như sau:
+ Hoán chuyển rủi ro một chiều. Ví dụ: trong việc mua bán sản phẩm nông nghiệp
còn non với điều kiện giao hàng trong tương lai, trong trường hợp này rủi ro tăng và giảm
giá được chuyển từ người sản xuất (người bán nông sản non) sang người mua non hàng
hoá…
+ Hoán chuyển rủi ro theo nguyên tắc tương hỗ, số lớn bù số ít. Với phương pháp
này, rủi ro xảy ra cho một số ít thành viên trong một cộng đồng thì hậu quả tài chính sẽ
được chia nhỏ và chuyển cho số lớn thành viên cộng đồng cùng gánh chịu. Chuyển giao
rủi ro trên cơ sở phân tán, tương hỗ số lớn bù số ít đã được vận dụng trong nhiều hoạt
động, tổ chức mà điển hình là cứu trợ và bảo hiểm.
* Cứu trợ bao gồm các biện pháp liên quan đến khắc phục hậu quả rủi ro có cơ sở
cho việc thực thi là lòng từ thiện nhân đạo của con người, các hình thức quyên góp ủng

hộ, cứu tế…vẫn được tiến hành thường xuyên và mang ý nghĩa xã hội rất lớn.
* Bảo hiểm là hình thức chuyển giao rủi ro được thực hiện bởi các tổ chức chuyên
nghiệp hoá việc chuyển giao rủi ro. Ở Việt Nam hiện nay, các tổ chức đó chính là hệ
thống Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam và các tổ chức kinh
doanh bảo hiểm.
1.2. Bản chất của bảo hiểm
1.2.1. Khái niệm về bảo hiểm
Cũng giống như định nghĩa về rủi ro, các nhà nghiên cứu cũng có nhiều quan điểm khác
nhau trong việc đưa ra một định nghĩa thống nhất rằng bảo hiểm là gì. Ở Việt Nam cụm từ
bảo hiểm được áp dụng chung cho cả bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thương


mại nên việc xây dựng nên một định nghĩa về bảo hiểm lại càng phức tạp. Những định nghĩa
tiêu biểu về bảo hiểm gồm:
- Bảo hiểm là một hợp đồng theo đó một bên (gọi là công ty bảo hiểm) bằng việc thu một
khoản tiền gọi là phí bảo hiểm, cam kết thanh toán cho bên kia (gọi là người được bảo hiểm)
một khoản tiền hoặc hiện vật tương đương với khoản tiền đó khi xảy ra một sự cố đi ngược
lại quyền lợi của người được bảo hiểm.
- Bảo hiểm là cơ chế chuyển giao theo hợp đồng trong đó gánh nặng hậu quả tài chính của
một số rủi ro thuần tuý sẽ được chia sẻ cho nhiều người cùng gánh chịu.
- Bảo hiểm là một phương pháp lập quỹ dự trữ bằng tiền do những người có khả năng cùng
gặp một loại rủi ro cùng đóng góp tạo nên. Quỹ này sẽ được sử dụng để tài trợ cho những
người không may gặp tổn thất do các rủi ro đem lại.
- Bảo hiểm là hoạt động trong đó người bảo hiểm cam kết bồi thường theo quy luật thống kê
cho người tham gia bảo hiểm với điều kiện người tham gia bảo hiểm đóng một khoản phí
nhất định cho chính bản thân anh ta hoặc cho người thứ ba.
Rõ ràng ở các góc độ và cách thức tiếp cận khác nhau, quan niệm về bảo hiểm có thể khác
nhau. Bảo hiểm là một lĩnh vực rộng và phức tạp hàm chứa yếu tố kinh doanh, pháp lý và kỹ
thuật nghiệp vụ đặc trưng nên rất khó tìm ra được một định nghĩa hoàn hảo thể hiện được tất
cả các khía cạnh đó. Điều có thể chấp nhận được là xây dựng một khái niệm từ góc độ và

cách thức tiếp cận hữu ích cho mục đích nghiên cứu. Trên phương diện lý thuyết cơ bản có
thể định nghĩa: bảo hiểm là phương pháp chuyển giao rủi ro được thực hiện qua hợp đồng
bảo hiểm, trong đó bên mua bảo hiểm chấp nhận trả phí bảo hiểm và doanh nghiệp bảo
hiểm cam kết bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.
1.2.2. Bản chất của bảo hiểm
Mục đích cơ bản của bảo hiểm là góp phần ổn định kinh tế cho những người tham gia bảo
hiểm không may gặp phải rủi ro, giúp họ khôi phục và phát triển sản xuất, đời sống, đồng
thời tạo nguồn vốn cho phát triển kinh tế và xã hội của đất nước.
Để đạt được mục đích này việc thành lập quỹ bảo hiểm phải dựa vảo sự đóng góp của số
đông người tham gia bảo hiểm để bù đắp cho một số ít người không may gặp phải rủi ro. Nói
cách khác thực chất của hoạt động bảo hiểm là quá trình phân phối lại tổng sản phẩm trong
nước giữa những người tham gia bảo hiểm nhằm đáp ứng các nhu cầu tài chính phát sinh khi
tai nạn, rủi ro bất ngờ xảy ra gây tổn thất đối với họ.


Phân phối trong bảo hiểm là phân phối không đều và không mang tính bồi hoàn, có nghĩa là
không phải tất cả mọi người tham gia bảo hiểm đều được bồi thường với số tiền bồi thường
giống nhau. Phân phối trong bảo hiểm là phân phối cho một số ít người không may gặp phải
rủi ro trên cơ sở mức thiệt hại thực tế và điều kiện bảo hiểm. Điều đó cũng có nghĩa là phân
phối trong bảo hiểm không mang tính bồi hoàn, dù có tham gia bảo hiểm nhưng không gặp
tổn thất thì những người tham gia bảo hiểm cũng không được nhận tiền bảo hiểm trừ một số
sản phẩm bảo hiểm đặc thù như bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm xã hội.
Trong quá trình phân phối lại tổng sản phẩm trong nước giữa những người tham gia, hoạt
động bảo hiểm phải dựa trên nguyên tắc “số đông bù số ít” - thu của nhiều người để bồi
thường cho một số ít người không may gặp rủi ro. Nguyên tắc này được quán triệt trong quá
trình lập quỹ bảo hiểm cũng như quá trình phân phối, bồi thường, quá trình phân tán rủi ro.
Cũng nhờ quá trình phân phối mà hoạt động bảo hiểm còn liên kết gắn bó các thành viên
trong cộng đồng vì lợi ích chung của cộng đồng, vì sự ổn định và phồn vinh của đất nước.
Bảo hiểm với nguyên tắc “số đông bù số ít” cũng thể hiện tính tương trợ, tính xã hội và nhân
văn sâu sắc của xã hội trước rủi ro của mỗi thành viên.

1.3. Vai trò kinh tế - xã hội của bảo hiểm
- Hoạt động bảo hiểm trước hết là nhằm khắc phục hậu quả tài chính của rủi ro. Bằng việc
chi trả bảo hiểm nhà bảo hiểm đã giúp người tham gia bảo hiểm ổn định cuộc sống và khôi
phục hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong thực tế các rủi ro thường đi kèm với những thiệt
hại về mặt tài chính, lúc này các cá nhân, tổ chức cần đến một nguồn tài chính kịp thời để bù
đắp thiệt hại, lấy lại sự cân bằng, ổn định tình hình tài chính. Sự có mặt của các tổ chức bảo
hiểm đã đáp ứng yêu cầu đó một cách có hiệu quả, mang lại trạng thái an toàn về tinh thần
cho những người được bảo hiểm. Vì vậy việc bồi thường còn thể hiện ý nghĩa nhân văn của
bảo hiểm trong xã hội hiện đại và thể hiện hình ảnh tốt đẹp của bảo hiểm trước công chúng.
- Cùng với việc mang lại sự an toàn về mặt tài chính và tinh thần cho những người tham gia
bảo hiểm, nghề nghiệp bảo hiểm đòi hỏi và tạo điều kiện cho các tổ chức bảo hiểm thường
xuyên nghiên cứu, thống kê rủi ro, tìm ra nguyên nhân dẫn đến rủi ro và đề xuất các biện
pháp phòng ngừa, hạn chế tổn thất góp phần mang lại sự an toàn cho cuộc sống con người,
góp phần đáng kể vào nỗ lực chống đỡ rủi ro của toàn thể cộng đồng.
- Bảo hiểm còn là phương thức huy động vốn đầu tư để phát triển kinh tế, xã hội. Một trong
những đặc trưng cơ bản của kinh doanh bảo hiểm là “có chu kỳ kinh doanh đảo ngược”: phí
bảo hiểm thu trước, bồi thường hoặc trả riền bảo hiểm chỉ được thực hiện sau một thời gian
có thể là khá lâu (trong bảo hiểm nhân thọ thời gian trả tiền bảo hiểm có thể là 15,20 năm)


khiến lượng tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm tập trung được từ phí bảo hiểm có khoảng thời
gian tạm thời nhàn rỗi. Qua hoạt động bảo hiểm các khoản tiền nhỏ lẻ, ngắn hạn được tập
hợp để tạo thành các nguồn vốn lớn, tập trung có thể đáp ứng các yêu cầu về vốn cho nền
kinh tế.
- Tạo việc làm cho xã hội cũng được coi là một tác dụng lớn của bảo hiểm. Với sự phát triển
mạnh mẽ ngành bảo hiểm đã thu hút được một lực lượng lao động lớn góp phần giải quyết
tình trạng thiếu việc làm và giảm bớt tỷ lệ thất nghiệp cho xã hội. Ngoài ra bằng việc chi trả
bồi thường cho những doanh nghiệp, tổ chức không may gặp phải rủi ro, giúp họ nhanh
chóng khôi phục lại hoạt động sản xuất kinh doanh của mình bảo hiểm cũng đã góp phần
không nhỏ vào việc đảm bảo việc làm cho người lao động và tạo ra thêm nhiều cơ hội làm

việc bằng cách đầu tư phát triển kinh tế xã hội.
- Với chức năng cơ bản là bồi thường và trả tiền bảo hiểm, giúp người tham gia bảo hiểm
khôi phục đời sống và hoạt động sản xuất kinh doanh, bảo hiểm còn thể hiện vai trò của
mình trong việc góp phần giảm nhẹ gánh nặng cho ngân sách nhà nước khi có rủi ro gây tổn
thất, mặt khác, hoạt động bảo hiểm nhất là bảo hiểm thương mại còn đóng góp một phần
không nhỏ vào ngân sách nhà nước thông qua các khoản thuế.
Vai trò của bảo hiểm còn thể hiện trên các khía cạnh xã hội khác như hỗ trợ các hoạt động
kinh doanh, thúc đẩy các hoạt động thương mại trong và ngoài nước…Sự bảo đảm của bảo
hiểm cho các khoản đầu tư đã góp phần gián tiếp tạo nên hệ thống cơ sở vật chất hạ tầng đồ
sộ của các quốc gia. Bảo hiểm đã trở thành chỗ dựa tinh thần cho mọi người, mọi tổ chức
kinh tế xã hội, giúp họ yên tâm trong cuộc sống, trong sinh hoạt và trong các hoạt động sản
xuất kinh doanh.
1.4. Các loại hình bảo hiểm
Trong hệ thống tài chính nói riêng, hệ thống kinh tế xã hội nói chung, bảo hiểm tồn tại như là
một bộ phận cấu thành với hai hình thức chính : Bảo hiểm thương mại và bảo hiểm phi lợi
nhuận ( bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tiền gửi)
- Bảo hiểm xã hội là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động
khi họ gặp phải những biến cố làm mất hoặc giảm thu nhập do mất hoặc giảm khả năng lao
động nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ. Bảo hiểm xã hội phát sinh
trên cơ sở quan hệ lao động, nó mang tính cộng đồng, tính nhân văn và nhân đạo sâu sắc.
- Bảo hiểm y tế được tách ra từ chế độ “chi phí y tế” trong hệ thống các chế độ bảo hiểm xã
hội. Do đó nó mang đầy đủ tính chất của bảo hiểm xã hội. Ngày nay, bảo hiểm y tế đã phát
triển mạnh mẽ không chỉ giới hạn đối tượng tham gia là những người lao động mà mở rộng


đến mọi tầng lớp dân cư để đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh của các thành viên trong xã
hội.
- Bảo hiểm thất nghiệp cũng được tách ra từ bảo hiểm xã hội do sự phát triển của nền kinh tế
và lực lượng lao động xã hội. Bảo hiểm thất nghiệp được phát sinh trên cơ sở quan hệ lao
động do đó giải quyết bảo hiểm thất nghiệp liên quan đến trách nhiệm của xã hội, của người

lao động và sử dụng lao động.
- Bảo hiểm thương mại là hình thức kinh doanh bảo hiểm. Hoạt động bảo hiểm thương mại
chịu sự chi phối bởi pháp luật đặc biệt là Luật Kinh doanh bảo hiểm, các điều ước quốc tế và
tập quán quốc tế. Bảo hiểm thương mại không chỉ xâm nhập vào mọi hoạt động kinh tế xã
hội liên quan đến tài sản, trách nhiệm dân sự và con người trong phạm vi một quốc gia mà
còn phát triển mở rộng ra thị trường thế giới thông qua hoạt động phân tán rủi ro.
- Bảo hiểm tiền gửi: Là sự bảo đảm hoàn trả tiền gửi cho người được bảo hiểm tiền gửi trong
hạn mức trả tiền bảo hiểm khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi lâm vào tình trạng mất khả
năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền hoặc phá sản.
Người được bảo hiểm là cá nhân có tiền gửi được bảo hiểm tại tổ chức tham gia bảo hiểm
tiền gửi.
Tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi là tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài
thành lập và hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng được nhận tiền gửi của cá nhân.
Tổ chức bảo hiểm tiền gửi là tổ chức tài chính nhà nước, hoạt động không vì mục tiêu lợi
nhuận, thực hiện chính sách bảo hiểm tiền gửi, góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các
tổ chức tín dụng, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng.
Phí bảo hiểm tiền gửi là khoản tiền mà tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi phải nộp cho tổ
chức bảo hiểm tiền gửi để bảo hiểm cho tiền gửi của người được bảo hiểm tại tổ chức tham
gia bảo hiểm tiền gửi.
Mục đích
Trong thực tế, mục đích cụ thể của mỗi hệ thống bảo hiểm tiền gửi có khác nhau nhưng tựu
chung đều nhằm đạt được mục tiêu sau:
Bảo vệ số đông người gửi tiền, đối tượng có tiền gửi ít hạn chế trong tiếp cận thông tin
về quản trị, điều hành và tình hình hoạt động của các tổ chức huy động tiền gửi;
-


Góp phần đảm bảo cho hệ thống tài chính quốc gia ổn định và tạo điều kiện cho các
giao dịch tài chính có hiệu quả hơn bằng cách phòng, tránh đổ vỡ ngân hàng;
-


Góp phần xây dựng một thị trường có tính cạnh tranh và bình đẳng cho các tổ chức tài
chính có quy mô và trình độ phát triển khác nhau;
-

Quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của người gửi tiền, tổ chức tài chính, Chính phủ
và giảm thiểu gánh nặng tài chính cho người đóng thuế trong trường hợp có tổ chức tín
dụng đổ bể.
-

Bản chất
Đây là hoạt động cung cấp dịch vụ bảo hiểm cho người gửi tiền. Dịch vụ này mang tính xã
hội cao, theo cách phân loại của các nhà kinh tế học, dịch vụ này thuộc loại hàng hoá công
không thuần tuý. Cơ sở để gọi dịch vụ bảo hiểm tiền gửi là hàng hoá công không thuần tuý,
căn cứ vào tính không loại trừ thụ hưởng một cách tuyệt đối của dịch vụ này.
Xuất phát từ một trong các mục đích của hoạt động bảo hiểm tiền gửi là góp phần đảm bảo
tính ổn định của hệ thống tài chính quốc gia, người thụ hưởng dịch vụ này là toàn xã hội.
Người gửi tiền có tiền gửi thuộc đối tượng được bảo hiểm sẽ được lợi trực tiếp từ chính sách
bảo hiểm tiền gửi qua việc họ được tổ chức Bảo hiểm tiền gửi chi trả tiền bảo hiểm, khi tổ
chức nhận tiền gửi của họ bị đóng cửa và mất khả năng thanh toán. Người đi vay sẽ được
hưởng lợi từ dịch vụ này ở chỗ tính ổn định của hệ thống tài chính giúp cho họ sử dụng tiền
vay được an toàn và thuận tiện hơn. Có được hệ thống tài chính ổn định sẽ giúp cho các
ngành kinh tế khác phát triển thuận lợi v.v… Chính vì đặc tính không loại trừ thụ hưởng
tuyệt đối mà dịch vụ bảo hiểm tiền gửi được xếp vào loại hàng hoá công không thuần tuý.
1.5. Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển của bảo hiểm ở Việt Nam
Mầm mống cho sự ra đời của bảo hiểm Việt Nam đã xuất hiện từ thời Pháp thuộc. Khi xâm
lược Việt Nam, cùng với việc du nhập văn hóa Châu Âu đến Việt Nam, người Pháp cũng
đồng thời du nhập cả phương thức kinh doanh mới trong đó có bảo hiểm. Trong thời kỳ này,
phạm vi áp dụng bảo hiểm rất hạn chế: bảo hiểm xã hội chỉ được áp dụng cho một số ít công
chức người Việt và người Pháp làm việc cho chính quyền thuộc Pháp; còn bảo hiểm thương

mại chủ yếu được áp dụng cho hàng hóa chuyên chở từ Pháp sang Việt Nam và ngược lại.
Sau Cách mạng tháng Tám, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam) đã ban hành các sắc lệnh: Sắc lệnh 29/SL ngày 12/3/1950; sắc lệnh 76/SL
ngày 20/5/1950 và Sắc lệnh 77/SL ngày 22/5/1950 quy định các chế độ trợ cấp ốm đau, tai


nạn và hưu trí cho công nhân viên chức nhà nước. Việc ban hành các sắc lệnh trên thể hiện
sự quan tâm sâu sắc của Chính phủ lâm thời đến đời sống của người lao động song do chiến
tranh và khả năng kinh tế có hạn nên chỉ một bộ phận người lao động trong xã hội được hưởng
các quyền lợi bảo hiểm xã hội.
Sau khi giải phòng Miền Bắc, để đảm bảo quyền lợi cho người lao động, Chính phủ đã ban
hành Nghị định số 218/CP quy định “Điều lệ tạm thời về bảo hiểm xã hội đối với công nhân,
viên chức và Nghị định số 161/CP ngày 30/10/1964 quy định về “Điều lệ đãi ngộ quân
nhân”. Sau khi thống nhất đất nước, để phù hợp hơn với tình hình mới Hội đồng Bộ trưởng
ban hành Nghị định số 236/HĐBT về việc sửa đổi, bổ sung chính sách và chế độ bảo hiểm
xã hội đối với người lao động, nội dung cơ bản của Nghị định này là điều chỉnh mức đóng
góp và mức hưởng bảo hiểm xã hội của người lao động.
Cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 của thế kỷ trước. Việt Nam bắt đầu tiến hành công cuộc
cải cách nền kinh tế, chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc cải tổ nền kinh tế đã gây ra những biến đổi xã hội
sâu sắc và đương nhiên các chính sách bảo hiểm xã hội cũng không còn phù hợp với những
đòi hỏi của nền kinh tế mới. Để đáp ứng nhu cầu chính đáng của người lao động thuộc nhiều
thành phần kinh tế khác nhau, ngày 22/6/1993 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 43/CP
quy định tạm thời về các chế độ bảo hiểm áp dụng cho các thành phần kinh tế, đánh dấu
bước đổi mới của bảo hiểm xã hội Việt Nam. Với những nỗ lực nhằm hoàn thiện chính sách
bảo hiểm xã hội cho người lao động, ngày 26/01/1995 Chính phủ lại tiếp tục ban hành Nghị
định số 12/CP về việc ban hành Điều lệ bảo hiểm xã hội áp dụng cho công nhân, viên chức
nhà nước và mọi người lao động dưới hình thức bảo hiểm bắt buộc; Nghị định số 45/CP
ngày 15/7/1995 về việc ban hành Điều lệ bảo hiểm xã hội đối với sĩ quan, quân nhân chuyên
nghiệp và hạ sĩ quan, binh sỹ trong quân đội nhân dân Việt Nam và công an nhân dân. Các

chính sách bảo hiểm xã hội Việt Nam thực sự được hoàn thiện ngày 29/6/2006 khi Quốc hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua Luật Bảo hiểm xã hội quy định các chế
độ bảo hiểm xã hội bắt buộc và tự nguyện cho mọi người lao động trong xã hội trong đó các
quyền lợi của người lao động đã được mở rộng và hoàn toàn phù hợp với các yêu cầu của
nền kinh tế.
Hệ thống bảo hiểm xã hội Việt Nam hiện nay được thành lập theo Quyết định số 19/CP ngày
01/01/1995 của Chính phủ là cơ quan có tư cách pháp nhân trực thuộc Chính phủ được tổ
chức theo ngành dọc từ Trung Ương đến địa phương để thực hiện các nghiệp vụ bảo hiểm xã
hội đảm bảo quyền lợi cho người lao động.


Bảo hiểm y tế mang tính chất bảo hiểm xã hội là một trong hai hình thức bảo hiểm sức khỏe
được phát triển mạnh mẽ ở các quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, bảo hiểm y tế được thành
lập và hoạt động theo Nghị định số 299/HĐBT ngày 15/8/1992; được sửa đổi bổ sung bằng
Nghị định số 58/CP ngày 13/8/1998 và Nghị định số 63/CP ngày 16/5/2005 quy định Điều lệ
bảo hiểm y tế. Các chính sách đối với BHYT cũng được hoàn thiện sau khi Quốc hội thông
qua Luật BHYT ngày 14/11/2008. Hiện nay, Bảo hiểm y tế Việt Nam được tổ chức thống
nhất từ Trung ương đến địa phương và do Bộ Y tế thực hiện chức năng quản lý nhà nước.
Bảo hiểm thất nghiệp cũng được tách ra từ các chế độ bảo hiểm xã hội, được quy định trong
Luật bảo hiểm xã hội Việt Nam và được thi hành kể từ ngày 01/01/2009.
Sự ra đời chính thức của bảo hiểm thương mại Việt Nam được bắt đầu từ tháng 1/1965 bằng
sự ra đời của Bảo Việt – Công ty bảo hiểm đầu tiên của nước CHXHCN Việt Nam. Từ năm
1965 đến năm 1992, hoạt động bảo hiểm luôn ở thế độc quyền vì chỉ có một công ty bảo
hiểm duy nhất. Sau nghị định số 100/CP ngày 17/12/1993 về kinh doanh bảo hiểm của Chính
phủ thế độc quyền của Bảo Việt đã chấm dứt với sự ra đời của hàng loạt các công ty bảo
hiểm như: Công ty bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh (Bảo Minh); Công ty bảo hiểm Nhà
Rồng (Bảo Long); Công ty bảo hiểm dầu khí (PVIC)… Để điều chỉnh hoạt động của thị
trường bảo hiểm, ngày 9/7/1999 Chính phủ đã ban hành Quyết định số 23/1999/CP cho phép
thành lập Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam. Ngày 09/12/2000 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Kinh doanh bảo hiểm tạo cơ sở pháp lý cho hoạt

động kinh doanh bảo hiểm phát triển ổn định và bền vững.
Tính đến hết năm 2008, có 50 doanh nghiệp tham gia vào thị trường bảo hiểm Việt Nam
trong đó có 28 công ty bảo hiểm phi nhân thọ; 11 công ty bảo hiểm nhân thọ; 1 công ty tái
bảo hiểm và 10 công ty môi giới bảo hiểm. Doanh thu bảo hiểm năm 2008 đạt 27.000 tỷ
đồng, trong đó doanh thu từ hoạt động bảo hiểm phi nhân thọ đạt 10.855 tỷ đồng, tăng 32%
so với năm 2007; các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam đã đầu tư vào nền kinh tế gần
57.000 tỷ đồng trong năm 2008. Với sự phát triển bền vững của nền kinh tế, thị trường bảo
hiểm Việt Nam được đánh giá là một thị trường giàu tiềm năng và nhiều vận hội (Nguồn :
Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam).



×