Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

Xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là bất động sản qua thực tiễn hoạt động của các tổ chức tín dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 125 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGÔ NGỌC LINH

XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM TIỀN VAY LÀ
BẤT ĐỘNG SẢN QUA THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG
CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGÔ NGỌC LINH

XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM TIỀN VAY LÀ
BẤT ĐỘNG SẢN QUA THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG
CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG

Chuyên ngành : Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số

: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS.Nguyễn Am Hiểu



Hà Nội – 2015
[


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác.Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

Ngô Ngọc Linh


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU


1

Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XỬ LÝ TÀI

7

SẢN BẢO ĐẢM TIỀN VAY LÀ BẤT ĐỘNG SẢN CỦA TỔ
CHỨC TÍN DỤNG

1.1.

Khái quát về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
dân sự

7

1.1.1. Khái niệm về biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự

7

1.1.2. Đặc điểm của các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân
sự

10

1.2.

12

Khái quát về giao dịch bảo đảm tiền vay và xử lý tài sản

bảo đảm tiền vay của tổ chức tín dụng

1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của bảo đảm tiền vay

12

1.2.2. Mối quan hệ giữa hợp đồng bảo đảm tiền vay với hợp đồng
tín dụng

16

1.2.3

Khái niệm, đặc điểm của xử lý tài sản bảo đảm tiền vay

19

1.3.

Khái quát về tài sản bảo đảm tiền vay là bất động sản

22

1.3.1. Khái niệm về bất động sản và điều kiện đối với tài sản bảo
đảm tiền vay là bất động sản

22

1.3.2. Đặc điểm của bất động sản và hệ quả đối với giao dịch bảo
đảm tiền vay và việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay


27


Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ TÀI

32

SẢN BẢO ĐẢM TIỀN VAY LÀ BẤT ĐỘNG SẢN CỦA TỔ
CHỨC TÍN DỤNG

2.1.

Quy định pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là
bất động sản

32

2.1.1. Các trường hợp xử lý

32

2.1.2. Phương thức xử lý

34

2.1.3. Thủ tục xử lý

41


2.1.4. Thanh toán tiền thu được từ xử lý tài sản bảo đảm

44

2.2.

46

Một số bất cập trong quy định pháp luật ảnh hƣởng đến
việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là bất động sản của
các tổ chức tín dụng

2.2.1. Quy định về chủ thể hộ gia đình

47

2.2.2. Quy định về việc bên thứ ba dùng bất động sản để thế chấp
bảo đảm nghĩa vụ cho người khác

55

2.2.3. Quy định về nhà ở hình thành trong tương lai

66

2.2.4. Quy định về trường hợp thế chấp quyền sử dụng đất mà
không thế chấp tài sản gắn liền với đất và ngược lại

77


2.2.5. Quy định về quyền nắm giữ tài sản bảo đảm là bất động sản
của tổ chức tín dụng

80

Chƣơng 3:THỰC TIỄN XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM TIỀN

87

VAY LÀ BẤT ĐỘNG SẢN TẠI CÁC TỔ CHỨC TÍN
DỤNG VÀ PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

3.1.

Thực tiễn xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là bất động sản
tại các tổ chức tín dụng

87

3.1.1. Quy trình xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là bất động sản tại
các tổ chức tín dụng

87


3.1.2. Khó khăn, vướng mắc thường gặp trong hoạt động xử lý tài
sản bảo đảm tiền vay là bất động sản tại các tổ chức tín dụng

91


3.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xử lý tài sản bảo đảm
tiền vay là bất động sản của các tổ chức tín dụng

96

3.2.

98

Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản bảo
đảm tiền vay là bất động sản

3.2.1. Cơ sở hoàn thiện pháp luật

98

3.2.2. Một số kiến nghị cụ thể

100

KẾT LUẬN

113

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

115


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


BLDS

Bộ luật Dân sự

TCTD

Tổ chức tín dụng


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nền kinh tế càng phát triển, các hoạt động tín dụng càng sôi
động.Trong một nền kinh tế thị trường, vay và cho vay là một nhu cầu tất yếu.
Đối với một nền kinh tế mới nổi như Việt Nam, sự phát triển của các hoạt
động tín dụng nói chung và của hoạt động vay, cho vay nói riêng lại càng
nóng hơn.
Trong những năm gần đây tại Việt Nam, cùng với nhu cầu vay vốn của
hàng chục nghìn doanh nghiệp được thành lập mỗi năm, rất nhiều TCTD đã
được thành lập.Bongbóng bất động sản vỡ đã khiến các TCTD lao đao, nợ
xấu trở thành vấn đề lớn không dễ giải quyết của nền kinh tế. Theo số liệu từ
Ngân hàng Nhà nước, tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống tại thời điểm tháng
4/2014 là 4,01%. Tuy nhiên, đây mới là con số nợ xấu do các TCTD báo cáo
lên NHNN. Còn theo con số mới đây NHNN đưa ra là khoảng 9%, nếu tính
một cách thận trọng [37]. Bên cạnh các biện pháp vĩ mô của nhà nước, các
biện pháp tái cấu trúc, sáp nhập, hợp nhất,… để tồn tại trong giai đoạn kinh tế
khó khăn, các TCTD cũng dồn lực vào công tác xử lý nợ xấu, trong đó xử lý
tài sản bảo đảmlà biện pháp chủ yếu.
Trong số các tài sản bảo đảmcủa các TCTD hiện nay thì bất động sản
chiếm một tỷ trọng lớn. Theo số liệu tổng kết của Ngân hàng Đầu tư và Phát

triển Việt Nam (BIDV) và Ngân hàng Sumi Trust Nhật Bản, đến hết tháng
12/2013, dư nợ TCTD cho vay bất động sản khoảng 262.000 tỷ đồng, chiếm
8% tổng dư nợ, nhưng tài sản bảo đảm tín dụng lại chiếm khoảng 65% [36].
Do đó xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là bất động sản đóng một vai trò quan
trọng trong hoạt động xử lý nợ xấu của các TCTD.
Tuy nhiên, thực tế công tác xử lý nợ tại các TCTD Việt Nam hiện nay

1


cho thấy dường như các TCTD đang yếu thế. Có rất nhiều vướng mắc trong
việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là bất động sản gây khó khăn, thậm chí
cản trở các TCTD thu hồi nợ. Những vướng mắc, bất cập này xuất phát từ
nhiều nguyên nhân, từ sự bất hợp tác của người vay vốn, bên bảo đảm trong
thời kỳ kinh tế ảm đạm hay tính thanh khoản yếu của các tài sản bảo đảm tiền
vay là bất động sản trong giai đoạn thị trường đang đóng băng,… tuy nhiên
một nguyên nhân quan trọng của tình trạng này là từ sự bất cập của hệ thống
pháp luật. Chính sự không phù hợp và thiếu đồng bộ của các quy định pháp
luật đã gây khó khăn cho các TCTD trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm tiền
vay là bất động sản để thu hồi nợ.
Thực tế cho thấy xử lý tài sản bảo đảm thường là biện pháp cuối cùng
mà các TCTD áp dụng để thu hồi nợ. Với tư cách là bên cho vay, bên nhận
bảo đảm, các TCTD là người bị vi phạm quyền, lợi ích hợp pháp, là chủ thể
cần được pháp luật bảo vệ. Thế nhưng với các quy định pháp luật và việc áp
dụng pháp luật của các cơ quan quản lý nhà nước như hiện nay lại tạo ra một
cơ chế rất thuận lợi để người vay tiền và các bên bảo đảm vi phạm nghĩa vụ
dễ dàng trốn tránh hoặc kéo dài việc thực hiện nghĩa vụ. Từ vị thế cần được
bảo vệ, các TCTD dường như đang bị đối xử như người đi “ức hiếp” người
vay và các bên bảo đảm. Một nguyên nhân quan trọng đã tồn tại từ lâu và còn
tiếp tục ảnh hưởng lâu dài đến hoạt động xử lý tài sản bảo đảm của các TCTD

nhưng lại chưa được khắc phục.
Từ những vấn đề trên, tác giả đã chọn đề tài “Xử lý tài sản bảo đảm tiền
vay là bất động sản qua thực tiễn hoạt động của các Tổ chức tín dụng” là đề
tài luận văn của mình. Các vấn đề đưa ra trong luận văn xuất phát từ việc
nghiên cứu các quy định pháp luật Việt Nam hiện nay và tổng kết từ thực tiễn
xử lý tài sản bảo đảm là bất động sản tại các TCTD, qua đó đề xuất một số
hướng hoàn thiện các quy định pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là

2


bất động sản nhằm tạo ra một cơ chế phù hợp hơn trong vấn đề này.
2.
2.1.

Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát

Mục tiêu tổng quát của luận văn là chỉ ra những điểm vướng mắc, bất
cập trong hệ thống pháp luật Việt Nam về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là
bất động sản trên cơ sở phân tích, đánh giá các quy định pháp luật và thực tiễn
các vụ việc tại các TCTD.
2.2.

Mục tiêu cụ thể

Để đạt được mục tiêu tổng quát như trên, luận văn cần đạt một số mục
tiêu cụ thể như sau:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về tài sản bảo đảm tiền vay là bất động
sản, xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là bất động sản.

- Chỉ ra những vướng mắc, bất cập của pháp luật từ thực tiễn hoạt
động xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là bất động sản của các TCTD.
- Đề xuất một số giải pháp tổng thể và kiến nghị cụ thể nhằm hoàn
thiện hệ thống pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là bất động sản.
3. Tình hìnhnghiên cứu của đề tài:
Xử lý tài sản bảo đảm nói chung và xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là
bất động sản nói riêng là vấn đề đã được nhiều luật gia nghiên cứu, đánh giá
dưới góc độ pháp lý. Có nhiều các công trình khoa học ở các cấp độ khác
nhau nghiên cứu về giao dịch bảo đảm/bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân
sự.Tuy nhiên.các bài viết đăng trên các Tạp chí thường chỉ bàn về vấn đề nhỏ
trong một biện pháp bảo đảm cụ thể. Chẳng hạn, bài viết: “Bàn về biện pháp
bảo lãnh” của tác giả Phạm Văn Tuyết đăng trên Tạp chí Luật học số 01/1999
chỉ bàn riêng về tính liên đới về thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm bằng biện
pháp bảo lãnh; bài viết: “Về các biện pháp bảo đảm hợp đồng tín dụng” của
tác giả Lê Hồng Hạnh chỉ bàn về các biện pháp Thế chấp, Cầm cố, Bảo lãnh

3


trong hoạt động tín dụng; bài viết: “Bản chất các biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự” của tác giả Phạm Công Lạc chỉ bàn về các dấu hiệu đặc
trưng của các biện pháp bảo đảm.
Các công trình nghiên cứu ở cấp độ luận án tiến sĩ, luận văn Thạc sĩ
hoặc các sách chuyên khảo, tham khảo đều nghiên cứu về các biện pháp bảo
đảm cụ thể hoặc nghiên cứu chung về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.
Chẳng hạn, Luận án tiến sĩ “Những giải pháp bảo đảm tiền vay của ngân hàng
thương mại” của Nguyễn Như Minh, Trường đại học Tài chính – Kế toán,
thành phố Hồ Chí Minh, 1996; Luận văn Thạc sĩ luật học với đề tài “Chế định
bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng- Thực trạng và giải pháp” của học viên
Trần Thu Thủy; luận văn Thạc sĩ luật học với đề tài: “Bảo đảm tiền vay ngân

hàng- Thực trạng và giải pháp” của học viên Lê Thu Hiền; luận văn Thạc sĩ
luật học với đề tài: “Những vấn đề pháp lý về bảo lãnh ngân hàng” của
Nguyễn Thành Long,...
Sách chuyên khảo: “Giao dịch thương mại của ngân hàng thương mại
trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam” Nxb Tư pháp 2005 của tác giả
Nguyễn Văn Tuyến chỉ có mục nhỏ viết về bảo lãnh ngân hàng dưới góc độ
hoạt động cấp tín dụng. Sách tham khảo: “Một số suy nghĩ về đảm bảo thực
hiện nghĩa vụ trong Luật Dân sự Việt Nam” Nxb trẻ TP. Hồ Chí Minh của tác
giả Nguyễn Ngọc Điện nghiên cứu chung về các biện pháp đảm bảo,…
Như vậy, dù có rất nhiều công trình khoa học liên quan đến đề tài mà
tác giả đang nghiên cứu nhưng chưa có một đề tài khoa học nào nghiên cứu
riêng về vấn đề xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là bất động sản tại các tổ chức
tín dụng, đặc biệt là chưa có đề tài nào có sự liên hệ với thực tiễn công tác xử
lý tài sản bảo đảm tại các tổ chức tín dụng. Vì thế, có thể nói rằng, đề tài mà
tác giả chọn làm luận văn Thạc sĩ luật học là một đề tài mới và độc lập.
4.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4


Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định pháp luật hiện
hành và các vấn đề phát sinh từ thực tiễn hoạt động xử lý tài sản bảo đảm tiền
vay là bất động sản tại các TCTD.
Về phạm vi nghiên cứu, luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề về
tài sản bảo đảm tiền vay có đối tượng là bất động sản, sự thiếu đồng bộ của hệ
thống pháp luật Việt Nam về vấn đề này và những bất cập gây khó khăn cho
các TCTD trong thực tiễn xử lý, từ đó đề xuất các kiến nghị để hoàn thiện.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài

Pháp luật là một bộ phận của thượng tầng kiến trúc xã hội được hình
thành từ một cơ sở hạ tầng nhất định, pháp luật là tấm gương phản chiếu xã
hội và ngược lại, xã hội luôn là cơ sở thực tiễn của pháp luật.Vì vậy, pháp luật
chỉ khả thi khi quy định của nó phù hợp với thực tiễn. Nhận thức rõ vấn đề
này nên quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luôn dựa vào nguyên lý của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để tìm hiểu các quy định của
pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là bất động sản trong mối quan hệ
giữa pháp luật và thực tiễn của đời sống xã hội. Trong quá trình nghiên cứu
đề tài, tác giả cũng đã sử dụng các phương pháp phân tích; diễn giải, quy nạp;
so sánh để làm rõ các quy định của pháp luật. Mặt khác, tác giả cũng đã sử
dụng phương pháp khảo sát thực tiễn hoạt động về xử lý tài sản bảo đảm tiền
vay tại các TCTD để tìm ra các khó khăn, vướng mắc của các TCTD trong
hoạt động xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là bất động sản.
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Trên cơ sở phân tích một số vấn đề lý luận, thực trạng pháp luật và thực
tiễn thi hành pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là bất động sản tại
các tổ chức tín dụng Việt Nam, luận văn chỉ ra được đặc điểm của tài sản bảo
đảm tiền vay là bất động sản và hoạt động xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là
bất động sản của các tổ chức tín dụng; Chỉ ra được những vướng mắc, bất

5


cập, mâu thuẫn của các quy định pháp luật về tài sản bảo đảm tiền vay và xử
lý tài sản bảo đảm tiền vay là bất động sản hiện nay gây khó khăn cho hoạt
động xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là bất động sản của các tổ chức tín dụng.
Từ đó, luận văn đưa ra một số giải pháp tổng thể và kiến nghị cụ thể để hoàn
thiện pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là bất động sản nhất là trong
bối cảnh Quốc hội đang thảo luận sửa đổi Bộ luật dân sự năm 2005 trong đó
có các quy định về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự cũng

như xây dựng luật về giao dịch bảo đảm và đăng ký giao dịch bảo đảm.
7. Bố cục của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận văn gồm ba chương như sau:
Chương 1:Một số vấn đề lý luận về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là bất
động sản của tổ chức tín dụng.
Chương 2:Thực trạng pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là bất
động sản của tổ chức tín dụng.
Chương 3:Thực tiễn xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là bất động sản tại
các tổ chức tín dụng và phương hướng hoàn thiện pháp luật.

6


Chƣơng 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM TIỀN
VAY LÀ BẤT ĐỘNG SẢN CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG
1.1. Khái quátvề các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
1.1.1. Khái niệm về biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự:
Việc xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ trong giao dịch dân sự
trước hết trên cơ sở sự tự giác của các bên.Nhưng trên thực tế không phải bất
cứ ai tham gia giao dịch dân sự đều có thiện chí trong việc thực hiện nghiêm
chỉnh các nghĩa vụ của mình.Để tạo được thế chủ động cho người có quyền
trong các quan hệ nghĩa vụ được hưởng quyền dân sự, pháp luật cho phép các
bên có thể thỏa thuận đặt ra các biện pháp bảo đảm việc giao kết hợp đồng,
cũng như việc thực hiện nghĩa vụ. Thông qua các biện pháp này người có
quyền có thể chủ động tiến hành các hành vi của mình tác động trực tiếp đến
tài sản của phía bên kia nhằm làm thỏa mãn quyền lợi của mình, khi đến thời
hạn mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc không thực hiện đầy đủ nghĩa
vụ đó. Pháp luật về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ là một trong

những chế định luật được hình thành khá sớm trong hệ thống pháp luật các
quốc gia trên thế giới.Luật cổ La Mã đã biết đến các biện pháp thế chấp, cầm
cố, bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ.
Trong pháp luật thực định Việt Nam không có điều khoản nào đưa ra
khái niệm các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Điều 318 Bộ luật
dân sự năm 2005 chỉ quy định có 7 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân
sự bao gồm:
-

Cầm cố tài sản: là việc một bên (gọi là bên cầm cố) giao tài sản

thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (gọi là bên nhận cầm cố) để bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
-

Thế chấp tài sản: là việc một bên (gọi là bên thế chấp) dùng tài sản

7


thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia
(gọi là bên nhận thế chấp) và không chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế
chấp.
-

Đặt cọc: là việc một bên giao cho bên kia một khoản tiền hoặc kim

khí quí, đá quý hoặc vật có giá trị khác (gọi là tài sản đặt cọc) trong một thời
hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng dân sự
-


Ký cược:là việc bên thuê tài sản là động sản giao cho bên cho thuê

một khoản tiền hoặc kim khí quí, đá quí hoặc vật có giá trị khác (gọi là tài sản
ký cược) trong một thời hạn để bảo đảm việc trả lại tài sản thuê.
-

Ký quỹ: là việc bên có nghĩa vụ gửi một khoản tiền hoặc kim khí

quí, đá quý hoặc giấy tờ có giá khác vào tài khoản phong tỏa tại một ngân
hàng để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ dân sự.
-

Bảo lãnh:là việc người thứ ba (gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên

có quyền (gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có
nghĩa vụ (gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo
lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có
thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được
bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình
-

Tín chấp: là việc tổ chức chính trị - xã hội tại cơ sở bảo đảm cho

cá nhân, Hộ gia đình nghèo vay một khoản tiền tại ngân hàng hoặc tổ
chức tín dụng khác để sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ theo quy định
của Chính phủ
Khi nghiên cứu về khái niệm và bản chất pháp lý của bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ dân sự, ở Việt Nam hiện có một vài quan điểm khác nhau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là một biện

pháp dân sự có “tính dự phòng” nhằm thúc đẩy việc thực hiện đúng nghĩa vụ
theo cam kết hoặc theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, biện pháp bảo

8


đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự còn có tính bắt buộc đối với tất cả các bên
trong giao dịch và được bảo đảm bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước. Do
đó “dù xuất phát từ cơ sở nào thì các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
dân sự cũng luôn mang tính chất bắt buộc như một chế tài” [24].Theo đó, các
biện pháp bảo đảm nghĩa vụ dân sự là các biện pháp dự phòng do các chủ thể
thỏa thuận để bảo đảm lợi ích của bên có quyền bằng cách cho phép bên có
quyền được xử lý những tài sản thuộc sở hữu của bên có nghĩa vụ để khấu
trừ giá trị nghĩa vụ trong trường hợp nghĩa vụ đó bị vi phạm. Quan điểm khác
lại cho rằng biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là loại trách nhiệm
dân sự đặc biệt trong đó các bên có thể thỏa thuận phạm vi trách nhiệm, mức
độ trách nhiệm và cả các biện pháp thực hiện, áp dụng; có thể tự mình thực
hiện, áp dụng trách nhiệm đó[19].
Theo tác giả, về mặt khách quan, bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là
những quy định của pháp luật cho phép các chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ áp
dụng các biện pháp mà pháp luật cho phép để bảo đảm cho một nghĩa vụ đó
được thực hiện, đồng thời xác định và bảo đảm quyền, nghĩa vụ của các bên
trong các biện pháp đó. Về mặt chủ quan, bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
là việc thỏa thuận giữa các bên, qua đó đặt ra các biện pháp tác động mang
tính chất dự phòng để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ đồng thời ngăn
ngừa và khắc phục những hậu quả xấu do việc không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng nghĩa vụ gây ra.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra định nghĩa về biện pháp bảo
đảm nghĩa vụ dân sự như sau: Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
là biện pháp trong đó một bên sử dụng tài sản thuộc sở hữu của mình hoặc sử

dụng uy tín của mình (gọi là bên bảo đảm) để bảo đảm cho việc thực hiện
nghĩa vụ dân sự của mình hoặc của chủ thể khác (gọi là bên được bảo đảm).

9


1.1.2. Đặc điểm của các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân
sự:
Từ định nghĩa trên đây chúng ta có thể rút ra các đặc trưng cơ bảncủa
các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự như sau:
Thứ nhất, các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự có mối
quan hệ mang tính chất phụ thuộc vào nghĩa vụ mà nó bảo đảm và luôn gắn
liền với một nghĩa vụ được bảo đảm cụ thể.Một khi xác định được nghĩa vụ
cần bảo đảm là nghĩa vụ gì và cần phải được bảo đảm như thế nào thì các biện
pháp bảo đảm mới được hình thành. Do đó, về nguyên tắc các biện pháp bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự được xác lập sau hoặc đồng thời với việc xác
lập nghĩa vụ đó.
Thứ hai, phạm vi bảo đảm của các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ dân sự
do các bên thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật, có thể là một phần
hoặc toàn bộ nghĩa vụ. Toàn bộ nghĩa vụ được bảo đảm bao gồm cả nghĩa vụ
trả lãi và bồi thường thiệt hại.Về nguyên tắc phạm vi bảo đảm của các biện
pháp bảo đảm không vượt quá phạm vi nghĩa vụ đã được xác định trong nội
dung của quan hệ nghĩa vụ được bảo đảm; dù trong thực tế người có nghĩa vụ
đưa ra một tài sản có giá trị lớn hơn nhiều lần giá trị của nghĩa vụ để bảo đảm
việc thực hiện nghĩa vụ, vì mục đích cuối cùng của việc bảo đảm đó cũng chỉ
là để người mang nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ trong phạm vi đã xác định.
Thứ ba, các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ dân sự có tính chất dự phòng
vàchỉ được áp dụng khi có hành vi vi phạm nghĩa vụ xảy ra. Trong trường
hợp nghĩa vụ được bảo đảm đã được thực hiện một cách đầy đủ thì không cần
áp dụng biện pháp bảo đảm đó. Trong thời gian có hiệu lực của biện pháp bảo

đảm, quyền sở hữu đối với tài sản bảo đảm vẫn thuộc về bên có nghĩa vụ
nhưng quyền năng pháp lý đối với tài sản đó bị hạn chế (không được tự do
chuyển nhượng…). Nếu đến hạn bên có nghĩa vụ thực hiện đúng, đầy đủ

10


nghĩa vụ của mình thì biện pháp bảo đảm nghĩa vụ đó đương nhiên chấm dứt;
bên có nghĩa vụ được khôi phục đầy đủ các quyền năng của chủ sở hữu đối
với tài sản bảo đảm: được nhận lại tài sản và đầy đủ các giấy tờ hợp pháp liên
quan đến tài sản từ bên có quyền hay bên nắm giữ tài sản bảo đảm. Trong
trường hợp khi đến hạn có sự vi phạm nghĩa vụ thì tài sản bảo đảm bị xử lý
theo thỏa thuận của các bên hoặc theo quy định của pháp luật (nếu không có
thỏa thuận) để khấu trừ, thanh toán phần nghĩa vụ bị vi phạm.
Thứ tư, các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự phát sinh từ
sự thỏa thuận giữa các bên. Nếu như các quan hệ nghĩa vụ khác có thể phát
sinh từ nhiều căn cứ khác nhau (có thể do thỏa thuận hoặc theo quy định của
pháp luật) thì các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ dân sự chỉ phát sinh trên cơ sở
sự thỏa thuận giữa các bên chủ thể. Cách thức, phạm vi và toàn bộ nội dung
của một biện pháp bảo đảm đều là kết quả của sự thỏa thuận giữa các bên liên
quan.
Thứ năm, đối tượng chủ yếu của các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ dân
sự là những lợi ích vật chất, tuy nhiên, cũng có biện pháp mà đối tượng là uy
tín của bên bảo đảm (biện pháp bảo lãnh và biện pháp tín chấp).
Nghĩa vụ cần được bảo đảm là những nghĩa vụ mang tính chất tài sản
(như nghĩa vụ thanh toán tiền hay thực hiện một công việc trị giá được bằng
tiền…). Theo quy luật ngang giá chi phối các quan hệ tài sản thì chỉ có lợi ích
vật chất mới bù đắp được các lợi ích vật chất, do vậy, các bên trong quan hệ
nghĩa vụ không thể dùng quyền nhân thân làm đối tượng của biện pháp bảo
đảm. Lợi ích vật chất là đối tượng của các biện pháp bảo đảm thường là một

tài sản.Tài sản đem ra bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự có thể là vật (vật
hiện có hoặc hình thành trong tương lai), tiền, giấy tờ có giá hoặc quyền tài
sản.Đó có thể là động sản hoặc bất động sản nhưng những tài sản này phải
thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm, không phải là đối tượng bị tranh chấp

11


về quyền sở hữu cũng như quyền sử dụng.Tài sản bảo đảm phải là tài sản
được phép tự do lưu thông trên thị trường.
Thứ sáu, các biện pháp bảo đảm có mục đích nâng cao trách nhiệm
thực hiện nghĩa vụ của những người có nghĩa vụ, bảo vệ lợi ích cho bên có
quyền một cách chắc chắn thông qua việc thỏa thuận về một tài sản dự phòng
sẽ được xử lý để khấu trừ nghĩa vụ vi phạm. Thông qua việc áp dụng các biện
pháp bảo đảm bên có quyền sẽ không bị rơi vào thế bị động (phụ thuộc vào
việc thực hiện nghĩa vụ của bên đối tác) mà trở thành chủ động trong việc bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong các giao dịch dân sự, thương
mại đã ký kết (thông qua việc trực tiếp tác động vào tài sản bảo đảm). Các
biện pháp bảo đảm được đặt ra góp phần tạo nên cơ sở pháp lý an toàn cho
các chủ thể trong giao lưu dân sự, tạo điều kiện củng cố kỷ luật hợp đồng, bảo
đảm sự ổn định và phát triển bình thường của các quan hệ tài sản.
1.2. Khái quát về giao dịch bảo đảm tiền vay và xử lý tài sản bảo
đảm tiền vay của tổ chức tín dụng:
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm củabảo đảm tiền vay:
1.2.1.1. Khái niệm bảo đảm tiền vay:
Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp thực hiện việc kinh doanh, cung ứng
thường xuyên một, một số hoặc toàn bộ các nghiệp vụ nhận tiền gửi,cấp tín
dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản. Trong số các nghiệp vụ của
tổ chức tín dụngthì cho vay là hình thức cấp tín dụng truyền thống và đặc
trưng, theo đó tổ chức tín dụng giao hoặc cam kết giao cho khách hàng một

khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất định
theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.
Trong hoạt động cho vay, các TCTD thường đánh giá, xếp loại khách
hàng. Đối với các khách hàng truyền thống, có uy tín (uy tín của khách hàng
thường được TCTD đánh giá trên cơ sở có quan hệ tín dụng lâu dài, trả nợ

12


đúng, đầy đủ), những khách hàng có tình hình tài chính lành mạnh, phương án
sản xuất kinh doanh hiệu quả hoặc cho vay theo chỉ định của Chính phủ,
TCTD có thể cho vay không cần biện pháp bảo đảm bằng tài sản.Tuy nhiên
rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay có thể phát sinh do nhiều yếu tố khác
không thể đoán trước được, trong khi mục đích mà TCTD hướng tới trong
hoạt động cấp tín dụng luôn là sự an toàn về vốn cho vay. Xuất phát từ thực tế
trên và để bảo toàn vốn trong hoạt động cho vay, đối với các khách hàng
không đáp ứng các điều kiện cho vay không có biện pháp bảo đảm, các TCTD
(bên cho vay) buộc khách hàng vay phải dùng tài sản để bảo đảm việc trả nợ
vay từ hợp đồng tín dụng. Đây chính là giao dịch bảo đảm tiền vay.
Về mặt lý luận, theo Từ điển Luật học, bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả tiền
vay, hay gọi một cách ngắn gọn là “bảo đảm tiền vay”, được định nghĩa là
biện pháp được sử dụng để bên cho vay thu hồi nợ trong trường hợp bên vay
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ hoàn trả tiền vay[38,
tr.273].
Về mặt pháp luật thực định, khái niệm “bảo đảm tiền vay” được định
nghĩa tại khoản 1 điều 2 Nghị định số 178/1999/NĐ-CPcủa Chính phủ về bảo
đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng, theo đó “Bảo đảm tiền vay là việc
TCTD áp dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và
pháp lý để thu hồi được các khoản nợ đã cho khách hàng vay”.Tuy nhiên,
Nghị định số 178/1999/NĐ-CP đã hết hiệu lực từ ngày 27/01/2007và được

thay thế bằng Nghị định 163/2006/NĐ-CP của Chính phủ về giao dịch bảo
đảm. Sau khiNghị định số 178/1999/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn thi
hành kèm theohết hiệu lực, các văn bản pháp luật hiện nay không có quy định
về khái niệm “Bảo đảm tiền vay”.
Cần phải khẳng định “Bảo đảm tiền vay” không phải là một biện pháp
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng mà thực chất chỉ là biện pháp

13


bảođảm thực hiện nghĩa vụ dân sự theo quy định của BLDS 2005 trong đó
nghĩa vụ được bảo đảm là nghĩa vụ hoàn trả gốc, lãi và các nghĩa vụ thanh
toán khác phát sinh từ hợp đồng vay tiền.Và như đã nêu ở trên, các văn bản
pháp luật thực định hiện nay cũng không còn định nghĩa và sử dụng khái niệm
“bảo đảm tiền vay”. Tuy nhiên tác giả vẫn sử dụng khái niệm này như một
thuật ngữ trọng tâm và xuyên suốt trong luận văn này bởi cáclý do sau:
Thứ nhất, cho vay chỉ là một trong số rất nhiều hoạt động mà các
TCTDhiện nay đang thực hiện,ngoài cho vay còn rất nhiều hình thức cấp tín
dụng khác như bảo lãnh, chiếu khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán,…
Trên thực tế, khi cấp tín dụng theocác hình thức khác, TCTD cũng đều yêu
cầu khách hàng phải giao kết giao dịch bảo đảm để bảo đảm cho nghĩa vụ
hoàn trả khoản tín dụng màTCTD đã cấp cho khách hàng. Bởi vậy,sử dụng
khái niệm “bảo đảm tiền vay”, tác giả muốn giới hạn phạm vi nghiên cứu của
luận văn là các giao dịch bảo đảm của tổ chức tín dụng với khách hàng xuất
phát từ nghiệp vụ cho vay mà không phải là tất cả các nghiệp vụ cấp tín dụng
nói chung của TCTD.
Thứ hai, tác giả muốn nhấn mạnh đến đối tượng nghiên cứu của luận
văn.Trên thực tế, hợp đồng vay tiền là một giao dịch dân sự rất phổ biến,
không chỉ có TCTD mới được cho vay mà hầu như tất cả các chủ thể dân sự
đều có thể cho vay, tuy nhiên xét về tính thường xuyên, chuyên nghiệp và

thực hiện như một nghề nghiệp thì cho vay là hoạt động đặc trưng cho TCTD.
Ngoài ra, hoạt động cho vay của TCTD cũng có những nhiều khác biệt so với
hợp đồng cho vay tiền trong các giao dịch dân sự thông thường.Hợp đồng cho
vay tiền thông thường được điều chỉnh theo quy định của Bộ luật dân sự 2005
theo đó lãi suất cho vay do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá
150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố. Trong khi đó, với tư
cách là một nghiệp vụ cấp tín dụng, hợp đồng cho vay giữa các TCTD với

14


khách hàng mang tính kinh tế thị trường, chủ yếu được điều chỉnh bởi Luật
các tổ chức tín dụng 2010 và các văn bản pháp luật chuyên ngành về hoạt
động ngân hàng, trong đó lãi suất cho vay giữa các TCTD không bị giới hạn
theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố.Sử dụng khái niệm này
tác giả muốn nhấn mạnh đến đối tượng nghiên cứu của luận văn chỉ giới hạn
đối với các giao dịch bảo đảm tiền vay của các TCTD.
Từ những lý do trên, tác giả nhận thấy khái niệm “bảo đảm tiền vay” là
thuật ngữ ngắn gọn nhưng phản ánh đúng bản chất của giao dịch giữa TCTD
và bên bảo đảm là nhằm đảm bảo nghĩa vụ hoàn trả tiền vay (gốc, lãi và các
nghĩa vụ thanh toán khác) của bên vay cho TCTD. Tác giả cho rằng có thể
định nghĩa khái niệm bảo đảm tiền vay như sau: Bảo đảm tiền vay là biện
pháp bảo đảm nghĩa vụ dân sự được sử dụng để bên cho vay (TCTD) thu hồi
nợ trong trường hợp bên vay không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ hoàn trả tiền vay.
1.2.1.2. Đặc điểm của bảo đảm tiền vay:
Với tư cách là một biện pháp bảo đảm nghĩa vụ, giao dịch bảo đảm tiền
vay của TCTD có đầy đủ các dấu hiệu và thuộc tính cơ bản của biện pháp bảo
đảm nghĩa vụ dân sự nói chung. Bên cạnh đó,bảo đảm tiền vay cũng có một
số đặc trưng riêngnhư sau:

Thứ nhất, chủ thể của giao dịch bảo đảm tiền vay luôn có một bên là tổ
chức tín dụng - với tư cách là bên nhận bảo đảm (bên có quyền đòi nợ theo
hợp đồng tín dụng).Do chủ thể nhận thế chấp là tổ chức tín dụng nên việc
phòng tránh rủi ro tín dụng cho chủ thể này là vấn đề hết sức quan trọng, được
pháp luật quan tâm đặc biệt vì mục tiêu giữ vững an toàn của hệ thống ngân
hàng và đảm bảo lợi ích quốc gia.
Thứ hai, nghĩa vụ được bảo đảm là nghĩa vụ hoàn trả tiền vay theo hợp
đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng với khách hàng vay vốn. Nghĩa vụ này

15


phát sinh từ hợp đồng tín dụng, bao gồm nợ gốc, nợ lãi, các khoản phí, tiền
phạt và tiền bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác
hoặc pháp luật có quy định khác.Bên vaytrong hợp đồng vaycó thể chính là
bên bảo đảm hoặc người thứ ba vay tiền tại TCTD.Thực tế cho thấy, do nghĩa
vụ hoàn trả tiền vay trong hợp đồng tín dụng thường có giá trị lớn và có tính
rủi ro cao nên hầu hết các tổ chức tín dụng khi cho vay đều mong muốn sử
dụng biện pháp bảo đảm tiền vay để phòng tránh rủi ro cho các khoản tín
dụng đã cấp.
Thứ ba, trong quan hệ cho vay giữa tổ chức tín dụng với khách hàng,
do tổ chức tín dụng rất coi trọng vai trò, tác dụng của bảo đảm tiền vay nên
hợp đồng bảo đảm thường được các bên (tổ chức tín dụng và bên bảo đảm)
giao kết thành một hợp đồng riêng, tách khỏi hợp đồng tín dụng, với nhiều
điều khoản chi tiết và rất cụ thể. Điều này là cần thiết, vì việc giao kết một
hợp đồng thế chấp riêng rẽ với hợp đồng tín dụng sẽ tạo điều kiện cho các bên
có cơ hội thỏa thuận chi tiết, cụ thể và đầy đủ hơn về các điều khoản của hợp
đồng bảo đảm tiền vay.Trên cơ sở đó, giúp cho việc thực hiện hợp đồng bảo
đảm và giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng bảo đảm tiền vay
cũng dễ dàng, thuận lợi hơn.

1.2.2. Mối quan hệ giữa hợp đồng bảo đảm tiền vay với hợp đồng tín
dụng:
Như đã trình bày, các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự nói
chung có mối quan hệ mang tính chất phụ thuộc vào nghĩa vụ mà nó bảo đảm
và luôn gắn liền với một nghĩa vụ được bảo đảm. Cụ thể với giao dịch bảo
đảm tiền vay thì nghĩa vụ được bảo đảm là nghĩa vụ hoàn trả tiền vay theo
hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng với khách hàng vay vốn. Như vậy,
giữa hợp đồng bảo đảm tiền vay với hợp đồng tín dụng có mối quan hệ như
thế nào. Về phương diện học thuật, vấn đề gây tranh cãi nhiều nhất liên quan

16


đến mối quan hệ giữa hợp đồng bảo đảm tiền vayvới hợp đồng tín dụng có lẽ
là việc xác định tính độc lập hay tính phụ thuộc giữa hai hợp đồng này.Nói
cách khác, mối quan hệ giữa hợp đồng tín dụng với hợp đồng bảo đảm tiền
vay có phải là mối quan hệ giữa hợp đồng chính và hợp đồng phụ hay không?
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Mối quan hệ giữa hợp đồng tín dụng và
hợp đồng bảo đảm tiền vay có thể coi là mối quan hệ giữa hợp đồng chính và
hợp đồng phụ[7,8].
Có lẽ quan điểm này dựa trên lập luận cho rằng, sự bảo đảm chỉ có giá
trị khi tồn tại nghĩa vụ được bảo đảm (nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng
chính).Theo quan điểm này, nếu hợp đồng tín dụng (hợp đồng chính) bị vô
hiệu thì hợp bảo đảm (với tính chất là hợp đồng phụ) cũng đương nhiên bị vô
hiệu theo. Ngược lại, nếu hợp đồng bảo đảmtiền vay bị vô hiệu thì không tất
yếu hay chắc chắn làm vô hiệu hợp đồng tín dụng (hợp đồng chính).
Quan điểm thứ hai cho rằng: Mối quan hệ giữa hợp đồng tín dụng với
hợp đồng thế chấp không hoàn toàn là mối quan hệ giữa hợp đồng chính và
hợp đồng phụ [35].
Quan điểm này đã được thể hiện trong Nghị định số 163/2006/NĐ-CP

ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm.Trong Nghị định số
163/2006/NĐ-CP, nhà làm luật không hoàn toàn coi mối quan hệ giữa hợp
đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp là mối quan hệ giữa hợp đồng chính và
hợp đồng phụ, cụ thể là, Điều 15 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP. Theo quy
định tại điều luật này, nếu áp dụng cho hợp đồng tín dụng có bảo đảm bằng
thế chấp tài sản thì có thể hình dung mối tương quan về hiệu lực giữa hai hợp
đồng này (hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo đảm) như sau:
- Trường hợp thứ nhất, có hai khả năng xảy ra:Nếu hợp đồng tín dụng
có nghĩa được bảo đảm bị vô hiệu hoặc đã có hiệu lực nhưng bị hủy bỏ bởi
thỏa thuận của các bên hoặc bởi ý chí đơn phương của một bên nhưng chưa

17


được thực hiện thì hợp đồng bảo đảm tiền vay bị chấm dứt. Cần lưu ý rằng
theo quy định của điều luật nêu trên thì trong trường hợp này, hợp đồng bảo đảm
tiền vay bị chấm dứt, nghĩa là đã có hiệu lực rồi sau đó mới chấm dứt hiệu lực do
không cần thiết duy trì hiệu lực của hợp đồng bảo đảm tiền vay nữa, chứ không
phải là hợp đồng bảo đảm tiền vay bị vô hiệu ngay từ khi ký kết.
Nếu hợp đồng tín dụng bị vô hiệu hoặc đã có hiệu lực nhưng bị hủy bỏ
bởi thỏa thuận của các bên hoặc bởi ý chí đơn phương của một bên và đã
được thực hiện một phần hoặc toàn bộ thì hợp đồng bảo đảm tiền vay không
bị đương nhiên chấm dứt, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận chấm dứt hợp
đồng bảo đảm tiền vay này vì thấy không cần thiết phải tiếp tục thực hiện hợp
đồng nữa. Trong trường hợp này, nếu hợp đồng bảo đảm tiền vay không bị
chấm dứt trong khi tổ chức tín dụng đã giải ngân cho khách hàng thì bên nhận
bảo đảm (tổ chức tín dụng) có quyền xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi số tiền
đã giải ngân cho khách hàng.
- Trường hợp thứ hai, hợp đồng bảo đảm bị vô hiệu hoặc bị hủy bỏ,
chấm dứt đơn phương sẽ không ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng tín

dụng, trừ trường hợp các bên tham gia hợp đồng tín dụng thỏa thuận hủy bỏ
hay chấm dứt hợp đồng này.
Đối với việc xác định mối quan hệ giữa hợp đồng tín dụng và hợp đồng
bảo đảm tiền vay, tác giả đồng ý với quan điểm thứ hai.Bởi xét trong mối
quan hệ giữa hợp đồng tín dụng với hợp đồng bảo đảm tiền vay thì không thể
coi hợp đồng tín dụng là hợp đồng chính và hợp đồng bảo đảm tiền vay (trong
đó có hợp đồng thế chấp tài sản) là hợp đồng phụ.Tác giả xin đưa ra một số
phân tích chứng minh cho quan điểm này như sau:
Thứ nhất, về khía cạnh học thuật, tự thân mỗi hợp đồng này (tức hợp
đồng tín dụng và hợp đồng bảo đảm tiền vay) đều đã có đầy đủ các yếu tố để
được coi là một hợp đồng. Vì thế, tự nó sẽ phát sinh hiệu lực nếu thỏa mãn

18


×