Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 6 tuổi ở trường mầm non krông ANa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (451.52 KB, 26 trang )

MỤC LỤC
Trang
I.Phần mở đầu...................……………………...……………………….....…...3
1. Lý do chọn đề tài...........……………………………………………………....3
2. Mục tiêu và nhiệm vụ...............………………………………………….....…5
3. Đối tượng nghiên cứu...........……………………………………………….…5
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu....…………………………………………..…..5
5.Phương pháp nghiên cứu...................…………………………………..……...5
II. Phần nội dung..............……………………………………………………...6
1. Cơ sở lí luận.......……………………………………………………....……....6
2. Thực trạng…...............……………………………………………....…...…...6
2.1.Thuận lợi, khó khăn.............................................……………………………6
2.2. Thành công, hạn chế.......................…….…………………………………...7
2.3. Mặt mạnh, mặt yếu.......................…………………………………….…….7
2.4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động ...………………………………..….8
2.5. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra…...…..…..8
3.Giải pháp, biện pháp…...................…………………………………......……..8
3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp…..............……………………..…......…8
3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp…................…….......9
3.3. Điều kiều để thực hiện các giải pháp……................………………..…..…20
3.4. Mối quan hệ giữa các biện pháp, giải pháp………....…………….……….21
3.5. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu……............21
4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm ……………...……..................………...21
III. Phần kết luận, kiến nghị………………......................................………...23
1


1. Kết luận……………………….....................…………………….....……….23
2. Kiến nghị……………………………….................……….....……………...24
Tài liệu tham khảo……………………………….............……………………..26


2


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG PHÁT TRIỂN
NGÔN NGỮ CHO TRẺ 5-6 TUỔI TRƯỜNG MẦM NON KRÔNG ANA

I. Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Ngôn ngữ vừa là phương tiện vừa là điều kiện để con người hoạt động và
giao lưu. Trong học tập, ngôn ngữ vừa là công cụ để tư duy, lĩnh hội kiến thức,
vừa nói lên khả năng trí tuệ của con người. Ngôn ngữ được hình thành và phát
triển tâm lý, nhân cách cá nhân.
Ngôn ngữ nói, giao tiếp và đọc, viết có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối
với sự phát triển nhân cách của trẻ Mầm non nói riêng, của con người và xã hội
nói chung.
Lứa tuổi Mầm non là thời kỳ phát cảm ngôn ngữ. Đây là giai đoạn có
nhiều điều kiện thuận lợi nhất cho sự lĩnh hội ngôn ngữ nói và các kỷ năng đọc
viết ban đầu của trẻ. Ở giai đoạn này trẻ đạt được những thành tích vĩ đại mà ở
các giai đoạn sau không thể có được, trẻ học nghĩa và cấu trúc của từ, cách sử
dụng từ ngữ để chuyển tải suy nghĩ và cảm xúc của bản thân, hiểu mục đích và
cách thức con người sử dụng chữ viết.
Cùng với quá trình lĩnh hội ngôn ngữ, trẻ lĩnh hội và phát triển các năng
lực tư duy như xây dựng và biểu đạt ý tưởng, chia sẻ thông tin và tiếp nhận, đáp
lại ý tưởng, thông tin với người khác. Ngôn ngữ giúp trẻ bày tỏ ý kiến, đặt câu
hỏi, phân loại và phát triển cách tư duy và tạo nên cầu nối giữa quá khứ, hiện tại
và tương lai. Vygotsky đã nhấn mạnh rằng ngôn ngữ nói rất quan trọng trong
việc giải quyết nhiệm vụ khó, tạo mối quan hệ xã hội và kiểm soát hành vi của
những trẻ khác cũng như hành vi của bản thân.
Phát triển ngôn ngữ và giao tiếp có ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực phát

triển khác của trẻ. Ngôn ngữ là công cụ của tư duy vì thế ngôn ngữ có ý nghĩa

3


quan trọng trong việc phát triển nhận thức, giải quyết vấn đề và chức năng tư
duy ký hiệu tượng trưng ở trẻ.
Sự lĩnh hội ngôn ngữ là rất cần thiết cho việc phát triển tình cảm, xã hội
và nhận thức của trẻ. Sự phát ngôn ngữ của trẻ ảnh hưởng đến khả năng học tập
trong trường Tiểu học, Trung học và cả trong tương lai. Ngôn ngữ và khả năng
đọc viết là rất quan trọng cho những thành công trong tương lai của con người.
Nâng cao chất lượng giáo dục phát triển ngôn ngữ và chuẩn bị tiếng Việt
cho trẻ theo nguyên tắc cơ bản của Giáo dục có chất lượng. Trẻ em được học
trong một môi trường học tập thân thiện, phương pháp giảng dạy tích cực, cởi
mở và thân quen gần gũi. Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ em phụ thuộc rất lớn
vào sự giao tiếp của trẻ em và người lớn và trẻ em với nhau. Trong công tác giáo
dục trẻ mầm non, giáo viên cần phải có ý thức rèn luyện và phát triển ngôn ngữ
cho trẻ một cách thường xuyên, liên tục ở mọi lúc mọi nơi, mọi hoạt động với
nhiều biện pháp khác nhau. Biện pháp phát triển hoạt động ngôn ngữ cho trẻ 56 tuổi là cách thức thực hiện các nội dung phát triển các kỷ năng ngôn ngữ nhằm
giúp trẻ có khả năng diễn đạt rõ ràng mạch lạc, có văn hóa và chuẩn bị cho trẻ
vào lớp một.
Phát triển khả năng phát âm, rèn ngữ điệu lời nói, hình thành và phát triển
vốn từ, phát triển ngôn ngữ mạch lạc, nghệ thuật cho trẻ 5 - 6 tuổi ở trường mầm
non là một trong những hoạt động giáo dục hữu hiệu nhất để phát triển ngôn ngữ
cho trẻ. Trên thực tế có những giáo viên còn cứng nhắc, rập khuôn, máy móc,
chưa linh hoạt, sáng tạo trong việc tổ chức cho trẻ hoạt động, hạn chế cho trẻ
thực hành trãi nghiệm. Dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề phát triển
ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi. Giúp giáo viên hiểu biết thêm về những
hình thức tổ chức thực hiện, tích cực đổi phương pháp dạy học, nhằm nâng cao
chất lượng giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Bản thân tôi chọn đề tài “Một

số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5- 6 tuổi ở
trường Mầm non Krông ANa ” để nghiên cứu và áp dụng nhằm nâng cao chất
lượng giảng dạy cho đội ngũ giáo viên ở trường.
4


2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
Mục tiêu của đề tài này nhằm bồi dưỡng cung cấp thêm cho giáo viên một
số kiến thức, kỹ năng để tổ chức hoạt động nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ có
hiệu quả hơn. Kiến thức cung cấp cho trẻ phải có trình tự, hợp lý và thống nhất,
đồng thời phải chính xác, thiết thực và mang tính ứng dụng cao.
Nhiệm vụ của đề tài là giúp giáo viên biết cách tổ chức xây dựng môi
trường tổ chức các hoạt động giáo dục trẻ. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là giúp trẻ
lĩnh hội cả ba thành phần của ngôn ngữ đó là phát âm, phát triển vốn từ, nói
đúng ngữ pháp. Nhiệm vụ quan trọng nhất phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 – 6 tuổi
là phát triển ngôn ngữ mạch lạc, lời nói nghệ thuật. Trẻ là chủ thể của phát triển
ngôn ngữ. Ngôn ngữ của trẻ được phát triển thông qua quá trình giao tiếp của trẻ
với những người xung quanh, với môi trường tự nhiên và xã hội. Để phát triển
ngôn ngữ, trẻ phải được nghe, được bắt chước lời nói, được chủ động nói những
lời nói diễn cảm, mạch lạc, rõ ràng, nghệ thuật.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là một số biện pháp chỉ đạo nâng cao
chất lượng phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 – 6 tuổi trường Mầm non Krông Ana.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất
lượng phát triển ngôn ngữ
Phạm vi đối tượng: Học sinh 5 – 6 tuổi trường Mầm non Krông Ana
Phạm vi thời gian: Năm học 2015 - 2016
5. Phương pháp nghiên cứu
Khi thực hiện đề tài này đã sử dụng:

+ Phương pháp điều tra
+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu
+ Phương pháp trao đổi đàm thoại
5


+ Phương pháp trải nghiệm thực tiễn.
II. Phần nội dung
1. Cơ sở lý luận
Sự phát triển toàn diện của trẻ bao gồm cả phát triển về đạo đức, chuẩn
mực hành vi văn hóa. Điều gì tốt, điều gì xấu, cần phải ứng xử, giao tiếp cho
phù hợp… không chỉ là sự bắt chước máy móc. Ngôn ngữ phát triển sẽ giúp trẻ
mở rộng giao tiếp.
Ngôn ngữ phát triển giúp trẻ sớm tiếp thu những giá trị thẩm mỹ trong
thơ ca, chuyện kể,trong cuộc sống hàng ngày. Trong cuộc sống hằng ngày sự tác
động của những lời nói nghệ thật nhẹ nhàng của cô giáo khi truyền cảm xúc của
tác phẩm văn học, như một phương tiện hữu hiệu nhất để phát triển ngôn ngữ
cho trẻ. Lứa tuổi Mầm non là giai đoạn phát triển ngôn ngữ siêu tốc.
Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ cũng có mục đích, nhiệm vụ, nội
dung, phương pháp cụ thể như các phương pháp hoạt động khác. Phát triển ngôn
ngữ cho trẻ được tích hợp trong tất cả hoạt động giáo dục trẻ. Việc phát triển
ngôn ngữ cho trẻ mầm non nói chung, trẻ 5 – 6 tuổi nói riêng là rất quan trọng
đối với giáo viên mầm non. Đội ngũ giáo viên cần có những kiến thức, kỷ năng,
biện pháp, thủ thuật, biết tận dụng các cơ hội có được mới có thể nâng cao chất
lượng tổ chức phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách tốt nhất.
2.Thực trạng
2.1. Thuận lợi, khó khăn
Trường mầm non Krông Ana là một trường trọng điểm của ngành học
mầm non. Có cơ sở vật chất, trang thiết bị đồ dùng, đồ chơi tương đối đầy đủ.
Đội ngũ giáo viên đa số đã có bề dày kinh nghiệm trong công tác giảng dạy. Có

nhiều giáo viên trẻ, linh hoạt, sáng tạo, có khả năng truyền thụ kiến thức cho trẻ
một cách hiệu quả.
Bên cạnh đó vẫn còn một số giáo viên (nhất là giáo viên lớn tuổi, giáo
viên mới ra trường). Khi tiếp cận với chương trình giáo dục mầm non (mới),
6


việc tổ chức hướng dẫn cho trẻ hoạt động còn cứng nhắc, rập khuôn, máy móc
(nhất là lĩnh vực phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 - 6 tuổi) giáo viên chưa có kỹ
năng, thủ thuật, đọc thơ, kể chuyện chưa diễn cảm, chưa truyền được cảm xúc
cho trẻ, chưa gây được hứng thú cho trẻ khi hoạt động.
2.2. Thành công và hạn chế
Khi vận dụng đề tài này, giáo viên sẽ có những kiến thức cơ bản, những
biện pháp, những kỹ năng, thủ thuật đọc thơ, kể chuyện diễn cảm, để truyền thụ
kiến thức, đưa đến cho trẻ những cảm xúc, những hình tượng tuyệt diệu của
ngôn ngữ một cách có hệ thống. Từ đó hướng chú ý của trẻ vào phát âm chuẩn
xác, vốn từ phát triển,lời nói mạch lạc, nghệ thuật
Trẻ biết tự kể lại chuyện, biết sử dụng trong lời nói của mình bằng các từ
mà trẻ đã lĩnh hội được. Điều này chứng tỏ đã chuẩn bị cho sự phát triển ngôn
ngữ nghệ thuật của trẻ. Tuy nhiên với những nội dung của đề tài này, nếu giáo
viên không chịu khó suy nghĩ, rèn luyện kỹ năng để vận dụng vào thực tế thì
nhiều hoạt động giáo dục để phát triển ngôn ngữ cho trẻ không đạt được hiệu
quả cao.
2.3. Mặt mạnh, mặt yếu
Với nội dung của đề tài này giáo viên đã biết vận dụng trong quá trình
hướng dẫn trong các hoạt động.
Tổ chức cho trẻ 5 – 6 tuổi trong các hoạt động giáo dục với nhiều hình
thức khác nhau như hình thức trong tiết học, hay hoạt động ngoài trời, đi dạo, đi
tham quan đều vận dụng các biện pháp đưa ra để dạy trẻ, nhằm giúp trẻ hoạt
động tích cực… Trẻ biết phân tích, tổng hợp và khái quát hóa tri thức, đồng thời

trẻ biết cảm nhận, rung động trước cái hay, cái đẹp của tác phẩm của đời sống xã
hội.
Từ đó trẻ không những thích đọc thơ, đọc ca dao, đồng dao, thích kể
chuyện mà còn biết cách đọc thơ, kể chuyện diễn cảm, lời nói của trẻ rõ ràng,
mạch lạc, nghệ thuật, trẻ tự tin trong giao tiếp. Song nếu giáo viên không chịu
7


khó suy nghĩ, đầu tư xây dựng môi trường hoạt động cho trẻ, không có sự linh
hoạt sáng tạo khi vận dụng các nội dung biện pháp của đề tài thì việc tổ chức
hướng dẫn trẻ hoạt động để phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở trường mầm non vẫn
chưa đạt hiệu quả.
2.4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động
Với nội dung đề tài này đã đưa ra các biện pháp thực tiễn, dễ thực hiện.
Đã có sự lựa chọn nội dung, các phương pháp biện pháp và hình thức phù hợp
cho trẻ thực hành trải nghiệm để phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Tiến hành phân
tích tổng hợp tìm ra được những ưu điểm, hạn chế của giáo viên hay của trẻ, để
tổ chức các hoạt động giáo dục nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ có hiệu quả
hơn.
2.5. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra
Từ những khó khăn bất cập về việc cho phát triển ngôn ngữ trẻ 5 - 6 tuổi
các hoạt động giáo dục. Muốn thành công và hạn chế những vấn đề yếu kém, và
tìm ra được nguyên nhân
Để khắc phục, cần phải thường xuyên phân tích và tổng kết kinh nghiệm
giảng dạy. Cần có sự lựa chọn nội dung phương pháp, biện pháp và các hình
thức cho trẻ tiếp cận với hoạt động giáo dục. Tiến hành phân tích tổng hợp tìm
ra những nguyên nhân ưu điểm hạn chế của cá nhân hay tập thể sư phạm trong
quá khứ, để tổ chức phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 - 6 tuổi trong các hoạt động
học tập và vui chơi ở trường mầm non được tốt hơn.
3. Giải pháp, biện pháp

3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
Các giải pháp biện pháp đưa ra sẽ giúp cho giáo viên có thêm kỹ năng thủ
thuật để tổ chức phát triển ngôn ngữ cho trẻ có hiệu quả. Giáo viên biết phân
tích nội dung và nghệ thuật của tác phẩm và hướng dẫn trẻ thực hành trãi
nghiệm.

8


Giáo viên nắm được kỷ thuật truyền đạt cho trẻ. Giúp trẻ phát âm rõ ràng,
sử dụng các phương tiện biểu cảm ngữ điệu ( tốc độ, nhịp điệu, ngừng nghỉ, điều
chỉnh độ nhanh chậm, cường độ giọng). Làm cho việc tiếp thu kiến thức của trẻ
trở nên dễ dàng và sự ghi nhớ giàu cảm xúc để phát triển ngôn ngữ của trẻ trở
nên bền vững và chính xác hơn.
3.2. Nội dung và cách thức thực hiện các giải pháp, biện pháp
* Biện pháp thứ nhất: Hướng dẫn giáo viên rèn luyện khả năng nghe lời
nói, khả năng phát âm, rèn luyện ngữ điệu của lời nói cho trẻ.
Phản ứng nghe các âm thanh tự nhiên xuất hiện ở trẻ rất sớm. Nhất là trẻ 5
– 6 tuổi có thể phản ứng được với các mức độ khác nhau của âm thanh lời nói.
Rèn luyện khả năng nghe cho trẻ bao gồm các thành tố: rèn luyện khả
năng chú ý nghe, nghe cao độ, nghe từng âm vị, tri giác tốc độ, nhịp độ lời nói.
Khả năng nghe tốt sẽ tạo điều kiện cho khả năng nói phát triển.
Đối với trẻ năm tuổi, vốn từ tăng nhanh, trẻ hiểu được nghĩa và dùng từ
đã chính xác hơn, đã sử dụng được nhiều mẫu câu đơn giản, đúng ngữ pháp, có
thể kể một số chuyện ngắn một cách tuần tự, lôgic, có thể kể chuyện theo
tranh… Như vậy, điều kiện và khả năng giao tiếp được mở rộng.
Mặt âm thanh của lời nói cũng nhanh chóng phát triển: Trẻ lĩnh hội được
và phát âm đúng nhiều âm vị, phát âm từ, câu rõ nét hơn, trẻ bắt đầu biết điều
chỉnh tốc độ, cường độ của giọng nói.
Nhiệm vụ của giáo viên là dạy trẻ phát triển khả năng nghe các âm tiết,

phát âm đúng tất cả các âm vị tiếng Việt trong các từ, câu một cách rành mạch,
rõ ràng. Tiếp tục rèn luyện kỹ năng điều chỉnh giọng nói với cường độ, tốc độ
phù hợp với tình huống giao tiếp.
Nếu ở giai đoạn trước sử dụng rộng rãi biện pháp bắt chước thì giai đoạn
này giáo viên cần sử dụng biện pháp cho trẻ tập phát âm (sử dụng các bài tập –
trò chơi) Tuần tự tập cho trẻ phát âm tất cả các âm vị trong tiếng Việt. Các âm vị
9


khó phát âm như: r, s, x, l, m, n phải chú ý tập cho trẻ thường xuyên liên tục ở
mọi lúc mọi nơi.
Phần lớn trẻ tuổi mẫu giáo lớn đã nắm được và phát âm đúng tất cả các
âm vị của tiếng mẹ đẻ, phát âm đúng hầu hết các thanh điệu, biết phát âm đúng
và rõ các từ, biến đổi cường độ, ngữ điệu phù hợp, sử dụng các phương tiện biểu
cảm phát âm phù hợp…
Có một số trường hợp trẻ yếu không phát âm được hoàn toàn các âm vị,
thanh điệu, và phát âm sai một số từ khó, bỏ sót một số nguyên âm. Một số
không phân biệt được các âm gần giống nhau: s – x, l – m - n, r – d; chưa làm
chủ được cường độ, ngữ điệu.
Giáo viên cần tiếp tục hoàn thiện khả năng nghe lời nói cho trẻ, giáo viên
cần phát âm chuẩn xác, rõ ràng cho trẻ bắt chước phát âm theo, củng cố các kĩ
năng nói rõ đúng các từ, câu, sử dụng đúng ngữ điệu biểu cảm cho trẻ.
Giáo viên cần sử dụng các bài tập, trò chơi ngôn ngữ, các câu chuyện kể,
những bức tranh có chủ đề, những bài tập nói nhanh, câu đố… có chứa các câu
khác nhau để trẻ luyện nghe nói đồng thời rèn luyện ở trẻ tốc độ nói, phát âm, kĩ
năng điều chỉnh giọng nói…
Trẻ hát và nói cùng sử dụng một bộ máy phát âm. Vì thế luyện hát cho trẻ
đồng thời cũng là luyện âm thanh ngôn ngữ. Dạy trẻ hát tức là rèn luyện cho trẻ
khả năng điều khiển bộ máy phát âm của mình.
Các giờ nghe hát luyện tai nghe cho trẻ. Tai nghe âm nhạc khiến cho khả năng

nghe tinh tế hơn, nhạy cảm hơn rất nhiều. Chính bởi bản chất của âm thanh âm
nhạc. Nghe nhạc là nghe một cách toàn diện cả cao độ, cường độ, nhịp điệu, âm
sắc…
Các bài hát đòi hỏi trẻ phải làm chủ việc điều khiển phát âm một cách hết
sức tinh tế sao cho âm thanh ngôn ngữ vừa đúng, vừa biểu cảm.

10


Mọi lúc, mọi nơi cô đều có thể luyện phát âm cho trẻ: khi tập thể dục, đi
dạo, giờ chơi, trong thời gian đón và trả trẻ… Giáo viên phải nắm vững khả
năng phát âm của từng cháu để lựa chọn thời điểm thích hợp luyện phát âm cho
trẻ. Để làm được điều này, giáo viên cần tiến hành khảo sát khả năng phát âm
của trẻ ngay từ đầu năm học để tìm hiểu từng cá nhân trẻ. Từ đó có kế hoạch
điều chỉnh cho phù hợp.
Việc luyện tập cho trẻ phát âm đúng và dùng ngữ điệu đúng thích hợp
được diễn ra ở mọi lúc, mọi nơi, mọi hoạt động của trẻ. Trước hết là trong giao
tiếp hằng ngày của trẻ với người lớn, với bạn bè. Trong cuộc sống hằng ngày, cô
cần thường xuyên giao tiếp bằng ngôn ngữ với trẻ. Khi giao tiếp với trẻ, cô phải
phát âm rõ ràng, phát âm đúng để trẻ bắt chước, uốn nắn, tập cho trẻ phát âm
đúng các âm tiết của tiếng mẹ đẻ, nhất là những âm khó, những âm khó phân
biệt, dẫn đến sự nói ngọng: l – m – n , p – q…
Trong giao tiếp hàng ngày, cô không chỉ rèn luyện cho trẻ phát âm đúng,
mà cần tập luyện cho trẻ biết sử dụng ngữ điệu đúng, thích hợp với những hoàn
cảnh, tâm trạng cụ thể. Dùng ngôn ngữ êm dịu, nhẹ nhàng, tình cảm để biểu thị
tình cảm yêu thương của trẻ
Việc dạy trẻ phát âm đúng, sử dụng ngữ điệu thích hợp, đúng còn được
thực hiện trong việc tổ chức cho trẻ chơi, trong hoạt động học tập, đặc biệt là
trong khi kể chuyện cho trẻ nghe và khi trẻ kể chuyện cho người khác nghe.
Khi kể chuyện, giọng nói và ngữ điệu là phương tiện rất quan trọng. Có

thể nói rằng câu chuyện trở nên hấp dẫn nhờ giọng kể hấp dẫn, biết sử dụng ngữ
điệu thích hợp để diễn tả tính cách nhân vật. Trẻ tập trung chú ý cao độ vào
ngôn ngữ kể chuyện của cô, lắng nghe cách phát âm, ngữ điệu của cô, trên cơ sở
đó trẻ học được cách phát âm, dùng ngữ điệu thích hợp, và kể lại chuyện theo sự
sáng tạo của mình. Khi trẻ kể lại chuyện, cô cần uốn nắn cho trẻ cách phát âm
đúng các âm khó, sử dụng ngữ điệu thích hợp, đúng với tính cách nhân vật,
trong những tình huống cụ thể.
11


Ví dụ: Một số bài thơ, đồng dao có thể dùng để luyện phát âm các âm vị
khó cho trẻ như
Con kiến mà leo cành đa
Leo phải cành cụt leo ra leo vào

Hoặc: Lúa nếp là lúa nếp làng
Lúa lên lớp lớp lòng nàng lâng lâng

Con kiến mà leo cành đào,

Hay câu đố: Rì rì rà rà

Leo phải cành cụt leo vào leo ra

Cõng nhà đi chơi
Là con gì? Con Rùa

* Biện pháp thứ 2: Hướng dẫn giáo viên hình thành và phát triển vốn từ
cho trẻ.
Có thể nói rằng đến 5 tuổi trẻ đã tích lũy vốn từ khá phong phú, không

những danh từ, mà cả động từ, tính từ, liên từ đủ để giao tiếp với những người
xung quanh. Việc phát triển vốn từ cho trẻ không chỉ là việc cung cấp từ mới
cho trẻ, mà cần giúp trẻ mở rộng nghĩa của từ mà trẻ đã biết. Vì vậy giáo viên
cần thực hiện những biện pháp cơ bản sau:
Hướng dẫn trẻ quan sát
Giáo viên dạy trẻ quan sát là dạy trẻ biết xem xét, phân tích, so sánh để
tìm ra những đặc điểm, thuộc tính của đối tượng quan sát về các mối quan hệ
của nó với môi trường xung quanh. Trong quá trình quan sát, các giác quan
được huy động (mắt nhìn, tai nghe, tay sờ mó…)
Quá trình hướng dẫn trẻ quan sát là quá trình có mục đích, có kế hoạch,
thứ tự đi từ sự phân tích mặt này đến sự phân tích mặt khác, vừa đưa ra từ mới,
vừa củng cố từ cũ.
Ví dụ: Quan sát cái xe ô tô tải: Nhìn tổng thể có các bộ phận: Buồn lái,
thùng xe, các bánh xe. Đi vào quan sát buồng lái trước (ngoài vào trong) – thùng
xe – gầm bao gồm các bánh xe.
Chuẩn bị cho quan sát:
12


+ Chọn đối tượng phù hợp: Đối tượng cho trẻ quan sát cần phải đẹp, hấp
dẫn, lối cuốn chú ý.
+ Chọn những kiến thức cần thiết: Xe tải to, nặng (có cả xe tải nhỏ - taxi
tải); để chở đồ đạc, hành lí, hàng hóa...
+ Chọn các từ ngữ phù hợp (những từ mới cần cung cấp, những từ khó
cần phải giải nghĩa...).
+ Chọn những bài hát, trò chơi... để tăng sự hấp dẫn của hoạt động.
- Tổ chức quan sát:
+ Bắt đầu chọn một bài thơ, câu đố, một bài hát phù hợp để khởi động.
+ Bắt đầu quan sát, cô cho các cháu tự do trao đổi những nhận xét đầu
tiên và lắng nghe, chú ý đến vốn từ của các cháu được sử dụng như thế nào.

+ Cô tiến hành hướng sự quan sát của các cháu vào mục đích đã đặt ra.
Ví dụ: Khi cho trẻ đi tham quan công viên hoặc trường tiểu học.Cô dự
kiến mục đích quan sát có thể là khung cảnh: (Cổng, đường đi, cũng có thể là
các loại cây cối, các loài hoa).
+ Tri giác của trẻ cần được gắn liền với những từ ngữ (cô đã chuẩn bị
trước). Tuy nhiên, cô cũng không hạn chế các từ ngữ do các cháu tự sử dụng.
+ Cô chú ý các cháu quan sát kĩ và được nói nhiều, các từ ngữ mới nêu
được nhắc đi nhắc lại, kết hợp với tri giác các sự vật hiện tượng.
+ Cần lưu ý cung cấp cả những từ thể hiện tính chất của sự vật như: Màu
hoa đỏ rực rỡ, cánh hoa dày, lá cây nhỏ, con đường kéo dài...
- Cũng cố kiến thức: bằng các bài thơ, câu đố, bài hát, cần củng cố các
kiến thức học được ở tiết học sau hoặc ở các hoạt động khác.
Cho trẻ xem tranh
Trẻ nhỏ rất thích xem tranh; những tranh đẹp có nội dung vừa phát triển
vốn từ, vừa giáo dục thẩm mĩ nghệ thuật cho trẻ. Khi miêu tả bức tranh, trẻ tiếp
thu thêm những từ mới, đồng thời huy động cả vốn từ cũ nữa.
13


Khi xem tranh, trẻ thường chú ý một cách tản mạn; trẻ tập trung vào
những gì mà trẻ thích thú nhất. Nhiệm vụ của cô giáo hướng dẫn sự quan sát của
trẻ theo trật tự. Đầu tiên là nhìn toàn bộ bức tranh để hiểu tranh vẽ ai, cái gì, sau
đó mới đi vào chi tiết. Sau cùng, cô lại miêu tả ngắn gọn về toàn bộ bức tranh.
Để làm được như vậy cô giáo cần hiểu rõ nội dung bức tranh trước khi hướng
dẫn trẻ.
Các biện pháp dùng lời
Trò chuyện với trẻ theo câu hỏi: Đây là biện pháp chính hướng dẫn trẻ
làm quen với thiên nhiên. Các câu hỏi có tác dụng hướng sự chú ý của trẻ tới đối
tượng cần nhận thức, dạy trẻ biết quan sát đối tượng một cách tổng thể cũng như
quan sát tỉ mỉ các đặc điểm, tính chất, mối quan hệ của các sự vật, hiện tượng

trong thiên nhiên. Các câu hỏi cũng đồng thời kích thích trẻ nói, gọi tên hoặc mô
tả các đối tượng đang quan sát. Qua đó, vốn từ của trẻ ngày càng được mở rộng
hơn. Cần chú ý sao cho câu hỏi đa dạng, buộc trẻ trả lời bằng các từ loại khác
nhau: Hỏi về tên gọi, đặc điểm tính chất, công dụng, hoạt động...
Ví dụ: Câu hỏi về tên gọi các loại hoa quả, cây cối, con vật: Cây gì đây?
Đây là con gì? Quả gì?
Câu hỏi về công dụng của các đồ vật:...để làm gì?
Câu hỏi về tính chất, đặc điểm của các sự vật, hiện tượng: Như thế nào?
Màu gì?...
Khi trò chuyện, cô giáo có thể sử dụng phối hợp một số thủ thuật: nói
mẫu, nhắc lại, giảng giải, khen ngợi, cho trẻ sử dụng các thao tác sờ mó, cầm
nắm...
- Sử dụng lời kể của cô giáo: Lời kể của cô giáo dễ gây hứng thú cho trẻ
khi quan sát và giúp trẻ tri giác toàn bộ đối tượng, thấy được mối quan hệ giữa
các sự vật hiện tượng; điều này làm cho trẻ dần dần hiểu đầy đủ hơn ý nghĩa của
từ.

14


Lời kể của cô giáo còn tạo ra mẫu mực ngôn ngữ cho các cháu noi theo
(giọng nói, ngữ điệu, điệu bộ...). Yêu cầu lời kể của cô phải rõ ràng, đơn giản, dể
hiểu đối với trẻ, chủ yếu là mô tả các đặc điểm, tính chất các hành động của đối
tượng. Lời kể còn cần ngắn gọn, có lôgic đầy đủ các phần: Mở đầu, mô tả, kết
thúc. Mở đầu của lời kể là giới thiệu về đối tượng cho trẻ làm quen và sau đó
mô tả các chi tiết, các đặc điểm, tính chất của đối tượng. Kết thúc lời kể là
những nhận xét, đánh giá lời kể của trẻ. Có thể tiến hành kể trước hoặc sau trò
chuyện, nó tùy thuộc vào khả năng nhận thức của trẻ và mức độ phức tạp của
chủ đề cho trẻ làm quen.
Khi cho trẻ tiếp xúc với các tác phẩm văn học, giáo viên cần chú ý vận

dụng các biện pháp phù hợp để giúp trẻ hiểu nghĩa từ, nhất là những từ ngữ nghệ
thuật.
Để giải thích cho trẻ hiểu từ trong tác phẩm văn học bằng biện pháp này
thì trước hết cần phải chọn từ có nghĩa cụ thể. Có như vậy thì việc sử dụng đồ
dùng trực quan kết hợp với lời giải thích mới có hiệu quả.
Ví dụ: Cô định giải thích cả câu từ “phe phẩy” trong câu thơ “phe phẩy
quạt nan” của bài thơ “Giữa vòng gió thơm” thì cô phải đọc cho trẻ nghe cả câu
một đến hai lần hoặc cả một đoạn thì từ mới không bị tách rời khỏi ngữ cảnh, và
như vậy trẻ sẽ cảm nhận tốt hơn. Tiếp theo cô dùng biện pháp sử dụng đồ dùng
trực quan kết hợp với lời giải thích để giúp trẻ hiểu được nghĩa của từ mà tác giả
dùng trong câu, trong bài thơ hay câu chuyện ấy.
Sử dụng các trò chơi học tập
Có thể sử dụng một số trò chơi học tập để phát triển vốn từ:
Trò chơi: Cái gì đã thay đổi
Trước mặt các cháu, cô bày một số đồ chơi. Yêu cầu các cháu nhắm mắt
lại, cô thay đổi vị trí của đồ chơi hoặc cất đi và bổ sung đồ chơi khác vào vị trí
đó. Yêu cầu trẻ mở mắt, quan sát và nói xem cái gì đã thay đổi. (ví dụ: Trong
vườn bách thú có thỏ, khỉ, hươu cùng chơi với nhau – Có một số cây cối, đu
15


quay, cầu trượt... Cô thay đổi vị trí của chúng phải, trái, trước, sau, bên cạnh...
Yêu cầu trẻ nhận xét).
* Biện pháp thứ ba: Hướng dẫn giáo viên phát triển ngôn ngữ mạch
lạc cho trẻ
Ngôn ngữ mạch lạc là hình thức giao tiếp cơ bản của trẻ. Hình thức giao
tiếp này đã được hình thành ở cuối tuổi mẫu giáo. Trong quá trình giao tiếp, trẻ
mẫu giáo 5 – 6 tuổi đã bắt đầu sử dụng ngôn ngữ giải thích, đặc biệt là ngôn ngữ
mạch lạc để diễn đạt, nhấn mạnh ý muốn, sự hiểu biết của mình để người khác
có thể hiểu được trẻ muốn gì, nói cái gì?

Trong quá trình tổ chức cho trẻ hoạt động và giao tiếp cô cần tạo điều
kiện để trẻ nói rõ ràng, sắp xếp các ý theo một trình tự hợp lí, nêu bật các ý cần
nhấn mạnh để người khác hiểu một cách dễ dàng.
Ví dụ: Cần tập cho trẻ mô tả một công viên (mà trẻ đã có dịp tham quan
hoặc quan sát tranh, mô hình)
Đến 5 tuổi trẻ có khả năng đánh giá khả năng ngôn ngữ của bạn, của
mình, do vậy, bên cạnh việc rèn cho trẻ phát âm đúng, nói năng rõ ràng, mạch
lạc, cô cần tạo điều kiện cho trẻ tự nhận xét, đánh giá về nhau.
Ví dụ: Một trẻ đóng vai gấu được các bạn nhận xét: “ Gấu gì mà nói năng
dịu dàng, yếu đuối thế”, “Bác sĩ, cô giáo gì mà ăn nói cộc lốc như vậy”, khi trẻ
nhận xét các bạn đóng vai bác sĩ, cô giáo….
Sự kiên trì của giáo viên là rất cần thiết. Để tập cho trẻ nói năng mạch lạc,
theo một trình tự loogic, dễ hiểu, cô giáo phải biết lắng nghe, tập cho trẻ sắp xếp
lại (nói lại) những điều cần nói theo một mạch lôgic. Thực ra qua những câu nói
lộn xộn của trẻ, cô có thể giải được ý muốn của trẻ, song không vì thế mà bỏ qua
việc yêu cầu trẻ sắp xếp các câu nói cho hợp lí.
Ngôn ngữ mạch lạc còn được thể hiện ở chỗ: trẻ nói năng có văn hóa (nói
thoải mái, vừa đủ nghe, không hét, không quát, không nói tục…)
16


Xã hội càng văn minh thì vấn đề giáo dục hành vi văn hóa trong giao tiếp
càng trở nên quan trọng. Chính vì vậy, ngay từ lứa tuổi mầm non, nhất là trẻ 5
tuổi. Cô cần rèn luyện cho trẻ thói quen nói năng có văn hóa, tập cho trẻ sự tự
tin trong giao tiếp, không rụt rè, e sợ, tôn trọng, lễ phép với người lớn
Bên cạnh đó cô cần sửa các tật ngôn ngữ mà trẻ thường gặp nhất đó là tật
nói ngọng. Nói ngọng do nhiều nguyên nhân. Có thể nói ngọng do nguyên nhân
sinh học: bộ máy phát âm của trẻ kém phát triển, có thể do tác động của những
yếu tố khách quan, tập quán địa phương. (Trong một môi trường mà từ già đến
trẻ đều nói ngọng thì tất yếu trẻ sẽ nói ngọng)

Những tật nói ngọng này có thể sửa được khi người lớn (bố mẹ, ông bà,
cô giáo…) phát âm chuẩn và có ý thức uốn nắn cho trẻ. Nếu người lớn luôn phát
âm chuẩn, thì đến một lúc nào đó bộ máy phát âm của trẻ phát triển thì trẻ sẽ
khắc phục được tật nói giọng của mình.
Tật thứ hai thường gặp trong sự phát triển ngôn ngữ của trẻ là tật nói lắp
(nói lắp bẩm sinh và nói lắp do tác động của những điều kiện bên ngoài). Trong
quá trình giao tiếp ta thường gặp một số trẻ do rụt rè, e ngại, do dự mà nói mãi
mới ra lời, hoặc quá vội vàng, lắp bắp khi nói năng… tất cả những hiện tượng
này sẽ dẫn đến tật nói lắp của trẻ.
Vấn đề đặt ra là giáo viên cần tập cho trẻ tự tin, bình tĩnh trong giao tiếp,
uốn nắn khi trẻ nói lắp, giúp trẻ hiểu được nói lắp là xấu. Đồng thời bản thân
giáo viên cũng không được nói lắp (giả tập theo trẻ) khi giao tiếp với trẻ.
* Biện pháp thứ tư: Hướng dẫn giáo viên phát triển ngôn ngữ (lời nói)
nghệ thuật cho trẻ qua thơ và truyện.
Văn học là một phương tiện có hiệu quả mạnh mẽ, đối với việc giáo dục
trí tuệ, đạo đức, thẩm mĩ cho trẻ và điều quan trọng là nó có ảnh hưởng to lớn
tới sự phát phát triển và làm phong phú lời nói của trẻ. Giáo viên là người đem
đến cho trẻ tác phẩm văn học như một tác phẩm nghệ thuật, mở ra ý nghĩa của
nó, truyền cho trẻ những thái độ, cảm xúc.
17


Đối với các nhân vật của tác phẩm, đối với những xúc cảm trữ tình của tác
giả có nghĩa là truyền đạt bằng ngữ điệu, thái độ của mình đối với các nhân vật.
Để làm được điều đó, trước khi cho trẻ làm quen , hiểu và rung động với tác
phẩm.
Giáo viên cần phải biết phân tích nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, và
tất nhiên, giáo viên phải nắm được kỹ thuật đọc và kể, phát âm rõ ràng, sử dụng
các phương tiện biểu cảm ngữ điệu (tốc độ, nhịp điệu, ngừng nghỉ, điều chỉnh độ
nhanh chậm, cường độ giọng...).

Trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi có khả năng suy nghĩ sâu hơn về nội dung các tác
phẩm văn học và hiểu một số đặc trưng của hình thúc thể hiện nội dung, có
nghĩa là trẻ có thể phân biệt được các thể loại văn học và đặc trưng của từng thể
loại. Trẻ dễ dàng phân biệt văn xuôi với thơ, chỉ ra rằng thơ có sự nhịp nhàng,
có thể phân biệt dựa vào tính nhịp điệu và cấu tạo vần, sự ngân vang của các câu
thơ.
Giáo viên cần phải hướng sự chú ý của trẻ vào các đặc trưng thể loại, khi
đó trẻ sẽ nhận thức sâu sắc hơn những giá trị của các tác phẩm văn học.
Dạy trẻ cảm nhận nhịp điệu, âm điệu của thơ, ca dao, đồng dao; Dạy trẻ
cách đánh giá các nhân vật trong truyện; Dạy trẻ kể lại truyện theo từng đoạn,
theo tranh; dạy trẻ tập đóng kịch. Các biện pháp chung là; kể, đọc diễn cảm các
tác phẩm; đàm thoại với trẻ về cái hay, cái đẹp về nội dung và nghệ thuật của tác
phẩm; dạy trẻ đọc thơ, kể chuyện, giúp trẻ ghi nhớ tác phẩm và sau đó có thể
đọc, kể lại một cách diễn cảm.
Như vậy, mỗi một giờ dạy thơ đặt ra cho cô giáo những nhiệm vụ khác
nhau: Cô phải đọc bài thơ một cách diễn cảm, đặt ra các câu hỏi đúng, hướng
chú ý của trẻ vào nội dung và các phương tiện biểu cảm của tác phẩm: dạy trẻ
đọc diễn cảm (chọn ngữ điệu phù hợp, ngắt nghỉ đúng...) Việc đọc thơ của trẻ
phải chỉ ra rằng, trẻ không chỉ hiểu bài thơ nói gì mà còn phải biết mang đến cho
người nghe hiểu thái độ của mình với tác phẩm.

18


Cần đưa vào tiết học phần nhắc lại các bài thơ đã học để các từ ngữ có
hình ảnh cũng cố một cách vững chắc các mối quan hệ liên tưởng đã được hình
thành.
Về sau khi trẻ chuyển sang tự kể chuyện, trẻ sẽ sử dụng trong lời nói của
mình các từ ngữ đã lĩnh hội được. Điều này chuẩn bị cho sự phát tiển ngôn ngữ
nghệ thuật của trẻ.

* Biện pháp thứ năm: Hướng dẫn giáo viên phát triển ngôn ngữ cho trẻ,
thông qua việc cho trẻ làm quen chữ cái.
Mục đích cho trẻ làm quen chữ cái không chỉ là giúp trẻ nhận biết được
mặt chữ để phát âm chính xác khi nói mà còn tạo cho trẻ hứng thú khi học tiếng
mẹ đẻ, làm tiền đề cho trẻ thích ứng với việc tập đọc, tập viết ở lớp 1 phổ thông.
Giáo viên cho trẻ làm quen chữ cái, vốn từ của trẻ được nâng cao, bởi vì
khi làm quen với chữ, trẻ không chỉ làm quen với các chữ ở dạng tồn tại tự nhiên
của chữ viết, mà các chữ đó được gắn vào các từ, thông qua các đối tượng cụ
thể, các từ đó có các âm đầu là các chữ cái đã học, nhằm rèn luyện cách phát âm
cho trẻ.
Qua việc làm quen với chữ viết còn giúp cho trẻ hiểu được mối quan hệ
giữa ngôn ngữ nói với ngôn ngữ viết, trẻ hiểu thế nào là “đọc” và “viết” sau này.
Việc tìm kiếm các chữ cái khác nhau ở các vị trí khác nhau của từ, giúp
trẻ phát triển óc quan sát, ghi nhớ, chú ý có chủ định.
Cho trẻ làm quen với chữ còn góp phần kích thích, phát triển tư duy, thể
hiện ở chỗ trẻ đã xác định được tính chất đặc điểm của chữ đó bằng cách tìm
kiếm các từ, tiếng thông qua các đồ vật. Trẻ tìm đúng các âm theo các chữ cái
mà trẻ đã nhận ra. Như vậy trẻ nhận ra chữ cái đó thông qua biện pháp phát âm
chứ không phải thông qua các mặt chữ.
Trong khi cho trẻ làm quen với chữ cái, giáo viên cần giúp trẻ một số kỹ
năng cầm bút, cầm sách, mở từng trang sách, tư thế ngồi của trẻ. Việc cho trẻ
làm quen chữ cái không chỉ thông qua các tiết học mà còn thông qua các hoạt
19


động khác nhau như hoạt động tạo hình (vẽ, xé, cắt dán các chữ cái). Đặc biệt là
các trò chơi, trò chơi phát triển giác quan, phát triển các cơ tay nhỏ của ngón tay
là để thuận tiện cho trẻ làm quen với việc cầm bút sau này.
Giáo viên cho trẻ làm quen với chữ cái phải tạo ra được hứng thú cho trẻ,
tránh làm thay cho trẻ. Không bắt trẻ tập viết vào một khuôn khổ nhất định,

trong khi trẻ chưa được chuẩn bị những kỹ năng cần thiết trước khi tập viết.
Nhất là đối với trẻ 5 – 6 tuổi, giáo viên không dạy trẻ các kỹ năng đọc và
viết thật sự, mà dạy trẻ những kỹ năng cơ bản như: xem tranh, mô tả tranh, kể
chuyện theo tranh, biết cách ngồi đúng, biết cách cầm bút tô, đồ. Giáo viên chú
ý khi cho trẻ tập tô chữ cái, điều quan trọng nhất là giữ cho trẻ tư thế ngồi đúng,
tự nhiên, cách cầm bút đúng, đẹp. Đây là tiền đề để chuẩn tâm thế tốt cho trẻ
bước vào lớp 1 phổ thông.
3.3. Điều kiện thực hiện các giải pháp, biện pháp
Muốn thực hiện các biện pháp, giải pháp có hiệu quả thì cần phải tổ chức
môi trường hoạt động phong phú đa dạng. Ở trường mầm non cần xây dựng góc
sách, trang trí tranh ảnh, môi trường chữ viết. Cách xếp đặt các đối tượng trong
trang trí phải tiện lợi cho việc trẻ quan sát và không cản trở các hoạt động chung
của trẻ.
Giáo viên phải tổ chức cho trẻ thường xuyên sử dụng đồ chơi và đồ dùng.
Khi trẻ em sử dụng đồ vật, đồ dùng, tranh ảnh giáo viên cần khuyến khích giúp
đỡ và chỉ dẫn cho trẻ cảm nhận chúng. Đối với trẻ mẫu giáo cần có nhiều tranh
ảnh, mô hình và màn hình. Nhưng việc sử dụng chúng như thế nào cũng cần
phải có kế hoạch và tổ chức chu đáo, bảo quản tốt. Trong trường mầm non có
các mối quan hệ như: Trẻ em với trẻ em, trẻ em với người lớn và người lớn với
người lớn. Để việc giáo dục trẻ có hiệu quả cao. Tất cả các mối quan hệ trên cần
phải đảm bảo tính sư phạm, giao tiếp nhẹ nhàng, lịch sự cho trẻ noi theo. Những
vấn đề này là điều kiện tốt nhất để t hực hiện các giải pháp, biện pháp nhằm phát
triển ngôn ngữ cho trẻ có hiệu quả.

20


3.4. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
Các giải pháp và biện pháp có mối quan hệ mật thiết và luôn hỗ trợ bổ
sung cho nhau ưu điểm của giải pháp này là hỗ trợ cho nhược điểm của giải

pháp khác. Muốn thực hiện các biện pháp thành công cần có các giải pháp cụ thể
phù hợp với nội dung của biện pháp. Trẻ biết phát âm chuẩn, vốn từ của trẻ
phong phú, ngữ điệu, lời nói của trẻ mạch lạc, nghệ thuật, nếu như giáo viên biết
phối hợp các giải pháp và biện pháp với nhau để làm cho những tri thức mà trẻ
nhận được càng thêm phong phú và là động lực cho trẻ phát triển ngôn ngữ tốt
cho hiện tại và tương lai.
3.5. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu
Qua điều tra và thăm dò ý kiến khi áp dụng các giải pháp, biện pháp đã có
100% giáo viên có khả năng sử dụng các biện pháp, giải pháp hiệu quả. Giáo
viên biết lựa chọn các nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức hợp lý phù hợp
với tình hình thực tế của trường lớp.
Kỹ năng sử dụng các phương pháp, biện pháp và thủ thuật cũng góp phần
làm cho hiệu quả hoạt động cao hay thấp. Giáo viên có kỹ năng sử dụng điêu
luyện sẽ biến thành kĩ xảo. Kĩ xảo mới giúp cho giáo viên tích hợp được các nội
dung, phương pháp, biện pháp và các hình thức hoạt động trong lĩnh vực phát
triển ngôn ngữ cho trẻ, hoặc tích hợp lĩnh vực này với lĩnh vực khác ở trường
mầm non.
Tuy nhiên, quá trình hình thành và rèn kỹ năng sử dụng các phương pháp,
biện pháp và thủ thuật cần phải được tiến hành liên tục và không ngừng linh
hoạt và sáng tạo của giáo viên. Có như vậy việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ
mầm non nói chung và trẻ 5 – 6 tuổi ở trường mầm non nói riêng sẽ không
ngừng đổi mới và phát triển.
4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề
nghiên cứu
Qua thực hiện một số biện pháp trên kết quả đạt đuợc như sau:
21


* Đối với giáo viên
Giáo viên 100% đã có kiến thức, kỹ năng thực hiện tổ chức phát triển

ngôn ngữ cho trẻ trong các hoạt động giáo dục.
Kết quả cụ thể:
Kiến thức kỹ
STT

năng của giáo

Đầu năm

Cuối năm

Tăng và giảm
(Tỉ lệ %)

viên
1

Loại giỏi

2

Loại khá

3

15/30 g/v =
50%
15/30 g/v =
50%


Loại trung

26//30 g/v = 86,6%

36,6%

4/30 g/v = 13,4%

36,6%

0

bình

0

0

b. Đối với trẻ
Trẻ có tiến bộ rõ rệt trong từng nội dung hoạt đông. Trẻ có kỹ năng phát
âm đúng, vốn từ phong phú, lời nói mạch lạc, nghệ thuật. Trẻ hứng thú tích cực
trãi nghiệm trong các hoạt động học tập và vui chơi.
Kết quả cụ thể:
Ký năng phát

Đầu năm

Cuối năm

Tăng


âm đúng, vốn từ
TT

phong phú, lời

Số

Tỷ lệ

nói mạch lạc,

luợng

%

Số luợng

Tỷ lệ

Số

%

luợng

Tỷ lệ %

nghệ thuật
Trẻ đạt theo sự

1

phát triển kỹ
năng
Trẻ chưa đạt theo

2

sự phát triển kỹ
năng

78/120h
/s

42/120
h/s

65%

120/120 h/s

100%

42 h/s

35%

35%

0


0

0

0

22


III. Kết luận, kiến nghị
1. Kết luận
Sau khi chỉ đạo hướng dẫn giáo viên xây dựng kế hoạch phát triển ngôn
ngữ cho trẻ 5 – 6 tuổi trong các hoạt động giáo dục. Nắm bắt tình hình kiến
thức, kỹ năng thực tế của giáo viên và khảo sát về môi trường tổ chức hoạt
động giáo dục cho trẻ 5 - 6 tuổi. Tôi nhận thấy các biện pháp, giải pháp đưa ra
đều phù hợp với sự nhận thức của giáo viên và trẻ, phù hợp với tình hình thực tế
của trường lớp và địa phương. Từ đó đội ngũ giáo viên đã có kiến thức, kỷ năng
tự nghiên cứu về nội dung, hình thức cho trẻ hoạt động để phát triển ngôn ngữ
và hướng dẫn trẻ hoạt động đạt hiệu quả cao.
Trong quá trình cho trẻ hoạt động đã kích thích sự hứng thú và phát huy
được tính chủ động, tích cực và sáng tạo. Trẻ hứng thú khi được giao tiếp, tiếp
cận với các tác phẩm văn học, biết rung cảm trước vẽ đẹp của thiên nhiên, sự vật
hiện tượng có trong tác phẩm, cảm nhận tính cách của nhân vật, thích đọc thơ,
ca dao, đồng dao, thích nhập vai đóng kịch các nhân vật trong chuyện. Từ đó trẻ
đã liên tục đặt ra nhiều câu hỏi “Tại sao? Thế nào?” đã có ý nghĩa rất lớn, làm rõ
vấn đề thông qua các hoạt động thực tế.
Trẻ là chủ thể của phát triển ngôn ngữ. Ngôn ngữ của trẻ được phát triển
thông qua quá trình giao tiếp của trẻ với những người xung quanh, với môi
trường thiên nhiên và xã hội. Để phát triển ngôn ngữ, trẻ phải nghe được lời nói,

được bắt chước lời nói, được chủ động nói.
Nội dung phát triển ngôn ngữ phải hướng vào trẻ, đáp ứng các nhu cầu
phát triển của trẻ. Các hoạt động của trẻ được thiết kế theo hướng tích hợp và
tích hợp theo chủ đề. Thời lượng tiến hành một chủ đề linh hoạt, phụ thuộc vào
nhu cầu và hứng thú của trẻ.
Các hoạt động phát triển ngôn ngữ phải phù hợp với các điều kiện tự
nhiên, điều kiện văn hóa xã hội của từng vùng, miền và phù hợp với thực trang
của trường, của lứa tuổi. Giáo viên có thể tận dụng những hoàn cảnh thực tế và
điều kiện có s n của địa phương, của trường lớp: sử dụng các nguyên vật liệu
23


s n có, các nguyên vật liệu tái sử dụng thích hợp, an toàn với trẻ để hướng dẫn
trẻ tìm hiểu khám phá và làm ra các sản phẩm mới mang tính sáng tạo của trẻ.
Phát huy sự chủ động, sáng tạo của giáo viên trong việc xây dựng kế
hoạch giáo dục trẻ: linh hoạt trong việc xác định, lựa chọn và tổ chức những
hoạt động phong phú giúp trẻ hứng thú tìm hiểu khám phá theo nhiều cách khác
nhau, phù hợp với điều kiện cụ thể của trường lớp, của địa phương. Chú ý đến
việc học qua chơi nhằm hình thành hệ thống kiến thức và kỹ năng, cung cấp
những kinh nghiệm cần cho cuộc sống của trẻ.
2. Kiến nghị
- Bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ giáo viên.
- Tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị đồ dùng đồ chơi để tạo điều
kiện cho việc tổ chức hoạt động giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ được tốt
hơn.
Người viết

Lê Thị Hường

24



NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN

25


×