Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

O NHIEM MOI TRUONG DO SU PHAT TRIEN NGANH THUY SAN o TINH AN GIANG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (693.74 KB, 26 trang )

MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

An Giang là tỉnh nằm ở phía tây nam của Tổ quốc, là tỉnh đầu nguồn sông Cửu
Long nên có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh ngành thủy sản, nhất là
ngành nuôi trồng; về tự nhiên, An Giang có địa hình chủ yếu là đồng bằng bằng
phẳng kết hợp với mạng lưới sông ngòi, kênh gạch chằn chịt với hai hệ thống
sông lớn là sông Tiền và sông Hậu, nằm trong khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa
mang tính cận xích đạo nên sông ngòi nhiều nước nhất là vào mùa mưa; về kinh
tế - xã hội, người dân An Giang cần cù lao động có nhiều kinh nghiệm trong việc
đánh bắt, nhất là nuôi trồng thủy sản, ngành thủy sản luôn đóng góp lớn vào giá
trị GDP của tỉnh nên được đầu tư phát triển, nhiều cơ sở chế biến thủy sản ra đời,
thị trường tiêu thụ sản phẩm từ thủy sản nhất là cá tra, basa rộng lớn cả trong và
ngoài nước.
Dựa trên những thuận lợi về tự nhiên và KT-XH, trong thời gian qua, ngành
thủy sản tỉnh An Giang ngày càng phát triển, đóng góp tích cực vào sự phát triển
thủy sản vùng ĐBSCL và cả nước. Việc phát triển ngành thủy sản không chỉ tạo
điều kiện phát huy lợi thế về nguồn nước mà còn góp phần giải quyết việc làm,
nâng cao thu nhập cho người dân. Thủy sản hiện nay được xem là ngành kinh tế
mũi nhọn của tỉnh và cũng là ngành đem lại giá trị xuất khẩu lớn nhất tỉnh. Bên
cạnh mặt tích cực thì sự phát triển ngành thủy sản tỉnh nhà cũng có nhiều ảnh
hưởng tiêu cực từ việc khai thác quá mức nguồn lợi thủy sản, việc NTTS không
đúng cách gây ô nhiễm môi trường gây ô nhiễm môi trường nước ảnh hưởng đến
sự suy giảm nguồn lợi thủy sản và sức khỏe của con người. Vì vậy, để hạn chế sự
ô nhiễm môi trường góp phần đưa ngành thủy sản ở An Giang phát triển theo
hướng bền vững thì cần có các giải pháp thiết thực, cụ thể, phù hợp với điều kiện
tỉnh nhà.
Với những lí do trên, tác giả đã mạnh dạn lựa chọn tên: “Thực trạng ô nhiễm
môi trƣờng do sự phát triển ngành thủy sản ở tình An Giang” làm đề tài
nghiên cứu.
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI


2.1. Mục đích của đề tài

Trên cơ sở lí luận và thực tiễn, đề tài tập trung phân tích các điều kiện tự
nhiên và điều kiện kinh tế - xã hội của tỉnh An Giang, thực trạng phát triển ngành
thủy sản và thực trạng ô nhiễm môi trường do sự phát triển ngành thủy sản ở tỉnh
An Giang, từ đó định hướng và đề xuất các giải pháp góp phần bảo vệ môi
trường, phát triển ngành thủy sản theo hướng bền vững.

1


2.2. Nhiệm vụ của đề tài

Từ những mục đích nghiên cứu đã đưa ra, đề tài cần giải quyết những nhiệm
vụ sau:
- Nghiên cứu cơ sở lí luận về ngành thủy sản và môi trường.
- Giới thiệu chung về tỉnh An Giang, phân tích thực trạng phát triển ngành
thủy sản và thực trạng ô nhiễm môi trường do sự phát triển ngành thủy sản.
- Định hướng và đề xuất các giải pháp góp phần góp phần bảo vệ môi trường,
phát triển ngành thủy sản theo hướng bền vững.
3. GIỚI HẠN ĐỀ TÀI
3.1. Giới hạn phạm vi lãnh thổ nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào tỉnh An Giang, một tỉnh phía tây
nam của Tổ quốc với diện tích 3536,66 km2, gồm 1 thành phố là thành phố Long
Xuyên, 2 thị xã là thị xã Châu Đốc, thị xã Tân Châu và 8 huyện là An Phú, Châu
Phú, Châu Thành, Chợ Mới, Phú Tân, Thoại Sơn, Tri Tôn, Tịnh Biên.
3.2. Giới hạn về đối tƣợng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là ngành thủy sản và môi trường ở tỉnh An

Giang.
3.3. Giới hạn về thời gian nghiên cứu

Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng phát triển ngành thủy sản và thực trạng
ô nhiễm môi trường do sự phát triển ngành thủy sản ở tỉnh An Giang 2000 2010. Định hướng 2010 - 2020.
4. CẤU TRÚC CỦA TIỂU LUẬN

Tiểu luận bao gồm: Phần mở đầu, phần nội dung, phần kết luận và kiến nghị,
tài liệu tham khảo, mục lục, phụ lục.
Trong đó, phần nội dung của tiểu luận được trình bài trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn về ngành thủy sản và môi trường
Chương 2: Thực trạng ô nhiễm môi trường do sự phát triển ngành thủy sản ở
tỉnh An Giang
Chương 3: Định hướng và các giải pháp bảo vệ môi trường, phát triển ngành
thủy sản tỉnh An Giang theo hướng bền vững

2


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
NGÀNH THỦY SẢN VÀ MÔI TRƢỜNG
1.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1.1. Cơ sở lí luận về ngành thủy sản
1.1.1.1. Vai trò của ngành thủy sản

- Thủy sản ( bao gồm nguồn nước ngọt, nước lợ và nước mặn ) là nguồn
cung cấp đạm động vật bổ dưỡng cho con người.Cá chất đạm từ cá, tôm, cua
dễ tiêu hóa không gây béo phì và nhất là chúng cung cấp các nguyên tố vi
lượng có từ biển như iốt, canxi, brom, natri, sắt mangan, phốt pho,… rất dẽ

hấp thụ và có lợi cho sức khỏe của con người.
- Việc phát triển ngành thủy sản còn là nguồn cung cấp nguyên liệu cho
công nghiệp thực phẩm và là mặt hàng xuất khẩu có giá trị.
- Ngành này còn có những đóng góp đáng kể cho sự tăng trưởng kinh tế và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn của nhiều nước. Ngành
thủy sản gồm hai lĩnh vực chủ yếu ; khai thác và nuôi trồng.
1.1.1.2. Ngành đánh bắt thủy sản

- Biển bao phủ 71% bề mặt Trái Đất với diện tích 361 triệu km2, là nơi
sinh sống của khoảng 2 vạn loài thực vật, hơn 400 loài cá có giá trị kinh tế
cao, trên 70 loài tảo biển cùng vô số các loài khác,… Sức sản xuất nguyên
khai của biển khoảng 500 tỉ tấn/năm và sản lượng khai thác hang năm đạt tối
đa 600 triệu tấn. Đây là tìêm năng rất lớn đối với ngành khai thác thủy sản của
thế giới.
- Khai thác thủy sản là hoạt động đánh bắt từ hồ ao, song ngòi, biển và
đại dương các loài thủy sản khác nhau, trong đó cá chiếm 85 - 90% sản lượng.
Sản lượng thủy sản đánh bắt được chủ yếu từ biển và đại dương.
Theo thống kê của FOA, hiện nay toàn thế giới có hơn 160 quốc gia làm
kinh tế thủy sản, trong đó 21 quốc gia cos sản lượng đánh bắt cá biển trên 1
triệu tấn/năm thuộc Châu Á, Châu Âu và Châu Mỹ.
Các ngư trường khai thác thủy sản chủ yếu trên thế giới là Biển Bắc,
Đông Bắc Đại Tây Dương, Tây Đại Tây Dương, Trung Tâm Đại Tây Dương,
Tây Nam Đại Tây Dương, Bắc Địa Trung Hải, Đông Ấn Độ Dương, Thái
Bình Dương

3


- Sản lượng khai thác thủy sản từ nửa sau thế kỷ XX cho đến nay ngày
càng tang nhanh.

Các nước có sản lượng đánh bắt thủy sản lớn nhất thế giới là Tring Quốc
( gần 18 triệu tấn ), Pêru ( gần 8 triệu tấn ), Hoa Kỳ ( gần 5 triệu tấn )…
Ngành khai thác thủy sản đòi hổi phải có cơ sở vật chất kỹ thuật đồng
bộ. Đó là các đội tàu đánh cá lớn và tàu chế biến đi kèm, lưới tốt, thiết bị hiện
đại thăm dò luồng cá,các cảng cá, xí nghiệp sửa chữa tàu, ché tạo ngư cụ và
các cơ sở hậu cần dịch vụ,…
Việc khai thác thủy sản quá mức ảnh hưởng tới nguồn lợi thủy sản.
Vì vậy, vấn đề khai thác hợp lý kết hợp với bảo vệ và phát triển nguồn
tài nguyên thủy sản có ý nghĩa to lớn.
1.1.1.3. Ngành nuôi trồng thủy sản

- Tuy việc đánh bắt từ biển và đại dương vẫn còn cung cấp cho thế giới
tới 2/3 sản lượng thuỷ sản, xong ngành nuôi trồng đã và đang phát triển nhanh
với vị thế ngày càng cao. Rõ ràng nguồn tài nguyên biển là có giới hạn, lại
đang bị con người khai thác quá mức. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của
thế giới, việc phát triển nuôi trồng thuỷ sản có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
- Sản lượng thuỷ sản nuôi trồng của thế giới từ năm 1950 đến nay tăng
gấp 3 lần, đạt 48 triệu tấn. Các loài thuỷ sản được nuôi không chỉ trong ao hồ,
sông ngòi nước ngọt mà còn ngày càng phổ biến ở các vùng nước lợ và nước
mặn. Nhiều loài có giá trị cao về thực phẩm, về kinh tế đã trở thành đối tượng
nuôi trồng để xuất khẩu như tôm sú, tôm hùm,…cua, cá (song, thu, ngừ), đồi
mòi, trai ngọc, sò huyết và cả rong tảo biển (rong câu).
- Ngành nuôi trồng thuỷ sản phát triển mạnh ỡ các nước châu Á như
Trung Quốc (34,5 triệu tấn, chiếm 71,3% sản lượng nuôi trồng của thế giới),
Ấn Độ (2,2 triệu tấn), Nhật bản (1,3 triệu tấn), Philipin (1,2 triệu tấn), In-đô
(1,1 triệu tấn), Thái Lan và Việt Nam (cùng 0,7 triệu tấn). ngoài ra còn 1 số
nước khác như Băng-la-đét, Hàn Quốc, Chi lê,…
1.1.1.4. Liên hệ Việt Nam

- Việt Nam có đường bờ biển dài 3260km với nhiều ngư trường lớn ở

vịnh Bắc bộ và vịnh Thái Lan (Hải Phòng-Quảng Ninh, Ninh Thuận-Bình
Thuận-Bà rịa-Vũng Tàu, Cà Mau-Kiên Giang và Hoàng Sa-Trường Sa). Trên
đất liền lại có nhiều ao, hồ, đầm, phá. Đây là những điều kiện thuận lợi để
phát triển ngành thuỷ sản. Sản lượng thuỷ sản của nước ta tăng nhanh chóng
từ 890,6 nghìn tấn năm 1990 (trong đó khai thác 728,5 nghìn tấn và nuôi
trồng 162,1 nghìn tấn) đã tăng lên hơn gấp 3 lần, đạt 2794,6 nghìn tấn (khai
4


thác 1828,5 nghìn tấn và nuôi trồng 966,1 nghìn tấn) năm 2003. Việt Nam
nằm trong số 21 nước có sản lượng đánh bắt cá biển trên 1 triệu tấn/ năm.
Ngành thuỷ sản phát triển mạnh và tập trung ở các vùng như DBSCL, Đông
Nam Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ và DBSH.
- Vấn đề nảy sinh hiện nay là ở nhiều nơi do thiếu quy hoạch và quản lí,
việc phá rừng ngập mặn để lấy diện tích nuôi tôm đã làm ô nhiễm môi trường
nước và phá huỷ môi trường sinh thái. Việc đánh bắt quá mức ở vùng ven bờ
cũng dẫn đến cạn kiệt nguồn lợi thuỷ sản.
1.1.2. Cơ sở lí luận về môi trƣờng
1.1.2.1. Những khái niệm về môi trường

- Ô nhiễm môi trường là sự thay đổi thành phần và tính chất của môi trường,
có hại cho các hoạt động sống bình thường của con người và sinh vật.
- Thông thường sự an toàn của mọi trường được qui định bởi các ngưỡng
hay các giá trị giới hạn trong tiêu chuẩn môi trường, nên có thể nói “Ô nhiễm môi
trường là sự biến đổi của các thành phần môi trường không phù hợp với tiêu
chuẩn môi trường, gây ảnh hưởng xấu đến con người, sinh vật” (Luật Bảo vệ
môi trường 2005).
- Các chất hat tác nhân mà sự có mặt của chúng gây ra sự ô nhiễm môi
trường gọi là các chất hay tác nhân ô nhiễm.
- Nguồn gốc của các tác nhân ô nhiễm (nguồn ô nhiễm) có thể là do các quá

trình tự nhiên (nguồn tự nhiên). Tuy nhiên nguồn gốc quan trọng hơn là các hoạt
động của con người (nguồn nhân tạo). Trong quá trình sản xuất và phát triển, con
người đã đưa các “chất lạ” vào khí quyển, thủy quyển, thạch quyển; làm thay đổi
thành phần tự nhiên của chúng. Trong một số trường hợp, đã làm thay đổi cân
bằng tự nhiên vốn có trong từng quyển nói riêng, trong sinh quyển nói chung.
- Thật ra sự ô nhiễm môi trường dưới tác động của con người đã xảy ra từ
thời tiền sử. Tuy nhiên chỉ trong khoảng 1 -2 thế kỉ gần đây, từ khi con người
bước vào nền văn minh công nghiệp, quy mô và mức độ ô nhiễm môi trường
ngày càng trầm trọng. Điều đó liên quan đến:
+ Sự tập trung cao độ dân cư, nhà máy do đô thị hóa – công nghiệp hóa,
+ Khai thác, chế biến và sử dụng ngày càng nhiều tài nguyên, nhiên liệu
+ Tạo ra các sản phẩm hoàn toàn mới chưa từng có trong thiên nhiên.
1.1.2.2. Những khái niệm về vấn đề ô nhiễm môi trường

5


- Khái niệm về ô nhiễm nước: Ô nhiễm nước là sự thay đổi thành phần và
tính chất của nước, có hại cho hoạt động sống bình thường của con người và sinh
vật, do sự có mặt của các tác nhân quá ngưỡng cho phép.
- Khái niệm về ô nhiễm không khí: Không khí tự nhiên có thành phần các
chất khí thích hợp cho đời sống con người và sinh vật (78% nitơ, 21% oxy và 1%
một số khí khác). Không khí bị ô nhiễm khi một số tác nhân thải vào không khí
gây tác hại đến sức khỏe con người, các hệ sinh thái và các vật liệu khác nhau
hoặc gây ra sự giảm tầm nhìn xa.
- Khái niệm ô nhiễm đất: Ô nhiễm đất là một trong các hình thức suy thoái
tài nguyên đất hiện nay. Sự có mặt trong đất các tác nhân ô nhiễm làm ảnh hưởng
trước hết đến các sinh vật trong đất, sau đó đến cây trồng và sản phẩm, rồi đến
con người; gây ô nhiễm các nguồn nước.
- Khái niệm ô nhiễm tiếng ồn: Ô nhiễm tiếng ồn cũng là một dạng ô nhiễm

đáng chú ý (thường được xếp vào ô nhiễm không khí). Khi tiếng ồn vượt quá giới
hạn cho phép sẽ gây tác động xấu đến sức khỏe con người.
Tiếng ồn không chỉ làm hại cơ quan thính giác mà còn ảnh hưởng tới các bộ
phận khác của cơ thể, gây ra các rối loạn về thần kinh, tim mạch, huyết áp, nội
tiết.
1.1.2.3. Mối quan hệ giữa con người với môi trường

- Tác động của môi trường đến con người
+ Tích cực: Môi trường là nơi cư trú, sinh sống của con người, cung cấp
nguồn nguyên liệu và năng lượng cho sự phát triển cuộc sống con người; là nơi
lao động, nghỉ ngơi, vui chơi giải trí của con người; là nơi tiếp nhận, biến đổi các
chất thải của con người.
+ Tiêu cực: Môi trường ô nhiễm gây khó khăn cho hoạt động sản xuất của
con người, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, gây ra bệnh tật cho con người, dể dẫn
đến tử vong.
- Tác động của con người đến môi trường
+ Tích cực: Con người góp phần bảo vệ môi trường thông qua các hoạt động
như trồng cây gây rừng, cải tạo đất, xử lí rác thải và bảo vệ nguồn nước ngọt…sử
dụng hợp lí và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên.
+ Tiêu cực: Dân số tăng nhanh gây sức ép lên tài nguyên thiên nhiên và môi
trường do khai thác quá mức các nguồn tài nguyên; tạo ra các nguồn thải tập
trung vượt quá khả năng tự phân hủy của môi trường tự nhiên trong các khu đô
thị, sản xuất nông nghiệp, công nghiệp; làm suy giảm khả năng của môi trường
trong hạn chế thiên tai, sự cố, thậm chí gia tăng nguy cơ thiên tai; nhất là suy
thoái môi trường do đô thị hóa.

6


1.1.2.4. Những nhân tố ảnh hưởng đến môi trường


- Ô nhiễm nước
+ Nguồn ô nhiễm: nguồn tự nhiên gồm nhiễm mặn, nhiễm phèn, thối rữa xác
động thực vật; nguồn nhân tạo gồm nước thải từ các khu dân cư, khu công
nghiệp,…
+ Tác nhân gây ô nhiễm: thuốc trừ sâu DDT, dioxin, đường, dầu mỡ, chất
vô cơ (muối amôni, nitrat, nitrit…), kim loại nặng (Pb, Cu, Hg,…), chất phóng
xạ, chất rắn, khí hòa tan, sinh vật gây bệnh.
- Ô nhiễm không khí
+ Nguồn ô nhiễm: Nguồn thiên nhiên gồm bão cát, núi lửa phun, cháy rừng,
xác sinh vật thối rữa; sản xuất công nghiệp gồm khói nhà máy, hóa chất, luyện
kim,…; khí xả từ các phương tiện vận tải; sinh hoạt gồm bếp đun, lò sưởi, đốt
rác.
+ Tác nhân gây ô nhiễm: bụi, sương mù quang hóa, các khí chủ yếu gồm
CO, CO2, NOX, SO2… gây hiệu ứng nhà kính, suy giảm tầng ô dôn, mưa axit.
- Ô nhiễm đất
+ Nguồn ô nhiễm: Do sử dụng phân hữu cơ trong nông nghiệp chưa qua xử
lí mầm bệnh, kí sinh trùng, vi khuẩn; sản xuất công nghiệp, nước thải công
nghiệp, khai thác dầu trên đất liền…
+ Tác nhân gây ô nhiễm: tác nhân sinh học (vi khuẩn, kí sinh trùng), tác
nhân hóa học (phân bón, hóa chất bảo vệ thực vật, dầu mỏ), tác nhân vật lí (nhiệt
độ tăng, chất phóng xạ).
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGÀNH THỦY SẢN
VÀ THỰC TRẠNG Ô NHIỄM MÔI TRƢỜNG DO SỰ PHÁT TRIỂN NGÀNH
THỦY SẢN Ở ĐBSCL
1.2.1. Thực trạng phát triển ngành thủy sản ở ĐBSCL

- Thủy sản là thế mạnh của vùng do có điều kiện thuận lợi, ba mặt giáp biển,
ngư trường đánh bắt rộng, trữ lượng hải sản lớn, bên cạnh đó, vùng có bờ biển
dài khoảng 700km, với chế độ bán nhật chiều của Biển Đông và nhật chiều vùng

vịnh Thái Lan có thể đưa nước mặn vào sâu trong nội vùng tạo nên khả nâng lớn
để nuôi thủy sản nước mặn và nước lợ. Vùng lại có hệ thống kê gạch chằng chịt
và một mùa nước nổi trong năm thuật lợi cho nuôi trồng thủy sản nước lợ trong
nội địa. Đồng bằng sông Cửu Long là vùng sản xuất thủy sản lớn nhất của cả
nước về giá trị sản xuất, sản lượng thủy sản và diện tích mặt nước nuôi trồng
thủy sản.
- Năm 2009, giá trị sản xuất thủy sản 35,7 nghìn tỉ đồng chiếm 66,6% cả
nước, đứng đầu 8 vùng, sản lượng thủy sản là 2.820,0 nghìn tấn ( chiếm 57,9%
cả nước), trong đó nuôi trồng chiếm 67,2% toàn vùng và 73,1% sản lượng nuôi
7


trồng cả nước. Vùng Đồng bằng sông Cửu Long đứng đầu về diện tích mặt nước
nuôi trồng thủy sản với 738,8 nghìn ha ( chiếm 70,7% diện tích mặt nước toàn
quốc). Cà Màu là tỉnh có diện tích nuôi trồng lớn nhất ( 294,7 nghìn ha). Các
tỉnh Cà Mau, Kiên Giang, Bạc Liêu, Sóc Trăng đứng đầu toàn vùng và cả nước
về giá trị sản xuất.
- Ngoài ra trong vùng còn nuôi nhiều loại thủy sản khác có giá trị kinh tế cao
như lươn, ốc, cua, ếch, rùa, đồi mồ. Đây cũng là những nguồn lợi xuất khẩu có
giá trị.
1.2.2. Thực trạng ô nhiễm môi trƣờng do sự phát triển ngành thủy sản ở ĐBSCL
Các nguồn thải ra sông rạch đã tác động làm cho môi trường nước bị biến đổi. Chất
lượng nước trong các ao nuôi thủy sản gồm cá nước ngọt, nuôi tôm ven biển đặc biệt là
trong các mô hình nuôi công nghiệp đã cho thấy dấu hiệu ô nhiễm nguồn nước.
Quá trình chuyển dịch trồng lúa sang nuôi trồng thủy sản diễn ra quy mô lớn ở vùng
mặn hóa ven biển làm gia tăng xâm nhập mặn ở các vùng ven biển. Tác động làm suy
giảm rừng ngập mặn ven biển tiếp tục diễn ra ảnh hưởng đến các hệ sinh thái rừng ngập
mặn. Nuôi cá bè trên sông rạch, nuôi thâm canh thủy sản vùng ngọt hóa đã gây nên các
tác động đến chất lượng môi trường nước ở đây.
Những năm gần đây, dịch bệnh đã phát sinh trên diện rộng ở các loại cá, tôm nuôi

diễn biến rất phức tạp gây nhiều thiệt hại đối với người nuôi trồng thủy sản. Nuôi cá
nước ngọt trên sông ô nhiễm môi trường làm cá tra, cá ba sa... chết hàng loạt ở một số
bè cá trên sông; dịch bệnh trên các ao hồ và cá đồng một số tỉnh lưu vực sông Tiền,
sông Hậu trong khu vực ĐBSCL, dịch bệnh tôm nuôi đã phát sinh trên 20-60% diện tích
nuôi ở các tỉnh ven biển Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Tiền Giang... Cùng với tác động
môi trường do chất thải trong sản xuất chế biến công nghiệp, nước thải sinh hoạt ở các
khu dân cư và đô thị... cũng góp phần tác động đến chất lượng môi trường nước ảnh
hưởng đến cả kinh tế và môi trường sinh thái.
1.3. TIỂU KẾT CHƢƠNG 1

Thủy sản là ngành có vai trò quan trọng đối với sự phát triển KTXH của mỗi
quốc gia, thủy sản gồm 2 phân ngành chính là KTTS và NTTS. Môi trường là là
tất cả những gì bao quanh và có ảnh hưởng đến một vật thể hay sự kiện. Giữa
môi trường và con người có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau theo
hai chiều hướng tích cực và tiêu cực. Thực tiễn về ngành thủy sản ở ĐBSCL cho
thấy sự phát triển thủy sản không bền vững là nguồn gốc và tác nhân gây ô
nhiễm môi trường đất, nước; do đó cần phải bảo vệ môi trường và PTTSBV.

8


CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG Ô NHIỄM MÔI TRƢỜNG DO SỰ PHÁT TRIỂN
NGÀNH THỦY SẢN Ở TỈNH AN GIANG
2.1. KHÁI QUÁT VỀ TỈNH AN GIANG
2.1.1. Vị trí địa lý, phạm vi lãnh thổ

- An Giang là một tỉnh thuộc ĐBSCL, nằm giữa sông Tiền và sông Hậu, chạy
dọc theo hữu ngạn sông Hậu thuộc hệ thống sông Mê Công, một phần nằm trong
vùng tứ giác Long Xuyên.

- Lãnh thổ của tỉnh nằm trong khoảng từ 10012’ đến 10057’ vĩ độ Bắc và từ
104046’ đến 105035’ kinh độ Đông. Diện tích 3536,66 km2, gồm 1 thành phố là
thành phố Long Xuyên, 2 thị xã là thị xã Châu Đốc, thị xã Tân Châu và 8 huyện
là An Phú, Châu Phú, Châu Thành, Chợ Mới, Phú Tân, Thoại Sơn, Tri Tôn, Tịnh
Biên.
- Điểm cực Bắc của tỉnh thuộc xã Khánh An (huyện An Phú), điểm cực Nam
ở xã Thoại Giang (huyện Thoại Sơn), điểm cực Tây tại xã Vĩnh Gia (huyện Tri
Tôn) và điểm cực Đông thuộc xã Bình Phước Xuân (huyện Chợ Mới). Phía bắc
và tây bắc giáp Cam-pu-chia (104km), phía đông giáp tỉnh Đồng Tháp
(107,6km), phía đông nam giáp thành phố Cần Thơ (44,7km), phía tây giáp tỉnh
Kiên Giang (70km).
2.1.2. Điều kiện tự nhiên
2.1.2.1. Địa hình

Ngoài vùng đồng bằng do phù sa sông Mê Công bồi đắp, An Giang còn có
vùng đồng bằng đồi núi thấp ở phía tây. Địa hình của tỉnh có hai dạng chính là
đồng bằng và đồi núi:
- Địa hình đồng bằng, chiếm 87% diện tích tự nhiên của toàn tỉnh, gồm hai
loại chính là đồng bằng phù sa và đồng bằng ven núi.
- Địa hình đồi núi thấp, chiếm 13% diện tích tự nhiên của toàn tỉnh. Đồi núi
gồm nhiều đỉnh có hình dạng, độ cao và độ dốc khác nhau phân bố theo vành đai
cánh cung kéo dài gần 100km.
2.1.2.2. Khí hậu

An Giang nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa mang tính chất cận xích
đạo. Lượng bức xạ tương đối lớn, tổng nhiệt độ trung bình năm là 100000C. Số
giờ nắng bình quân trong năm khoảng 2520 giờ. Nhiệt độ trung bình năm khá
cao và ổn định 270C.

9



Khí hậu An Giang chia làm hai mùa rõ rệt:
- Mùa khô có gió mùa đông bắc thịnh hành, kéo dài từ tháng 11 đến tháng
4, thời tiết trong sáng, ít mưa, chỉ chiếm 10% lượng mưa cả năm.
- Mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10, gió mùa tây nam mang khối
khí biển nhiệt đới và xích đạo, lượng ẩm dồi dào, mưa nhiều, chiếm tới 90%
lượng mưa cả năm.
2.1.2.3. Thủy văn

An Giang là một trong hai tỉnh đầu nguồn của sông Mê Công (phần Việt
Nam), có các con sông lớn chảy qua, nhiều rạch tự nhiên và kênh đào khá chằng
chịt. Mật độ sông ngòi là 0,72km/km2, thuộc mức cao nhất trong các tỉnh Đồng
bằng sông Cửu Long.
- Các sông chính là sông Tiền, sông Hậu - là hai nhánh chính của hạ lưu
sông Mê Công trước khi đổ ra biển Đông. Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh còn có các
sông như: Vàm Nao, Bình Di.
- Ngoài các sông lớn, trên bề mặt lãnh thổ An Giang có một hệ thống rạch tự
nhiên, kênh đào và hồ. Hệ thống rạch tự nhiên phân bố rải rác khắp địa bàn cả
tỉnh, những rạch tự nhiên lớn là Mương Khai, Cái Đầm, Cái Tắc (huyện Phú
Tân), Ông Chưởng và Cái Tàu Thượng (huyện Chợ Mới), Long Xuyên (thành
phố Long Xuyên), Chắc Cà Đao, Mặc Cần Dưng (huyện Châu Thành) và rạch
Cần Thảo (huyện Châu Phú).
- An Giang có khoảng 21 kênh đào như kênh Vĩnh Tế, Thoại Hà, Vĩnh An,
Trà Sư, Thần Nông, Vàm Xáng, Rạch Giá - Hà Tiên, Tám Ngần, Tri Tôn, Ba
Thê, Cái Sắn, Mặc Cần Dủng, kênh Mới, Chóc Năng Gù…
- Ở An Giang còn có một số hồ tự nhiên như Búng Bình Thiên lớn, Búng
Bình Thiên nhỏ, hồ Nguyễn Du…
2.1.2.4. Đất đai


Trên lãnh thổ toàn tỉnh có 3 nhóm đất chính:
- Nhóm đất phù sa ngọt và cồn bãi cát ven sông chiếm 72,5% diện tích tự
nhiên, phân bố chủ yếu ở các huyện nằm giữa hai sông Tiền và sông Hậu và dải
đất ven hữu ngạn sông Hậu từ Châu Đốc tới Long Xuyên.
- Nhóm đất phèn, chiếm 18,9% diện tích tự nhiên, phân bố ở những vùng
xa sông Hậu và một phần của tứ giác Long Xuyên.
- Nhóm đất đồi núi, chiếm 8,6% diện tích tự nhiên, phân bố chủ yếu tại hai
huyện Tri Tôn, Tịnh Biên và một phần nhỏ ở huyện Thoại Sơn.

10


2.1.2.5. Sinh vật

Do khí hậu thuận lợi và đất đai màu mỡ nên động - thực vật ở An Giang
phát triển phong phú, có nhiều loài. Năm 2011, An Giang có 1075 ha rừng đặc
dụng. 8725 ha rừng phòng hộ, 4112 ha rừng sản xuất.
Ở An Giang có rừng tràm và rừng cây xanh nhiệt đới:
- Rừng tràm phát triển ở vùng đất ngập nước, bưng trũng đất phèn và than
bùn, ở hai huyện Tri Tôn và Tịnh Biên.
- Rừng cây xanh nhiệt đới tập trung ở vùng Bảy Núi với những loài cây quý
như gỗ mật, căm xe, giáng hương, dầu, sao, tếch…
2.1.2.6. Khoáng sản

An Giang có nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú, đáng kể nhất có vật
liệu xây dựng, than bùn, nước khoáng, cao lanh và một ít quặng kim loại.
2.1.3. Điều kiện KT-XH
2.1.3.1. Dân cư và nguồn lao động

- An Giang là tỉnh đông dân, năm 2011 có 2,15 triệu người, đứng thứ 6

trong cả nước, đứng đầu vùng ĐBSCL. Dân số tăng nhanh, nhờ thực hiện
KHHGĐ nên tỉ suất gia tăng tự nhiên giảm còn 1,03%.
- An Giang có cơ cấu dân số trẻ, dân số nam chiếm 49,7% dân số, dân số nữ
chiếm 50,3% dân số, số người trong độ tuổi lao động chiếm 55,4% dân số toàn
tỉnh, cơ cấu lao động chủ yếu trong khu vực I chiếm 58%.
- An Giang có MĐDS cao 608 người/km2 gấp 2,3 lần cả nước và 1,4 lần
ĐBSCL, nhưng phân bố không hợp lí, 89% dân số tập trung ở đồng bằng, 11%
dân số tập trung ở vùng núi. Tỉ lệ dân thành thị năm 2011 là 29,9%.
- An Giang có 29 dân tộc, trong đó có 4 dân tộc có số dân đông là Việt
(chiếm 94,9% dân số), Khơ-me (3,9%), Chăm (0,6%), Hoa (0,6%). Ngoài ra còn
một số dân tộc khác với số lượng không đáng kể như Ngái, Tày, Gia-rai, Mường,
Nùng, Phù Lá…
- An Giang có 1,89 triệu người theo tôn giáo, trong đó phổ biến nhất là Phật
giáo với 0,56 triệu người, đạo Hòa Hảo với 0,78 triệu người, Cao Đài với 0,08
triệu người, Công giáo với 0,06 triệu người và đạo Hồi với 0,01 triệu nguồi.
Ngoài ra còn một số ít người theo đạo Tin lành.
2.1.3.2. Giao thông vận tải

11


- Đường bộ: tổng chiều dài đường bộ của An Giang là 3560km, trong đó có
356km đường nhựa, còn lại là đường đá, đường cấp phôi và đường đất. Hệ thống
đường bộ trên địa bàn tỉnh bao gồm:
+ Quốc lộ 91, nối Cần Thơ với Long Xuyên, Châu Đốc với Cam-pu-chia,
dài 91km. Trên suốt chiều dài quốc lộ có 42 cầu với tổng chiều dài 1854km.
+ Hệ thống tỉnh lộ có 14 tuyến (941, 942, 943, 948, 955…) với tổng chiều
dài 404km, 114 cầu.
- Đường thủy: toàn tỉnh có 541 tuyến đường sông với tổng chiều dài
2504km, mật độ đường là 0,73km/km2. Trên địa bàn tỉnh có 8 bến phà (trong đó

có 2 bến phà liên tỉnh), 8 bến tàu (2 bến liên tỉnh), 139 bến đò ngang và 1 bến
cảng.
2.2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGÀNH THỦY SẢN Ở TỈNH AN GIANG
2.2.1. Khái quát chung

Với lợi thế nổi bật về diện tích mặt nước, hệ thống sông, kênh rạch chằng
chịt, ngành thủy sản (đặc biệt là hoạt động nuôi trồng) phát triển mạnh và ngày
càng khẳng định vai trò chủ đạo trong cơ cấu kinh tế. An Giang là 1 trong các
tỉnh dẫn đầu vùng ĐBSCL và cả nước về NTTS, có đóng góp quan trọng trong
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của ĐBSCL, góp phần nâng cao vai trò và vị thế của
tỉnh và vùng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội cả nước.
Vị trí quan trọng của ngành thủy sản ngày càng được khẳng định. Diện tích,
sản lượng thủy sản tăng, thị trường mở rộng, đã thúc đẩy quy mô và tỉ trọng
GTSX tăng nhanh trong những năm qua.
Bảng 2.1. Sản lƣợng và GTSX thủy sản tỉnh An Giang giai đoạn 2000 - 2010

Chia ra
Tổng số
1. Sản lượng (Nghìn tấn)
2000
171,4
2005
232,1
2010
316,9
2. GTSX (Giá thực tế - Tỉ đồng)
2000
1231.4
2005
2421.8

2010
6806.7

Nuôi trồng

Khai thác

80,1
180,8
279,7

91,3
51,3
37,2

840.9
2058.2
5562.8

352.6
286.4
798.4

[Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh An Giang năm 2005, 2010]

12


Bảng 2.1 cho thấy sự thay đổi của sản lượng và GTSX ngành thủy sản trong
giai đoạn 2000 - 2010. Nhìn chung, sản lượng ngành thủy sản tăng nhanh và ổn

định. Nhờ chính sách ưu tiên thúc đẩy sự phát triển của ngành thủy sản thông qua
hệ thống chính sách khuyến nông, hỗ trợ vốn, mở rộng thị trường, ứng dụng khoa
học công nghệ, tạo giống mới có hiệu quả.., tổng sản lượng thủy sản của tỉnh đạt
316,9 nghìn tấn năm 2010, tăng 1,84 lần so với năm 2000, 1,36 lần năm 2005.
Sự gia tăng của tổng sản lượng thủy sản chủ yếu do sự tăng lên của sản lượng
nuôi trồng tăng 3,5 lần trong khi sản lượng khai thác giảm mạnh. Ngành NTTS
cho thấy ưu thế hơn ngành khai thác thủy sản khi sản lượng và tỉ trọng sản lượng
tăng liên tục, chiếm 88,3% cơ cấu tổng sản lượng thủy sản chung của tỉnh năm
2010. Sự suy giảm về giá trị và tỉ trọng sản lượng khai thác trong giai đoạn này
phản ánh xu thế chuyển dịch của ngành thủy sản, đồng thời hạn chế khai thác
nhằm bảo vệ nguồn lợi thủy sản đang ngày càng giảm sút.
Sự tăng nhanh và khá ổn định của sản lượng và giá cả các mặt hàng thủy sản
đã thúc đẩy GTSX thủy sản tăng nhanh. GTSX thủy sản trong giai đoạn 2000 2010 tăng 5,5 lần, đạt 6.806 tỉ đồng năm 2010. Trong cơ cấu GTSX thủy sản,
lĩnh vực nuôi trồng thể hiện vai trò quan trọng nhất, chiếm phần lớn tỉ trọng
(81,7%), còn lại là đánh bắt (11,7%) và dịch vụ (6,5%). Xu hướng chuyển dịch
của ngành thủy sản là tăng tỉ trọng ngành nuôi trồng và dịch vụ, giảm tỉ trọng
đánh bắt thủy sản.
2.2.2. Ngành nuôi trồng thủy sản

2.2.2.1. Về diện tích, sản lượng NTTS
350
3038

3000

2777

300
2506


Ha

2500

2415

250

1909
2000
1500

500

200

1835
315

1252

264

1000

181

Nghìn tấn

3500


288

280

182

150
100
50

80

0

0
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010
Sản lượng

Diện tích

Biểu đồ 2.1. Diện tích, sản lƣợng NTTS tỉnh An Giang giai đoạn 2000 - 2010

[Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh An Giang 2010]

13


Biểu đồ 2.1 cho thấy trong giai đoạn 2000 - 2010, diện tích NTTS có xu
hướng tăng nhưng chưa thực sự ổn định Sự biến động diện tích NTTS là do tác

động của giá cả thị trường trong giai đoạn khủng hoảng, sự suy giảm của diện
tích nuôi cá bè do hiệu quả kinh tế thấp, sự thu hẹp diện tích nước ngọt do sự tác
động của biến đổi khí hậu... Trong bối cảnh đó tỉnh An Giang đã nỗ lực trong
việc hoạch định, tổ chức lại các hình thức nuôi trồng truyền thống trên cơ sở hỗ
trợ về vốn, khoa học kỹ thuật và thị trường nhằm đưa diện tích nuôi trồng tăng
lên trong giai đoạn tới.
Trong cơ cấu diện tích, diện tích nuôi cá chiếm tỉ trọng lớn (52,2% diện tích
NTTS), trong đó chủ yếu là nuôi cá tra, cá ba sa. Ngoài ra còn có diện tích nuôi
tôm 490,7 ha, diện tích ươm, nuôi giống thủy sản 477,41 ha.
Trong giai đoạn 2000 - 2010, tổng sản lượng NTTS An Giang tăng nhanh,
khẳng định vững chắc vị thế là tỉnh dẫn đầu về sản lượng NTTS trong vùng và cả
nước. Năm 2010, sản lượng NTTS tỉnh tăng 3,5 lần năm 2000, đạt 279,775 nghìn
tấn, chiếm 14,4% sản lượng NTTS vùng ĐBSCL và 10,1% cả nước.
Tuy nhiên, do chịu tác động của dịch bệnh, sự biến động thị trường tiêu thụ,
sự giảm dần của diện tích nuôi trồng, sản lượng thủy sản có xu hướng giảm, từ
315,447 nghìn tấn (2008) xuống 279,775 nghìn tấn (2010).
Bảng 2.2. Sản lƣợng NTTS tỉnh An Giang phân theo loại thủy sản 2000 - 2010

Tổng số

Cá nuôi

( Nghìn
Tấn)

Nghìn tấn

Tôm nuôi
%


Nghìn tấn

%

2000

80,156

80,032

99,8

0,005

0,01

2005

180,809

179,412

99,2

0,698

0,39

2008


315,447

313,739

99,5

1,297

0,41

2010

279,773

276,942

99,8

0,916

0,01

[Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh An Giang năm 2010]
Bảng 2.2 cho thấy trong cơ cấu sản lượng thủy sản nuôi trồng, sản lượng cá
nuôi tăng nhanh nhất và chiếm tỉ trọng lớn nhất. Sản lượng cá nuôi đạt 276.942
tấn năm 2010, tăng 3,46 lần năm 2000 và chiếm tới 99,8% tổng sản lượng thủy
sản nuôi trồng. Sản lượng tôm nuôi tăng khá nhanh trong giai đoạn 2000 - 2008,
nhưng lại giảm trong những năm gần đây (từ 2008 - 2010, sản lượng tôm nuôi đã

14



giảm từ 1,297 tấn xuống 0,916 tấn). Nguyên nhân chủ yếu do sự xuất hiện của
bệnh dịch trên tôm càng xanh và sự biến động giá cả thị trường.
2.2.2.2. Về cơ cấu sản phẩm của NTTS
Trong cơ cấu sản phẩm của NTTS, cá tra, cá ba sa giữ vai trò quan trọng,
chiếm 41,4% diện tích và 82,5% sản lượng NTTS toàn tỉnh năm 2010. Sản lượng
cá tra, cá ba sa có xu hướng tăng do việc chuyển đổi phương thức nuôi từ nhỏ lẻ
sang nuôi trồng theo hướng công nghiệp quy mô lớn. Giá trị xuất khẩu của sản
phẩm này cũng tăng nhanh và góp phần không nhỏ trong việc nâng cao tổng kim
ngạch xuất khẩu của tỉnh. Năm 2010, An Giang đã xuất khẩu được 148.721 tấn,
tăng 28 lần năm 2000, nâng giá trị xuất khẩu thủy sản chung của tỉnh đạt 334.9
triệu USD. An Giang hiện nay là 1 trong 3 tỉnh đứng đầu về nuôi cá ba sa của vùng
ĐBSCL.
2.2.2.3. Về mô hình NTTS
Hiện nay, tỉnh đã thực hiện áp dụng nhiều mô hình NTTS dựa trên các thế
mạnh sẵn có và hiệu quả kinh tế mang lại. Các hình thức nuôi lồng bè với sự hỗ
trợ của công nghiệp chế biến ngày càng phổ biến và làm tăng GTSX nuôi trồng.
Ngoài ra, phương thức nuôi tôm cá kết hợp trên ruộng lúa phát triển mạnh ở
nhiều địa phương góp phần làm tăng diện tích sản xuất thủy sản, qua đó góp phần
tăng GTSX trên một đơn vị diện tích canh tác.
- Nuôi cá bè: Năm 2000, số lượng bè cá là 3066 với sản lượng cá nuôi bè là
41.695 tấn. Tuy nhiên, do hiệu quả sản xuất thấp và gây ô nhiễm môi trường
nước, đến năm 2010, số lượng bè cá giảm xuống còn 2101 bè (giảm gần 1000 bè
so với năm 2000), kéo theo sản lượng cá nuôi bè cũng giảm mạnh (giảm gần 31
nghìn tấn so với năm 2000 và 42 nghìn tấn năm 2005). Loại cá nuôi bè chủ yếu
là cá tra, cá ba sa. Hiện nay, hình thức nuôi cá ao, hầm đang ngày càng phổ biến
do tính hiệu quả cao.
- Nuôi tôm càng xanh: Bên cạnh cá, phong trào nuôi tôm càng xanh ngày
càng phát triển, đưa An Giang trở thành một trong những tỉnh đi đầu của ĐBSCL

trong phong trào nuôi tôm càng xanh luân canh 1 lúa - 1 tôm. Diện tích nuôi tôm
tăng liên tục qua các năm (tăng 89 lần so với 2000).
2.2.3. Ngành khai thác thủy sản

So với nuôi trồng, ngành khai thác thủy sản có ít lợi thế hơn. Trong cơ cấu
thủy sản, ngành khai thác thủy sản chiếm tỉ trọng nhỏ và có xu hướng giảm dần
do sự phát triển mạnh của ngành nuôi trồng. Trong giai đoạn 2000 - 2010, tỉ
trọng của ngành khai thác đã giảm từ 28,6% năm 2000 xuống chỉ còn 11,7% năm
2010. Điều này phù hợp với xu hướng phát triển bền vững nhằm bảo tồn và phát
triển các nguồn lợi thủy sản đang ngày càng giảm sút của tỉnh.
15


Việc đánh bắt chủ yếu tập trung nhiều vào mùa nước nổi kéo dài từ khoảng
tháng 8 đến tháng 11 hàng năm.Với lợi thế là vùng đầu nguồn sông Cửu Long,
lợi dụng được nguồn cá phong phú từ Biển Hồ đưa xuống, nên nguồn lợi thủy
sản tương đối đa dạng, trong đó có nhiều loại có giá trị kinh tế cao như cá linh, cá
hô, cá sặc... Tuy nhiên, nguồn lợi này đang có xu hướng suy giảm nhanh chóng,
một số loài đã trở nên cạn kiệt do việc khai thác quá mức theo phương thức hủy
diệt (đánh bắt cá non, dùng xung điện…) cũng như sự tác động của ô nhiễm môi
trường nước ngày càng trầm trọng. Chính vì vậy, sản lượng thủy sản đánh bắt
ngày càng giảm mạnh trong giai đoạn 2000 – 2010 (giảm 54,059 nghìn tấn). Tuy
nhiên, nhờ giá thành sản phẩm cao, cộng với việc điều tiết yếu tố thị trường,
GTSX của ngành khai thác thủy sản đã tăng 2,26 lần trong giai đoạn 2000 –
2010, từ 352.963 triệu đồng lên 798.486 triệu đồng (giá thực tế).
2.2.4. Chế biến thủy sản

Chế biến thủy sản có vai trò quan trọng trong việc nâng cao GTSX của ngành
thủy sản trong cơ cấu nông - lâm - thủy toàn tỉnh. Hiện nay, cùng với việc tham
gia của nhiều doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh, ngành chế biến thủy sản ngày

càng phát triển, mở rộng mạng lưới theo hướng đa dạng hóa, không ngừng nâng
cao chất lượng sản phẩm và mở rộng thị trường. Các cơ sở chế biến được đầu tư
trang thiết bị hiện đại nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành sản
phẩm để tăng sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Năm 2010 toàn
tỉnh đã 17 doanh nghiệp với 20 nhà máy chế biến thủy sản đông lạnh tạo việc
làm cho trên 25.000 lao động. Nổi bật là 5 doanh nghiệp chế biến thủy sản lớn
của tỉnh là công ty cổ phần xuất nhập khẩu thủy sản An Giang (AGIFISH), công
ty cổ phần Nam Việt (NAVICO), công ty cổ phần NTACO, công ty cổ phần Việt
An, công ty cổ phần xuất nhập khẩu thủy sản Cửu Long.
400
334,928

350
300

251,457

250
200
150
100
50

23,964

0
2000

2005


2010

Biểu đồ 2.2. Giá trị xuất khẩu thủy sản tỉnh An Giang giai đoạn 2000 - 2010

(Đơn vị:Triệu đồng)
[Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh An Giang năm 2005, 2010]
16


Với việc nâng cao năng lực sản xuất theo hướng hiện đại, việc phát triển
ngành chế biến thủy sản đã góp phẩn thúc đẩy giá trị hàng hóa không ngừng tăng
lên, thị trường các mặt hàng thủy sản được mở rộng không chỉ trong nước mà
còn ở nước ngoài như Hoa Kì, Châu Âu, Nhật Bản… Biểu đồ 2.2 cho thấy giá trị
kim ngạch xuất khẩu thủy sản tăng từ 23,9 triệu USD vào năm 2000 lên 334,9
triệu USD vào năm 2010, vượt xa kim ngạch xuất khẩu gạo và đứng đầu về kim
ngạch xuất khẩu của tỉnh (chiếm 53,7% kim ngạch xuất khẩu của tỉnh).
Ngoài ra, hệ thống các làng nghề sản xuất thủy sản ngày càng được phát triển
thông qua hệ thống chính sách hỗ trợ về vốn, công nghệ cũng như thị trường.
Điển hình như các làng nghề chế biến các sản phẩm từ thủy sản nổi bật như Chợ
Mới, Châu Đốc…
2.3. THỰC TRẠNG Ô NHIỄM MÔI TRƢỜNG DO SỰ PHÁT TRIỂN NGÀNH
THỦY SẢN Ở TỈNH AN GIANG
2.3.1. Nguyên nhân ô nhiễm môi trƣờng do sự phát triển ngành thủy sản

Tình trạng ô nhiễm môi trường đang xảy ra nghiêm trọng trong nuôi trồng
thủy sản do phần lớn các chất hữu cơ dư thừa từ thức ăn, phân và các rác thải
khác đọng lại dưới đáy ao nuôi. Ngoài ra, còn các hóa chất, kháng sinh được sử
dụng trong quá trình nuôi trồng cũng dư đọng lại mà không được xử lý.
Việc hình thành lớp bùn đáy do tích tụ lâu ngày của các chất hữu cơ, cặn bã là
nơi sinh sống của các vi sinh vật gây thối, các vi sinh vật sinh các khí độc như

NH3, NO2, H2, H2S, CH4.... Các vi sinh vật gây bệnh như: Vibrio, Aeromonas,
Ecoli, Pseudomonas, Proteus, Staphylococcus... nhiều loại nấm và nguyên sinh
động vật.
Nhìn chung cơ chế gây ô nhiễm thường diễn biến theo con đường như sau: Do
khi nuôi cá người ta thường sử dụng 2 dạng thức ăn chính:
- Thức ăn xanh(cỏ, lá): Nếu nguồn thức ăn này không được kiểm soát phần dư
thừa sẽ bị lắng đọng và bị phân hủy bởi các vi sinh vật yếm khí, tạo ra các chất
hữu cơ độc hại như CH4, làm giảm lượng oxi hòa tan.
- Thức ăn tinh là các dạng cám công nghiệp hay cám tự nhiên, dạng thức ăn
này thường bổ sung một nguồn đạm và tinh bột xuống môi trường nước phần dư
thừa sẽ bị phân giải thành các chất vô cơ.
Về cơ bản các chất trên sẽ không gây ngộ độc cho tôm, cá, baba, ếch…tuy
nhiên nếu nồng độ vượt quá giới hạn thì sẽ làm giảm lượng oxi, ngoài ra khi đó
các vi sinh vật gây hại sẽ tăng lên đáng kể và sẽ gây bệnh cho thủy sản. Vì vậy
chúng ta phải quản lý các nguồn thức ăn tốt, không để dư thừa, thường xuyên

17


thay nước định kỳ, bổ sung các chế phẩm sinh học cho môi trường nước là một
cách bổ sung vi sinh vật có ích, qua đó làm cân bằng hệ vi sinh vật trong nước.
Ngoài ra sau mỗi trận mưa môi trường ao nuôi bị thay đổi đáng kể làm cho cá
bị sốc dẫn đến dịch bệnh nếu nặng thì có thể chết cá.
Khi ô nhiễm hàm lượng NO2, NO3- tăng lên, một phần NO2 sẽ được tạo thành
acid nitric, đây là một loại acid gây độc cho các tế bào, làm phá hủy tế bào và
làm cá mất dưỡng khí. Ngoài ra phần NO2 và NO3- còn lại đặc biệt là lượng NO2
sẽ kết hợp với Hemoglobin trong máu(khí này được cá thẩm thấu qua mang đưa
vào máu). Mà Hemoglobin(HbFe) là hồng huyết cầu có vai trò vận chuyển oxi
trong máu giúp cá hô hấp. Tuy nhiên khi NO2 quá lớn trong máu sẽ chuyển
HbFe2 thành methaemoglobinemia(HbFe3) làm mất khả năng vận chuyển oxi của

Hemoglobin. Từ đó làm cho cá, tôm bị ngạt do thiếu ôxi.
Ở người khi hàm lượng NO2 và NO3- cao cũng gây ngộ độc tương tự, nếu
hàm lượng NO2 và NO3- được đưa vào cơ thể con người liên tục và trong thời
gian dài thì lập tức NO2 sẽ kết hợp với các acid amin tạo nên chất Nitrosamine
đây là hợp chất gây ung thư cực mạnh, ban đầu nó gây lên hiện tượng đột biến ở
các tế bào từ đó tạo ra các tế bào ung thư và các tế bào này nhanh chóng được
nhân lên tạo nên khối u ác tính và gây lên bệnh là ung thư.
2.3.2. Thực trạng và hậu quả của ô nhiễm môi trƣờng đất, nƣớc do sự phát
triển ngành thủy sản

Môi trường đất, môi trường nước và các hệ sinh thái trong phát triển nuôi
trồng thủy sản bị biến đổi gây suy thoái, ô nhiễm môi trường. An Giang là tỉnh
tập trung nhiều các loại đất phèn tiềm tàng (pyrite FeS2) và phèn hoạt động
(jarosite (K/Na.Fe3/Al3(SO4)2(OH)6). Khi bị đào đắp ao nuôi thủy sản, đào kinh
rạch cấp và thoát nước, vệ sinh ao nuôi sau mùa thu hoạch đã làm cho tầng phèn
tiềm ẩn bị tác động bởi quá trình ôxy hóa sẽ diễn ra quá trình lan truyền phèn rất
mãnh liệt làm giảm độ pH môi trường nước, gây ô nhiễm môi trường và dịch
bệnh tôm, cá trong nuôi trồng.
Các nguồn thải ra sông rạch đã tác động làm cho môi trường nước bị biến đổi.
Chất lượng nước trong các ao nuôi thủy sản gồm cá nước ngọt, nuôi tôm đặc biệt
là trong các mô hình nuôi công nghiệp đã cho thấy dấu hiệu ô nhiễm hữu cơ
(BOD, COD, nitơ, phốt pho cao hơn tiêu chuẩn cho phép), có sự xuất hiện các
thành phần độc hại như H2S, NH3+, và chỉ số vi sinh Coliforms, đã cho thấy
nguồn nước thải này cần phải được xử lý triệt để trước lúc thải ra sông rạch.
Môi trường nước có dấu hiệu ô nhiễm hữu cơ, các vi sinh trong nước
Coliforms, độ đục, amoniac trong nước... ảnh hưởng đến chất lượng môi trường
nước, đặc biệt là nước dùng cho nhu cầu cấp nước…gây ảnh hưởng đến nuôi
18



trồng thủy sản, đặc biệt độ đục môi trường cao do nước phù sa và quá trình đào
đắp sên vét ao nuôi tôm phát sinh không được xử lý thải ra môi trường.
Nuôi cá bè trên sông rạch, nuôi thâm canh thủy sản đã gây nên các tác động
đến chất lượng môi trường nước ở đây.
Chất thải trong nuôi trồng thủy sản là bùn thải chứa phân của các loài thủy
sản tôm cá, các nguồn thức ăn dư thừa thối rữa bị phân hủy, các chất tồn dư của
các loại vật tư sử dụng trong nuôi trồng như: hóa chất, vôi và các loại khoáng
chất Diatomit, Dolomit, lưu huỳnh lắng đọng, các chất độc hại có trong đất phèn
Fe2+, Fe3+, Al3+, SO42-, các thành phần chứa H2S, NH3... là sản phẩm của quá
trình phân hủy yếm khí ngập nước tạo thành, nguồn bùn phù sa lắng đọng trong
các ao nuôi trồng thủy sản thải ra hàng năm trong quá trình vệ sinh và nạo vét ao
nuôi. Đặc biệt, với các mô hình nuôi kỹ thuật cao, mật độ nuôi lớn như nuôi thâm
canh, nuôi công nghiệp... thì nguồn thải càng lớn và tác động gây ô nhiễm môi
trường càng cao.
Một số kết quả nghiên cứu cho thấy, chỉ có 17% trọng lượng khô của thức ăn
cung cấp cho ao nuôi được chuyển thành sinh khối, phần còn lại được thải ra môi
trường dưới dạng phân và chất hữu cơ dư thừa thối rữa vào môi trường. Đối với
các ao nuôi công nghiệp chất thải trong ao có thể chứa đến trên 45% nitrogen và
22% là các chất hữu cơ khác. Các loại chất thải chứa nitơ và phốtpho ở hàm
lượng cao gây nên hiện tượng phú dưỡng môi trường nước phát sinh tảo độc
trong môi trường nuôi trồng thủy sản. Đặc biệt, nguồn chất thải này lan truyền rất
nhanh đối với hệ thống nuôi cá bè trên sông, nuôi cá trong các đầm trũng ngập
nước... cùng với lượng phù sa lan truyền có thể gây ô nhiễm môi trường và dịch
bệnh thủy sản phát sinh trong môi trường nước.
Đối với nuôi cá nước ngọt, lượng thải nhiều ít còn phụ thuộc vào thức ăn đưa
vào chăn nuôi, thông thường chi phí thức ăn phải từ 1,5-2 kg thức ăn/1kg sản
phẩm, ngoài ra còn lượng thức ăn dư thừa không tiêu thụ hết lắng xuống tạo ra
nguồn thải rất dễ phân hủy hữu cơ gây ô nhiễm môi trường nguy cơ phát sinh và
lây lan dịch bệnh. Các ao nuôi sau quá trình thu hoạch sản xuất thường phải nạo
vét bùn cặn. Đây là một nguồn thải rất lớn có thể gây ô nhiễm môi trường.

Những năm gần đây, dịch bệnh đã phát sinh trên diện rộng ở các loại cá, tôm
nuôi diễn biến rất phức tạp gây nhiều thiệt hại đối với người nuôi trồng thủy sản.
Nuôi cá nước ngọt trên sông ô nhiễm môi trường làm cá tra, cá ba sa... chết hàng
loạt ở một số bè cá trên sông; dịch bệnh trên các ao hồ và cá đồng ở An Giang.
Cùng với tác động môi trường do chất thải trong sản xuất chế biến công nghiệp,
nước thải sinh hoạt ở các khu dân cư và đô thị... cũng góp phần tác động đến chất
lượng môi trường nước ảnh hưởng đến cả kinh tế và môi trường sinh thái.

19


Chi phí đầu tư cho các phương pháp xử lý nước thải hiện nay còn cao trong
khi giá cá bán ra ở mức thấp. Vì vậy việc áp dụng phương pháp xử lý nước thải
chỉ thực hiện được đối với các hộ nuôi có qui mô lớn, các vùng nuôi cá sạch của
các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu; trước đây, do chưa có tiêu chuẩn nước mặt
riêng cho các hoạt động nuôi trồng thủy sản nên việc áp dụng Tiêu chuẩn Việt
Nam TCVN 6774:2000 chuẩn Việt Nam TCVN 9542:1995 Quy định về Tiêu
chuẩn chất lượng nước mặt các chỉ số ô nhiễm tương đối cao và yêu cầu đối với
nước thải chưa phù hợp với nước thải hoạt động nuôi trồng thủy sản; Việc chừa
diện tích đất để bố trí ao xử lý nước thải là rất khó khăn do hộ nuôi không có đất
hoặc khi làm báo cáo ĐTM hay cam kết bảo vệ môi trường thì hộ nuôi có nêu
các khu vực xử lý nước thải nhưng thạc chất các khu vực này đều được tận dụng
để thả cá nuôi, trong khi đó lực lượng chức năng không thường xuyên kiểm tra
và xử lý những hộ vi phạm cam kết.
2.4. TIỂU KẾT CHƢƠNG 2

An Giang nằm ở phía Tây Nam Việt Nam, điều kiện tự nhiên của tỉnh thuận lợi
cho sự phát triển các ngành thủy sản với khí hậu á xích đạo, mạng lưới sông ngòi
dày đặt với 2 sông lớn là sông Tiền và sông Hậu, nguồn nước dồi dào. Điều kiện
KTXH với dân cư có kinh nghiệm KTTS và NTTS, giao thông thuận lợi. Dựa

trên các điều kiện về tự nhiên và KTXH, ngành thủy sản tỉnh An Giang đã có
những bước phát triển nhanh và vững chắc từ KTTS, NTTS đến CBTS... thị
trường các mặt hàng thủy sản được mở rộng, giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy
sản tăng nhanh. Sự phát triển thủy sản của tỉnh tác động mạnh mẽ đến môi
trường làm ô nhiễm môi trường đất, nước trầm trọng gây ảnh hưởng đến sức
khỏe con người nên cần có các công tác và các giải pháp giải quyết kịp thời. Do
đó, người dân An Giang cần bảo vệ môi trường, PTTSBV.

20


CHƢƠNG 3
ĐỊNH HƢỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG,
PHÁT TRIỂN NGÀNH THỦY SẢN TỈNH AN GIANG
THEO HƢỚNG BỀN VỮNG
3.1. ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN NGÀNH THỦY SẢN Ở TỈNH AN GIANG
ĐẾN 2020
- Phát triển ngành thủy sản bền vững, đưa nghề cá của tỉnh hội nhập đầy đủ vào hệ
thống kinh tế khu vực và quốc tế.
- Ứng dụng công nghệ giống, quy trình nuôi an toàn, phát triển thủy sản bền vững gắn
với đầu tư công nghệ chế biến hiện đại đáp ứng yêu cầu xuất khẩu.
- Chuyển dịch cơ cấu theo hướng đẩy mạnh NTTS theo hình thức bán thâm canh và
thâm canh các loại thủy sản có giá trị cao, đồng thời hạn chế gia tăng khai thác thủy sản
tự nhiên.
- Diện tích đất và mặt nước NTTS: Tăng tổng diện tích đất dành cho nuôi thủy sản từ
3.566 ha (2015) và tăng lên 11.800 ha (2020). Trong đó diện tích nuôi cá ao chiếm chủ
yếu (58%), còn lại là diện tích nuôi tôm (42%). Các khu vực nuôi trong quy hoạch: Khu
vực ngã ba sông Châu Đốc, đoạn sông Hậu thuộc Châu Phú, đoạn sông Kênh Xáng
thuộc Tân Châu, …
3.2. CÁC GIẢI PHÁP BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG, PHÁT TRIỂN NGÀNH THỦY

SẢN TỈNH AN GIANG THEO HƢỚNG BỀN VỮNG
3.2.1. Các công tác bảo vệ môi trƣờng, phát triển ngành thủy sản tỉnh an giang
theo hƣớng bền vững

Trước nhu cầu bức thiết của ngành nuôi trồng thủy sản, Sở NN&PTNT kết
hợp với các Sở ban ngành trong tỉnh thực hiện công tác bảo vệ môi trường trong
nuôi trồng thủy sản.
- Công tác giám sát định kỳ:

Kết hợp với Sở TN&MT tổ chức công tác giám sát định kỳ tại các vùng nuôi
trồng thủy sản trọng điểm để đánh giá mức độ ô nhiễm của nguồn nước và đưa ra
cảnh báo cho người dân trong sinh hoạt và nuôi trồng thủy sản. trong năm 2010
đã thực hiện 4 đợt với tổng số mẫu nước thu là 48 mẫu.
- Chương trình giám sát môi trường:

Kết hợp với Viện Nghiên cứu NTTS II triển khai Chương trình giám sát môi
trường tại một số điểm trên sông Tiền, sông Hậu trên địa bàn tỉnh. Cụ thể phương
thức giám sát thụ động được thực hiện tại 24 xã phường thị trấn thuộc 8 huyện
thị thành phố có nuôi thủy sản tập trung, phương thức giám sát chủ động được
21


thực hiện tại TP Long Xuyên và các huyện lân cận như: Châu Thành, Thoại Sơn
và Chợ Mới. Định kỳ mỗi tháng thu mẫu nước tại 4 điểm trên sông Tiền và sông
Hậu: Châu Đốc, Phú Tân, Long Xuyên (Sông Hậu) và Chợ Mới (sông Tiền). để
kiểm tra phân tích chất lượng nước tại các điểm giám sát, tổng số mẫu nước thu
là 20 mẫu/tháng.
Phối hợp với ĐHCT thực hiện chương trình giám sát môi trường, kiểm tra
phân tích chất lượng nguồn nước phục vụ nuôi trồng thủy sản. Thực hiện giám
sát tại 3 xã thuộc huyện Châu Phú và 5 xã thuộc huyện Phú Tân. Định kỳ hàng

tháng thu mẫu nước kiểm tra phân tích chất lượng nước, mỗi xã thu 3 mẫu
thử/tháng, tổng số mẫu thu 15 mẫu nước/tháng, định kỳ 15 ngày/lần kiểm tra một
số chỉ tiêu về môi trường tại 5 xã thực hiện giám sát.
- Công tác tập huấn, tuyên truyền:

Lồng ghép với các lớp tập huấn về vệ sinh an toàn thực phẩm và các lớp tập
huấn về văn bản pháp luật cho các cơ sở nuôi thủy sản tại các huyện trong tỉnh đã
tổ chức 66 lớp với hơn 1.500 nông dân tham dự. Các lớp tập huấn này nhằm
tuyên truyền về tác hại của ô nhiễm môi trường đến nguồn nước phục vụ sinh
hoạt và nuôi trồng thủy sản, các quy định về xử lý nước thải, quy định về qui
phạm hành chính liên quan đến gây ô nhiễm môi trường.
Tuyên truyền các quy định về bảo tồn đa dạng sinh học cũng như vai trò, tầm
quan trọng của đa dạng sinh học và nguy cơ của suy thoái đa dạng sinh học đến
đời sống con người.
Tuyên truyền trên sông tại khu vực nuôi thủy sản tập trung về đa dạng sinh
học và bảo vệ môi trường, tổng cộng thực hiện được 10 đợt.
- Công tác xác nhận đăng ký hoạt động nuôi trồng thủy sản:

Thực hiện Quyết định số 21/2009/QĐ-UBND ngày 17/6/2009 của UBND tỉnh
An Giang về việc sửa đổi bổ sung một số Điều trong Quyết định số 11/2008/QĐUBND ngày 31/3/2008 của UBND tỉnh về việc ban hành Bản Quy định về quản
lý nuôi trồng thủy sản trên địa bàn tỉnh An Giang; Các cơ sở nuôi trồng khi đăng
ký hoạt động nuôi trồng thủy sản tại các xã phường thị trấn phải đảm bảo có Giấy
xác nhận cam kết bảo vệ môi trường hoặc báo cáo đánh giá tác động môi trường
- Xây dựng vùng nuôi cá sạch:

Toàn tỉnh có 21 nhà máy chế biến thủy sản xuất khẩu thuộc 17 doanh nghiệp
chế biến thủy sản xuất khẩu. Trong đó có 4 doanh nghiệp xây dựng ddwwojc
vùng nguyên liệu cá sạch đáp ứng khoảng 40% nhu cầu nguyên liệu của nhà máy
và được tổ chức theo mô hình Liên hợp hoặc Hội nuôi cá sạch gồm: Cty Cổ phần
XNK thủy sản An Giang (AGIFISH), Cty TNHH Việt An, Cty XNK Nông sản

22


thực phẩm An Giang (AFIEX), Cty Tuấn Anh (NTACO). Tổng cộng 4 vùng nuôi
của 4 doanh nghiệp chế biến thủy sản có diện tích 155ha với sản lượng đạt
khoảng 130.000 tấn/năm chiếm khoảng 40% sản lượng thủy sản xuất khẩu của
tỉnh.
- Áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế
Đào tạo 02 lớp chuyên viên thực hành HACCP và SQF cho 50 cán bộ thủy
sản của tỉnh là giảng iên cấp I. Đào tạo về HACCP và SQF cho 70 cán bộ, kỹ
thuật viên thủy sản là giảng viên cấp II cho tuyến huyện. Đồng thời, tổ chức đào
tạo được 38 lớp huấn luyện kỹ năng nuôi thủy sản theo tiêu chuẩn SQF 1000CM
với 956 học viên tham gia và 10 lớp huấn luyện kỹ năng ương giống thủy sản với
261 học viên tham gia.
3.2.2. Các giải pháp bảo vệ môi trƣờng, phát triển ngành thủy sản tỉnh an giang
theo hƣớng bền vững

Để giải quyết tình trạng này, trước tiềm năng về nuôi trồng thủy sản mang lại,
An Giang cần có các đầu vào tương ứng, trong đó đặc biệt là đầu tư nguồn cấp và
thoát nước. Tuy nhiên, việc xây dựng một hệ thống thủy lợi riêng biệt để phục vụ
nuôi trồng thủy sản trong khi đã có một hệ thống thủy lợi phục vụ nông nghiệp
tương đối phát triển là việc làm không thích hợp và rất lãng phí. Cần phải quy
hoạch thủy lợi gắn với quy hoạch nuôi trồng thủy sản bảo đảm hài hòa các tiêu
chí vùng sinh thái.
Ở An Giang tiềm năng diện tích, những thuận lợi về điều kiện tự nhiên đã tạo
môi trường nuôi trồng thủy sản đa dạng về đối tượng, phong phú về mô hình
nuôi với các hình thức và mức độ thâm canh khác nhau, nhưng tính bền vững còn
thấp. Thời gian qua, chúng ta đã lạm dụng và khai thác quá mức nguồn tài
nguyên sẵn có. Do vậy, hiệu quả kinh tế có chiều hướng giảm dần do rủi ro tăng
cao. Những yêu cầu về chất lượng và số lượng nguồn nước cấp và nước thải từ

các mô hình nuôi khác nhau, mức độ thâm canh khác nhau, đòi hỏi sự đầu tư của
ngành thủy lợi, làm thế nào đáp ứng để nâng cao chất lượng và số lượng cấp
nước, hạn chế lây lan ô nhiễm và dịch bệnh từ nguồn nước thải. Phải thiết kế tính
toán thuỷ lợi thế nào để hạn chế làm ô nhiễm, hạn chế xảy ra dịch bệnh. Mặt
khác trong thực tế chưa có tiền lệ, chưa có mô hình mẫu về đầu tư thủy lợi phục
vụ nuôi trồng thủy sản với qui mô rất lớn với 2 đối tượng chính là nuôi cá tra và
cá basa, do đó cần có sự phối hợp giữa các chuyên gia ở nhiều lĩnh vực khác
nhau xây dựng một số mô hình thực nghiệm qui mô đi từ nhỏ đến lớn. Bên cạnh
đó cần xây dựng một số công trình trọng điểm mang tính đột phá về cải thiện
nguồn nước cấp và thoát cho vùng nuôi quảng canh cải tiến.

23


Trước tốc độ chuyển dịch kinh tế thủy sản như hiện nay đòi hỏi cấp bách việc
qui hoạch thuỷ lợi phù hợp đáp ứng nhu cầu sản xuất đa mục tiêu trong đó nổi
lên vấn đề qui hoạch thuỷ lợi như thế nào vưà đáp ứng nhu cầu nuôi thủy sản ở
An Giang vừa phù hợp với sản xuất nông nghiệp, đặc biệt và không ảnh hưởng
đến môi trường nước sinh hoạt cho cư dân trong tỉnh. Vấn đề khó nhất đặt ra là
việc tính toán như thế nào để tận dụng và khai thác có hiệu quả, tránh lãng phí
đối với những công trình thủy lợi trái với đặc điểm sinh thái trong tỉnh.
- Tiếp tục đào tạo huấn luyện về nhân lực xây dựng vùng nuôi thủy sản an
toàn và chất lượng theo các tiêu chuẩn quốc tế để có lực lượng nồng cốt có kiến
thức sâu rộng về an toàn chất lượng, HACCP, GLOBALGAP,…;
- Tiếp tục khuyến khích các doanh nghiệp chế biến thủy sản xây dựng và mở
rộng các vùng nuôi cá theo tiêu chuẩn quốc tế, có hệ thống xử lý nước thải đảm
bảo không gây ô nhiễm môi trường;
- Xây dựng dự án liên kết chuỗi gắn kết các khâu từ sản xuất đến chế biến tiêu
thụ sản phẩm. Thực hiện thí điểm cho 3 doanh nghiệp: Cty CP XNK thủy sản An
Giang (AGIFISH), Cty TNHH Việt An, Cty TNHH SX-TMDV Thuận An;

- Các cơ sở sản xuất kinh doanh thức ăn, thuốc hóa chất phục vụ cho nuôi
trồng thủy sản gắn kết với cơ sở nuôi, vùng nuôi tham gia vào chuỗi cung ứng
sản xuất đạt tiêu chuẩn chất lượng. Tham gia các lớp tập huấn về an toàn chất
lượng cung cấp sản phẩm đạt tiêu chuẩn chất lượng đáp ứng yêu cầu của cơ sở
nuôi, vùng nuôi đồng thời gây ô nhiễm môi trường;
- Áp dụng BMPs: Phát triển các biện pháp nuôi tốt cá tra, thực hiện quy tắc
thực hành nuôi tốt theo BMP đối với các cơ sở nuôi thủy sản trong địa bàn tỉnh
An Giang, đảm bảo sản phẩm đạt tiêu chuẩn an toàn chất lượng và bảo vệ môi
trường;
- Áp dụng nghiêm ngặt các điều kiện đã được Bộ NN&PTNT quy định về
điều kiện cơ sở, vùng nuôi cá tra tham canh đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm
ban hành theo Thông tư số 45/2010/TT-BNNPTNT ngày 22/7/2010;
- Đặt ra các chỉ tiêu cụ thể đến năm 2012 như: diện tích nuôi thủy sản được
chứng nhận nuôi an toàn chất lượng theo các tiêu chuẩn quốc tế là 50%, sản
lượng nguyên liệu thủy sản xuất khẩu của tỉnh được chứng nhận đạt tiêu chuẩn
an toàn chất lượng 50%, vùng nuôi thuộc các doanh nghiệp chế biến thủy sản
xuất khẩu được chứng nhận nuôi an toàn theo các tieu chuẩn quốc tế: 60%, hộ
nuôi thủy sản được đào tạo các lớp huấn luyện kỹ năng nuôi thủy sản an toàn và
chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế và chọn tạo giống thủy sản chất lượng cao:

24


60%, Cán bộ thủy sản cấp tỉnh và huyện thị thành phố được đào tạo kiến thức về
tiêu chuẩn an toàn chất lượng: 80%
- Khác với biện pháp hóa học và kháng sinh, chế phẩm sinh học cung cấp một
phương thức an toàn bền vững đối với người nuôi và tiêu dùng. Nhìn chung chế
phẩm sinh học phải đạt được các tiêu chuẩn sau đây:
+ Thứ nhất: Làm cân bằng hệ vi sinh vật trong nước, ức chế sự phát triển quả
mức của các nhóm vi sinh vật gây hại, đưa về ngưỡng an toàn cho các động vật

thủy sinh.
+ Thứ hai: Các vi sinh vật có lợi trong chế phẩm sinh học phải đủ lớn để khi
đưa vào môi trường ao nuôi có hiệu quả nhanh và mạnh giảm thiểu ô nhiễm môi
trường, hạn chế dịch bệnh trên thủy sản.
+ Thứ ba các vi sinh vật trong chế phẩm phải có khả năng phân giải các chất
vô cơ, hữu cơ trong ao nuôi làm giảm thiểu các nguồn gây ô nhiễm từ Nito như
NO2, NH3, NO3-…từ đó cải thiện chất lượng nước đáng kể.
+ Thứ tư: Cung cấp nguồn dưỡng chất cần thiết cho cá, tôm, hệ vi sinh vật
trong nước phát triển như cung cấp dinh dưỡng khoáng thiết yếu, các acid amin,
vitamin…

Với chế phẩm sinh học Vườn sinh thái có 5 thành phần cơ bản như: acid
amin, dinh dưỡng khoáng, vitamin, vi sinh vật hữu ích, các loại men. Sẽ đáp ứng
được đầy đủ các tiêu chuẩn nói trên vì vậy khi chúng ta xử lý chế phẩm Vườn
Sinh Thái xuống môi trường ao nuôi về cơ bản sẽ góp phần cải tạo môi trường
nước, hạn chế các nguồn gây bệnh như các vi sinh vật có hại, hạn chế các chất vô
cơ và hữu cơ, cung câp nguồn oxi hòa tan, làm cho thủy hải sản tăng sức đề
kháng, ít dịch bệnh…
3.3. TIỂU KẾT CHƢƠNG 3

Để ngành thủy sản An Giang phát triển bền vững trong tương lai, nhất thiết
phải đề ra định hướng phát triển thủy sản trong đó có KTTS và NTTS đến năm
2020. Để góp phần thực hiện các định hướng đã đề ra thì việc đưa ra các công tác
và các giải pháp để bảo vệ môi trường là hết sức cần thiết góp phần PTTSBV ở
An Giang trong thời gian tới.

25



×