Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Vấn đề đổi mới LLSX và QHSX trong quá trình CNH HĐH ở VN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.13 KB, 23 trang )

MỞ ĐẦU
Nền văn minh nhân loại suy cho cùng là do sự phát triển của lực
lượng sản xuất quyết định. Do đó việc nghiên cứu quy luật vận động và
những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất là một vấn đề hết sức
quan trọng trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Đối với nước ta, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, việc xây dựng quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trong những vấn đề
quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng ta. Tuy nhiên, trước thời
kỳ đổi mới, chúng ta đã vi phạm quy luật khách quan, khi xây dựng quan hệ sản xuất tiên
tiến đi trước nhằm mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Chính sự nhận thức và
vận dụng sai lầm đó được Đại hội lần thứ VI của Đảng, năm 1986 chỉ rõ là một trong
những nguyên nhân cơ bản của sự kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển, đất nước lâm
vào khủng hoảng.
Trong gần 30 năm đổi mới chúng ta đã từng bước nhận thức và vận dụng quy
luật này ngày một đúng đắn hơn, vì vậy đã góp phần quan trọng để đạt được những
thành tựu to lớn. Tuy nhiên việc xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất trong quá trình CNH, HĐH vẫn còn có những hạn chế, yếu
kém và bất cập, dẫn đến kinh tế phát triển chưa bền vững, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh
tranh của nền kinh tế còn thấp; chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH còn
chậm, chế độ phân phối bất hợp lý, phân hoá xã hội tăng lên
Xuất phát từ thực tiễn trên vấn đề: “Quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và sự vận dụng quy
luật này ở Việt Nam”có vai trò quan trọng mang tính cấp thiết cao vì thời
đại ngày nay chính là sự phát triển của nền kinh tế thị trường hàng hoá
nhiều thành phần. Nghiên cứu vấn đề này chúng ta còn thấy được ý nghĩa
lý luận cũng như thực tiễn của nó hết sức sâu sắc làm cơ sở trong quán triệt
và thực hiện nghị quyết của Đảng ta.
2


NỘI DUNG


I. SỰ NHẬN THỨC VỀ LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT, QUAN HỆ SẢN
XUẤT VÀ QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TÍNH
CHẤT VÀ TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT .

1. Phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
1.1. Phương thức sản xuất là gì?
Sản xuất vật chất được tiến hành bằng phương thức sản xuất nhất
định. Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình
sản xuất vật chất ở những giai đoạn nhất định trong lịch sử tồn tại và
phát triển của xã hội loài người. Phương thức sản xuất đóng vai trò nhất
định đối với tất cả mọi mặt trong đời sống kinh tế xã hội. Phương thức
sản xuất chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuẩt ở một trình độ
nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng.
1.2.Lực lượng sản xuất là gì?
Lực lượng sản xuất là mối quan hệ của con người với tự nhiên hình
thành trong quá trình sản xuất. Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện ở
trình độ khống chế tự nhiên của con người. Đó là kết quả năng lực thực tiễn
của con người tác động vào tự nhiên để tạo ra của cải vật chất đảm bảo sự
tồn tại và phát triển của loài người.
Từ thực trạng đó lý luận về lực lượng sản xuất của xã hội được
C.Mác nêu lên và phát triển một cách sâu sắc trong các tác phẩm chuẩn
bị cho bộ "Tư bản" và chính trong bộ "Tư bản" Mác đã trình bày hết sức
rõ ràng quan điểm của mình về các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất
của xã hội trong đó bao gồm sức lao động và tư liệu sản xuất. Đối với
Mác cùng với tư liệu lao động đối với lao động cũng thuộc về tư liệu sản
xuất, còn trong tư liệu lao động tức là tất cả những yếu tố vật chất mà
con người sử dụng để tác động và đối tượng lao động như công cụ lao
3



động, nhà xưởng, phương tiện lao động, cơ sở vật chất kho tàng... thì vai
trò quan trọng hơn cả thuộc về công cụ lao động. Công cụ lao động là
yếu tố quan trọng nhất linh hoạt nhất của tư liệu sản xuất. Mọi thời đại
muốn đánh giá trình độ sản xuất thì phải dựa vào công cụ lao động.
Muón đánh giá sự phát triển của một xã hội người ta nhìn vào hệ thóng
công cụ lao động như máy móc, phương tiện... Tuy nhiên yếu tố quan
trọng nhất trong lực lượng sản xuất chính là con người cho dù những tư
liệu lao động được tạo ra từ trước có sức mạnh đến đâu và đối tượng lao
động có phong phú như thế nào thì con người vẫn là bậc nhất. Tư liệu lao
động dù có tinh sảo và hiện đại đến đâu nhưng tách khỏi con người thì nó
cũng không phát huy tác dụng của chính bản thân. Chính vậy mà Lê Nin đã
viết: “lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là
người lao động”. Người lao động với những kinh nghiệm, thói quen lao
động, sử dụng tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất. Tư liệu sản xuất
với tư cách là khách thể của lực lượng sản xuất, và nó chỉ phát huy tác
dụng khi nó được kết hợp với lao động sống của con người . Đại hội VII
của Đảng đã khẳng định: “Sự nghiệp phát triển kinh tế đặt con người lên vị
trí hàng đầu, vị trí trung tâm thống nhất tăng trưởng kinh tế với công bằng
khoa học và tiến bộ xã hội”.
Ở nước ta từ trước tới nay nền kinh tế lấy nông nghiệp làm chủ
yếu, nên trình độ khoa học kỹ thuật kém phát triển. Hiện thời chúng ta
đang ở trong tình trạng kế thừa những lực lượng sản xuất vừa nhỏ nhoi,
vừa lạc hậu so với trình độ chung của thế giới, hơn nữa trong một thời
gian khá dài, những lực lượng ấy bị kìm hãm. Bởi vậy Đại hội lần thứ VI
của Đảng đặt ra nhiệm vụ là phải "Giải phóng mọi năng lực sản xuất
hiện có. Khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước, sử dụng có
hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất”.

4



Mặt khác chúng ta đang ở trong giai đoạn mới trong sự phát triển của
cách mạng khoa học kỹ thuật đang chứng kiến những biến đổi cách
mạng trong công nghệ. Chính điều này đòi hỏi chúng ta lựa chọn một
mặt tận dụng cái hiện có mặt khác nhanh chóng tiếp thu cái mới do thời
đại tạo ra nhằm dùng chúng để nhân nhanh các nguồn lực từ bên trong.
Nếu phân tích một cách khách quan thì rõ ràng lực lượng sản xuất của ta
đang ứng với cả ba giai đoạn phát triển của lực lượng sản xuất trong nền
văn minh loài người.
1.3. Quan hệ sản xuất là gì?
Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa con người với con người
trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất của xã hội, trong quá trình
sản xuất con người phải có những quan hệ, con người không thể tách
khỏi cộng đồng. Như vậy việc phải thiết lập các mối quan hệ trong sản
xuất tự nó đã là vấn đề có tính qui luật sâu sắc. Nhìn tổng thể quan hệ
sản xuất gồm ba mặt:
- Chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất tức là quan hệ giữa người đối
với tư liệu sản xuất, nói cách khác tư liệu sản xuất thuộc về ai.
- Chế độ tổ chức và quản lý sản xuất, kinh doanh, tức là quan hệ
giữa người với người trong sản xuất và trao đổi của cải vật chất như
phân công chuyên môn hoá và hợp tác hoá lao động quan hệ giữa người
quản lý với công nhân.
- Chế độ phân phối sản xuất, sản phẩm tức là quan hệ chặt chẽ với
nhau và cùng một mục tiêu chung là sử dụng hợp lý và có hiệu quả tư
liệu sản xuất để làm cho chúng không ngừng được tăng trưởng, thúc đẩy
tái sản xuất mở rộng, nâng cao phúc lợi người lao động. Đóng góp ngày
càng nhiều cho nhà nước xã hội chủ nghĩa.

5



Trong cải tạo và củng cố quan hệ sản xuất vấn đề quan trọng mà
đại hội VI nhấn mạnh là phải tiến hành cả ba mặt đồng bộ: chế độ sở
hữu, chế độ quản lý và chế độ phân phối không nên coi trọng một mặt
nào cả về mặt lý luận, không nghi ngờ gì rằng: chế độ sở hữu là nền tảng
quan hệ sản xuất . Nó là đặc trưng để phân biệt chẳng những các quan hệ
sản xuất khác nhau mà còn các thời đại kinh tế khác nhau trong lịch sử
như mức đã nói.
Thực tế lịch sử cho thấy rõ bất cứ một cuộc cách mạng xã hội nào
đều mang một mục đích kinh tế là nhằm bảo đảm cho lực lượng sản xuất
có điều kiện tiếp tục phát triển thuận lợi và đời sống vật chất của con
người cũng được cải thiện. Đó là tính lịch sử tự nhiên của các quá trình
chuyển biến giữa các hình thái kinh tế - xã hội trong quá khứ và cũng là
tính lịch sử tự nhiên của thời kỳ quá độ từ hình thái kinh tế - xã hội tư
bản chủ nghĩa sang hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Và xét riêng trong phạm vi một quan hệ sản xuất nhất định thì tính
chất của sở hữu cũng quyết định tính chất của quản lý và phân phối. Mặt
khác trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội nhất định quan hệ sản xuất
thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chi phối các quan hệ sản xuất khác ít
nhiều cải biến chúng để chẳng những chúng khong đối lập mà còn phục
vụ đắc lực cho sự tồn tại và phát triển của chế độ kinh tế - xã hội mới.
Chủ nghĩa Mác - Lênin chưa bao giờ coi hình thái kinh tế - xã hội
nào đã tồn tại kể từ trước đến nay là chuẩn nhất. Trong mỗi hình thái
kinh tế - xã hội cùng với một quan hệ sản xuất thống trị, điển hình còn
tồn tại những quan hệ sản xuất phụ thuộc, lỗi thời như là tàn dư của xã
hội cũ. Ngay ở cả các nước tư bản chủ nghĩa phát triển nhất cũng không
chỉ có một quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa thuần nhất. Tất cả các tình
hình trên đều bắt nguồn từ phát triển không đều về lực lượng sản xuất
6



không những giữa các nước khác nhau mà còn giữa các vùng và các
ngành khác nhau của một nước. Việc chuyển từ quan hệ sản xuất lỗi thời
lên cao hơn như C.Mác nhận xét: "Không bao giờ xuất hiện trước khi
những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa chín muồi..."
phải có một thời kỳ lịch sử tương đối lâu dài mới có thể tạo ra điều kiện
vật chất trên.
2. Qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất.
2.1. Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất mâu thuẫn hay phù
hợp.
Trong tác phẩm góp phần phê phán khoa kinh tế - chính trị năm
1859 C.Mác viết "Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con
người ta có những quan hệ nhất định, tất yếu không phụ thuộc ý muốn
của họ, tức những quan hệ sản xuất. Những qui luật này phù hợp với một
trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất. Những quan hệ này
phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất vật
chất của họ..." Người ta thường coi tư tưởng này của Mác là tư tưởng về
"Qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất".
Cho đến nay hầu như qui luật này đã được khẳng định cũng như
các nhà nghiên cứu triết học Mác xít. Khái niệm "phù hợp" được hiểu
với nghĩa chỉ phù hợp mới tốt, mới hợp qui luật, không phù hợp là không
tốt, là trái qui luật. Có nhiều vấn đề mà nhiều lĩnh vực đặt ra với từ "phù
hợp" này. Các mối quan hệ trong sản xuất bao gồm nhiều dạng thức khác
nhau mà nhìn một cách tổng quát thì đó là những dạng quan hệ sản xuất
và dạng những lực lượng sản xuất từ đó hình thành những mối lien hệ
chủ yếu cơ bản là mối liên hệ giữa quan hệ sản xuất với tính chất và
7



trình độ của lực lượng sản xuất. Nhưng mối liên hệ giữa hai yêu tố cơ
bản này là gì? Phù hợp hay không phù hợp. Thống nhất hay mâu thuẫn?
Trước hết cần xác định khái niệm phù hợp với các ý nghĩa sau.
- Phù hợp là sự cân bằng, sự thống nhất giữa các mặt đối lập hay
"sự yên tính" giữa các mặt.
- Phù hợp là một xu hướng mà những dao động không cân bằng sẽ
đạt tới.
Trong phép biện chứng sự cân bằng chỉ là tạm thời và sự không
cân bằng là tuyệt đối. Chính đâylà nguồn gốc tạo nên sự vận động và
phát triển . Ta biết rằng trong phép biện chứng cái tương đối không tách
khỏi cái tuyệt đối nghĩa là giữa chúng không có mặt giới hạn xác định.
Nếu chúng ta nhìn nhận một cách khác có thể hiểu sự cân bằng như một
sự đứng im, còn sự không cân bằng có thể hiểu như sự vận động. Tức sự
cân bằng trong sản xuất chỉ là tạm thời còn không cân bằng không phù
hợp giữa chúng là tuyệt đối. Chỉ có thể quan niệm được sự phát triển
chừng nào người ta thừa nhận tính chân lý vĩnh hằng của sự vận động.
Cũng vì vậy chỉ có thể quan niệm được sự phát triển chừng nào người ta
thừa nhận, nhận thức được sự phát triển trong mâu thuẫn của lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất chừng nào ta thừa nhận tính vĩnh viễn
không phù hợp giữa chúng.
Từ những lý luận đó đi đến thực tại nước ta cũng vậy với quá trình
phát triển lịch sử lâu dài của mình từ thời đồ đá đến nay thời văn minh
hiện đại. Nước ta đi từ sự không phù hợp hay sự lạc hậu từ trước lên đến
nay nền văn minh đất nước. Tuy nhiên quá trình vận động và phát triển
của sản xuất là quá trình đi từ sự không phù hợp đến sự phù hợp, nhưng
trạng thái phù hợp chỉ là sự tạm thời, ngắn ngủi, ý muốn tạo nên sự phù

8



hợp vĩnh hằng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất là trái tự
nhiên, là thủ tiêu cái không thủ tiêu được, tức là sự vận động.
Tóm lại, có thể nói thực chất của qui luật về mối quan hệ giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là qui luật mâu thuẫn. Sự phù hợp
giữa chúng chỉ là một cái trục, chỉ là trạng thái yên tĩnh tạm thời, còn sự
vận động, dao động sự mâu thuẫn là vĩnh viễn chỉ có khái niệm mâu
thuẫn mới đủ khả năng vạch ra động lực của sự phát triển mới có thể cho
ta hiểu được sự vận động của qui luật kinh tế.
2.2. Qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất.
Tất cả chúng ta đều biết, quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là
hai mặt hợp thành của phương thức sản xuất có tác động qua lại biện
chứng với nhau. Việc đẩy quan hệ sản xuất lên quá xa so với tính chất và
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một hiện tượng tương đối
phổ biến ở nhiều nước xây dựng xã hội chủ nghĩa. Nguồn gốc của tư
tưởng sai lầm này là bệnh chủ quan, duy ý chí, muốn có nhanh chủ nghĩa
xã hội thuần nhất bất chấp qui luật khách quan. Về mặt phương pháp
luận, đó là chủ nghĩa duy vật siêu hình, quá lạm dụng mối quan hệ tác
động ngược lại của quan hệ sản xuất đối với sự phát triển của lực lượng
sản xuất. Sự lạm dụng này biểu hiện ở "Nhà nước chuyên chính vô sản
có khả năng chủ động tạo ra quan hệ sản xuất mới để mở đường cho sự
phát triển của lực lượng sản xuất".
Nhưng khi thực hiện người ta đã quên rằng sự "chủ động" không
đồng nghĩa với sự chủ quan tuỳ tiệ, con người không thể tự do tạo ra bất
cứ hình thức nào của quan hệ sản xuất mà mình muốn có. Ngược lại
quan hệ sản xuất luôn luôn bị qui định một cách nghiêm ngặt bởi trạng
thái của lực lượng sản xuất, bởi quan hệ sản xuất với tính chất và trình
9



độ phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất chỉ có thể mở
đường cho lực lượng sản xuất phát triển khi mà nó được hoàn thiện tất cả
về nội dung của nó, nhằm giải quyết kịp thời những mâu thuẫn giữa quan
hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành biến đổi của quan hệ
sản xuất: lực lượng sản xuất là cái biến đổi đầu tiên và luôn biến đổi
trong sản xuất con người muốn giảm nhẹ lao động nặng nhọc tạo ra năng
suất cao phải luôn tìm cách cải tiến công cụ lao động. Chế tạo ra công cụ
lao động mới. Lực lượng lao động qui định sự hình thành và biến đổi
quan hệ sản xuất ki quan hệ sản xuất không thích ứng với trình độ, tính
chất của lực lượng sản xuất thì nó kìm hãm thậm chí phá hoại lực lượng
sản xuất thì nó kìm hãm thậm chí phá hoại lực lượng sản xuất và ngược
lại.
Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản
xuất. Quan hệ sản xuất khi đã được xác lập thì nó độc lập tương đối với
lực lượng sản xuất và trở thành những cơ sở và những thể chế xã hội và
nó không thể biến đổi đồng thời đối với lực lượng sản xuất. Thường lạc
hậu so với lực lượng sản xuất và nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình
độ sản xuất, tính chất của lực lượng sản xuất thì nó thúc đẩy sự phát triển
của lực lượng sản xuất. Nếu lạc hậu so với lực lượng sản xuất dù tạm
thời thì nó kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sở dĩ quan hệ
sản xuất có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực lượng sản xuất vì nó
qui định mục đích của sản xuất qui định hệ thống tổ chức quản lý sản
xuất và quản lý xã hội, qui định phương thức phân phối và phần của cải
ít hay nhiều mà người lao động được hưởng. Do đó nó ảnh hưởng tới
thái độ tất cả quần chúng lao động. Nó tạo ra những điều kiện hoặc kích

10



thích hoặc hạn chế sự phát triển công cụ sản xuất, áp dụng thành tựu
khoa học kỹ thuật vào sản xuất hợp tác phân công lao động quốc tế.
II. SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI
MỚI Ở VIỆT NAM

1. Những sai lầm về quy luật quan hệ sản xuất – lực lượng sản
xuất trước đổi mới.
Trong tiến trình lãnh đạo và quản lý đất nước của Đảng và Nhà
nước ta trong suốt mấy chục năm qua, thực tiễn cho thấy những mặt được
cũng như những mặt cũng như hạn chế trong quá trình nắm bắt và vận
dụng các quy luật kinh tế cũng như quy luật quan hệ sản xuất - lực lượng
sản xuất vào thực tiễn ở nước ta, với đặc điểm của nước ta là nước nông
nghiệp, nghèo nàn, lạc hậu, lực lượng sản xuất thấp kém, con trâu đi trước
cái cày đi sau, trình độ quản lý thấp cùng với nền sản xuất nhỏ tự cấp, tự
túc là chủ yếu. Mặt khác nước ta là nước thuộc địa nửa phong kiến lại phải
trải qua hai cuộc chiến tranh, nhiều năm bị đế quốc Mỹ bao vây cấm vận
nhiều mặt, nhất là về kinh tế. Do vậy lực lượng sản xuất chưa có điều kiện
phát triển. Sau khi giành được chính quyền, trước yêu cầu xây dựng CNXH
trong điều kiện nền kinh tế kém phát triển, Nhà nước ta đã dùng sức mạnh
chí trị tư tưởng để xóa bỏ nhanh chế độ tư hữu, chuyển sang chế độ công
hữu với hai hình thức toàn dân và tập thể, lúc đó được coi là điều kiện chủ
yếu, quyết định, tính chất, trình độ xã hội hoá sản xuất cũng như sự thắng
lợi của CNXH ở nước ta. Songtrong thực tế cách làm này đã không mang
lại kết quả như mong muốn, vì nó trái quy luật quan hệ sản xuất phải phù
hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, đã để lại hậu quả là:
Thứ nhất: Đối với những người sản xuất nhỏ thì tư hữu về tư liệu sản
xuất là phương thức kết hợp tốt nhất giữa sức lao động và tư liệu sản xuất.
Việc tiến hành tập thể nhanh chóng tư liệu sản xuất dưới hình thức cá nhân


11


bị tập trung dưới hình thức sở hữu công cộng, người lao động bị tách khỏi
tư liệu sản xuất, không làm chủ được qúa trình sản xuất, phụ thuộc vào lãnh
đạo Hợp tác xã, họ cũng không phải là chủ thể sở hữu thực sự dấn đến tư
liệu sản xuất trở thành vô chủ, gây thiệt hại cho tập thể.
Thứ hai: Kinh tế quốc doanh thiết lập tràn lan trong tất cả các ngành.
Về pháp lý tư liệu sản xuất cũng thuộc sở hữu toàn dân, người lao động là
chủ sở hữu có quyền sở hữu chi phối, định đoạt tư liệu sản xuất và sản
phẩm làm ra nhưng thực tế thì người lao động chỉ là người làm công ăn
lương, chế độ lương lại không hợp lý không phản ánh đúng số lượng &
chất lượng lao động của từng cá nhân đã đóng góp. Do đó chế độ công hữu
về tư liệu sản xuất cùng với ông chủ của nó trở thành hình thức, vô chủ,
chính quyền (bộ, ngành chủ quản) là đại diện của chủ sở hữu là người có
quyền chi phối, đơn vị kinh tế mất dần tính chủ động, sáng tạo, mất động
lực lợi ích, sản xuất kinh doanh kém hiệu quả nhưng lại không ai chịu trách
nhiệm, không có cơ chế giàng buộc trách nhiệm, nên người lao động thờ ơ
với kết quả hoạt động của mình.
Đây là căn nguyên nảy sinh tiêu cực trong phân phối, chỉ có một số
người có quyền định đoạt phân phối vật tư, vật phẩm, đặc quyền đặc lợi.
Tuy vậy, trong quá trình lãnh đạo xã hội đẩy mạnh phát triển kinh tế
Đang ta đang vận dụng quy luật sao cho quan hệ sản xuất luôn luôn phù
hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất̉, trên thực tế Đảng và
Nhà nước ta đang từng bước điều chỉnh quan hê san xuât cả tầm vi mô và
vĩ mô thời coi trọng việc đẩy mạnh phát triển lưc lương san xuât. Điều đó
đã có một tác động tích cực đối với nền kinh tế nước ta.

12



2. Sự hình thành và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
trong giai đoạn hiện nay ở nước ta.
Nhìn thẳng vào sự thật chúng ta thấy rằng, trong thời gian qua do
quá cường điệu vai trò của quan hệ sản xuất do quan niệm không đúng
về mối quan hệ giữa sở hữu và quan hệ khác, do quên mất điều cơ bản là
nước ta quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội từ một xã hội tiền tư bản chủ
nghĩa. Đồng nhất chế độ công hữu với chủ nghĩa xã hội lẫn lộn đồng
nhất giữa hợp tác hoá và tập thể hoá. Không thấy rõ các bước đi có tính
qui luật trên con đường tiến lên CNXH nên đã tiến hành ngay cuộc cải
tạo xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế quốc dân và xét về thực chất là
theo đường lối "đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa, đưa quan hệ sản xuất
đi trước mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Thiết lập chế độ
công hữu thuần nhất giữa hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể".
Quan niệm cho rằng có thể đưa quan hệ sản xuất đi trước để tạo địa bàn
rộng rãi, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển đã bị bác bỏ. Sự phát
triển của lực lượng sản xuất xã hội này đã mâu thuẫn với những cái phân
tích trên.
Nhưng thực ra mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển lực lượng sản
xuất với những hình thức kinh tế - xã hội xa lạ được áp đặt một cách chủ
quan kinh tế thích hợp cần thiết cho lực lượng sản xuất mới nảy sinh và
phát triển. Khắc phục những hiện tượng tiêu cực trên là cần thiết về mặt
này trên thực tế chúng ta chưa làm hết nhiệm vụ mình phải làm. Phải
giải quyết đúng đắn giữa mâu thuẫn lực lượng sản xuất với quan hệ sản
xuất từ đó khắc phục những khó khăn và tiêu cực của nền kinh tế. Thiết
lập quan hệ sản xuất mới với những hình thức và bước đi phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất luôn luôn thúc đâỷ sản xuất
phát triển với hiệu quả kinh tế cao. Trên cơ sở củng cố những đỉnh cao

13



kinh tế trong tay nhà nước cách mạng. Cho phép phục hồi và phát triển
chủ nghĩa tư bản và luôn bán tự do rộng rãi có lợi cho sự phát triển sản
xuất. Trả lời các nhà báo của nước ngoài phỏng vấn nguyên Tổng bí thư
Lê Khả Phiêu rằng "với một người có bằng cấp về quân sự nhưng không
có bằng cấp về kinh tế ông có thể đưa nước Việt Nam tiến lên không",
trả lời nguyên Tổng bí thư khẳng định rằng Việt Nam chúng tôi khác với
các nước ở chỗ chúng tôi đào tạo một người lính thì người lính ấy phải
có khả năng cầm súng và làm kinh tế rất giỏi, và ông còn khẳng định là
không chấp nhận Việt Nam theo con đường chủ quan của tư bản, nhưng
không phải triệt tiêu tư bản trên đất nước Việt Nam và vẫn quan hệ với
chủ nghĩa tư bản trên cơ sở có lợi cho đôi bên và như vậy cho phép phát
triển thành phần kinh tế tư bản là sáng suốt. Quan điểm từ đại hội VI
cũng đã khẳng định không nhưng khôi phục thành phần kinh tế tư bản tư
nhân và kinh tế cả thế mà phải phát triển chúng rộng rãi theo chính sách
của Đảng và Nhà nước. Nhưng điều quan trọng là phải nhận thức được
vai trò của thành phần kinh tế nhà nước trong thời kỳ quá độ. Để thực
hiện vai trò này một mặt nó phải thông qua sự nêu gương về các mặt
năng suất, chất lượng và hiệu quả. Thực hiện đầy đủ đối với nhà nước.
Đối với thành phần kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể thực hiện
chính sách khuyến khích phát triển. Tuy nhiên với thành phần kinh tế
này phải có những biện pháp để cho quan hệ sản xuất thực hiện phù hợp
với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong thời kỳ
quá độ. Vì như thế mới thực sự thúc đẩy sự phát triển của lực lượng lao
động.
Ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, phát triển kinh tế tập trung ở hai
lực lượng chính: lực lượng sản xuất của doanh nghiệp nhà nước (thường
gọi là quốc doanh, thuộc thành phần kinh tế nhà nước); lực lượng sản xuất
ngoài quốc doanh (thường gọi là dân doanh, thuộc kinh tế tư nhân).

14


Lênin, trong tác phẩm Chính sách kinh tế mới và những nhiệm vụ
của các Ban giáo dục chính trị, đã viết: "Hoặc là tất cả những thành tựu về
mặt chính trị của chính quyền Xô viết sẽ tiêu tan, hoặc là phải làm cho
những thành tựu ấy đứng vững trên một cơ sở kinh tế. Cơ sở này hiện nay
chưa có. Đấy chính là công việc mà chúng ta cần bắt tay vào làm đúng theo
quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất".
3. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng quan
hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay
Phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất trong nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN được Đảng ta xác định: Mục đích của
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là phát triển lực lượng sản xuất,
phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của CNXH, nâng cao
đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn với xây dựng
quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối.
Đa dạng hoá sở hữu: sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở
hữu của kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và sở hữu hỗn hợp. Trong các loại
hình sở hữu đó, sở hữu nhà nước giữ vai trò chủ đạo, sở hữu nhà nước cùng
với sở hữu tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế
quốc dân.
Trong đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng ta đã khẳng định
là: “Hoàn thiện thể chế để tháo gỡ mọi cản trở, tạo điều kiện thuận lợi để
giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, đẩy mạnh ứng dụng
khoa học, công nghệ; huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho
phát triển. Phát triển nhanh, hài hoà các thành phần kinh tế và các loại hình
doanh nghiệp. Phải tăng cường tiềm lực và nâng cao hiệu quả của kinh tế


15


nhà nước. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan
trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, góp phần ổn định
kinh tế vĩ mô. Phát triển kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng
mà nòng cốt là hợp tác xã”.
Để làm sáng tỏ nội dung xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất trong quá trình CNH, HĐH của Đảng ta,
chúng ta tập trung nghiên cứu xây dựng quan hệ sản xuất trong các loại
hình kinh tế hiện nay.
3.1. Về đổi mới quan hệ sản xuất trong kinh tế nhà nước
Kinh tế nhà nước dựa trên sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ
sở hữu về vốn và tư liệu sản xuất, bao gồm toàn bộ tài nguyên được khai
thác, sử dụng; ngân hàng nhà nước, ngân sách nhà nước, các quỹ dự trữ nhà
nước, hệ thống doanh nghiệp nhà nước - bộ phận quan trọng nhất của kinh
tế nhà nước.
Việc đổi mới kinh tế nhà nước nhằm thực hiện vai trò chủ đạo theo
hướng tổ chức, sắp xếp lại, giao, bán, khoán, cho thuê, cho phá sản theo luật
định, thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước nhằm đa dạng hoá sở
hữu đối với các doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn.
Để nâng cao năng lực sản xuất và hiệu quả kinh tế của kinh tế nhà nước,
chủ trương của Đảng là hoàn thiện cơ chế, chính sách để các doanh nghiệp
nhà nước thực sự hoạt động sản xuất kinh doanh trong môi trường cạnh
tranh, công khai, minh bạch. Doanh nghiệp nhà nước phải có quyền tài sản,
tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh, trên thị trường và
trước pháp luật. Phân biệt quyền của chủ sở hữu và quyền kinh doanh của
doanh nghiệp. Thực hiện chế độ quản lý công ty đối với các doanh nghiệp
sản xuất kinh doanh dưới dạng công ty trách nhiệm hữu hạn một chủ sở

hữu là Nhà nước và công ty cổ phần có vốn nhà nước.
16


3.2. Về đổi mới quan hệ sản xuất trong kinh tế tập thể
Kinh tế tập thể dựa trên sở hữu tập thể, bao gồm các cơ sở kinh tế do
xã viên và người lao động góp vốn, tư liệu sản xuất cùng sản xuất kinh
doanh, quản lý và phân phối theo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, bình đẳng
và cùng có lợi. Chủ trương đổi mới sở hữu tập thể trong kinh tế tập thể theo
hướng đa dạng hoá nhằm mở rộng quy mô và phạm vi sở hữu. Kinh tế tập
thể phát triển với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, trong đó các hợp tác xã
là nòng cốt.
Các hợp tác xã và tổ hợp tác dựa trên sở hữu của các thành viên
và sở hữu tập thể, liên kết, liên doanh rộng rãi với những người lao
động, các hộ sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc
các thành phần kinh tế khác, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa
bàn hoạt động. Đại hội lần thứ XI của Đảng ta đã xác định: “Đẩy mạnh
phát triển kinh tế tập thể với nhiều hình thức đa dạng, mà nòng cốt là
hợp tác xã. Tổng kết tình hình phát triển hợp tác xã và thực hiện Luật
Hợp tác xã. Khẩn trương hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính
sách hỗ trợ, tạo điều kiện cho việc ra đời, phát triển các hợp tác xã, các
tổ hợp tác kiểu mới và mô hình kinh tế tập thể khác theo nguyên tắc tự
nguyện, cùng có lợi, có chức năng kinh tế và xã hội”.
3.3. Về đổi mới quan hệ sản xuất trong kinh tế tư nhân
Kinh tế tư nhân có kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư
nhân. Kinh tế cá thể, tiểu chủ là loại hình do một chủ tổ chức quản lý kinh
doanh, trên cơ sở sở hữu tư nhân, có quy mô nhỏ về nguồn vốn và tư liệu
sản xuất, sản xuất kinh doanh dựa trên bản thân và gia đình của họ là chủ
yếu. Kinh tế tư bản tư nhân là loại hình dựa trên sở hữu tư nhân về nguồn
vốn và tư liệu sản xuất của một hay nhiều chủ sở hữu, sử dụng lao động

làm thuê, trong đó, chủ thể tư bản là chủ doanh nghiệp.
17


Chủ trương của Đảng ta về đổi mới sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân
trên cơ sở đa dạng hoá sở hữu, đa dạng hoá các loại hình tổ chức quản lý
sản xuất kinh doanh, không hạn chế về quy mô, đa dạng trong các ngành
nghề, lĩnh vực kinh tế, hoạt động theo quy hoạch và pháp luật không cấm.
Thừa nhận sự tồn tại sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân và khuyến
khích phát triển các loại hình doanh nghiệp tư nhân là tất yếu khách quan,
phù hợp với điều kiện ở nước ta, bởi vì lực lượng sản xuất đa dạng, không
đồng đều, nhiều trình độ.
Do sự đa dạng hóa quan hệ sở hữu và tổ chức quản lý kinh doanh,
vì vậy, quan hệ phân phối phải thực hiện dưới nhiều hình thức đa dạng.
Đó là thực hiện quan hệ phân phối theo các nguyên tắc của thị trường gắn
với sự quản lý của Nhà nước thông qua hệ thống pháp luật, kế hoạch,
chính sách điều tiết phân phối, thu nhập, hạn chế tối đa sự chênh lệch về
phân phối các giá trị mới tạo ra nhằm góp phần tạo động lực cho sự phát
triển kinh tế - xã hội, thực hiện CNH, HĐH.
3.4. Về đổi mới quan hệ sản xuất trong kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ra đời từ nguồn vốn và tư liệu sản
xuất thuộc sở hữu tư nhân ở ngoài nước. Sở hữu của nhà đầu tư nước
ngoài thuộc hình thức sở hữu tư nhân, là một trong ba hình thức sở
hữu cơ bản ở nước ta.
Các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế này có thể kết hợp
đan xen các hình thức sở hữu, có quyền chuyển đổi hình thức sở hữu.
Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh có thể chuyển thành hình
thức liên doanh. Hình thức doanh nghiệp liên doanh có thể chuyển
thành doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài và từ hình thức này


18


có thể chuyển đổi thành doanh nghiệp 100% đầu tư trong nước…
nhằm làm cho quan hệ sở hữu vận động theo đúng bản chất của nó.
Mục tiêu phát triển thành phần kinh tế này là thúc đẩy mạnh mẽ
lực lượng sản xuất trên cơ sở thu hút vốn, công nghệ, kinh nghiệm
quản lý, thị trường thế giới và khai thác tiềm năng, lợi thế về tài
nguyên, sức lao động, hướng về xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội, góp phần thực hiện CNH, HĐH thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, giải quyết công ăn việc làm mới cho người lao động.
4. Công nghiệp hoá vận dụng tuyệt vời quy luật quan hệ sản xuất
phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.
Chúng ta đều biết rằng, từ trước đến nay, công nghiệp hoá - hiện
đại hoá là khuynh hướng phát triển tất yếu của các nước. Đối với nước ta,
từ một nền kinh tế tiểu nông muốn thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, nhanh
chóng đạt tời trình độ của một nước phát triển tất yếu phải đẩy mạnh sự
nghiệp công nghiệp hoá như là một cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc.
Theo quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lịch sử sản xuất vật
chất của nhân loại đã hình thành mối quan hệ khách quan phổ biến: Một
mặt con người phải quan hệ với giới tự nhiên nhằm biến đổi giới tự nhiên
đó, quan hệ này được biểu hiện ở lực lượng sản xuất mặt khác con người
phải quan hệ với nhau để tiến hành sản xuất, quan hệ này được biểu hiện ở
quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là 2 mặt đối lập
nhau biện chứng của một thể thống nhất không thể tách rời. Tuy nhiên nếu
lực lượng sản xuất là cái cấu thành của toàn bộ lịch sử nhân loại thì quan
hệ sản xuất là cải tạo thành cơ sở kinh tế của xã hội, là cơ sở hiện thực của
hoạt động sản xuất tinh thần và những thiết chế tương ứng trong xã hội.


19


C.Mác đã đưa ra kết luận rằng xã hội loài người phát triển trải qua nhiều
giai đoạn kế tiếp nhau, ứng với mỗi giai đoạn của sự phát triển đó là một
hình thái kinh tế - xã hội nhất định - rằng tiến bộ xã hội là sự vận động theo
hướng tiến lên của các hình thái kinh tế - xã hội khác mà gốc rễ sâu xa của
nó là sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất. Rằng sự vận động
và phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là do tác động của các qui
luật khách quan. Mác và Ănghen đã đưa ra nhiều lý luận, nhiều tư tưởng.
Những lý luận tư tưởng cơ bản đó trong học thuyết Mác về hình thái kinh
tế - xã hội chính là cơ sở lý luận cho phép chúng ta khẳng định sự nghiệp
công nghiệp hoá - hiện đại hoá theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay
là phù hợp với qui luật khách quan trong quá trình phát triển của dân tộc ta,
của thời đại. Đối với nước ta để phù hợp với lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất đảng ta đã nêu công nghiệp hoá phải đi đôi với hiện đại hoá, kết
hợp những bước tiến tuần tự về công nghệ với việc tranh thủ những cơ hội
đi tắt, đón đầu, hình thành những mũi nhọn phát triển theo trình độ tiên tiến
của khoa học công nghệ thế giới. Mặt khác chúng ta phải chú trọng xây
dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ
chế thị trường, có sự điều tiết của nhà nước và theo định hướng XHCN.
Đây là hai nhiệm vụ được thực hiện đồng thời. Chúng luôn tác động thúc
đẩy hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển. Bởi lẽ "nếu công nghiệp hoá - hiện đại
hoá tạo nên lực lượng sản xuất cần thiết cho chế độ xã hội mới thì việc xây
dựng nền kinh tế nhiều thành phần chính là để xây dựng hệ thống quan hệ
sản xuất phù hợp đưa nước ta tiến lên từng ngày như Đảng và Nhà nước ta
mong muốn đa và đang thực hiện. Đại hội đại biểu lần thứ VIII của Đảng
đã khẳng định "Xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật
chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù

hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh

20


thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh xã hội công
bằng văn minh"..
Đất nước ta đang trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá
với tiềm năng lao động lớn cần cù, thông minh, sáng tạo và có kinh
nghiệm lao động nhưng công cụ của chúng ta còn thô sơ. Nguy cơ tụt
hậu của đất nước ngày càng được khắc phục. Đảng ta đang triển khai
mạnh mẽ một số vấn đề của đất nước về công nghiệp hoá - hiện đại
hoá trước hết trên cơ sở một cơ cấu sở hữu hợp quy luật gắn liền với
một cơ cấu các thành phần kinh tế hợp qui luật, cũng như cơ cấu một
xã hội hợp giai cấp. Cùng với thời cơ lớn, những thử thách ghê gớm
phải vượt qua để hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá
đất nước vì dân giàu nước mạnh công bằng văn minh hãy còn phía
trước mà nội dung cơ bản trong việc thực hiện là phải nhận thức đúng
đắn về qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất trong giai đoạn hiện nay của nước ta.

21


KẾT LUẬN
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất là tất yếu khách quan. Trong quá trình CNH, HĐH, Đảng
và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách xây dựng quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đó là chủ
trương phát triển nền kinh tế thị trường đinh hướng XHCN với nhiều hình

thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức
tổ chức sản xuất kinh doanh và nhiều hình thức phân phối.
Thực tiễn xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất trong quá trình CNH, HĐH ở nước ta gần 30 năm
qua bước đầu đã chứng minh tính đúng đắn của sự nhận thức và vận dụng
quy luật này, vì vậy, đã khai thác, phát huy các tiềm năng, lợi thế, các
nguồn lực của xã hội vào thực hiện CNH, HĐH, phát triển kinh tế - xã hội,
cải thiện và nâng cao một bước đời sống nhân dân.
Mặc dù đạt được kết quả to lớn trong nhận thức và vận dụng quy
luật này, tuy nhiên, trong xây dựng quan hệ sản xuất vẫn còn có những
hạn chế, yếu kém và bất cập cả về quan hệ sở hữu, quan hệ tổ chức quản
lý sản xuất và quan hệ phân phối, vì vậy, làm cản trở sự phát triển của lực
lượng sản xuất, chưa đáp ứng yêu cầu và mục tiêu của việc đẩy mạnh
CNH, HĐH nền kinh tế đất nước.
Để quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH hiện nay chúng ta cần không
ngừng đổi mới và hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH. Đồng thời
thực hiện đa dạng hoá các loại hình quan hệ sản xuất nhằm tạo điều kiện cho
lực lượng sản xuất phát triển trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH; đổi mới
và phát triển thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể trong quá trình
đẩy mạnh CNH, HĐH; khuyến khích phát triển mạnh thành phần kinh tế tư
nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong quá trình đẩy mạnh CNH,
HĐH, đồng thời nâng cao vai trò của nhân tố chủ quan trong việc xây dựng
và hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH.
22


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tài liệu Lênin toàn tập - tập 38 - NXB Matxcơva 1977
2. Tạp chí phát triển kinh tế
"Công nghiệp hoá nhìn từ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất". PTS. Lưu Hà Vi.
3. Giáo trình triết học Mac – Lênin, NXB chính trị Quốc gia
4. Giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lênin, NXB chính trị Quốc
gia
5. Triết học Mác- Lênin với việc xác định con đường và động lực đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay (2009), Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Hội nghị lần thứ VII.
7. Đảng cộng sản Việt Nam (2005), tổng kết một số vấn đề lý luận
thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986-2006), Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia- sự thật, Hà Nội.

23


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................2
NỘI DUNG......................................................................................................3
I. SỰ NHẬN THỨC VỀ LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT, QUAN HỆ SẢN
XUẤT VÀ QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TÍNH
CHẤT VÀ TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT.. 3

1. Phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
..................................................................................................................3
2. Qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ

phát triển của lực lượng sản xuất........................................................7
2. Sự hình thành và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong
giai đoạn hiện nay ở nước ta..............................................................13
3.1. Về đổi mới quan hệ sản xuất trong kinh tế nhà nước
............................................................................................................16
3.2. Về đổi mới quan hệ sản xuất trong kinh tế tập thể.17
3.3. Về đổi mới quan hệ sản xuất trong kinh tế tư nhân 17
3.4. Về đổi mới quan hệ sản xuất trong kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài...........................................................................18
4. Công nghiệp hoá vận dụng tuyệt vời quy luật quan hệ sản xuất
phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay............................19
.......................................................................................................................21
KẾT LUẬN.....................................................................................................22
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................23

24



×