Tải bản đầy đủ (.doc) (116 trang)

Kế toán chi phí và giá thành sản xuất bê tông tươi tại Công ty CP Đầu tư và Thương mại Dầu Khí Sông Đà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (791.4 KB, 116 trang )

Contents
Contents 1

MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Xây dựng cơ bản, phát triển hệ thống giao thông và cơ sở hạ tầng là mục tiêu quan
trọng và ưu tiên nhất so với các ngành, lĩnh vực kinh tế khác. Đây là một trong
những ngành then chốt của nền kinh tế. Trong những năm gần đây, ngành xây
dựng cơ bản của Việt nam đã trở thành ngành có những bước phát triển và tăng
trưởng ngoạn mục. Song song với việc phát triển của ngành xây dựng là sự phát
triển đa dạng các loại vật liệu xây dựng cũng như sự cạnh tranh khốc liệt giữa các
đơn vị cung cấp. Là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực cung cấp các loại vật
liệu xây dựng, mà chủ đạo là sản phẩm bê tông tươi, Công ty CP Đầu tư và
Thương mại Dầu Khí Sông Đà cũng đang chịu áp lực cạnh tranh rất lớn từ các
công ty khác. Trong môi trường cạnh tranh đó, tìm cách giải bài toán về chi phí và
giá thành luôn là vấn đề đặt ra cần giải quyết một cách cấp thiết.
Hệ thống kế toán chi phí hoàn thiện sẽ là công cụ hữu hiệu giúp doanh nghiệp
kiểm soát chi phí, đánh giá chính xác trách nhiệm của các bộ phận sản xuất, kịp
thời chấn chỉnh sai sót ngay trong quá trình hoạt động nhằm giúp doanh nghiệp
đạt mục tiêu đề ra. Thực tế kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại
Công ty CP Đầu tư và Thương mại Dầu khí Sông Đà( PVSD) còn nhiều hạn chế:


-

Công tác lập, lưu chuyển và kiểm tra tính hợp pháp hợp lệ của chứng từ chưa

được xem trọng đúng mức- chứng từ lập chưa đầy đủ các yếu tố theo quy định,
chưa đúng mẫu biểu theo quy định của công ty.
-


Việc phán ánh chi phí phát sinh tại công ty vào các tài khoản chưa đúng bản

chất của chi phí: Chưa có sự phân biệt rõ ràng giữa chi phí trực tiếp và chi phí sản
xuất chung như tiền lương và các khoản trích theo lương của bộ phận quản lý sản
xuất đều được tính vào chi phí nhân công trực tiếp.
-

Việc vận dụng số liệu của kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm

trong kế toán quản trị chưa được xem trọng trong công tác quản lý. Tại công ty
hiện nay việc tính giá thành chỉ phục vụ cho việc lập báo cáo tài chính mà chưa
thấy hết được vai trò của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành trong kế toán
quản trị.
Nhận thức được tầm quan trọng ấy, hơn nữa cũng chưa có đề tài nào nghiên cứu
về vấn đề này, qua làm việc thực tế em đã chọn đề tài: “Kế toán chi phí và giá
thành sản xuất bê tông tươi tại Công ty CP Đầu tư và Thương mại Dầu Khí
Sông Đà”
2. Tổng quan các công trình đã nghiên cứu liên quan đến đề tài
Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp nói
chung và trong các doanh nghiệp Xây lắp nói riêng đã được nhiều giáo trình, tài
liệu, công trình khoa học, luận án tiến sỹ và luận văn thạc sỹ kinh tế nghiên cứu.
Trong tất cả các giáo trình kế toán doanh nghiệp, kế toán tài chính và kế toán quản
trị của các Trường Đại học, Cao đẳng đều có chương nghiên cứu về chi phí sản
xuất và tính giá thành sản phẩm sản xuất. Nội dung chủ yếu của vấn đề nghiên
cứu chi phí sản xuất trong các giáo trình là cung cấp những lý thuyết cơ bản, mang
tính nguyên tắc về nội dung chi phí sản xuất, phương pháp kế toán chi phí sản
xuất và các phương pháp tính giá thành sản phẩm, phương pháp đánh giá sản


phẩm dở dang... Các kiến thức này tạo điều kiện cho những người học, người

nghiên cứu nắm một cách cơ bản nhất những nguyên tắc để có thể vận dụng thích
hợp vào công việc thực tiễn và nghiên cứu sâu thêm.
Vì thế, việc nghiên cứu các giải pháp cụ thể để áp dụng vào thực tiễn cho một loại
hình doanh nghiệp nào đó không được đề cập đến trong các giáo trình, tài liệu
này. Đó cũng chính là nhiệm vụ quan trọng của những người làm công tác nghiên
cứu khoa học và người làm thực tiễn.
Trong những năm qua, nhiều công trình khoa học các cấp, nhiều luận án tiến sỹ,
thạc sỹ kinh tế cũng đã nghiên cứu các vấn đề về chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm trong các doanh nghiệp. Mỗi công trình nghiên cứu vấn đề này trên các
góc cạnh khác nhau và giải quyết được những yêu cầu đòi hỏi cấp thiết trong việc
bổ sung thêm hay làm sáng tỏ hơn về lý luận cũng như thực tiễn công tác kế toán
chi phí và giá thành sản phẩm trong các loại hình doanh nghiệp. Đặc biệt là trong
các luận án tiến sỹ, thạc sỹ đã đề xuất được một số giải pháp phù hợp cho công tác
kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm trong các ngành, các doanh nghiệp cụ
thể:
- Năm 2009, tác giả Lê Thị Diệu Linh với đề tài "Hoàn thiện công tác kế toán tập
hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây dựng
dân dụng". Xuất phát từ việc nghiên cứu các vấn đề lý luận và khảo sát thực tiễn
các vấn đề liên quan đến công tác kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành sản
phẩm xây dựng dân dụng, tác giả luận án đã đề xuất một số giải pháp hoàn thiện
về kế toán trong điều kiện khoán sản phẩm. Các giải pháp này đã được luận giải
khá rõ ràng về cơ sở khoa học của việc đưa ra các định mức kinh tế, kỹ thuật phục
vụ cho công tác khoán sản phẩm và tính toán các chi phí, giá thành trong điều kiện
khoán. Mặt khác, tác giả luận án cũng đã phân tích các điều kiện cần thiết để thực
hiện các phương án khoán sản phẩm. Tuy nhiên luận án lại chưa đề cập đến giải


pháp hoàn thiện kế toán chi phí giá thành sản phẩm xây lắp trong điều kiện hạch
toán tập trung.
Nghiên cứu của Bùi Thị Thu Thủy (2010) về kế toán chi phí giá thành tại các doanh

nghiệp khai thác than trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Nghiên cứu này dựa trên giả
thuyết rằng chi phí sản xuất theo quy định hiện hành của kế toán không phản ánh đầy
đủ chi phí thực tế phát sinh từ đó làm cho thông tin về giá thành sản phẩm thiếu
chính xác do không phản ánh đầy đủ thông tin về chi phí môi trường .Tác giả nghiên
cứu đã tiến hành phân loại, nhận diện các chi phí sản xuất thuộc về chi phí môi
trường; xây dựng quy trình bóc tách, ghi nhận chi phí môi trường đang nằm trong
thông tin của chi phí truyền thống; so sánh thông tin chi phí sản xuất và giá thành sản
phẩm truyền thống với các thông tin tương tự đã được bóc tách, bổ sung chi phí môi
trường. Kết quả là chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm tăng cao do phải gánh chịu
thêm khoản mục chi phí môi trường. Kết quả của nghiên cứu có thể còn phải tiếp tục
tranh luận vì việc đo lường,ghi nhận chi phí môi trường là không đơn giản.

- Năm 2011 tác giả Lê Thị Loan với đề tài “ Kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm tại công ty cổ phần xi măng” . Luận án đã trình bày các phương
pháp nghiên cứu và kết quả phân tích thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính
giá thành sản phẩm xi măng tại công ty CP xi măng. Từ đó nêu ra những bất cập
và hạn chế trong kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xi măng đề
xuất được những biện pháp giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm. Tuy
nhiên tác giả chưa đề cập nhiều đến nguyên nhân của những hạn chế tồn tại.
- Năm 2012, tác giả Dương Thị Vân Anh với đề tài "Hoàn thiện kế toán chi phí
sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp sản xuất thuốc nổ
thuộc công ty công nghiệp hóa chất mỏ - TKV". Tác giả luận án đã hệ thống hóa
các vấn đề lý luận kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, đồng thời
khẳng định vị trí, vai trò của vật liệu nổ công nghiệp đối với nền kinh tế quốc dân,


đặc biệt là đối với ngành khai thác mỏ. Thành công của luận án là đã phân tích và
đề xuất được nội dung chi phí sản xuất trong các doanh nghiệp sản xuất thuốc nổ.
Điều này có tác dụng tích cực trong việc kiểm soát chi phí hạ giá thành sản phẩm
thuốc nổ công nghiệp. Tuy nhiên, luận án chưa đề cập nhiều đến việc sử dụng hệ

thống tài khoản kế toán chi tiết phục vụ cho công tác kế toán quản trị chi phí và
giá thành sản phẩm thuốc nổ.
Tóm lại, qua việc nghiên cứu tổng quan các vấn đề liên quan đến kế toán chi phí
sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp cho thấy hầu hết ở các
doanh nghiệp thuộc các ngành, các lĩnh vực khác nhau đã có những sách giáo
trình, tài liệu tham khảo, đề tài nghiên cứu khoa học và luận án tiến sỹ về kế toán
chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. Hầu hết các công trình này đã nghiên cứu
lý luận chung và làm sáng tỏ hơn về mặt lý luận có tính đến đặc điểm đặc thù về
tổ chức bộ máy quản lý sản xuất kinh doanh của các ngành, các doanh nghiệp. Do
đó, đã góp phần hệ thống hóa và phân tích rõ hơn những vấn đề về lý luận như nội
dung chi phí sản xuất, phương pháp phân loại chi phí sản xuất, vận dụng hệ thống
tài khoản trong kế toán tài chính và xây dựng hệ thống tài khoản kế toán tài chính,
hệ thống báo cáo kế toán đối với các doanh nghiệp thuộc các ngành, lĩnh vực khác
nhau về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Còn tại các doanh
nghiệp sản xuất bê tông thì nội dung chi phí sản xuất, phương pháp phân loại chi
phí sản xuất, vận dụng tài khoản kế toán trong kế toán chi phí và giá thành sản
xuất được thực hiện như thế nào; hiện nay điều này chưa được có đề tài nào
nghiên cứu cụ thể. Trong điều kiện ngành xây dựng ngày càng phát triển, rất nhiều
doanh nghiệp đã xây dựng các trạm bê tông để tự cung cấp cho các công trình của
mình và kinh doanh sản phẩm mang tính đặc thù này. Vậy nên việc nghiên cứu đề
tài này trong bối cảnh hiện tại mang tính thực tiễn cao, từ đó có thể có thêm những
đóng góp thực tế trong việc hạch toán kế toán và quản lý đối với loại hình sản xuất


này.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
-

Nghiên cứu, hệ thống hóa và làm rõ thêm lý luận về kế toán chi phí sản


xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp sản xuất.
-

Phân tích, đánh giá đúng thực trạng về kế toán chi phí sản xuất và tính giá

thành sản phẩm bê tông tươi tại Công ty cổ phần Đầu tư và Thương Mại Dầu Khí
Sông Đà – PVSD từ đó rút ra những tồn tại và nguyên nhân khách quan cũng như
chủ quan.
-

Đề xuất các giải pháp hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành

sản phẩm bê tông tươi tại Công ty cổ phần Đầu Tư và Thương Mại Dầu Khí Sông
Đà.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung đi sâu nghiên cứu lý luận về kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất và thực trạng về vấn đề này tại Công
ty cổ phần Đầu Tư và Thương Mại Dầu Khí Sông Đà trong phạm vi của kế toán
tài chính và kế toán quản trị.
- Phạm vi thời gian:
Đề tài được nghiên cứu trong thời gian từ tháng 10/2013 đến tháng 02/2014 với các
số liệu nghiên cứu,phân tích trong 3 năm từ 2010-2013 (Riêng đối với số liệu về kế
toán CPSX và tính GTSP nghiên cứu số liệu tập trung trong năm 2012 và 2013)
-

Phạm vi không gian:

Toàn bộ các trạm trộn bê tông của Công ty PVSD tại Mỹ Đình – Từ Liêm – Hà Nội

5. Phương pháp nghiên cứu

Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, các nguyên
lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lê nin, nghiên cứu các vấn đề trong mối quan hệ
ràng buộc và lôgic; kết hợp sử dụng các phương pháp kỹ thuật như so sánh, kiểm


định, diễn giải, quy nạp, phương pháp thống kê, tổng hợp để phân tích, hệ thống
hóa vấn đề. Cụ thể phương pháp được sử dụng: thu thập dữ liệu, phân tích dữ liệu.
Phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp
Phương pháp phỏng vấn: Tác giá chủ động gặp gỡ, trao đổi các vấn đề có liên quan
với các đại diện bộ phận, cá nhân trong mỗi doanh nghiệp như: Thành viên ban giám
đốc, kế toán trưởng, trưởng phòng kỹ thuật, nhân viên kế toán, quản đốc phân xưởng,
…. Đề nghị các cá nhân này mô tả lại cá công việc của họ, thu thập nhu cầu, ý kiến
đánh giá, nhận định về các kết quả đạt được, nguyên nhân tồn tại trong hệ thống
thông tin kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm của mỗi doanh nghiệp.


Phương pháp nghiên cứu hiện trường

Tác giả trực tiếp tiến hành quan sát tại phòng kế toán, bộ phận kế toán CPSX và giá
thành sản phẩm của Công ty.Thông qua phương pháp này, tác giả nghiên cứu hành vi
của người quản trị và các kế toán viên thực hành công tác kế toán chi phí sản xuất và
giá thành sản phẩm, nghiên cứu các chứng từ kế toán, trình tự luân chuyển chứng từ,
sổ kế toán, quy trình ghi sổ, các báo cáo kế toán,…
+ Phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp:
Dữ liệu thứ cấp là dữ liệu có sẵn đã được thu thập từ trước. Thông qua các cuộc
phỏng vấn trước đó hay những thông tin thu được qua nghiên cứu các tài liệu, các
sách báo, tạp chí, internet,.. những dữ liệu này được sử dụng để làm cơ sở cho việc
tổng hợp, phân tích, đánh giá, so sánh và nhận xét về kế toán chi phí sản xuất và tính
giá thành sản phẩm tại công ty.
Phương pháp phân tích: Các lý luận về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành

sản phẩm thường có nhiều lý thuyết khác nhau xuất phát từ việc nhìn nhận theo quan
điểm của kế toán truyền thống ( thiên về kế toán tài chính) hay kế toán hiện đại (thiên
về kế toán quản trị). Điều này đòi hỏi tác giả trong nghiên cứu để phải có sự kế thừa
những lý luận mang tính kinh điển đồng thời phải chủ động tiếp cận với những quan
điểm lý luận mới (đặc biệt là liên quan đến kế toán chi phí) nhằm hoàn thiện lý luận


về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở Việt Nam trong điều kiện
hội nhập và tái cấu trúc nền kinh tế
Thông qua việc phân tích các tài liệu kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm tại công ty PVSD, tác giả đánh giá và rút ra những kết luận quan trọng cho
thực tiễn kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm bê tông tại công ty
PVSD.

6. Các câu hỏi đặt ra trong quá trình nghiên cứu
+ Các quy định pháp lý về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm đã
phù hợp với thực tế công tác kế toán tại các doanh nghiệp sản xuất trong điều kiện
hội nhập và tái cơ cấu doanh nghiệp chưa?
+Thực tiễn việc nhận thức,áp dụng các quy định pháp lý về kế toán chi phí sản xuất
và tính giá thành sản phẩm ở công ty PVSD?
+ Đặc điểm hoạt động của sản xuất kinh doanh, quy trình công nghệ sản xuất sản
phẩm, có tác động đến kế toán CPSX và tính GTSP tại công ty PVSD như thế nào?
+ Việc xác định nội dung chi phí, phân loại chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm tại công ty PVSD được thực hiện như thế nào, còn những vấn đề gì bất cập?

7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, tổng quan nghiên cứu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục, luận văn được kết cấu thành 3 chương :
Chương 1: Lý luận chung về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
trong các doanh nghiệp sản xuất.

Chương 2: Thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm bê tông
tươi tại Công ty cổ phần Đầu Tư và Thương Mại Dầu Khí Sông Đà.
Chương 3: Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm bê tông
tươi tại Công ty cổ phần Đầu Tư và Thương Mại Dầu Khí Sông Đà.


CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ
THÀNH SẢN PHẨM TRONG CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT
1.1. Chi phí sx và giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất
1.1.1. Chi phí sản xuất trong doanh nghiệp sản xuất
1.1.1.1 Khái niệm, bản chất của chi phí sản xuất
Để tiến hành hoạt động sản xuất, doanh nghiệp hoạt động ở bất cứ lĩnh vực
nào cũng phải có đủ 3 yếu tố: tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao
động. Sự tiêu hao các yếu tố này trong quá trình sản xuất kinh doanh đã tạo ra các
chi phí tương ứng, đó là các chi phí về tư liệu lao động, chi phí về đối tượng lao
động và chi phí về lao động sống. Do đó “ Chi phí là biểu hiện bằng tiền của hao
phí lao động sống và lao động vật hóa” Để xác định và tổng hợp được những chi
phí doanh nghiệp đã chi ra trong quá trình sản xuất thì mọi chi phí phải được biểu
hiện bằng thước đo tiền tệ.Tuy nhiên trong quá trình sản xuất, doanh nghiệp còn
phải bỏ ra rất nhiều các khoản chi phí khác như chi phí bán hàng, chi phí quản lý
doanh nghiệp, nhưng không phải mọi chi phí mà doanh nghiệp đã đầu tư đều là
chi phí sản xuất.
Quá trình sản xuất kinh doanh là quá trình mà doanh nghiệp phải thường
xuyên đầu tư các loại chi phí khác nhau để đạt được mục đích là tạo ra khối lượng
sản phẩm, lao vụ hoặc khối lượng công việc phù hợp với nhiệm vụ sản xuất đã
xác định và thực hiện. Thực chất hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
là sự vận động, kết hợp, tiêu dùng và chuyển đổi các yếu tố tư liệu lao động, đối



tượng lao động và sức lao động để tạo ra kết quả cuối cùng của hoạt động sản
xuất. Quá trình vận động của chu kỳ sản xuất kinh doanh có thể khái quát thành ba
giai đoạn:
T – H…….SX…….H’ – T’
Giai đoạn (T-H) chuẩn bị các yếu tố sản xuất, đây là giai đoạn mua sắm, dự
trữ các yếu tố tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động.
Giai đoạn (H…SX…H’) vận động, biến đổi các yếu tố đầu vào để trở thành
các sản phẩm, lao dịch vụ theo các mục tiêu đã định.
Giai đoạn (H’- T’) thực hiện giá trị và giá trị sử dụng của sản phẩm, lao vụ
thông qua quá trình trao đổi.
Quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được thực hiện liên tục
và lặp đi lặp lại không ngừng và điểm khởi đầu của mỗi quá trình sản xuất đều
phải có vốn đó là vật tư, lao động, tiền vốn và kết thúc mỗi quá trình sản xuất kinh
doanh cũng là vốn đó là tiền, các khoản phải thu, các tài sản khác.
Như vậy, chi phí hoạt động của doanh nghiệp phát sinh trong tất cả các giai đoạn
của quá trình sản xuất, tuy nhiên chỉ các chi phí phát sinh trong giai đoạn biến đổi
các yếu tố đầu vào để trở thành các sản phẩm, lao dịch vụ mới được gọi là chi phí
sản xuất.
Chi phí sản xuất có thể được định nghĩa theo nhiều phương diện khác nhau. Chi
phí có thể được nhìn nhận một cách trìu tượng chính là biểu hiện bằng tiền những
hao phí lao động sống và lao động quá khứ phát sinh trong quá trình hoạt động sản
xuất kinh doanh hoặc là những phí tổn chứng minh bằng những chứng cứ nhất
định phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh hoặc là những phí tổn ước tính
thực hiện các phương án sản xuất kinh doanh.
Trên góc độ KTTC: Chi phí được nhìn nhận như những khoản phí tổn phát sinh
gắn liền với hoạt động của DN để đạt được một sản phẩm, lao vụ, dịch vụ nhất


định. Chi phí được xác định bằng tiền của những chi phí về lao động sống và lao
động vất hóa… trên cơ sở chứng từ tài liệu và bằng chứng chắc chắn.

Theo VAS 01 và IAS 01 – “chuẩn mực chung” chi phí là tổng giá trị các khoản
làm giảm lợi ích kinh tế trong kỳ kế toán dưới hình thức các khoản tiền chi ra, các
khoản khấu trừ tài sản hoặc phát sinh các khoản nợ dẫn đến làm giảm vốn chủ sở
hữu, không bao gồm khoản phân phối cho cổ đông hoặc chủ sở hữu.
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh của mình các doanh nghiệp phải huy
động, sử dụng các nguồn lực như lao động, vật tư, tiền vốn … để tạo ra sản phẩm
hay hoàn thành công việc, lao vụ của mình. Những chi phí mà doanh nghiệp phải
bỏ ra để tiến hành sản xuất sản phẩm, hoàn thành công việc, lao vụ đó được gọi là
chi phí sản xuất.
Chi phí sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp phát sinh thường xuyên trong
suốt quá trình tồn tại và hoạt động của doanh nghiệp. Nhưng để phục vụ cho nhu
cầu quản lý chi phí sản xuất kinh doanh phải được tập hợp theo từng thời kỳ:
tháng, quý, năm.
Tuy nhiên chúng ta có thể khái quát về chi phí sản xuất kinh doanh như sau:
“Chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ chi phí về lao động sống, lao
động vật hóa và các chi phí cần thiết khác mà doanh nghiệp đã chi ra trong quá
trình tiến hành các hoạt động sản xuất trong một thời kỳ nhất định”.
Bản chất của chi phí
Các chi phí sản xuất của doanh nghiệp gồm hai loại:
Một là, các chi phí bỏ ra để tạo nên một giá trị sử dụng cũng như thực hiện giá trị
sử dụng đó;
Hai là, các chi phí không liên quan đến việc tạo ra giá trị sử dụng.
Về lý luận, cần được làm rõ vấn đề này để xác định chính xác nội dung và phạm
vi chi phí sản xuất. Điều đó đã được C.Mác khẳng định trong tác phẩm “Tư bản -


tập 1” về sự khác biệt giữa chi phí sản xuất và chi phí chung của nhà Tư bản như
sau: phí tổn của nhà Tư bản sản xuất ra hàng hoá và phí tổn của bản thân sự sản
xuất ra hàng hoá đó luôn là hai đại lượng. Phí tổn Tư bản đo bằng chi phí tư bản,
phí tổn thực sự để sản xuất ra hàng hoá đo bằng chi phí lao động. Bởi vậy, chi phí

tư bản để sản xuất ra hàng hoá và giá trị hay thực chất chi phí sản xuất của nó
khác nhau về số lượng. Như vậy, theo C. Mác, trong doanh nghiệp sẽ có chi phí
doanh nghiệp và chi phí sản xuất sản phẩm, lao vụ, dịch vụ; bản thân chúng khác
nhau về phạm vi và số lượng.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, ngoài chi phí SXKD, doanh nghiệp còn cần
thiết phải bỏ ra chi phí cho các hoạt động khác, tất cả các chi phí đó là chi phí của
doanh nghiệp. Trong quản lý, doanh nghiệp cần phải nắm được ý nghĩa các loại
chi phí này để có biện pháp quản lý tiết kiệm và nâng cao hiệu quả. Là công cụ
quản lý hữu hiệu, kế toán cần phải hạch toán, phân tích và cung cấp thông tin đầy
đủ, kịp thời về tình hình chi phí của doanh nghiệp, gồm cả các thông tin của kế
toán tài chính phục vụ cho việc lập báo cáo tài chính và thông tin của kế toán quản
trị phục vụ cho báo cáo quản trị doanh nghiệp giúp cho các nhà quản trị quản lý
chi phí đạt hiệu quả cao nhất.
Về nội dung chi phí, các quan điểm trước đây cho rằng, “chi phí sản xuất là toàn
bộ hao phí lao động sống và lao động vật hoá đã chi ra để tiến hành sản xuất
kinh doanh trong một kỳ nhất định biểu hiện bằng tiền". Hao phí lao động (còn
gọi là hao phí lao động hiện tại) biểu hiện của nó như tiền lương phải trả cho
công nhân, các khoản trích kinh phí công đoàn, bảo hiểm XH, bảo hiểm y tế ghi
vào chi phí sản xuất. Hao phí lao động vật hóa (còng gọi là hao phí lao động quá
khứ) biểu hiện của nó là giá trị nguyên vật liệu, sử dụng phục vụ sản xuất, công
cụ dụng cụ xuất dùng, khấu hao tài sản cố định. Quá trình sử dụng các yếu tố cơ
bản trong sản xuất cũng đồng thời là quá trình doanh nghiệp phải chi ra những


chi phí SX tương ứng. Tương ứng với việc sử dụng nguyên liệu, vật liệu, nhiên
liệu... là những chi phí về nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu.... Tương ứng với việc
sử dụng lao động là chi phí về tiền công, tiền trích bảo hiểm XH, bảo hiểm y tế...
đều được biểu hiện bằng tiền của hao phí lao động sống, còn những chi phí về
khấu hao tài sản cố định, chi phí về nguyên nhiên vật liệu là biểu hiện bằng tiền
của hao phí về lao động vật hóa. Một doanh nghiệp sản xuất ngoài những hoạt

động có liên quan đến hoạt động sản xuất ra sản phẩm hoặc lao vụ, còn có những
hoạt đọng kinh doanh và hoạt đông khác ko có tính sản xuất như sự hoạt động
bán hàng, hoạt động quản lí, các hoạt động mang tính chất sự nghiệp... Chỉ
nhưng chi phí để tiến hành sản xuất mới đc coi là chi phí SX
1.1.1.2. Phân loại chi phí sản xuất trong các doanh nghiệp sản xuất
Trong kỳ hoạt động SXKD, doanh nghiệp phải bỏ ra nhiều loại chi phí khác nhau.
Mỗi loại chi phí có tính chất, nội dung, công dụng và yêu cầu quản lý khác nhau.
Để quản lý tốt từng loại chi phí sản xuất nhằm đáp ứng yêu cầu kiểm tra, giám sát
đối với từng loại chi phí cụ thể thì cần thiết phải phân loại chi phí sản xuất.
Phân loại chi phí sản xuất là việc sắp xếp CPSX theo từng loại, từng nhóm khác
nhau theo những tiêu thức nhất định.Việc xác định tiêu thức phân loại CPSX hợp lý
và khoa học vừa đáp ứng được yêu cầu của kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính
giá thành sản phẩm, vừa đáp ứng yêu cầu quản lý nhằm tiết kiệm chi phí và hạ giá
thành sản phẩm.
Ở phạm vi nghiên cứu đề tài này chỉ nghiên cứu phân loại chi phí sản xuất trên
phương diện kế toán tài chính.
Trên phương diện kế toán tài chính, chi phí sản xuất được phân loại theo các tiêu
thức sau đây:
1.1.1.2.1 Phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất


Theo cách phân loại này, chi phí sản xuất của doanh nghiệp được chia thành 2
loại: chi phí ban đầu và chi phí luân chuyển nội bộ.
-

Chi phí ban đầu: chi phí ban đầu là chi phí mà ngay từ đầu quá trình sản

xuất doanh nghiệp phải tổ chức chuẩn bị. Chi phí này phát sinh trong mối quan hệ
giữa doanh nghiệp với môi trường kinh tế bên ngoài, do đó còn gọi là chi phí
ngoại sinh. Chi phí ban đầu được chia thành các yếu tố chi phí có nội dung kinh tế

khác nhau và không thể phân chia được nữa về nội dung kinh tế, vì vậy mỗi yếu tố
được gọi là chi phí đơn nhất.
-

Chi phí luân chuyển nội bộ: là các khoản chi phí phát sinh trong quá trình phân

công lao động trong nội bộ doanh nghiệp. Các chi phí này phát sinh do có sự kết hợp
các yếu tố đầu vào sau một quá trình sản xuất kinh doanh nhất định. Do đó, chi phí
luân chuyển nội bộ là các chi phí tổng hợp được cấu thành bởi nhiều khoản chi phí
ban đầu nên còn gọi là chi phí hỗn hợp.
Cách phân loại theo tiêu thức này cho biết chi phí sản xuất đơn nhất theo từng yếu
tố, đồng thời xác định được nội dung của từng khoản chi phí, tạo điều kiện cho
việc xác định phương pháp và trình tự tính giá thành sản phẩm của doanh nghiệp.
1.1.1.2.2 Phân loại chi phí sản xuất theo mục đích và công dụng kinh tế
Theo cách phân loại này, chi phí sản xuất của doanh nghiệp được chia thành 3
mục chính sau đây:
-

Chi phí vật liệu trực tiếp: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp là giá trị nguyên

vật liệu chính, vật liệu phụ, các loại vật liệu khác sử dụng cho sản xuất sản phẩm,
lao vụ, dịch vụ. NVLTT trong sản xuất bê tông tươi như xi măng, cát, đá, sỏi, chất
phụ gia...
-

Chi phí nhân công trực tiếp: chi phí nhân công là các chi phí về tiền lương,

tiền công, các khoản trích theo lương như BHXH, KPCĐ, BHYT dùng để sản xuất
sản phẩm



-

Chi phí sản xuất chung: là các chi phí sản xuất chung liên quan đến phục vụ

quản lý sản xuất trong phạm vi phân xưởng, trạm trộn bê tông. Chi phí sản xuất
chung bao gồm các khoản chi phí sau:


Chi phí nhân viên phân xưởng: chi phí nhân viên phân xưởng gồm các

khoản chi phí về tiền lương, các khoản phụ cấp lương và các khoản trích theo
lương của nhân viên phân xưởng, lương nhân viên quản lý tại trạm trộn.


Chi phí vật liệu: chi phí vật liệu gồm các khoản chi về vật liệu dùng chung

cho phân xưởng sản xuất, các trạm trộn để quản lý các hoạt động sản xuất ở phân
xưởng, trạm sản xuất.


Chi phí dụng cụ: chi phí dụng cụ gồm chi phí về công cụ, dụng cụ được sử

dụng ở phân xưởng để phục vụ sản xuất và quản lý sản xuất.


Chi phí khấu hao TSCĐ: chi phí khấu hao TSCĐ gồm toàn bộ chi phí

khấu hao tài sản cố định thuộc các phân xưởng,trạm sản xuất quản lý và sử
dụng.



Chi phí dịch vụ mua ngoài: chi phí dịch vụ mua ngoài là các chi phí về dịch

vụ được sử dụng cho hoạt động phục vụ và quản lý sản xuất ở phân xưởng, trạm
trộn.


Chi phí bằng tiền khác: chi phí bằng tiền khác là các khoản chi phí khác

bằng tiền phát sinh trong quá trình sản xuất và quản lý sản xuất ở phân xưởng,
trạm sản xuất ngoài các yếu tố trên.
Mỗi doanh nghiệp có đặc điểm đặc thù nên việc chi tiết các khoản chi phí trên
thành những khoản nhỏ tạo điều kiện cho công tác quản lý chi phí đạt hiệu quả cao
hơn.
Tiêu thức phân loại này giúp doanh nghiệp quản lý chi phí theo định mức, đồng
thời là cơ sở tổ chức kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành theo
khoản mục, là căn cứ để phân tích tình hình thực hiện kế hoạch chi phí và gía


thành sản phẩm cũng như việc xây dựng định mức chi phí cho kỳ sau.
1.1.1.2.3 Phân loại chi phí theo nội dung tính chất của chi phí
Theo tiêu thức này, toàn bộ CPSX của doanh nghiệp được phân chia thành 5 yếu tố
sau:
-

Chi phí nguyên liệu, vật liệu: chi phí nguyên liệu, vật liệu là toàn bộ giá trị

nguyên liệu chính, vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, và chi phí vật liệu khác. Đây là
cơ sở để DN xác định được tổng giá trị nguyên vật liêu tiêu hao trong kỳ sản xuất

sản phẩm, trên cơ sở đó có kế hoạch mua vào, dự trữ phục vụ quá trình sản xuất
bình thường.
-

Chi phí nhân công: chi phí nhân công là các chi phí về tiền lương, tiền

công, các khoản trích theo lương như BHXH, KPCĐ, BHYT.Đây là cơ sở để công
tyxác định được tổng quỹ lương của doanh nghiệp, từ đó có căn cứ xây dựng kế
hoạch quỹ lương toàn doanh nghiệp.
-

Chi phí khấu hao TSCĐ: chi phí khấu hao TSCĐ là số tiền hao mòn TSCĐ

tính vào chi phí sản xuất trong kỳ. Đây là cơ sở để công tyxác định được chiến
lược đầu tư trang thiết bị, đảm bảo cơ sở vật chất cho quá trình sản xuất sản phẩm.
-

Chi phí dịch vụ mua ngoài: chi phí dịch vụ mua ngoài là số tiền trả cho các

dịch vụ mua ngoài của các đơn vị, cá nhân cung cấp cho doanh nghiệp. Đây là cơ
sở để DN xác định tổng số tiền dịch vụ liên quan đến sản xuất sản phẩm. Từ đó có
kế hoạch quan hệ trao đổi với các đối tác cung cấp dịch vụ.
-

Chi phí bằng tiền khác: chi phí bằng tiền khác là các khoản chi phí khác

bằng tiền phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh ngoài các yếu tố trên.
Tiêu thức phân loại này giúp các nhà quản lý nắm được tỷ trọng của từng yếu tố
chi phí trong tổng chi phí sản xuất mà doanh nghiệp đã chi ra để sản xuất sản
phẩm. Đối với kế toán, đó là cơ sở tổ chức tổng hợp chi phí sản xuất theo yếu tố,



kiểm tra tình hình thực hiện dự toán CPSX, lập kế hoạch cung ứng vật tư, kế
hoạch quỹ lương, kế hoạch khấu hao TSCĐ…
1.1.1.2.4 Phân loại chi phí sản xuất theo mối quan hệ giữa chi phí với báo cáo
tài chính
Theo tiêu thức này, chi phí được phân loại thành chi phí sản phẩm và chi phí thời
kỳ.
-

Chi phí sản phẩm: là những chi phí gắn liền với việc sản xuất sản phẩm. các

chi phí này tạo thành giá trị hàng tồn kho trên Bảng cân đối kế toán. Đến khi
thành phẩm được bán ra thì chi phí này tạo nên chi phí về giá vốn hàng bán trên
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. Các chi phí này thông thường liên quan
đến nhiều kỳ kế toán và ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp trong
nhiều kỳ.
-

Chi phí thời kỳ: là những chi phí phát sinh của kỳ nào thì ảnh hưởng trực

tiếp đến lợi nhuận của kỳ đó và được phản ánh trên các chỉ tiêu trong Báo cáo
kết quả hoạt động kinh doanh của kỳ đó. Thuộc loại chi phi này có chi phí bán
hàng, chi phí nghiệm thu công trình , chi phí quản lý doanh nghiệp.
Cách phân loại này có tác dụng đánh giá mối quan hệ của chi phí với báo cáo tài
chính và cho những nhà quản lý thấy được rằng không phải cứ phát sinh chi phí là
ảnh hưởng ngay đến kết quả kinh doanh của kỳ mà chi phí phát sinh. Đồng thời
cách phân loại cũng cho thấy các khoản chi phí của doanh nghiệp chi ra được
phản ánh ở chỉ tiêu nào trong báo cáo tài chính, từ đó có cái nhìn tổng quát về giá
trị tài sản của doanh nghiệp và có phương án quản lý tốt hơn.

-

Chi phí gián tiếp: là những chi phí liên quan đến nhiều đối tượng chịu chi

phí như nhiều loại sản phẩm, công việc, lao vụ, dịch vụ. Các chi phí này không thể
quy nạp trực tiếp cho các đối tượng mà phải tập hợp chung sau đó mới phân bổ
cho từng đối tượng theo tiêu thức phân bổ thích hợp.


Tiêu thức phân loại này có ý nghĩa trong kỹ thuật hạch toán và khi lực chọn tiêu
thức phân bổ để dảm bảo hạch toán đúng chi phí trực tiếp và phân bổ chính xác
chi phí liên quan đến nhiều đối tượng.

1.1.2 Giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất
1.1.2.1 Khái niệm bản chất giá thành sản phẩm
Giá thành sản phẩm là toàn bộ chi phí sản xuất dùng để sản xuất hoàn
thành một khối lượng sản phẩm, lao vụ, dịch vụ nhất định.
Trong doanh nghiệp, giá thành sản phẩm là toàn bộ chi phí sản xuất dùng để
sản xuất hoàn thành một đơn vị, khối lượng sản phẩm. Thông thường ở doanh
nghiệp sản xuất bê tông tươi thì giá thành tính theo đơn vị là m3
Giá thành sản phẩm là chỉ tiêu mang tính giới hạn và xác định, vừa có tính
khách quan, vừa có tính chủ quan và là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh
kết quả sử dụng các loại tài sản trong quá trình SXKD cũng như hiệu quả
công tác quản lý chi phí của doanh nghiệp. Về bản chất, giá thành sản phẩm
và chi phí sản xuất là biểu hiện hai mặt của quá trình sản xuất kinh doanh,
đều là biểu hiện bằng tiền của những hao phí về lao động sống cần thiết, lao
động vật hoá và những hao phí khác mà doanh nghiệp phải chi ra trong quá
trình SXKD. Tuy nhiên, chi phí sản xuất là giới hạn cho một kỳ nhất định,
không phân biệt cho loại sản phẩm nào và sản phẩm đó đã hoàn thành hay
chưa, còn giá thành sản xuất sản phẩm là tính cho một lượng chi phí sản xuất

và một lượng kết quả sản phẩm hoàn thành nhất định. Trên phương diện quá
trình hoạt động để xem xét thì quá trình sản xuất là quá trình hoạt động liên
tục cần bỏ chi phí liên tục còn việc tính giá thành sản phẩm chỉ diễn ra tại
một thời điểm (thường là cuối kỳ). Tại thời điểm này có thể một khối lượng
sản phẩm chưa hoàn thành nhưng nó đã chứa đựng một lượng chi phí nhất


định, đó chính là chi phí của sản phẩm làm dở cuối kỳ trước chuyển sang
(đầu kỳ này) hay cuối kỳ. Do đó, giá thành sản phẩm hoàn thành trong kỳ
gồm chi phí sản xuất của kỳ trước chuyển sang và chi phí phát sinh của kỳ
này trừ đi chi phí của sản phẩm làm dở cuối kỳ.
Tổng

giá

thành

sản

xuất
trong kỳ

CPSX
=

dở dang
đầu kỳ

CPSX
+


phát sinh
trong kỳ

CPSX
-

dở dang
cuối kỳ

Trong công tác quản lý cần xác định chức năng vốn có của giá thành sản phẩm, đó
là:
-

Chức năng bù đắp chi phí: mỗi doanh nghiệp khi sản xuất kinh doanh cần

phải bỏ ra một lượng hao phí nhất định, hao phí này cần được bù đắp một cách
đầy đủ, kịp thời để đảm bảo yêu cầu tái sản xuất.
-

Chức năng thước đo hiệu quả SXKD: khi giá thành sản phẩm hạ trong điều

kiện giá bán sản phẩm không thay đổi, doanh nghiệp sẽ có lợi nhuận, thể hiện kết
quả và hiệu quả của việc sử dụng các biện pháp kinh tế, kỹ thuật mà doanh nghiệp
đã thực hiện trong quá trình SXKD.
-

Chức năng lập giá: giá cả của sản phẩm tiêu thụ trên thị trường phải được

xác định căn cứ vào hao phí lao động xã hội cần thiết. Việc hình thành giá cả sản

phẩm dựa vào giá thành bình quân của ngành, của địa phương trong điều kiện sản
xuất kinh doanh bình thường. Do đó, cần phải xác định được những hao phí hợp
lý tạo nên giá thành sản phẩm.


1.1.2.2 Phân loại giá thành sản phẩm
Trong quản lý, tùy theo yêu cầu quản lý khác nhau mà người ta có thể phân chia
giá thành sản phẩm theo nhiều tiêu thức khác nhau. Mối tiêu thức phân chia có ý
nghĩa và mục tiêu quản lý khác nhau.
Trên phương diện kế toán tài chính, giá thành sản phẩm được phân chia theo các
tiêu thức sau:
*Phân loại giá thành sản phẩm theo cơ sở số liệu và thời điểm tính giá thành
Theo cách phân loại này, giá thành sản phẩm được phân chia thành 2 loại: , giá
thành kế hoạch và giá thành thực tế.
-

Giá thành kế hoạch của sản phẩm : là giá thành sản phẩm được tính toán

trên cơ sở định mức từng loại nguyên vật liệu dùng để sản xuất sản phẩm. Loại giá
thành này phải được tính trước khi bắt đầu quá trình sản xuất kinh doanh. Giá
thành này là cơ sở cho việc phấn đấu hạ giá thành sản phẩm, đồng thời làm căn cứ
để phân tích đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch giá thành của doanh nghiệp.
-

Giá thành thực tế của sản phẩm : là giá thành sản phẩm được tính toán trên

cơ sở số liệu chi phí sản xuất thực tế phát sinh theo khoản mục quy định tập hợp
được trong kỳ cùng với số lượng sản phẩm sản xuất hoàn thành trong kỳ. Giá
thành sản phẩm thực tế chỉ tính được khi quá trình sản xuất đã kết thúc và tạo ra
sản phẩm.

Phân loại giá thành theo tiêu thức này giúp cho nhà quản lý doanh nghiệp có cơ sở
phân tích đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch, định mức giá thành để từ đó đề
xuất phương án hạ giá thành sản phẩm và chủ động trong việc tính giá thành sản
phẩm.
* Phân loại giá thành sản phẩm căn cứ vào phạm vi và chi phí cấu thành
Theo cách phân loại này, giá thành sản phẩm được phân chia thành 2 loại:


-

Giá thành sản xuất sản phẩm: giá thành sản xuất sản phẩm gồm các chi phí

liên quan đến quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm như chi phí nguyên vật liệu
trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung tính cho số sản
phẩm đã hoàn thành. Giá thành xuất xuất sản phẩm dùng để hạch toán thành
phẩm, giá vốn hàng xuất bán và tính toán mức lãi gộp trong kỳ.
-

Giá thành toàn bộ sản phẩm tiêu thụ: giá thành toàn bộ sản phẩm tiêu thụ

gồm giá thành sản xuất của số sản phẩm tiêu thụ cộng với chi phí bán hàng và
chi phí quản lý doanh nghiệp của số sản phẩm đã tiêu thụ. Loại giá thành này là
cơ sở cho việc tính lợi nhuận trước thuế thu nhập doanh nghiệp.
Phân loại giá thành theo tiêu thức này giúp cho nhà quản lý nắm chắc được giá
thành của từng khâu công việc, từ khâu sản xuất đến khâu bán hàng và công tác
quản lý để từ đó có phương án quản lý tốt từng khâu sản xuất kinh doanh.
1.2. Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp
sản xuất.
1.2.1 Đối tượng và phương pháp kế toán chi phí sản xuất
1.2.1.1 Đối tượng kế toán chi phí sản xuất

Đối tượng kế toán chi phí sản xuất là phạm vi, giới hạn để tập hợp chi phí sản xuất
theo các phạm vi, giới hạn đó. Thực chất của việc xác định đối tượng kế toán tập
hợp chi phí sản xuất là xác định nơi phát sinh chi phí như phân xưởng, tổ, giai
đoạn công nghệ, đơn đặt hàng...
Mỗi doanh nghiệp, tùy theo đặc điểm quy trình công nghệ và tính chất sản phẩm
để xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất thích hợp, có thể là:
-

Từng sản phẩm, chi tiết sản phẩm, nhóm sản phẩm hoặc đơn đặt hàng;

-

Từng phân xưởng, giai đoạn công nghệ;

-

Toàn bộ quy trình sản xuất hoặc toàn doanh nghiệp;


Xác định đối tượng chi phí sản xuất hợp lý và khoa học, phù hợp với đặc điểm
quy trình công nghệ và tính chất sản phẩm sẽ tạo thuận lợi cho công tác quản lý và
tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
1.2.1.2 Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất
Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất là cách thức mà kế toán sử dụng để tập hợp,
phân loại các khoản chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ theo các đối tượng tập hợp
chi phí đã xác định.
Kế toán phải căn cứ vào đối tượng tập hợp chi phí đã xác định, mở các sổ kế toán
để ghi chép các chi phí phát sinh theo đúng các đối tượng hoặc tính toán phân bổ
các chi phí có liên quan cho đúng đối tượng đó.
Có hai phương pháp tập hợp chi phí sản xuất sau đây:

-

Phương pháp tập hợp chi phí trực tiếp: Theo phương pháp này những chi

phí trực tiếp liên quan trực tiếp đến đối tượng nào thì được tính trực tiếp cho đối
tượng đó. Kế toán phải tổ chức công tác hạch toán một cách chi tiết, cụ thể từ
khâu lập chứng từ và ghi chép ban đầu, tổ chức vận dụng hệ thống tài khoản kế
toán, ghi sổ kế toán một cách chính xác, kịp thời theo đúng các đối tượng tập hợp
chi phí đã được xác định để đảm bảo cho việc tập hợp chi phí và tính giá thành sản
phẩm chính xác;
-

Phương pháp tập hợp và phân bổ gián tiếp: Theo phương pháp này, các chi

phí phát sinh liên quan đến nhiều đối tượng kế toán tập hợp chi phí sẽ được tập
hợp riêng theo địa điểm phát sinh hoặc theo nội dung chi phí. Cuối kỳ, phân bổ
cho từng đối tượng chịu chi phí theo tiêu chuẩn phân bổ hợp lý. Vấn đề quan
trọng ở đây là cần xác định được tiêu chuẩn phân bổ để đảm bảo tính chính xác
khi phân bổ chi phí cho từng đối tượng. Thông thường có thể lựa chọn một trong
các tiểu chuẩn phân bổ sau:


Chi phí nhân công trực tiếp;




Thời gian lao động trực tiếp;




Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp;



Số giờ máy chạy.

Việc phân bổ này được thực hiện theo hai bước sau:
Bước 1: xác định hệ số phân bổ chi phí::
Hệ số phân bổ chi phí được xác định theo công thức:
Hệ số

=

Chi phí cần phân bổ
Tổng đại lượng tiêu chuẩn phân bổ

Bước 2: xác định chi phí cần phân bổ cho từng đối tượng chịu chi phí
Sau khi xác định được hệ số phân bổ chi phí, kế toán tính số chi phí phân bổ cho
từng đối tượng theo công thức:
Chi phí phân bổ
cho từng đối tượng

Hệ số phân
=

bổ

chịu chi phí
chi phí

1.2.2. Kế toán tập hợp chi phí sản xuất

Tiêu chuẩn
x

phân bổ cho
từng đối tượng

1.2.2.1. Kế toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
- Chứng từ kế toán: Phiếu xuất kho; phiếu báo vật tự còn lại cuối kỳ; bảng phân bố
nguyên liệu.
- Tài khoản kế toán: TK 621- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Tài khoản này được dùng để phản ánh chi phi phí nguyên vật liệu sự dụng trực tiếp
cho hoạt động sản xuất sản phẩm, thực hiện dịch vụ của các nghành công nghiệp, xây
lắp nông lâm, ngư nghiêp, giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, kinh doanh
khách sạn, du lịch và dịch vụ khác. Phương pháp hạch toán các nghiệp vụ kinh tế chủ
yếu của tài khoản này được tóm tắt tại phụ lục 01.
- Sổ kế toán: Sổ chi tiết chi phí nguyên vật liệu trực tiếp được mở cho từng đối tượng
căn cứ vào chứng từ liên quan và sổ cái TK 621.


Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp gồm chi phí về nguyên vật liệu chính, vật liệu
phụ, nửa thành phẩm trực tiếp được sử dụng để sản xuất sản phẩm.
Kế toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp được phản ánh trên tài khoản 621 - Chi
phí nguyên vật liệu trực tiếp. Đối với loại chi phí này, doanh nghiệp cần phải xây
dựng định mức hợp lý cho từng loại sản phẩm.
Khi phát sinh chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, kế toán ghi:
Nợ TK 621- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Có TK 152- Nguyên vật liệu
Có TK 111,112,331...

Cuối kỳ kết chuyển chi phí NVLTT, ghi:
Nợ TK 154- Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang
Có TK 621- Chi phí NVLTT
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp thực tế trong kỳ được xác định căn cứ sau đây:
-

Trị giá NVL trực tiếp dùng cho quá trình sản xuất sản phẩm. Căn cứ vào các

chứng từ xuất kho NVL hoặc các hoá đơn mua NVL đưa ngay vào sử dụng trong kỳ,
kế toán tính toán trị giá thực tế của NVL dùng trực tiếp cho sản xuất sản phẩm.
-

Trị giá NVL trực tiếp còn lại đầu kỳ ở các bộ phận, tổ, đó là trị giá NVL

trực tiếp đã xuất cho sản xuất ở kỳ trước nhưng chưa sử dụng được chuyển sang
kỳ này.
-

Trị giá NVL trực tiếp còn lại cuối kỳ ở các bộ phận, không sử dụng hết

được nhập lại kho hoặc chuyến sang kỳ sau.
-

Trị giá phế liệu thu hồi (nếu có) là trị giá của số phế liệu thu hồi ở các bộ

phận, phân xưởng sản xuất trong kỳ, căn cứ vào số lượng phế liệu thu hồi và đơn
giá phế liệu thu hồi.
Như vậy, chi phí NVL trực tiếp thực tế trong kỳ được xác định như sau:



Chi

phí

Trị

NVL trực
tiếp

thực

=

tế

NVL trực
tiếp

Trị

giá
còn

giá

Trị

NVL trực
+


tiếp

xuất

-

dùng

đầu kỳ
trong kỳ
trong kỳ
1.2.2.2 Kế toán chi phí nhân công trực tiếp

giá

NVL trực
tiếp

còn

cuối kỳ

Trị giá
-

phế
liệu
thu hồi

- Chứng từ kế toán: Bảng tổng hợp tiền lương; bảng tổng hợp các khoản thanh toán

khác cho người lao động; bảng phân bổ tiền lương và các khoản trích theo lương.
- Tài khoản kế toán: TK 621 – Chi phí nhân công trực tiếp
Tài khoản này được sử dụng để phản ánh chi phí nhân công trực tiếp tham gia vào
hoạt động sản xuất, kinh doanh trong các nghành công nghiệp, xây lắp, công lâm,
ngư nghiệp, giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, kinh doanh khách sạn, du lịch
và dịch vụ khác. Chi phí nhân công trực tiếp bao gồm các khoản phải trả cho người
lao động như: Tiền lương, tiền công, các khoản phụ cấp, các khoản trích theo lương.
Phương pháp hạch toán các nghiệp vụ kinh tế chủ yếu của tài khoản này được tóm tắt
tại phụ lục 2.
- Sổ kế toán: Sổ chi tiết chi phí nhân công trực tiếp và sổ cái TK 622.

Chi phí nhân công trực tiếp gồm các khoản chi phí về tiền lương chính, lương phụ
và các khoản phụ cấp tính theo lương phải trả cho công nhân trực tiếp sản xuất, thi
công hoặc thực hiện lao vụ, dịch vụ. Chi phí nhân công trực tiếp được tập hợp trực
tiếp vào các đối tượng tập hợp chi phí có liên quan (từng tổ, phân xưởng, địa điểm
sản xuất). Trường hợp không tập hợp được trực tiếp thì cần phải tập hợp chung
sau đó phân bổ cho từng đối tượng theo tiêu chuẩn hợp lý như chi phí NVLTT,
tiền lương định mức, giờ công định mức, giờ công thực tế, khối lượng sản phẩm
sản xuất hoàn thành...
Khi phát sinh chi phí nhân công trực tiếp, kế toán ghi:
Nợ TK 622 - Chi phí nhân công trực tiếp


×