Chuyên đề tốt nghiệp
Đại học Duy Tân
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sau hơn 7 năm diễn ra cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu từ
năm 2008, kinh tế thế giới nhìn chung có phát triển chậm và không
ổn định, dù đã xuất hiện một số tín hiệu lạc quan, tuy nhiên vẫn
chưa lấy lại được đà tăng trưởng như trước đó. Dự báo trong thời gian
tới, tốc độ tăng trưởng có cải thiện hơn, song kinh tế thế giới vẫn
phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức.
Đối mặt với xu thế khu vực hóa, quốc tế hóa hiện nay, nền kinh
tế Việt Nam chịu ảnh hưởng rất nghiêm trọng từ nền kinh tế thế giới.
Trong bối cảnh đó, để có thể tồn tại và phát triển mỗi đơn vị sản xuất
kinh doanh phải đảm bảo tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của mình và có lợi nhuận. Muốn thực hiện được điều đó các
doanh nghiệp sản xuất phải quan tâm đến tất cả các khâu nhằm đáp
ứng tốt nhất nhu cầu của xã hội như chất lượng sản phẩm, giá thành
sản phẩm, vòng quay của vốn,… trong đó có hoạt động quản lý hàng
tồn kho.
Quản lý hàng tồn kho là một công việc khá phức tạp, đòi hỏi nhà
quản lý doanh nghiệp phải biết vận dụng sáng tạo các phương pháp
quản lý vào thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp mình. Vấn đề ở
đây là làm sao để quản lý hàng tồn kho cho hiệu quả, vừa đảm bảo
sản lượng hàng để cung ứng mà cũng không thu mua quá nhiều
nguyên vật liệu đầu vào gây nên tổn thất vô ích và làm giảm lợi
nhuận của doanh nghiệp? Đặc biệt trong giai đoạn kinh tế khó khăn
như hiện nay, các doanh nghiệp đang phải đối mặt với nhiều vấn đề
như doanh số bán ra giảm, hợp đồng thu mua nguyên vật liệu đã kí,
làm cho lượng hàng tồn kho tăng từ đó kéo theo chi phí cũng tăng
theo.
Với tầm quan trọng đó của quản lý hàng tồn kho em đã chọn đề
tài “Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng hàng
Trần Thị Ni Na – Lớp K18QTC
Chuyên đề tốt nghiệp
Đại học Duy Tân
tồn kho tại Công ty Cổ phần Nhựa Đà Nẵng ” cho chuyên đề
thực tập tốt nghiệp của mình. Hy vọng bài viết này sẽ góp ích phần
nào vào việc hoàn thiện công tác quản lý hàng tồn kho tại Công ty
Cổ phần Nhựa Đà Nẵng và là tài liệu tham khảo cho các đối tượng
quan tâm.
2. Mục tiêu của đề tài
Chuyên đề hệ thống hóa lý luận về hoạt động quản lý hàng tồn
kho trong một doanh nghiệp. Dựa trên nền tảng cơ bản đó, chuyên
đề nghiên cứu thực trạng công tác quản trị hàng tồn kho tại Công ty
Cổ phần Nhựa Đà Nẵng, đánh giá những thành công cũng như những
tồn tại của Công ty trong quá trình thực hiện công tác này.
Từ đó chuyên đề đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn
thiện công tác quản trị hàng tồn kho tại Công ty Cổ phần Nhựa Đà
Nẵng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của chuyên đề là công tác quản trị hàng
tồn kho trong doanh nghiệp.
Phạm vi nghiên cứu của chuyên đề là tình tình thực tế tại Công
ty Cổ phần Nhựa Đà Nẵng trong các năm từ 2013 đến 2015.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp cơ bản để tiến hành nghiên cứu là vận dụng phép
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Đồng thời kết hợp các phương
pháp nghiên cứu tổng hợp, so sánh, phân tích… để nghiên cứu.
5. Kết cấu của đề tài
Nội dung của chuyên đề được trình bày theo các phần
chính như sau:
Chương I: Cơ sở lý luận về quản trị hàng tồn kho trong doanh
nghiệp.
Trần Thị Ni Na – Lớp K18QTC
Chuyên đề tốt nghiệp
Đại học Duy Tân
Chương II: Thực trạng hiệu quả quản trị hàng tồn kho tại Công
ty Cổ phần Nhựa Đà Nẵng .
Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả quản trị hàng tồn kho
tại Công ty Cổ phần Nhựa Đà Nẵng.
Trần Thị Ni Na – Lớp K18QTC
Chuyên đề tốt nghiệp
Đại học Duy Tân
Chương I:CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ HÀNG TỒN KHO
TRONG DOANH NGHIỆP
1. Tổng quan về vốn lưu động
1.1.
Khái niệm
Vốn lưu động (thuật ngữ tiếng Anh: Working capital, viết
tắt WC) là một thước đo tài chính đại diện cho thanh khoản vận hành
có sẵn cho một doanh nghiệp, tổ chức hoặc thực thể khác, bao gồm
cả cơ quan chính phủ. Cùng với các tài sản cố định như nhà máy và
thiết bị, vốn lưu động được coi là một phần của vốn hoạt động. Vốn
lưu động được tính như tài sản hiện tại trừ nợ ngắn hạn. Nó là một
nguồn gốc của vốn lưu động, thường được sử dụng trong các kỹ
thuật định giá như DCFS (các dòng tiền chiết khấu). Nếu tài sản hiện
tại ít hơn nợ ngắn hạn, một thực thể có một thiếu vốn lưu động,
còn được gọi là thâm hụt vốn lưu động.
Mỗi một doanh nghiệp muốn tiến hành sản xuất kinh doanh
ngoài tài sản cố định còn phải có các tài sản lưu động tuỳ theo loại
hình doanh nghiệp mà cơ cấu của Tài sản lưu động khác nhau. Tuy
nhiên đối với doanh nghiệp sản xuất Tài sản lưu động được cấu thành
bởi hai bộ phận là Tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu thông.
- Tài sản lưu động sản xuất bao gồm những tài sản ở khâu dự trữ
sản xuất như nguyên vật liệu chính, nguyên vật liệu phụ, nhiên
liệu...và tài sản ở khâu sản xuất như bán thành phẩm, sản phẩm dở
dang, chi phí chờ phân bổ...
- Tài sản lưu thông của doanh nghiệp bao gồm sản phẩm hàng
hóa chưa được tiêu thụ (hàng tồn kho), vốn bằng tiền và các khoản
phải thu.
Để đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành
thường xuyên, liên tục đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng Tài
sản lưu động nhất định. Do vậy, để hình thành nên Tài sản lưu động,
Trần Thị Ni Na – Lớp K18QTC
Chuyên đề tốt nghiệp
Đại học Duy Tân
doanh nghiệp phải ứng ra một số vốn đầu tư vào loại tài sản này, số
vốn đó được gọi là vốn lưu động.
Tóm lại, vốn lưu động của doanh nghiệp là số vốn ứng ra để hình
thành nên Tài sản lưu động nhằm đảm bảo cho quá trình kinh doanh
của doanh nghiệp được thực hiện thường xuyên, liên tục. Vốn lưu
động chuyển toàn bộ giá trị của chúng vào lưu thông và từ trong lưu
thông toàn bộ giá trị của chúng được hoàn lại một lần sau một chu
kỳ kinh doanh.
1.2.
Đặc điểm
Vốn lưu động hoàn thành một vòng tuần hoàn sau một chu kỳ
sản xuất. Trong quá trình đó, vốn lưu động chuyển toàn bộ, một lần
giá trị vào giá trị sản phẩm, khi kết thúc quá trình sản xuất, giá trị
hàng hóa được thực hiện và vốn lưu động được thu hồi.
Trong quá trình sản xuất, vốn lưu động được chuyển qua nhiều
hình thái khác nhau qua từng giai đoạn. Các giai đoạn của vòng tuần
hoàn đó luôn đan xen với nhau mà không tách biệt riêng rẽ. Vì vậy
trong quá trình sản xuất kinh doanh, quản lý vốn lưu động có một vai
trò quan trọng. Việc quản lý vốn lưu động đòi hỏi phải thường xuyên
nắm sát tình hình luân chuyển vốn, kịp thời khắc phục những ách tắc
sản xuất, đảm bảo đồng vốn được lưu chuyển liên tục và nhịp nhàng.
Trong cơ chế tự chủ và tự chịu trách về nhiệm tài chính, sự vận
động của vốn lưu động được gắn chặt với lợi ích của doanh nghiệp và
người lao động. Vòng quay của vốn càng được quay nhanh thì doanh
thu càng cao và càng tiết kiệm được vốn, giảm chi phí sử dụng vốn
một cách hợp lý làm tăng thu nhập của doanh nghiệp, doanh nghiệp
có điều kiện tích tụ vốn để mở rộng sản xuất, không ngừng cải thiện
đời sống của công nhân viên chức của doanh nghiệp.
1.3.
Vai trò
Trần Thị Ni Na – Lớp K18QTC
Chuyên đề tốt nghiệp
Đại học Duy Tân
Để tiến hành sản xuất, ngoài tài sản cố định như máy móc, thiết
bị, nhà xưởng... doanh nghiệp phải bỏ ra một lượng tiền nhất định để
mua sắm hàng hóa, nguyên vật liệu... phục vụ cho quá trình sản
xuất. Như vậy vốn lưu động là điều kiện đầu tiên để doanh nghiệp đi
vào hoạt động hay nói cách khác vốn lưu động là điều kiện tiên
quyết của quá trình sản xuất kinh doanh.
Ngoài ra vốn lưu động còn đảm bảo cho quá trình tái sản xuất
của doanh nghiệp được tiến hành thường xuyên, liên tục. Vốn lưu
động còn là công cụ phản ánh đánh giá quá trình mua sắm, dự trữ,
sản xuất, tiêu thụ của doanh nghiệp.
Vốn lưu động còn có khả năng quyết định đến quy mô hoạt động
của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường doanh nghiệp hoàn
toàn tự chủ trong việc sử dụng vốn nên khi muốn mở rộng quy mô
của doanh nghiệp phải huy động một lượng vốn nhất định để đầu tư
ít nhất là đủ để dự trữ vật tư hàng hóa. Vốn lưu động còn giúp cho
doanh nghiệp chớp được thời cơ kinh doanh và tạo lợi thế cạnh tranh
cho doanh nghiệp.
Vốn lưu động còn là bộ phận chủ yếu cấu thành nên giá thành
sản phẩm do đặc điểm luân chuyển toàn bộ một lần vào giá trị sản
phẩm. Giá trị của hàng hóa bán ra được tính toán trên cơ sở bù đắp
được giá thành sản phẩm cộng thêm một phần lợi nhuận. Do đó, vốn
lưu động đóng vai trò quyết định trong việc tính giá cả hàng hóa bán
ra.
1.4.
Phân loại
Dựa theo tiêu thức khác nhau, có thể chia vốn lưu động thành
các loại khác nhau. Thông thường có một số cách phân loại sau:
•
Dựa theo hình thái biểu hiện của vốn có thể chia vốn lưu
động thành các loại:
- Vốn bằng tiền và các khoản phải thu:
Trần Thị Ni Na – Lớp K18QTC
Chuyên đề tốt nghiệp
Đại học Duy Tân
+ Vốn bằng tiền: Tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng, tiền
đang chuyển. Tiền là một loại tài sản của doanh nghiệp mà có thể dễ
dàng chuyển đổi thành các loại tài sản khác hoặc để trả nợ. Do vậy,
trong hoạt động kinh doanh đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải có một
lượng tiền nhất định.
+ Các khoản phải thu: Chủ yếu là các khoản phải thu từ khách
hàng, thể hiện số tiền mà khách hàng nợ doanh nghiệp phát sinh
trong quá trình bán hàng hóa, dịch vụ dưới hình thức bán trước trả
sau.
- Vốn vật tư, hàng hóa: Bao gồm 3 loại gọi chung là hàng tồn
kho
+ Nguyên liệu, vật liệu, công cụ và dụng cụ.
+ Sản phẩm dở dang
+ Thành phẩm
Việc phân loại vốn lưu động theo cách này tạo điều kiện thuận
lợi cho việc xem xét, đánh giá khả năng thanh toán của doanh
nghiệp.
•
Dựa theo vai trò của vốn lưu động đối với quá trình sản xuất kinh
doanh có thể chia vốn lưu động thành các loại chủ yếu sau:
- Vốn lưu động trong khâu dự trữ sản xuất, gồm các khoản:
+ Vốn nguyên liệu, vật liệu chính + Vốn phụ tùng thay thế
+ Vốn công cụ, dụng cụ + Vốn nhiên liệu
+ Vốn vật liệu phụ
- Vốn lưu động trong khâu sản xuất:
+ Vốn sản phẩm dở dang
+ Vốn về chi phí trả trước
- Vốn lưu động trong khâu lưu thông
Trần Thị Ni Na – Lớp K18QTC
Chuyên đề tốt nghiệp
Đại học Duy Tân
+ Vốn thành phẩm
+ Vốn bằng tiền
+ Vốn đầu tư ngắn hạn về chứng khoán và các loại khác
+ Vốn trong thanh toán: những khoản phải thu và tạm ứng
•
Theo nguồn hình thành
- Nguồn vốn pháp định: Nguồn vốn này có thể do Nhà nước cấp,
do xã viên, cổ đông đóng góp hoặc do chủ doanh nghiệp tự bỏ ra
- Nguồn vốn tự bổ sung: Đây là nguồn vốn doanh nghiệp tự bổ
sung chủ yếu một phần lấy từ lợi nhuận để lại
- Nguồn vốn liên doanh, liên kết
- Nguồn vốn huy động thông qua phát hành cổ phiếu
- Nguồn vốn đi vay
Đây là nguồn vốn quan trọng mà doanh nghiệp có thể sử dụng
để đáp ứng nhu cầu về vốn lưu động thường xuyên trong kinh doanh.
Tuỳ theo điều kiện cụ thể mà doanh nghiệp có thể vay vốn của ngân
hàng các tổ chức tín dụng khác hoặc có thể vay vốn của tư nhân các
đơn vị tổ chức trong và ngoài nước.
1.5.
Quản lý vốn lưu động
Các quyết định liên quan đến vốn lưu động và tài chính ngắn
hạn được gọi là quản lý vốn lưu động. Điều này liên quan đến việc
quản lý các mối quan hệ giữa tài sản ngắn hạn của một công ty và nợ
ngắn hạn của nó. Mục tiêu của quản lý vốn lưu động là để đảm bảo
rằng công ty có thể tiếp tục các hoạt động của nó và nó có dòng tiền
đủ để đáp ứng cả nợ ngắn hạn trưởng thành và các chi phí hoạt động
sắp tới.
Được hướng dẫn bởi các tiêu chí trên, việc quản lý sẽ sử dụng
một sự kết hợp của các chính sách và kỹ thuật cho việc quản lý vốn
lưu động. Các chính sách nhằm mục đích quản lý Tài sản ngắn
Trần Thị Ni Na – Lớp K18QTC
Chuyên đề tốt nghiệp
Đại học Duy Tân
hạn (thường tiền mặt và tương đương tiền, hàng tồn kho và các con
nợ) và các nguồn tài chính ngắn hạn, như các dòng tiền và thu hồi
vốn được chấp nhận.
•
Quản lý tiền mặt. Xác định số dư tiền mặt cho phép đối với
doanh nghiệp để đáp ứng các chi phí ngày qua ngày, nhưng làm
giảm chi phí nắm giữ tiền mặt.
•
Quản lý hàng tồn kho. Xác định mức độ hàng tồn kho cho
phép để sản xuất không bị gián đoạn nhưng làm giảm đầu tư nguyên
liệu - và giảm thiểu chi phí sắp xếp lại - và do đó làm tăng lưu lượng
tiền mặt. Bên cạnh đó, thời gian giao hàng trong sản xuất nên được
hạ thấp để giảm Công đoạn trong quá trình sản xuất(WIP) và tương
tự, Hàng hóa thành phẩm phải được giữ trên mức càng thấp càng tốt
để tránh sản xuất quá mức - xem quản lý chuỗi cung cấp, sản xuất
kịp thời (JIT); số lượng đặt hàng kinh tế (EOQ).
•
Tài chính ngắn hạn. Xác định nguồn tài chính thích hợp, cho
chu kỳ chuyển đổi tiền mặt: hàng tồn kho được tài trợ lý tưởng bởi
tín dụng được viện trợ của nhà cung cấp; tuy nhiên, nó có thể là cần
thiết để sử dụng một cho vay (hoặc thấu chi) ngân hàng, hoặc
"chuyển đổi con nợ thành tiền mặt" thông qua " bao thanh toán".
2. Tổng quan về quản lý hàng tồn kho trong doanh
nghiệp
2.1.
Khái niệm, vai trò của hàng tồn kho
2.1.1. Khái niệm
Hàng tồn kho là những tài sản lưu động được dự trữ cho sản
xuất, dự trữ cho lưu thông hoặc đang trong quá trình chế tạo ở
doanh nghiệp. Đây là bộ phận tài sản chiếm tỉ trọng lớn và có vị trí
quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Hàng tồn kho là những mặt hàng sản phẩm được doanh nghiệp
giữ để bán ra sau cùng. Nói cách khác, hàng tồn kho là những mặt
Trần Thị Ni Na – Lớp K18QTC
Chuyên đề tốt nghiệp
Đại học Duy Tân
hàng dự trữ mà một công ty sản xuất ra để bán và những thành
phần tạo nên sản phẩm. Do đó, hàng tồn kho chính là sự liên kết
giữa việc sản xuất và bán sản phẩm đồng thời là một bộ phận của
tài sản ngắn hạn, chiếm tỉ trọng lớn, có vai trò quan trọng trong việc
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Hàng tồn kho tồn tại trong các công ty sản xuất có thể được
phân ra thành ba loại:
-
Nguyên liệu thô: là những nguyên liệu
được bán đi hoặc giữ lại để sản xuất
trong tương lai, được gửi đi gia công chế
-
biến và đã mua đang đi trên đường về.
Bán thành phẩm: là những sản phẩm
được phép dùng cho sản xuất nhưng vẫn
chưa hoàn thành và sản phẩm hoàn
thành chưa làm thủ tục nhập kho thành
-
phẩm.
Thành phẩm: là sản phẩm hoàn chỉnh
hoàn thành sau quá trình sản xuất.
Ba loại hàng tồn kho nêu trên được duy trì sẽ khác nhau từ công
ty này đến công ty khác tùy thuộc vào tính chất khác nhau của từng
doanh nghiệp.
Một số công ty cũng duy trì loại thứ tư của hàng tồn kho, được
gọi là nguồn vật tư, chẳng hạn như đồ dùng văn phòng, vật liệu làm
sạch máy, dầu, nhiên liệu, bóng đèn và những thứ tương tự. Những
loại hàng này đều cần thiết cho quá trình sản xuất.
2.1.2. Vai trò của hàng tồn kho trong doanh nghiệp
Tại sao các công ty lại giữ hàng tồn kho trong khi chi phí lưu trữ
khá đắt? Câu trả lời là tầm quan trọng trong việc giữ hàng tồn kho ở
các doanh nghiệp. Báo cáo của những nhà nghiên cứu cho rằng
có ba lí do chính của việc giữ hàng tồn kho, cụ thể:
Trần Thị Ni Na – Lớp K18QTC
Chuyên đề tốt nghiệp
-
Đại học Duy Tân
Giao dịch: Doanh nghiệp sẽ duy trì hàng tồn kho để tránh tắc nghẽn
trong quá trình sản suất và bán hàng. Bằng việc duy trì hàng tồn
kho, các doanh nghiệp đảm bảo được việc sản xuất không bị gián
đoạn do thiếu nguyên liệu thô. Mặt khác, việc bán hàng cũng không
-
bị ảnh hưởng do không có sẵn hàng hóa thành phẩm.
Dự phòng: Việc giữ lại hàng tồn kho với mục đích này là một tấm
đệm cho những tình huống kinh doanh xấu nằm ngoài dự đoán. Sẽ
có những bức phá bất ngờ về nhu cầu thành phẩm vào một thời điểm
nào đó. Tương tự, cũng sẽ có những sự sụt giảm không lường trước
trong cung ứng nguyên liệu ở một vài thời điểm. Ở cả hai trường hợp
này, một doanh nghiệp khôn ngoan sẽ chắc chắn muốn có vài tấm
-
đệm để đương đầu với những thay đổi khôn lường.
Đầu cơ: Doanh nghiệp giữ hàng tồn kho để có được những lợi thế khi
giá cả biến động. Giả sử nếu giá nguyên liệu thô tăng, doanh nghiệp
sẽ muốn giữ nhiều hàng tồn kho so với yêu cầu với giá thấp hơn.
Hàng tồn kho là một khái niệm rộng, bao gồm rất nhiều loại
khác nhau. Có rất nhiều khoản mục khó phân loại và định giá như
các linh kiện điện tử phức tạp, các công trình xây dựng cơ bản dở
dang, các tác phẩm nghệ thuật, kim khí, đá quý…Đồng thời, do tính
đa dạng của mình, các loại hàng tồn kho được bảo quản và cất trữ ở
nhiều nơi khác nhau, điều kiện đảm bảo khác nhau và do nhiều
người quản lý. Vì thế, công tác kiểm soát vật chất, kiểm kê, quản lý
và sử dụng hàng tồn kho là một công việc khá phức tạp trong công
tác quản lý tài sản tại doanh nghiệp.
Từ những lí do trên ta thấy được sự cần thiết của việc nghiên
cứu về hàng tồn kho trong một doanh nghiệp sản xuất.
2.2.
Phân loại hàng tồn kho
Về cơ bản hàng tồn kho có thể bao gồm ba loại chính:
Nguyên vật liệu thô phục vụ cho quá trình sản xuất – kinh
doanh: Nguyên vật liệu là những đối tượng lao động đã được thể
hiện dưới dạng vật hoá như: sắt, thép trong doanh nghiệp cơ khí chế
tạo, sợi trong doanh nghiệp dệt, da trong doanh nghiệp đóng giày,
Trần Thị Ni Na – Lớp K18QTC
Chuyên đề tốt nghiệp
Đại học Duy Tân
vải trong doanh nghiệp may mặc…Đây là một yếu tố không thể thiếu
được của quá trình sản xuất, có vai trò rất lớn để quá trình này được
tiến hành bình thường dù nó không trực tiếp tạo ra lợi nhuận;
Sản phẩm dở dang: bao gồm sản phẩm chưa hoàn thành và sản
phẩm hoàn thành chưa làm thủ tục nhập kho thành phẩm. Tồn kho
trong quá trình sản xuất chủ yếu là sản phẩm chưa hoàn thành. Đó
là các loại nguyên liệu nằm tại từng công đoạnh của dây chuyền sản
xuất. Trong nền kinh tế thị trường, sản phẩm làm ra đòi hỏi trình độ
công nghệ cao, quá trình sản xuất ngày càng có nhiều công đoạn.
Nếu dây chuyền sản xuất càng dài, càng phức tạp, có nhiều công
đoạn nhỏ phân tách thì sản phẩm dở dang sẽ càng nhiều.
Thành phẩm: bao gồm thành phẩm tồn kho và thành phẩm gửi
đi bán. Tồn kho thành phẩm luôn tồn tại trong một doanh nghiệp tại
một thời kì nhất định. Sau khi hoàn thành các công đoạn sản xuất, hầu
như tất cả các doanh nghiệp đều chưa thể tiêu thụ hết ngay các sản
phẩm của mình. Có rất nhiều nguyên nhân gây ra hiện tượng này. Để
tiêu thụ sản phẩm có thể cần phải sản xuất đủ cả lô hàng mới được xuất
kho, có “độ trễ” nhất định giữa sản xuất và tiêu dùng, quy trình chế tạo
nhiều công đoạn tốn nhiều thời gian hoặc doanh nghiệp sản xuất các
mặt hàng mang tính thời vụ…
Ngoài ra, hàng tồn kho có thể bao gồm một số loại khác như:
Hàng hoá mua về để bán (thường xuất hiện trong các doanh
nghiệp thương mại) bao gồm: Hàng hoá tồn kho, hàng mua đang đi
trên đường, hàng gửi đi bán, hàng hóa gửi đi gia công chế biến;
Công cụ, dụng cụ tồn kho, hàng hóa gửi đi gia công chế biến
và đã mua đang đi trên đường.
Trên đây là cách phân loại hàng tồn kho theo các bộ phận cấu
thành. Người ta còn có thể phân loại hàng tồn kho theo thời gian mà
hàng tồn kho tồn tại:
Tồn kho một kì: Bao gồm các mặt hàng mà nó chỉ được dự trữ
một lần mà không có ý định tái dự trữ sau khi nó được tiêu dùng;
Trần Thị Ni Na – Lớp K18QTC
Chuyên đề tốt nghiệp
Đại học Duy Tân
Tồn kho nhiều kì: Gồm các mặt hàng được duy trì tồn kho đủ
dài, các đơn vị tồn kho đã tiêu dùng sẽ được bổ sung. Giá trị và thời
hạn bổ sung tồn kho sẽ được điều chỉnh phù hợp với mức tồn kho
đáp ứng nhu cầu. Tồn kho nhiều kì thường phổ biến hơn tồn kho một
kì.
Đặc điểm của các loại hàng tồn kho
2.3.1. Công cụ, dụng cụ
2.3.
Công cụ, dụng cụ trong các doanh nghiệp sản xuất là những tư
liệu lao động có giá trị nhỏ hoặc thời gian sử dụng ngắn không đủ
điều kiện để trở thành tài sản cố định (thời gian sử dụng nhỏ hơn 1
năm và có giá trị nhỏ hơn 5 triệu).
+ Công cụ, dụng cụ thường tham gia vào nhiều chu kỳ sản
xuất kinh doanh mà vẫn giữ nguyên được hình thái ban đầu.
+ Trong quá trình sử dụng công cụ, dụng cụ bị hao mòn dần,
phần giá trị hao mòn được chuyển dần vào chi phí sản xuất kinh
doanh trong kỳ. Do công cụ, dụng cụ có giá trị nhỏ, thời gian sử dụng
ngắn nên được xếp vào tài sản lưu động và thường được mua sắm
bằng nguồn vốn lưu động.
Công cụ, dụng cụ là những tư liệu lao động không đủ tiêu chuẩn
về giá trị và thời gian sử dụng quy định đối với tài sản cố định. Vì
vậy, công cụ, dụng cụ được quản lý như đối với nguyên vật liệu. Theo
quy định, nhưng tư liệu lao động sau không phân biệt tiêu chuẩn giá
trị và thời gian sử dụng vẫn được coi là công cụ, dụng cụ.
+ Các loại bao bì dùng để đựng vật liệu, hàng hóa trong quá
trình thu mua, bảo quản, tiêu thụ.
+ Các loại bao bì kèm hàng hóa có tính giá riêng nhưng bỏ
qua quá trình bảo quản hàng hóa vận chuyển trên đường và dự trữ
trong kho có tính giá trị hao mòn để trừ dần vào giá trị của bao bì.
+ Những dụng cụ, đồ nghề bằng thủy tinh, sành, sứ…
+ Quần áo và dụng cụ bảo hộ lao động .
2.3.2. Nguyên vật liệu
Nguyên vật liệu là một trong những yếu tố không thể thiếu được
trong quá trình sản xuất - kinh doanh ở các doanh nghiệp. Nói đến
hoạt động quản lý hàng tồn kho, quản lý nguyên vật liệu thường
được nhắc đến đầu tiên. Quản lý tốt khâu thu mua, dự trữ và sử dụng
nguyên vật liệu là điều kiện cần thiết để đảm bảo chất lượng sản
Trần Thị Ni Na – Lớp K18QTC
Chuyên đề tốt nghiệp
Đại học Duy Tân
phẩm, tiết kiệm chi phí, giảm giá thành, tăng lợi nhuận cho doanh
nghiệp.
Trong thực tế của công tác quản lý và hạch toán ở các doanh
nghiệp, đặc trưng dùng để phân loại nguyên vật liệu thông dụng
nhất là theo vai trò và tác dụng của nguyên vật liệu trong quá trình
sản xuất – kinh doanh. Theo đặc trưng này, nguyên vật liệu thường
phân ra làm các loại sau:
Nguyên liệu và vật liệu chính: Là nguyên liệu, vật liệu mà sau quá
trình gia công chế biến sẽ cấu thành hình thái vật chất của sản
phẩm. Nguyên liệu ở đây chính là các đối tượng lao động chưa qua
chế biến công nghiệp;
Vật liệu phụ: Là những vật liệu có tác dụng phụ trong quá trình
sản xuất – kinh doanh, được sử dụng kết hợp với nguyên liệu và vật
liệu chính để hoàn thiện và nâng cao tính năng, chất lượng của sản
phẩm hoặc được sử dụng để đảm bảo cho công cụ lao động hoạt
động bình thường, hoặc dùng để phục vụ cho nhu cầu kĩ thuật, nhu
cầu quản lý;
Nhiên liệu: Là những thứ dùng để tạo nhiệt năng như than đá, củi,
xăng, dầu… Nhiên liệu trong các doanh nghiệp thực chất là một loại
vật liệu phụ, tuy nhiên nó được tách ra thành một loại riêng vì việc sản
xuất và tiêu dùng nhiên liệu chiếm một tỉ trọng lớn và đóng vai trò
quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, nhiên liệu cũng có yêu cầu và
kĩ thuật quản lý hoàn toàn khác với các loại vật liệu phụ thông thường.
Phụ tùng thay thế: Là loại vật tư được sử dụng cho hoạt động sửa
chữa, bảo dưỡng tài sản cố định;
Thiết bị và vật liệu xây dựng cơ bản: Là các loại thiết bị, vật liệu
phục vụ cho hoạt động xây lắp, xây dựng cơ bản;
Vật liệu khác: Là các loại vật liệu đặc chủng của từng doanh
nghiệp hoặc phế liệu thu hồi.
2.3.3. Bán thành phẩm
Bán thành phẩm hay còn gọi là chi phí sản xuất kinh doanh dở
dang là một loại hàng tồn kho dù ít dù nhiều cũng luôn tồn tại ở các
Trần Thị Ni Na – Lớp K18QTC
Chuyên đề tốt nghiệp
Đại học Duy Tân
doanh nghiệp. Bán thành phẩm là những sản phẩm mới kết thúc quy
trình công nghệ sản xuất (trừ công đoạn cuối cùng) được nhập kho hay
chuyển giao để tiếp tục chế biến hoặc có thể bán ra ngoài. Tồn kho
bán thành phẩm thường có thể phân thành ba loại hình: bán thành
phẩm vận chuyển, bán thành phẩm quay vòng, bán thành phẩm an
toàn, được lần lượt thiết lập bởi các mục đích khác nhau, đồng thời chịu
ảnh hưởng của các nguyên nhân khác nhau.
Một trong những mục tiêu trọng tâm mà doanh nghiệp sản xuất
cần chú ý là giảm tối đa lượng hàng tồn kho bán thành phẩm chứ
không phải là rút ngắn chu kì sản xuất hay giảm chi phí sản xuất.
Chu kì sản xuất sản phẩm là thời gian bắt đầu từ khi nguyên vật liệu
được đưa vào cho đến khi đưa ra được thành phẩm. Đó chính là thời
gian để nguyên vật liệu, linh kiện thông qua hệ thống chế tạo sản
xuất.
Sản lượng tồn kho bán thành phẩm có hai hiệu ứng quan trọng
đối với việc rút ngắn chu kì sản xuất, vừa giảm chi phí lại vừa rút
ngắn chu kì sản xuất như một mũi tên bắn trúng hai đích.
Việc giảm sản lượng bán thành phẩm còn rút ngắn chu kì sản
xuất, khiến cho biên độ dao động của thời gian hoàn thành gia công
linh kiện sớm sẽ được rút ngắn, từ đó lượng tồn kho dự phòng cần
thiết lập sẽ được giảm đi.
2.3.4. Thành phẩm
Thành phẩm là sản phẩm đã được chế tạo xong ở giai đoạn chế
biến cuối cùng của quy trình công nghệ trong doanh nghiệp, được
kiểm nghiệm đủ tiêu chuẩn kĩ thuật quy định và nhập kho. Thành
phẩm được sản xuất ra với chất lượng tốt, phù hợp với yêu cầu của
thị trường đã trở thành yêu cầu quyết định sự sống còn của doanh
nghiệp. Việc duy trì, ổn định và không ngừng phát triển sản xuất của
doanh nghiệp chỉ có thể thực hiện được khi chất lượng sản phẩm sản
xuất ra ngày càng tốt hơn, đáp ứng được yêu cầu của thị trường.
Nhiệm vụ đặt ra với các nhà quản lý doanh nghiệp là kiểm soát
được tình hình nhập, xuất kho thành phẩm, các nghiệp vụ khác liên
Trần Thị Ni Na – Lớp K18QTC
Chuyên đề tốt nghiệp
Đại học Duy Tân
quan đến việc tiêu thụ thành phẩm vì chỉ có như vậy mới xác định
chính xác kết quả sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp.
Đối với thành phẩm, ta không thường đưa ra các mô hình quản
lý dự trữ cụ thể vì tuỳ đặc điểm của từng doanh nghiệp mà nhà quản
lý phải tìm ra biện pháp phù hợp với doanh nghiệp mình để quản lý
thành phẩm thuộc hàng tồn kho. Tuy nhiên luôn có một số nguyên
tắc quản lý và hạch toán chung như:
Hạch toán nhập, xuất kho thành phẩm phải được phản ánh theo giá
thực tế;
Thành phẩm phải được phân loại theo từng kho, từng loại, từng
nhóm và từng thứ thành phẩm;
Tổ chức ghi chép kiểm tra lượng, giá trị thành phẩm xuất, nhập
kho được thực hiện đồng thời ở hai nơi: phòng kế toán và ở kho. Nhờ
đó, phòng kế toán cũng như ban quản lý doanh nghiệp có thể phát
hiện kịp thời các trường hợp ghi chép sai các nghiệp vụ tăng, giảm
thành phẩm và các nguyên nhân khác làm cho tình hình tồn kho
thực tế không khớp với số liệu ghi chép trên sổ sách kế toán;
Sản phẩm sản xuất xong sẽ được nhân viên bộ phận kiểm tra chất
lượng sản phẩm xác nhận thứ hạng chất lượng căn cứ vào các tiêu
chuẩn quy định. Căn cứ vào kết quả kiểm tra chất lượng sản phẩm,
tổ trưởng sản xuất lập “Phiếu nhập kho” và giao thành phẩm vào
kho. Mỗi lần xuất kho thành phẩm để tiêu thụ cần lập “Phiếu xuất
kho thành phẩm”. Phiếu này có thể lập riêng cho mỗi loại hoặc nhiều
loại thành phẩm, tuỳ theo tình hình tiêu thụ thành phẩm.
Tóm lại, mỗi loại hàng tồn kho đều có những đặc điểm riêng. Vì
thế, quy trình quản lý và kiểm soát cũng có những nét khác biệt đòi
hỏi các nhà quản lý doanh nghiệp nắm vững tính chất hàng tồn kho
của doanh nghiệp mình để đưa ra phương pháp và mô hình quản lý
hiệu quả.
Quản lý hàng tồn kho của doanh nghiệp
2.4.1. Sự cần thiết phải quản lý hàng tồn kho
2.4.
Trần Thị Ni Na – Lớp K18QTC
Chuyên đề tốt nghiệp
Đại học Duy Tân
Quản lý hàng tồn kho có ý nghĩa kinh tế quan trọng do hàng tồn
kho là một trong những tài sản có giá trị lớn trong doanh nghiệp.
Việc quản lý hàng tồn kho luôn tồn tại hai vấn đề mâu thuẫn là: tăng
lượng hàng tồn kho nhằm đảm báo quá trình sản xuất kinh doanh
được liên tục; mặt khác, việc tăng lượng hàng tồn kho cũng tạo thêm
áp lực về vốn, về chi phí cho doanh nghiệp. Vì vậy, doanh nghiệp cần
phải tìm được biện pháp cân bằng để có thể tối thiểu hóa chi phí tồn
kho lại vẫn đáp ứng đủ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
Đối với một doanh nghiệp sản xuất chế tạo, yêu cầu quản lý
hàng tồn kho càng gắt gao. Quản lý hàng tồn kho tốt góp phần hoàn
thành kế hoạch sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp trước những
yêu cầu đặt ra ngày càng cao của thị trường như:
•
Rút ngắn thời gian cần thiết để hệ thống sản xuất có thể đáp ứng
nhu cầu;
•
Phân bổ chi phí cố định cho các đơn hàng hay lô sản xuất khối
lượng lớn;
•
Đảm bảo ổn định sản xuất và số lượng công nhân khi nhu cầu
biến đổi;
•
Bảo vệ doanh nghiệp trước các sự kiện làm đình trệ sản xuất như
đình công, thiếu hụt trong khâu cung cấp…
•
Bảo đảm sự mềm dẻo trong hệ thống sản xuất…
2.4.2. Nội dung của quản lý hàng tồn kho
2.4.2.1.
Luồng dịch chuyển vật chất trong hệ thống
sản xuất chế tạo
Trong doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, hàng tồn kho có mặt
tại mọi công đoạn, từ sản xuất chế tạo đến khi trở thành sản phẩm
trong các kênh phân phối cho khách hàng,… Biểu hiện của nó chính
là các kho nguyên vật liệu, kho thành phẩm và kho bán thành phẩm.
Vì vậy, nội dung của quản lý hàng tồn kho cũng liên quan đến dòng
dịch chuyển vật chất trong hệ thống sản xuất – kinh doanh.
Trần Thị Ni Na – Lớp K18QTC
Chuyên đề tốt nghiệp
Đại học Duy Tân
Để công tác quản lý hàng tồn kho có hiệu quả, chúng ta cần
phải tìm hiểu về các mô hình quản lý hàng tồn kho, nghiên cứu kĩ về
đặc điểm của từng loại hàng tồn kho cũng như chi phí tồn kho có thể
có.
Hình 1: Sơ đồ luồng dịch chuyển vật chất trong hệ thống sản
xuất chế tạo
Mua sắm
Kho nhà phân phối
Gửi hàng
Khách hàng
Kho NVL
Các giai đoạn sản xuất
Nhà cung cấp
Tiếp nhận
Kho SP
Kho BTP
2.4.2.2.
Các chi phí liên quan đến tồn kho
Khi doanh nghiệp tiến hành dự trữ, các loại chi phí tất yếu sẽ
phát sinh như chi phí bốc xếp nguyên vật liệu, hàng hoá…, chi phí
bảo quản, chi phí đặt hàng, chi phí bảo hiểm… Chi phí tồn kho liên
quan đến các mô hình dự trữ. Vì thế, việc nghiên cứu về các loại chi
phí tồn kho là cần thiết trước khi đưa ra các mô hình. Chi phí tồn kho
thường bao gồm:
-
Chi phí tồn trữ
-
Chi phí đặt hàng
-
Chi phí thiếu hụt
-
Chi phí mua hàng
a) Chi phí tồn trữ (Ctt)
Bao gồm các chi phí liên quan đến tồn trữ hàng tồn kho, phụ thuộc vào mức lưu
giữ và thời gian lưu giữ.
Trần Thị Ni Na – Lớp K18QTC
Chuyên đề tốt nghiệp
Đại học Duy Tân
Tỷ lệ từng loại chi phí tiền chỉ có ý nghĩa tương đối, chúng lệ thuộc vào từng loại
doanh nghiệp, địa điểm phân bố, lãi suất ngân hàng hiện tại. Chi phí tồn trữ được biểu
diễn bằng chi phí bằng tiền để lưu giữ một đơn vị sản phẩm trong một thời kỳ (tháng,
năm) hoặc bằng một tỷ lệ phần trăm so với giá trị tồn kho.
Trong đó:
: Lượng tồn kho trung bình
H
: Chi phí cho một đơn vị hàng tồn kho
Mà
H = IP
(P: đơn giá hàng tồn kho; I là tỷ lệ chi phí tồn kho trong một năm
b) Chi phí đặt hàng (Cđh)
Liên quan đến các tác vụ bổ sung lượng hàng tồn kho, thường không phụ thuộc
cỡ đơn hàng và biểu thị bằng số tiền cho mỗi đơn hàng. Một số thành phần chi phí có
thể kể đến như sau:
- Chi phí cho việc tìm kiếm nguồn hàng (chi phí giao dịch).
- Chi phí hoạt động cho trạm thu mua hay văn phòng đại diện.
- Chi phí cho người môi giới.
- Chi phí cho việc giao tiếp ký kết các hợp đồng kinh tế.
- Chi phí vận chuyển và giao nhận.
- Kiểm tra.
- Bốc xếp, lưu kho.
- Kế toán, kiểm toán....
Chi phí đặt hàng biến đổi theo số lượng đơn hàng, chi phí này trái chiều với chi
phí tồn trữ: ít đơn hàng, tức chi phí đặt hàng thấp thì số lượng hàng cho mỗi đơn hàng
cao tức chi phí lưu trữ trong một đơn vị thời đoạn sẽ cao.
Cđh = Số lần đặt hàng trong một năm Chi phí một lần đặt hàng
c) Chi phí thiếu hụt
Là những khoản bị thiệt hại do không đủ hàng trong kho, mỗi khi
chúng ta thiếu hàng tồn kho nguyên vật liệu cho sản xuất hoặc
thành phẩm cho khách hàng, có thể chịu một khoản chi phí như là sự
giảm sút về doanh số bán hàng, và gây mất lòng tin đối với khách
hàng. Nếu thiếu hụt nguyên vật liệu cho sản xuất có thể bao gồm
những chi phí của sự phá vỡ qui trình sản xuất này và đôi khi dẫn
đến mất doanh thu, mất lòng tin khách hàng. Loại chi phí này gồm:
-
Doanh thu bị mất do thiếu hàng doanh nghiệp không có thể thỏa
mãn được nhu cầu về vật tư, hàng hóa.
Trần Thị Ni Na – Lớp K18QTC
Chuyên đề tốt nghiệp
-
Đại học Duy Tân
Thiệt hại do gián đoạn sản xuất vì thiếu nguyên vật liệu. Chi phí gián
đoạn được tính bằng số mất đi do ngưng sản xuất, hoặc số tiền mất
do bõ lỡ cơ hội kiếm được cộng thêm phần mất đi hình ảnh, nhãn
hiệu của doanh nghiệp (chẳng hạn: sự mất lòng tin của khách hàng).
Loại chi phí này rất khó ước lượng, dể khắc phục tình trạng này,
người ta phải có dự trữ bổ sung hay gọi là dự trữ an toàn.
Như vậy chi phí đặt hàng, chi phí thiếu hụt quan hệ trái chiều với chi phí lưu giữ.
Tồn kho lớn sẽ làm giảm nguy cơ thiếu hụt nhưng làm tăng chi phí cho hàng tồn kho.
d) Chi phí mua hàng (Cmh)
Là giá trị hàng mua, được tính bằng khối lượng hàng mua nhân với đơn giá mua.
Thông thường chi phí mua hàng không ảnh hưởng đến việc lựa chọn đến mô hình tồn
kho, trừ mô hình khấu trừ theo sản lượng.
Cmh = Tổng nhu cầu hàng tồn kho trong một năm x Đơn giá hàng tồn kho
Có hai loại đơn giá:
-
Đối với hàng tồn kho mua ngoài: Đơn giá là giá mua
-
Đối với hàng tồn kho tự sản xuất : Đơn giá là chi phí sản xuất
Gọi Chtk là Tổng chi phí về hàng tồn kho trong một năm
Chtk = Ctt + Cđh + Cmh
Chúng ta cần phân biệt hai thuật ngữ: chi phí tồn kho và chi phí về hàng tồn kho.
Tổng chi phí tồn kho = Chi phí tồn trữ + Chi phí đặt hàng + Chi phí thiếu hụt.
Tổng chi phí của hàng tồn kho = Chi phí tồn trữ + Chi phí đặt hàng + Chi phí
mua hàng.
2.4.3. Các hệ thống kiểm soát hàng tồn kho
-
Hệ thống tồn kho liên tục: Mức tồn kho của mỗi loại hàng được theo dõi liên tục. Bất
kỳ một hoạt động xuất nhập nào cũng được ghi chép và cập nhật. Khi lượng tồn kho
giảm xuống đến một mức ấn định trước, đơn đặt hàng bổ sung với một số lượng nhất
định sẽ được phát hành để bảo đảm chi phí tồn kho là thấp nhất. Nhược điểm: Chi phí
lớn cho việc giám sát.
-
Hệ thống tồn kho định kỳ: Lượng tồn kho hiện có được xác định bằng cách kiểm kê tại
một thời điểm xác định trước, có thể là tuần, tháng hoặc quý. Kết quả kiểm kê là căn
cứ để đưa ra các đơn nhập hàng cho hoạt động của kỳ tới. Ưu điểm là ít tốn công sức
cho việc ghi chép, kiểm soát. Nhưng nhược điểm của nó cũng chính ở đây: việc không
kiểm soát liên tục làm cho lượng hàng đặt cho hệ thống này thường phải lớn hơn vì
phải chống thiếu hụt khi xuất hiện các nhu cầu bất thường.
-
Hệ thống tồn kho phân loại ABC: Phân loại hàng tồn kho dựa trên tỷ lệ % giá trị và %
số lượng mỗi loại hàng tồn kho. Ví dụ: Loại A: chiếm khoảng 15% vê số lượng nhưng
chiếm đến 80% giá trị của toàn bộ sản lượng hàng hóa; Loại B: Chiếm khoảng 30% số
Trần Thị Ni Na – Lớp K18QTC
Chuyên đề tốt nghiệp
Đại học Duy Tân
lượng hàng tồn kho và giá trị của nó chiếm khoảng 15%; Loại C: chiếm 5% giá trị
hàng hóa nhưng chủng loại lên đến 55%.
2.4.4. Các phương pháp quản lý hàng tồn kho
Khi nghiên cứu các phương pháp quản lý hàng tồn kho, chúng
ta cần giải quyết hai câu hỏi trọng tâm là:
•
Lượng hàng cho mỗi đơn hàng là bao nhiêu thì chi phí sẽ thấp nhất
•
Khi nào thì tiến hành đặt hàng
2.4.4.1.
Mô hình EOQ: (áp dụng khi đơn hàng được giao một lần)
Là mô hình tái tạo dự trữ theo số lượng – cho phép xác định số lượng dự trữ tối
ưu với chi phí thấp nhất có thể mà vẫn đảm bảo DN hoạt động hiệu quả. Dựa vào 6 giả
thiết cơ bản.
-
Nhu cầu cả năm phải biết trước và không thay đổi.
-
Phải biết trước chu kỳ đặt hàng, chu kỳ đặt hàng ngắn và không thay đổi.
-
Lượng hàng của 1 đơn hàng được thực hiện trong 1 chuyến hàng ở 1 thời điểm đã định
trước.
-
Sự thiếu hụt trong tồn kho hoàn toàn không xảy ra nếu như đơn hàng thực hiện đúng
thời gian.
-
Không tiến hành khấu trừ theo sản lượng.
-
Duy nhất chỉ có 2 loại chi phí là chi phí đặt hàng và chi phí tồn trữ
TC = Cđh + Ct (Ct: Tổng chi phí tồn trữ; Cđh: Tổng chi phí đặt hàng)
Gọi:
Trần Thị Ni Na – Lớp K18QTC
Chuyên đề tốt nghiệp
Đại học Duy Tân
Q*: sản lượng đơn hàng tối ưu;
D: Nhu cầu nguyên liệu cả năm;
S: Chi phí đặt hàng cho mỗi đơn hàng;
H: Chi phí tồn trữ tính cho một đơn vị sản phẩm trong 1 năm;
N: Tổng số ngày làm việc bình quân trong năm;
Đh: Số đơn hàng;
L: Thời gian phân phối, là khoảng cách từ thời điểm đặt hàng đến thời điểm nhận
hàng;
Ta có:
● Chi phí đặt hàng cho một năm là: CĐH = (D/Q).S (với (D/Q) là số lần đặt hàng
trong năm)
● Chi phí tồn trữ cho một năm là: CTT = QTB.H = Q/2*H
Trần Thị Ni Na – Lớp K18QTC
Chuyên đề tốt nghiệp
-
Đại học Duy Tân
Điểm đặt hàng lại (ROP): Là lượng tồn kho tối thiểu ở thời điểm đặt hàng.
(ROP)= Nhu cầu hàng ngày (d) x Thời gian vận chuyển đơn hàng (L).
-
Ưu điểm: chỉ ra mức đặt hàng tối ưu trên cơ sở cực tiểu chi phí đặt hàng và tồn kho
cho một nhu cầu xác định. Việc xác định ROP nhằm đảm bảo cho hoạt động sản xuất
được liên tục, không bị gián đoạn.
-
Nhược điểm: dựa trên quá nhiều giả thiết khó đạt được trên thực tế. Vì vậy, mô hình
EOQ cần được thực tiễn hóa bằng cách loại bỏ dần các giả thiết, chấp nhận các điều
kiện thực tế.
2.4.4.2.
Mô hình lượng đặt hàng theo sản xuất (POQ) - (Mô hình cung
cấp theo nhu cầu sản xuất) (áp dụng trong trường hợp đơn
hàng phải giao nhiều lần)
Trên thực tế quá trình sản xuất (nhập kho) thường diễn ra đồng thời với quá trình
cung ứng tiêu dùng (xuất kho), nên hàng dự trữ được tái tạo liên tục.
- Giả thiết của mô hình:
+ Nhu cầu hàng năm, chi phí tồn trữ và chi phí đặt hàng của một loại vật
liệu có thể ước lượng được.
+ Không sử dụng tồn kho an toàn, vật liệu được cung cấp theo mức đồng
nhất(p), vật liệu được sử dụng ở mức đồng nhất (d) và tất cả vật liệu được dùng hết
toàn bộ khi đơn hàng kế tiếp về đến.
+ Nếu hết tồn kho thì sự đáp ứng khách hàng và các chi phí khác không
đáng kể.
+ Không có chiết khấu theo số lượng.
Trần Thị Ni Na – Lớp K18QTC
Chuyên đề tốt nghiệp
Đại học Duy Tân
+ Mức cung cấp (p) lớn hơn mức sử dụng (d) (d ≤ p). Vì mô hình này đặc
biệt thích hợp cho hoạt động sản xuất kinh doanh của người đặt hàng nên được gọi là
mô hình cung cấp theo nhu cầu sản xuất.
Trong mô hình này chúng ta cần xác định mức sản xuất hàng ngày của nhà sản
xuất hoặc mức cung ứng của nhà cung ứng. Các giả định cơ bản của mô hình giống
mô hình EOQ nhưng chỉ khác là hàng được giao nhiều chuyến chứ không phải một
chuyến.
Gọi:
D: Nhu cầu nguyên liệu cả năm;
S: Chi phí đặt hàng cho mỗi đơn hàng;
H: Chi phí tồn trữ tính cho một đơn vị sản phẩm trong 1 năm.
p: mức sản xuất bình quân một ngày đêm;
d: nhu cầu bình quân một ngày đêm;
Bằng phương pháp giống như EOQ ta có thể tính được sản lượng đặt hàng
tối ưu (Q*) như sau:
Q* =
- Chi phí tối thiểu là : C* =
- Ưu điểm:
+ Mô hình này không chỉ phù hợp với những doanh nghiệp thương mại
mà còn được áp dụng cho những doanh nghiệp vừa sản xuất vừa bán hoặc doanh
nghiệp tự sản xuất lấy vật tư để dùng.
+ Đặc biệt hữu ích trong việc xác định kích thước đơn hàng nếu một vật
liệu được sản xuất ở một giai đoạn của qui trình sản xuất, tồn trữ trong kho và sau đó
Trần Thị Ni Na – Lớp K18QTC
Chuyên đề tốt nghiệp
Đại học Duy Tân
gửi qua giai đoạn khác trong sản xuất hay vận chuyển đến khách hàng. Mô hình này
cho ta thấy các đơn hàng được sản xuất ở mức đồng nhất (p) trong giai đoạn đầu của
chu kỳ tồn kho và được dùng ở mức đồng nhất (d) suốt chu kỳ. Mức gia tăng tồn kho
là (p - d) trong sản xuất và không bao giờ đạt mức Q như trong mô hình EOQ.
- Nhược điểm: Để tính được sản lượng đặt hàng tối ưu, trước tiên cần phải
hoạch định nhu cầu hàng tồn kho trong năm và tốn chi phí cho bộ phận kinh doanh
hoạch định nhu cầu hàng tồn kho trong năm.
2.4.4.3.
Mô hình lượng đặt hàng để lại (BOQ):
Là mô hình đề cập đến vấn đề có sự hao hụt trong tồn kho. Mô hình BOQ được
xây dựng trên cơ sở giả định rằng doanh nghiệp chủ định dự trữ thiếu hụt và xác định
được chi phí thiếu hụt do việc để lại một đơn vị dự trữ tại nơi cung ứng hàng năm.
Ngoài ra, chúng ta còn giả định rằng doanh thu không bị suy giảm vì sự dự trữ thiếu
hụt này. Như vậy, mô hình này giống với các mô hình trước đây, duy chỉ thêm một
yếu tố bổ sung là chi phí cho một đơn vị hàng để lại nơi cung ứng hàng năm.
Với:
Q*
: sản lượng đơn hàng tối ưu
*: lượng tồn kho sẳn có
*: lượng hàng tồn kho để lại
B
: Chi phí cho 1 đơn vị hàng tồn kho để lại hàng năm
Ta có:
Q* = Q1* + Q2*
2.4.4.4.
Mô hình khấu trừ theo số lượng QD: (áp dụng trong trường
hợp mua số lượng nhiều được giảm giá)
Trần Thị Ni Na – Lớp K18QTC