Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP VÀ ĐỀ XUẤT MỘT SỐ VÙNG THÂM CANH TẬP TRUNG Ở THÀNH PHỐ HÀ TĨNH HÀ TĨNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (667.69 KB, 75 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
KHOA TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƢỜNG

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:

“ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP
VÀ ĐỀ XUẤT MỘT SỐ VÙNG THÂM CANH TẬP TRUNG
Ở THÀNH PHỐ HÀ TĨNH- HÀ TĨNH”

Chuyên ngành

: KHOA HỌC ĐẤT

Địa điểm thực hiện

: Phòng Tài nguyên Môi trƣờng – TP Hà Tĩnh

Thời gian thực hiện

: từ 15/01/2011 đến 15/05/2011

HÀ NỘI - 2011


PHẦN I MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, là cơ sở sinh sống và
phát triển của thực vật, là tư liệu sản xuất cơ bản của nông nghiệp và có vai
trò quan trọng trong đời sống của thực vật và con người. Đất đai là nền tảng
để định cư và tổ chức các hoạt động kinh tế xã hội, nó không chỉ là đối


tượng lao động mà còn là tư liệu sản xuất không thể thay thế đươc, đặc biệt
là đối với sản xuất nông nghiệp, nó là yếu tố đầu vào có tác động mạnh mẽ
đến hiệu quả sản xuất nông nghiệp, đồng thời cũng là môi trường duy nhất
sản xuất ra lương thực thực phẩm nuôi sống con người.
Trong quá trình sản xuất, do con người luôn tìm cách cải tạo môi
trường xung quanh cho phù hợp với yêu cầu sản xuất thông qua các loại
hình sử dụng đất, các hệ sinh thái nhân tạo và sử dụng một số phân hóa
học, thuốc bảo vệ thực vật làm phá hủy cân bằng sinh thái thiên nhiên dẫn
đến tính bền vững của đất ngày càng giảm dần.
Mặt khác, do sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế xã hội và sự
bùng nổ dân số. Nhu cầu ăn, mặc, ở của người dân ngày càng tăng lên.
Những nguyên nhân này đã gây áp lực cho đất ngày càng lớn. Vấn đề đặt
ra là cần phải có những phương thức sử dụng đất và những biện pháp cải
tạo phù hợp để đảm bảo mang lại hiệu quả sử dụng đất cao và bền vững,
cung cấp đầy đủ lương thực, thực phẩm cho con người. Vì vậy, việc nghiên
cứu đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp và lựa chọn các loại hình
sử dụng đất cho phù hợp với điều kiện của các địa phương là rất cần thiết.
Thành phố Hà tĩnh thuộc Đồng bằng ven biển Miền Trung, là một
nơi hẹp nhưng có quá trình sử dụng đất rất đa dạng và sản xuất nông
nghiệp đóng vai trò chủ đạo. Trong những năm gần đây, do sự phát triển
của nền kinh tế, quá trình đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ đã làm cho diện tích

2


đất nông nghiệp của thành phố ngày càng bị thu hẹp do chuyển sang mục
đích phi nông nghiệp khác. Mặt khác, quá trình sản xuất nông nghiệp, con
người đã tác động vào đất bằng một số biện pháp gây ảnh hưởng đến đặc
tính, tính chất của đất, làm cho đất bị suy thoái, giảm hiệu quả sử dụng đất.
Việc định hướng cho người dân khai thác và sử dụng hợp lý, có hiệu quả

đất sản xuất nông nghiệp là một trong những vấn đề hết sức cần thiết để
nâng cao hiệu quả sử dụng đất.
Xuất phát từ ý nghĩa thực tiễn và nhu cầu sử dụng đất, được sự
đồng ý của ban chủ nhiệm khoa Tài nguyên và Môi trường – trường Đại
học Nông Nghiệp Hà Nội, em tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá hiệu
quả sử dụng đất nông nghiệp và đề xuất một số vùng thâm canh tập
trung ở Thành Phố Hà Tĩnh- Hà Tĩnh”
1.2. Mục đích, Yêu cầu:
1.2.1. Mục đích:
- Điều tra hiện trạng các loại hình sử dụng sản xuất nông nghiệp ở Thành
phố Hà Tĩnh.
- Đánh giá hiệu quả các loại hình sử dụng đất trên địa bàn Thành phố.
- Đề xuất một số loại hình sử dụng theo vùng thâm canh tập trung nhằm
nâng cao hiệu quả sử dụng đất
1.2.2. Yêu cầu:
- Xác định những lợi thế, khó khăn về điều kiện tự nhiên về điều kiện tự
nhiên, kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến việc phát triển Nông nghiệp của Thành
phố.
- Đánh giá hiện trạng đất sản xuất nông nghiệp của Thành phố
- Lựa chọn các loại hình sử dụng đất phù hợp, đề xuất vùng thâm canh nông
nghiệp đáp ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp bền vững.
PHẦN II: TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU

3


2.1 Khái quát về sử dụng đất
2.1.1 Khái quát về đất nông nghiệp, đất sản xuất nông nghiệp
Đất nông nghiệp là đất được xác định chủ yếu để sử dụng vào sản
xuất nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản hoặc nghiên

cứu thí nghiệm về nông nghiệp. theo luật đất đai năm 2003, đất nông nghiệp
chia ra làm các nhóm đất chính sau: đất sản xuất nông nghiệp, đất lâm
nghiệp, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối và đất nông nghiệp khác.
Trong đó đất sản xuất nông nghiệp được chia thành: đất trồng cây hàng năm
(đất trồng lúa, đất trồng cỏ dùng vào chăn nuôi, đất trồng cây hàng năm
khác) và đất trồng cây lâu năm [1].
Trong giai đoạn kinh tế- xã hội phát triển, mức sống của con người
còn thấp, công năng của đất là tập trung vào sản xuất vật chất, đặc biệt trong
sản xuất nông nghiệp chủ yếu là sản xuất nhỏ lẻ, tự cung, tự cấp để phục vụ
nhu cầu thiết yếu: ăn, mặc, ở….Khi con người biết sử dụng đất đai vào cuộc
sống cũng như sản xuất thì đất đóng vai trò quan trọng trong hiện tại và
tương lai.
2.1.2 Tình hình sử dụng đất nông nghiệp trên thế giới
Đất nông nghiệp là nhân tố vô cùng quan trọng đối với sản xuất nông
nghiệp. Trên thế giới, mặc dù nền sản xuất nông nghiệp của các nước phát
triển không giống nhau nhưng tầm quan trọng đối với đời sống con người thì
quốc gia nào cũng thừa nhận. Hầu hết các nước coi sản xuất nông nghiệp là
cơ sở nền tảng của sự phát triển. Tuy nhiên, khi dân số ngày một tăng nhanh
thì nhu cầu lương thực, thực phẩm là một sức ép rất lớn. Để đảm bảo an ninh
lương thực loài người phải tăng cường các biện pháp khai hoang đất. Do đó
đã phá vỡ cân bằng sinh thái của nhiều vùng, đất đai bị khai thác triệt để và
không còn thời gian nghỉ, các biện pháp giữ gìn độ phì nhiêu đất chưa được
coi trọng. Kết quả là hàng loạt diện tích đất bị thoái hóa trên phạm vi toàn
thế giới qua các hình thức bị mất chất dinh dưỡng và chất hữu cơ, bị xói

4


mòn, bị nhiễm mặn và bị phá hoại cấu trúc của tầng đất…..Người ta ước tính
có tới 15% tổng diên tích đất trên trái đất bị thoái hóa do những hành động

bất cẩn của con người gây ra [2]. Theo P.Buringh, toàn bộ đất có khả năng
sản xuất nông nghiệp của thế giới chừng 3,3 tỷ ha (chiếm 22% tổng diện tích
đất liền); khoảng 78% (xấp xỉ 11,7 tỷ ha) không dùng được vào nông
nghiệp.
Đất trồng trọt là đất đang sử dụng, cũng có loại đất hiện tại chưa sử
dụng nhưng có khả năng trồng trọt. Đất đang trồng trọt của thế giới có
khoảng 1,5 tỷ ha (chiếm xấp xỉ 10.8% tổng diện tích đất đai và 46% đất có
khả năng trồng trọt). Như vậy, còn 54% đất có khả năng trồng trọt chưa
được khai thác.
Đất đai trên thế giới phân bố ở các châu lục không đều. Tuy có diện
tích đất nông nghiệp khá cao so với các châu lục khác nhưng Châu Á lại có
tỷ lệ diện tích đất nông nghiệp trên tổng diện tích đất tự nhiên thấp. Mặt
khác, châu Á là nơi tập trung phần lớn dân số trên thế giới, ở đây các quốc
gia dân số đông nhất nhì thế giới là: Trung Quốc, Ấn Độ, Indonexia. Ở châu
Á, đất đồi núi chiếm 35% tổng diện tích. Tiềm năng đất trồng trọt nhờ vào
nước trời nói chung là khá lớn khoảng 407 triệu ha, trong đó xấp xỉ 282 triệu
ha đang được trồng trọt và khoảng 100 triệu ha chủ yếu nằm trong vùng
nhiệt đới ẩm của Đông Nam Á. Phần lớn diện tích này là đất dốc và chua;
khoảng 40-60 triệu ha trước đây vốn là đất rừng tự nhiên che phủ, nhưng đến
nay do bi khai thac khốc liệt nên rừng đã bị phá và thảm thực vật đẫ chuyển
thành cây bụi và cỏ dại.
Đất canh tác của thế giới có hạn và được dự đoán ngày càng tăng do
khai thác thêm những diện tích đất có khả năng nông nghiệp nhằm đáp ứng
nhu cầu về lương thực, thực phẩm cho loài người. tuy nhiên, do dân số ngày
một tăng nhanh nên bình quân diện tích đất canh tác trên đầu người ngày
một giảm.

5



Đông Nam Á là một khu vực đặc biệt. Từ số liệu của UNDP năm
1995 cho ta thấy đây là một khu vực có dân số khá đông trên thế giới nhưng
diện tích đất canh tác thấp, trong đó chỉ có Thái Lan là diện tích canh tác
trên đầu người khá nhất, Việt Nam đứng hàng thấp nhất trong số các quốc
gia Asean [3].
2.1.3 Tình hình sử dụng đất nông nghiệp của Việt Nam
Đất sản xuất nông nghiệp là đất được xác định chủ yếu để sử dụng
vào sản xuất nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, hoặc nghiên cứu thí
nghiệm về nông nghiệp…Theo kết quả kiểm kê đất đai năm 2005, Việt Nam
có tổng diện tích tự nhiên là 33.069.348 ha, trong đó đất sản xuất nông
nghiệp là 1132 m2/ người [4].
Vì vậy, việc nâng cao hiệu quả sử dụng đất nhằm thỏa mãn nhu cầu
cho xã hội về sản phẩm nông nghiệp đang trở thành vấn đề cấp bách luôn
được các nhà quản lý và sử dụng đất quan tâm. Thực tế cho thấy, trong
những năm qua do tốc độ công nghiệp hóa cũng như đô thị hóa diễn ra khá
mạnh mẽ ở nhiều địa phương trên phạm vi cả nước làm cho diện tích đất
nông nghiệp ở Việt Nam có nhiều biến động, theo tư liệu của Tổng Cục
Thống kê thì biến động về số lượng đất nông nghiệp của nước ta trong 10
năm gần đây được thể hiện ở bảng 1.

Bảng 1: Biến động về diện tích đất nông nghiệp và diện tích đất trồng cây
hàng năm ở Việt Nam(1995-2005)

6


Năm

TDT đất
nông nghiệp


TDT đất
trồng cây
hàng năm(ha)

Bình quân
Dân số( 1000

DT đất trồng

người)

cây hàng năm
người/(m2)

1995

10.496,9

9.224,2

71.995,5

1.281,22

1996

10.928,9

9.486,1


73.156,7

1.296,68

1997

11.316,4

9.680,1

74.306,9

1.302,83

1998

11.740,4

10.011,3

74.456,3

1.344,59

1999

12.320,3

10.468,9


76.596,7

1.366,76

2000

12.644,3

10.540,3

77.635,4

1.357,67

2001

12.507,0

10.352,2

78.658,8

1.316,09

2002

12.831,4

10.595,9


79.727,4

1.329,02

2003

12.983,3

10.680,1

80.902,4

1.320,12

2004

13.184,5

10.817,8

82.301,7

1.314,41

2005

13.234,7

10.805,9


83.119,9

1.300,04

Nguồn: tư liệu kinh tế- xã hội 61 tỉnh và thành phố- Nhà xuất bản Thống kê
(2004) và số liệu phát triển xã hội Việt Nam thập kỷ 90- Nhà xuất bản Thống kê (2005)
[5].

Theo Nguyễn Đình Bồng [6], đất nông nghiệp của chúng ta chỉ chiếm
28,38% và gần tương đương với diện tích này là diện tích đất chưa sử dụng.
Đây là tỷ lệ cho thấy cần có biện pháp thiết thực hơn để có thể khai thác
được diện tích đất nói trên phục vụ cho các mục đích khác nhau. So với một
số nước trên thế giới, nước ta có tỷ lệ đất dùng vào nông nghiệp rất thấp. Là
một nước có đa phần dân số làm nghề nông thì bình quân diện tích đất canh
tác trên đầu người nông dân rất thấp là một trở ngại to lớn. Để vượt qua,
phát triển một nền nông nghiệp đủ sức cung cấp lương thực cho toàn dân và
có một phần xuất khẩu cần biết khai thác và sử dụng hợp lý đất đai, cần triệt
để tiết kiệm đất, sử dụng đất có hiệu quả cao trên cơ sở phát triển một nền
nông nghiệp bền vững.
7


2.1.4 Nguyên tắc và quan điểm sử dụng đất nông nghiệp
* Nguyên tắc sử dụng đất nông nghiệp
Đất đai là nguồn tài nguyên có hạn trong khi đó nhu cầu sử dụng đất ngày
càng gia tăng, đặc biệt đất nông nghiệp có xu hướng ngày càng giảm do bị
trưng dụng sang các mục đích phi nông nghiệp. Vì vậy, sử dụng đất nông
nghiệp ở nước ta với mục tiêu nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội trên cơ sở
đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm, bảo vệ, khôi phục và phát triển

rừng, tăng cường nguyên liệu cho công nghiệp, đảm bảo khả năng phòng hộ
môi trường, bảo vệ tính đa dạng sinh học, bảo vệ hệ động thực vật quý hiếm
của rừng, phát triển công nghệ chế biến vừa và nhỏ với thiết bị công nghệ
tiên tiến, khai thác tiềm năng lao động, giải quyết công ăn việc làm góp phần
xóa đói, giảm nghèo, thu hút nguồn lực đầu tư, nâng cao vai trò và giá trị
đóng góp của ngành nông – lâm nghiệp vào phát triển kinh tế quốc dân.
Sản xuất nông nghiệp trên cơ sở cân nhắc những mục tiêu phát triển kinh tế
xã hội, tận dụng được tối đa lợi thế so sánh về điều kiện sinh thái và không
làm ảnh hưởng xấu đến môi trường là những nguyên tắc cơ bản và cần thiết
để đảm bảo cho khai thác và sử dụng bền vững tài nguyên đất. Do đó đất
nông nghiệp cần được sử dụng theo nguyên tắc “đầy đủ, hợp lý và hiệu
quả”.
- Đầy đủ: đây là nguyên tắc quan trọng, đảm bảo diện tích đất canh tác
luôn đáp ứng nhu cầu về lương thực, diện tích đất nông nghiệp đáp
ứng được tiêu chuẩn môi trường sinh thái bền vững cũng như nhu cầu
sinh hoạt của con người.
- Hợp lý: đây là nguyên tắc giúp cho việc khai thác, sử dụng đất đạt
hiệu quả cao nhưng vẫn đảm bảo được tính an toàn và hiệu quả.
- Hiệu quả: trong khai thác và quản lý sử dụng đất tính hiệu quả cao
nhất cả về kinh tế, xã hội và môi trường. Mặt khác có những quan
điểm đúng đắn theo xu hướng tiến bộ phù hợp với điều kiện, hoàn

8


cảnh cụ thể, làm cơ sở thực hiện sử dụng đất có hiệu quả kinh tế xã
hội cao.
* Quan điểm sử dụng đất nông nghiệp:
Theo chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn Việt Nam đến năm 2010
[7], quan điểm sử dụng đất nông – lâm nghiệp là:

- tận dụng triệt để các nguồn nhân lực thuận lợi, khai thác lợi thế so
sánh về khoa học kỹ thuật, đất đai, lao động để phát triển cây trồng,
vật nuôi có tỷ xuất hàng hóa cao, tăng sức cạnh tranh và hướng tới
xuất khẩu.
- áp dụng phương thức sản xuất nông – lâm kết hợp, lựa chọn các loại
hình sử dụng đất thích hợp, đa dạng hóa sản phẩm, chống xói mòn,
thâm canh sản xuất bền vững.
- nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông lâm nghiệp trên cơ sở thực hiện
đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi
phù hợp với sinh thái và bảo vệ môi trường.
- phát triển nông lâm nghiệp một cách toàn diện và có hệ thống trên cơ
sở chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển theo chiều sâu, đáp ứng yêu
cầu đa dạng hóa của nền kinh tế quốc dân.
- Phát triển nông nghiệp toàn diện gắn liền với việc xóa đói, giảm
nghèo, giữ vững ổn định chính trị, an ninh quốc phòng và phát huy
nền văn hóa truyền thống của các dân tộc, không ngừng nâng cao vai
trò nguồn lực của con người.
- Phát triển kinh tế nông nghiệp trên cơ sở áp dụng khoa học công nghệ
vào sản xuất.
- Nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp của địa phương phải gắn
liền với định hướng phát triển kinh tế, xã hội của vùng và cả nước.
2.2 Hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
2.2.1. Khái niệm về hiệu quả sử dụng đất
9


Có rất nhiều quan điểm và cách nhận thức khác nhau về hiệu quả sử
dụng đất. Song chúng ta có thể hiểu hiệu quả sử dụng đất là kết quả của quá
trình sử dụng đất [8].
Đánh giá đúng hiệu quả sử dụng đất có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong

phát triển nông nghiệp và quy hoạch phát triển nền kinh tế của địa phương.
Mục đích của đánh giá hiệu quả kinh tế sử dụng đất là để xác định tính bền
vững của đất và lựa chọn các biện pháp sử dụng bền vững đất hiện trạng hay
tiềm năng có lien quan đến quy hoạch sử dụng đất và hướng sử dụng bền
vững tài nguyên này.
Để đánh giá khả năng sử dụng đất, thông thường chúng ta đánh giá ở hai
khía cạnh ( Theo Gs. Viện sỹ Đào Thế Tuấn)
- Đánh giá khả năng thích nghi của cây trồng với đất đai.
- Đánh giá hiệu quả kinh tế sử dụng đất.
Ở khía cạnh thứ nhất, cần đánh giá khả năng thích nghi của đất đai dựa
trên việc so sánh, đối chiếu, xem xét mức độ phù hợp giữa những đặc tính cơ
bản của từng đơn vị đất với yêu cầu sinh thái. Từ đó sẽ xác định được những
đơn vị đất nào có mức độ phù hợp cao và những đơn vị đất nào có mức độ
phù hợp thấp hoặc không thích hợp với từng loại hình sử dụng đất. Ở khía
cạnh thứ hai, chúng ta cần đánh giá hiệu quả kinh tế sử dụng đất dựa vào kết
quả điều tra kinh tế hộ trên khu vực được đánh giá, từ đó lựa chọn các nhóm
cây trồng chính và các loại hình sản xuất nông nghiệp chính.
Việc đánh giá hiệu quả kinh tế sử dụng đất của các tỉnh ở nước ta hiện
nay chủ yếu chỉ dựa vào một số chỉ tiêu thuần mà chưa chú trọng đến mối
quan hệ với các lãnh thổ kề bên, chưa dựa vào mục tiêu bền vững của môi
trường đất và môi trường sinh thái. Vì thế việc phân tích để đưa ra phương
pháp đánh giá khoa học, chính xác về hiệu quả kinh tế sử dụng đất có ý
nghĩa to lớn và cấp thiết cho sự phát triển bền vững nông nghiệp của địa
phương trong thời kỳ hội nhập.
10


2.2.2 Phân loại hiệu quả
Để phân loại hiệu quả thì có nhiều cách phân loại khác nhau, nếu căn cứ
vào nội dung và cách biểu hiện thì hiệu quả được phân thành 3 loại: hiệu quả

kinh tế, hiệu quả xã hội và hiệu quả môi trường.
 Hiệu quả kinh tế
Theo Các Mác thì quy luật kinh tế đầu tiên trên cơ sở sản xuất tổng
thể là quy luật tiết kiệm thời gian và phân phối một cách có kế hoạch thời
gian lao động theo các ngành sản xuất khác nhau [9]. Theo các nhà khoa học
Đức (Stenien, Hanau, Rusteruyer, Simmerman - 1995): Hiệu quả kinh tế là
chỉ tiêu so sánh mức độ tiết kiệm chi phí trong một đơn vị kết quả hữu ích và
mức tăng kết quả hữu ích của hoạt động sản xuất vật chất trong một thời kỳ,
góp phần làm tăng thêm lợi ích của xã hội [10].
Như vậy, hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế chung, là khâu
trung tâm của các loại hiệu quả. Hiệu quả kinh tế có vai trò quyết định các
hiệu quả còn lại vì trong mọi hoạt động sản xuất con người đều có mục tiêu
chủ yếu là khi có được hiệu quả kinh tế thì mới có các điều kiện vật chất để
đảm bảo cho các hiệu quả về xã hội và môi trường.
Hiệu quả kinh tế có khả năng lượng hóa, tính toán chính xác trong
mối quan hệ so sánh giữa lượng kết quả đạt được và chi phí bỏ ra trong hoạt
động sản xuất. Kết quả đạt được là phần giá trị thu được của sản phẩm đầu
ra, lượng chi phí bỏ ra là phần các nguồn lực đầu vào. Mối tương quan đó
cần xét cả về phần so sánh tuyệt đối và so sánh tương đối cũng như xem xét
mối quan hệ chặt chẽ giữa hai đại lượng đó.
Vì vậy, bản chất của phạm trù kinh tế sử dụng đất là: với một diện tích
đất đai nhất định sản xuất ra một khối lượng của cải vật chất nhiều nhất với
một lượng đầu tư chi phí về vật chất và lao động thấp nhất nhằm đáp ứng
nhu cầu ngày càng tăng về vật chất của xã hội.

11


Đất đai nói chung đất nông nghiệp nói riêng là loại tư liệu sản xuất
đặc biệt quan trọng không thể thiếu trong sản xuất nông nghiệp. Do đó, biết

sử dụng nó một cách có hệ thống sẽ thu được giá trị sản phẩm lớn với hiệu
quả kinh tế cao và ngược lại. Để đạt được mục tiêu kinh tế thì người sản
xuất phải có biện pháp sử dụng hiệu quả các yếu tố của quá trình sản xuất
mà đất đai là một trong những yếu tố quan trọng. Vì vậy, mỗi vùng sản xuất
cần phân tích kết quả sử dụng đất hàng năm để đánh giá được những loại
hình sử dụng đất nào đã sử dụng tốt, cho hiệu quả kinh tế cao, phù hợp với
điều kiện hiện tại và ngược lại. Đối với những loại hình kinh tế chưa phù
hợp cần tìm ra biên pháp khắc phục thay đổi để đạt được hiệu quả cao trong
tương lai.
 Hiệu quả xã hội
Hiệu quả xã hội là mối tương quan so sánh giữa kết quả xét về mặt xã
hội và tổng chi phí bỏ ra (Nguyễn Thị Phương Thụy, 2000 [12] và Nguyễn
Thị Vòng [13], 2001). Còn theo Nguyễn Duy Tính (1995) [14] thì hiệu quả
về mặt xã hội sử dụng đất nông nghiệp lại được xác định bằng khái niệm tạo
việc làm trên cơ sở sử dụng một đơn vị diện tích đất nông nghiệp.
Từ những quan điểm trên cho thấy hiệu quả xã hội có liên quan mật
thiết với hiệu quả kinh tế, nó thể hiện mục tiêu hoạt động kinh tế của con
người. Hiệu quả xã hội là mối tương quan so sánh giữa kết quả xã hội và
lượng cho phí bỏ ra. Ở đây hiệu quả xã hội phản ánh những khía cạnh về
mối quan hệ xã hội giữa con người với con người như vấn đề công ăn, việc
làm, xóa đói giảm nghèo, công bằng xã hội….
Hiệu quả xã hội sử dụng đất ở đây được xác định thông qua các chỉ
tiêu mang tính định tính như: vấn đề công ăn việc làm, xóa đói giảm nghèo,
định canh, định cư, công bằng xã hội, ổn định và nâng cao mức sống của
người dân. Đặc biệt như nước ta hiện nay với tốc độ đô thị hóa, công nghiệp
hóa và dân số đông, số dân cư sống bằng nông nghiệp vẫn chiếm tỷ lệ lớn

12



trong khi diện tích đất sản xuất nông nghiệp ngày càng thu hẹp thì hiệu quả
sử dụng đất nói chung và hiệu quả xã hội ở đây được thể hiện là tăng cường
thu nhập cho người dân, đảm bảo việc làm, hạn chế sự di dân vào các thành
phố, các khu đô thị tìm việc làm, ổn định an ninh trật tự và giảm các tệ nạn
xã hội.
Trong giai đoạn hiện nay, việc đánh giá hiệu quả xã hội của các loại
hình sử dụng đất nông nghiệp là nội dung đang được nhiều nhà khoa học
quan tâm.
 Hiệu quả môi trường
Hiệu quả môi trường là một vấn đề mang tính toàn cầu, ngày nay đang
được chú trọng quan tâm và không thể bỏ qua khi đánh giá hiệu quả. Điều
này có ý nghĩa là mọi hoạt động sản xuất, mọi biện pháp khoa học kỹ thuật,
mọi giải pháp về quản lý… được coi là có hiệu quả khi chúng không gây tổn
hại hay có những tác động xấu đến môi trường đất, môi trường nước và môi
trường không khí cũng như không làm ảnh hưởng xấu đến môi sinh và đa
dạng sinh học. Có được điều đó mới đảm bảo cho một sự phát triển bền
vững của mỗi vùng lãnh thổ, mỗi quốc gia cũng như cả cộng đồng quốc tế
[15].
Trong sản xuất nông nghiệp, hiệu quả môi trường là hiệu quả mang
tính lâu dài, vừa đảm bảo lợi ích hiện tại mà không làm ảnh hưởng xấu đến
tương lai, nó gắn chặt với quá trình khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên
đất và môi trường sinh thái.
Bên cạnh cách phân loại hiệu quả nói trên, người ta còn có thể căn cứ
vào yêu cầu tổ chức và quản lý kinh tế, căn cứ vào các yếu tố sản xuất,
phương hướng tác động vào sản xuất cả về mặt không gian va thời gian…
Tuy nhiên, dù nghiên cứu ở bất cứ góc độ nào thì viêc đánh giá hiệu quả
cũng phải xem xét trên mặt không gian và thời gian, trong mối liên hệ chung

13



của toàn bộ nền kinh tế. Có như vậy mới đảm bảo cho việc đánh giá hiệu
quả được đầy đủ, chính xác và toàn diện.
2.2.3. Các nghiên cứu liên quan đến nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
và sản xuất nông nghiệp bền vững
2.2.3.1 Những nghiên cứu trên thế giới
Khi dân số trên thế giới ngày một gia tăng trong khi diện tích đất tự nhiên
không thay đổi và ngày càng suy thoái thì việc nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông
nghiệp để đáp ứng nhu cầu trước mắt và lâu dài là vấn đề quan trọng, thu hút quan
tâm của nhiều nhà khoa học trên thế giới. Các phương pháp đã được nghiên cứu, áp
dụng dùng để đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp được tiến hành ở các
nước Đông Nam á như phương pháp chuyên khoa, phương pháp mô phỏng,
phương pháp phân tích kinh tế, phương pháp phân tích chuyên gia….Bằng những
phương pháp đó các nhà khoa học đã tập trung nghiên cứu việc đánh hiệu quả đối
với từng giống cây trồng trên mỗi loại đất, để từ đó có thể sắp xếp, bố trí lại cơ cấu
cây trồng phù hợp nhằm khai thác tốt hơn lợi thế so sánh của từng vùng.
Hàng năm, các Viện nghiên cứu nông nghiệp ở các nước trên thế giới cũng
đã đưa ra nhiều giống cây trồng mới, những công thức luân canh mới giúp cho việc
tạo thành một số hình thức sử dụng đất mới ngày càng có hiệu quả cao hơn. Viện
lúa quốc tế IRRI đã có nhiều thành tựu về lĩnh vực giống lúa và hệ thống cây trồng
trên đất canh tác.
Các nhà khoa học Nhật Bản cho rằng quá trình phát triển của hệ thống nông
nghiệp nói chung và hệ thống cây trồng nói riêng là sự phát triển đồng ruộng đi từ
đất cao đến đất thấp. Điều đó có nghĩa là hệ thống cây trồng đã phát triển trên đất
cao trước sau đó mới đến đất thấp. Đó là quá trình hình thành sinh thái đồng ruộng.
Các nhà khoa học Nhật Bản đã hệ thống tiêu chuẩn hiệu quả sử dụng đất đai thông
qua hệ thống cây trồng trên đất canh tác: là sự phối hợp giữa các cây trồng và gia

14



súc, các phương pháp trồng trọt và chăn nuôi. Cường độ lao động, vốn đầu tư, tổ
chức sản xuất, sản phẩm làm ra, tính chất hàng hóa của sản phẩm.
Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy, việc khai thác và sử dụng đất đai là
yếu tố quyết định để phát triển kinh tế xã hội nông thôn toàn diện. chính phủ Trung
Quốc đã đưa ra các chính sách quản lý và sử dụng đất đai, ổn định chế độ sở hữu,
giao đất cho nông dân sử dụng, thiết lập hệ thống trách nhiệm và tính chủ động sáng
tạo của nông dân trong sản xuất. Thực hiện chủ trương “ ly nông bất ly hương” đã
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nông thôn phát triển toàn diện và nâng cao hiệu
quả sử dụng đất nông nghiệp.
Ở Thái Lan, Ủy ban chính sách Quốc gia đã có nhiều quy chế mới, ngoài
hợp đồng cho tư nhân thuê đất dài hạn, cấm trồng những cây không thích hợp trên
từng loại đất nhằm quản lý việc sử dụng và bảo vệ đất tốt hơn.
Một trong những chính sách tập trung vào hỗ trợ phát triển nông nghiệp quan
trọng nhất là đầu tư vào sản xuất nông nghiệp. Theo số liệu thống kê của Ngân hàng
thế giới (2000) [15], ở Mỹ tổng số tiền trợ cấp cho phát triển nông nghiệp là 66,2 tỉ
USD (chiếm 28,3% tổng thu nhập nông nghiệp), Canada là 5,7 tỉ USD (chiếm
39,1%), cộng đồng Châu âu là 62,7 tỉ USD (chiếm 42,1%), Nhật Bản là 42,3 tỉ
USD (chiếm 68,8%).
Những năm gần đây, cơ cấu kinh tế nông nghiệp của các nước đã gắn
phương thức sử dụng đất truyền thống với phương thức hiện đại và chuyển dịch
theo hướng công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn. Các nước Châu á đã rất chú
trọng trong việc đẩy mạnh công tác thủy lợi, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật về giống,
phân bón, các công thức luân canh để ngày càng nâng cao hiệu quả sử dụng đất
nông nghiệp. Một mặt phát triển ngành công nghiệp chế biến nông sản, gắn sự phát
triển công nghiệp với bảo vệ môi sinh, môi trường.
2.2.3.2 Những nghiên cứu ở Việt Nam

15



Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới ẩm, có nhiều thuận lợi cho phát triển sản
xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, nguồn tài nguyên đất có hạn, dân số lại đông, bình
quân đất tự nhiên/ người là 0,43 ha, chỉ bằng 1/3 mức bình quân của thế giới. Mặt
khác, dân số tăng nhanh làm cho bình quân diện tích trên đầu người ngày càng
giảm. Theo dự kiến, nếu tốc độ tăng dân số là 1-2 %/ năm thì dân số Việt Nam vào
năm 2015 sẽ là 100,8 triệu người. Vì thế, nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông
nghiệp là yêu cầu cần thiết đối với Việt Nam trong những năm tới.
Trong những năm qua, nước ta đã quan tâm giải quyết tốt các vấn đề kỹ
thuật và kinh tế, việc nghiên cứu và ứng dụng được tập trung vào các vấn đề như lai
tạo các giống cây trồng mới có năng suất cao, bố trí luân canh cây trồng vật nuôi với
từng loại đất, thực hiện thâm canh toàn diện, liên tục trên cơ sở ứng dụng tiến bộ kỹ
thuật vào sản xuất.
Ngay từ những năm 1960, GS. Bùi Huy Đáp đã nghiên cứu đưa cây lúa
xuân giống ngắn ngày và tập đoàn cây vụ đông vào sản xuất, do đó đã tạo ra sự
chuyển biến rõ nét trong sản xuất nông nghiệp vùng đồng bằng song Hồng. Vấn đề
luân canh bố trí hệ thống cây trồng để tăng vụ, gối vụ, trồng xen để sử dụng tốt hơn
tiềm năng về đất đai, khí hậu được nhiều tác giả đề cập đến như Ngô Thế Dân
(1982), Vũ Tuyên Hoàng (1987). Công trình nghiên cứu phân vùng sinh thái, hệ
thống giống lúa, hệ thống cây trồng vùng đồng bằng sông Hồng do GS. Đào Thế
Tuấn chủ trì và hệ thống cây trồng đồng bằng song Cửu long do GS. Nguyễn Văn
Luật chủ trì cũng đưa ra một số kết luận về phân vùng sinh thái và hướng áp dụng
những giống cây trồng trên những vùng sinh thái khác nhau nhằm khai thác sử dụng
đất mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Những năm gần đây, chương trình quy hoạch tổng thể vùng đồng bằng sông
Hồng đã nghiên cứu đề xuất dự án phát triển đa dạng hóa nông nghiệp đồng bằng
sông Hồng. Các đề tài nghiên cứu trong chương trình KN – 01 (1991- 1995) do bộ
Nông nghiệp và phát triển nông thôn chủ trì đã tiến hành nghiên cứu hệ thống cây

16



trồng trên các vùng sinh thái khác nhau như vùng núi và trung du phía Bắc, vùng
đồng bằng sông Cửu Long…..nhằm đánh giá hiệu quả của các hệ thống cây trồng
trên từng vùng đất đó.
Đề tài đánh giá hiệu quả một số mô hình đa dạng hóa cây trồng vùng đồng
bằng sông Hồng của Vũ Năng Dũng – 1997 [16] cho thấy, ở vùng này đã xuất hiện
nhiều mô hình luân canh 3 – 4 vụ/ năm đạt hiệu quả kinh tế cao. Đặc biệt ở các
vùng ven đô, vùng tưới tiêu chủ động đã có những điển hình về sử dụng đất đai đạt
hiệu quả kinh tế cao như cây ăn quả, hoa, thực phẩm cao cấp…
- Từ năm 1996 đến nay các chương trình đánh giá đất đai cho các
vùng sinh thái khác nhau, các tỉnh, các huyện trọng điểm đã được thực hiện.
Đó là công trình do Vũ Cao Thái, Phạm Quang Khánh, Nguyễn Văn Khiêm
chủ trì đã xác định được toàn tỉnh Đồng Nai có 15 đơn vị đất đai trên bản đồ
tỷ lệ 1/50.000 với 92 hệ thống đất chính và 165 hệ thống sử dụng đất chi tiết
[17]. Công trình “Đánh giá hiệu quả kinh tế của một số loại hình sử dụng đất
chính ở huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng” do Lê Thái Bạt, Nguyễn Thị
Dần, Luyện Hữu Cử, Phan Quốc Hưng [18] thực hiện năm 2003. Kết quả đã
xác định được huyện Trùng Khánh có 5 loại hình sử dụng đất chính, trong
đó loại hình cây lâu năm cho hiệu quả kinh tế cao nhất (thu nhập thuần đạt
được trên 10 triệu đồng/ha/năm). Ngoài ra còn nhiều công trình đánh giá đất
theo phương pháp phân hạng đất theo phương pháp phân hạng thích hợp cho
các dự án trồng các loại cây công nghiệp, cây ăn quả…ở nhiều địa phương
khác như của Đỗ Nguyên Hải, Đoàn Công Quỳ (2000), Thái Phiên (2000)
[19].
Xuất phát từ những yêu cầu sử dụng và quản lý tài nguyên đất, vấn đề
nghiên cứu đất đai trên cơ sở đánh giá khả năng sử dụng thích hợp đất đai ở
Việt Nam hiện nay là rất cần thiết. Các kết quả bước đầu của các công trình
nghiên cứu đánh giá đất đai thời gian qua với sự hỗ trợ và giúp đỡ tích cực


17


của các cơ quan Nhà nước và Quốc tế đã và đang góp phần đưa nền nông
nghiệp Việt Nam phát triển theo hướng sinh thái và phát triển bền vững [20].
Tóm lại, những nghiên cứu đánh giá đất ở tầm vĩ mô của nhiều tác giả đã có
những đóng góp to lớn trong việc hoàn thiện dần quy trình đánh giá đất ở Việt Nam
làm cơ sở cho những định hướng chiến lược về quy hoạch sử dụng đất toàn quốc và
các vùng sinh thái lớn.

18


PHẦN III ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1.Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu:
- Đất sản xuất nông nghiệp Thành phồ Hà Tĩnh – Tỉnh Hà Tĩnh.
- Các loại hình sử dụng đất nông nghiệp trong thành phố.
3.1.2. Phạm vi nghiên cứu:
Toàn bộ diện tích đất sản xuất nông nghiệp thành phố Hà Tĩnh.
3.2. Nô ̣i dung nghiên cƣ́u:
- Đánh giá điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội có liên quan đến sử dụng đất
đai và sản xuất nông nghiệp.
- Hiện trạng sử dụng đất sản xuất nông nghiệp
- Đánh giá hiệu quả các loại hình sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn
Thành phố
- Đề xuất các kiểu sử dụng đất có triển vọng và một số vùng thâm canh tập
trung.
3.3. Phƣơng pháp nghiên cƣ́u:

3.3.1. Phương pháp thu thập số liê ̣u:
* Điề u tra, thu thâ ̣p số liê ̣u sơ cấ p:
- Điề u tra phỏng vấ n nông hô ̣ (PRA) theo mẫu phiế u điề u tra.
- Điề u tra bổ sung ngoài thực điạ : khả năng tưới tiêu , tình hình sản xuất
thực tế ...
* Điề u tra thu thâ ̣p số liê ̣u thứ cấ p:
- Thu thâ ̣p các tài liê ̣u , số liê ̣u về tình hình sử du ̣ng đấ t và hiê ̣n tra ̣ng sử
dụng đất nông nghiê ̣p trên điạ bàn thành phố từ các sở , các phòng ban trong
Thành phố, thư viện, các nghiên cứu đã có trước đây……
3.3.2. Phương pháp tính hiệu quả của các loại hình sử dụng đất:

19


- Phương pháp đánh giá các chỉ tiêu kinh tế, xã hội và môi trường.
 Đánh giá hiệu quả về mặt kinh tế thông qua các chỉ tiêu:
+ Giá trị sản xuất (GTSX):
Giá trị sản xuất chính là lượng giá trị toàn bộ sản phẩm sản xuất ra
trong quá trin
̀ h sử du ̣ng đấ t trên

1 đơn vi diê
̣ ̣n tić h trong mô ̣t thời kì n hấ t

đinh
̣ (thường là 1 vụ hay 1 năm) và tính bằng sản lượng cây trồng trên 1 đơn
vị diện tích đó nhân với giá bán sản phẩm trên thị trường tại thời điểm điều
tra.
GTSX = Sản lượng x Giá bán một đơn vị sản phẩm
+ Chi phí trung gian (CPTG):

Chi phí trung gian là toàn bộ các khoản chi phí vật chất thường xuyên
bằ ng tiề n mà chủ thể bỏ ra để thuê và mua các yế u tố đầ u vào và dich
̣ vu ̣ sử
dụng trong quá trình sản xuất (giố ng, phân bón , thuốc BVTV, thuỷ lợi phí ,
chi phí khác).
+ Thu nhâ ̣p hỗn hợp (TNHH):
Thu nhâ ̣p hỗn hợp là giá trị sản phẩm được tạo ra trong thời kì sản
xuấ t đó, tính bằng hiệu số giữa tổng thu nhập và tổng chi phí.
TNT = GTSX - TCP
+ Giá trị ngày công lao động (GTNC):
GTNC = TNHH / số ngày công lao đô ̣ng
+ Hiê ̣u quả sử du ̣ng đồ ng vố n (HQĐV):
HQĐV = TNHH / CPTG
 Đánh giá hiê ̣u quả về mă ̣t xã hô ̣i thông qua các chỉ tiêu:
+ Vấn đề an ninh lương thực
+ Thu hút lao đô ̣ng, giải quyết công ăn việc làm cho người dân.
+ Mức độ chấ p nhâ ̣n của người dân trong việc sử dụng các LUT
+ Các chỉ số phát triển của địa phương liên quan đến sử dụng đất
 Đánh giá hiê ̣u quả về mă ̣t môi trường thông qua các chỉ tiêu:

20


+ Mức đô ̣ sử du ̣ng phân bón và thuố c bảo vê ̣ thực vâ ̣t
+ Khả năng hạn chế sự thoái hoá đất và bảo vệ môi trường của loại
hình sử dụng đất đó.
3.3.3. Phương pháp đánh giá các loaị hình sử dụng đấ t:
Thực hiê ̣n phương pháp đá nh giá hiê ̣u quả các loa ̣i hiǹ h sử du ̣ng đấ t
theo FAO.
3.3.4. Phương pháp chuyên gia:

- Tham khảo ý kiến của các chuyên gia, cán bộ lãnh đạo phòng nông nghiệp
và phát triển nông thôn….về vấn đề sử dụng đất.

21


PHẦN IV KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Điều kiện tự nhiên
4.1.1.Vị trí địa lý
Thành phố Hà Tĩnh là trung tâm chính trị, kinh tế và văn hoá của tỉnh
Hà Tĩnh. Thành phố nằm ở toạ độ 18024’vĩ độ Bắc, 105056’ kinh độ Đông,
cách Thủ đô Hà Nội 360 km và cách thành phố Vinh 50 km về phía Bắc theo
Quốc lộ 1.
Phía Bắc giáp huyện Thạch Hà và huyện Lộc Hà;
Phía Nam giáp huyện Cẩm Xuyên;
Phía Đông giáp huyện Thạch Hà;
Phía Tây giáp huyện Thạch Hà.
4.1.2. Địa hình
Thành phố Hà Tĩnh nằm trong vùng đồng bằng ven biển miền Trung ,
điạ hin
̀ h tương đố i bằ ng phẳ ng , cao đô ̣ nề n biế n thiên từ +0,5m đế n +3,0m.
Tuy nhiên, do quá trình hình thành đất đã tạo ra những cánh đồng cao thấp
không nghiêng theo một chiều. Mặt khác do quá trình đô thị hoá nhanh
chóng, nhiều diện tích đất sản xuất nông nghiệp được chuyển đổi sang phi
nông nghiệp, xây dựng các khu đô thị, nhà xưởng đã làm cho đất sản xuất
nông nghiệp manh mún ảnh hưởng đến việc đầu tư xây dựng công trình thuỷ
lợi, kiên cố hoá kênh mương, tưới tiêu nước phục vụ thâm canh cây trồng,
mặt nước nuôi trồng thuỷ sản. Bên cạnh đó cũng gây trở ngại cho việc tạo ra
một khu vực đủ lớn để triển khai tổ chức sản xuất ra khối lượng hàng hoá
tập trung phục vụ tiêu dùng tại thành phố và hoà chung vào nền kinh tế hàng

hoá trên địa bàn tỉnh, cả nước.
4.1.3. Khí hậu
Thành phố Hà Tĩnh nằm trong vùng khí hậu Bắc Trung Bộ, có hai
mùa rõ rệt là mùa lạnh khô kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 và mùa nóng ẩm
mưa nhiều từ tháng 5 đến tháng 10.
22


- Nhiệt độ không khí: Nhiệt độ trung bình năm là 23,80C; Nhiệt độ cao nhất
trung bình năm: 27,50C. Nhiệt độ thấp nhất trung bình năm: 21,30C. Nhiệt
độ tối cao tuyệt đối là:39,70C. Nhiệt độ thấp tuyệt đối:70C.
- Độ ẩm không khí: Độ ẩm tương đối bình quân năm 86%. Độ ẩm tương đối
bình quân tháng 85% - 93%.
- Nắng: Số giờ nắng trung bình trong các tháng mùa đông là: 93h; trong các
mùa hè là: 178h.
- Lượng bốc hơi: Lượng bốc hơi trung bình tháng cao nhất là: 131,18mm;
tháng thấp nhất là: 24,97mm; trung bình năm là: 66,64mm.
- Mưa: Lượng mưa trung bình năm là 2661mm; lượng mưa tháng lớn nhất
1450mm; lượng mưa ngày lớn nhất 657,2mm.
- Gió, bão: Hà Tĩnh thuộc vùng chịu ảnh hưởng của bão nhiều trong khu vực
miền Trung. Bão thường xuất hiện từ tháng 7 đến tháng 10. Có năm phải
chịu ảnh hưởng của 3 trận bão (1971), bão thường kéo theo giú mạnh, mưa
lớn gây ra lũ lụt. Tốc độ gió đạt 40m/s, gió mạnh nhất thường xuất hiện theo
hướng Bắc, Tây Bắc, Đông Nam. Hướng gió chủ đạo Tây Nam, Đông Bắc.
Gió Tây Nam khô nóng từ tháng 4 đến tháng 8 (nóng nhất vào tháng 6,7).
Đây là một trong những trở ngại lớn, ảnh hưởng đến sản xuất vụ Hè Thu.
Gió Đông Bắc từ tháng 11 đến tháng 3.
4.1.4. Chế độ thuỷ triều và thuỷ văn
* Chế độ thuỷ triều
Thành phố Hà Tĩnh nằm ở lưu vực của hai con sông là sông Rào Cái ở

phía Đông Bắc và sông Cày ở phía Tây Bắc. Hai sông này hợp lưu ở phía
Bắc của thành phố hợp thành sông Cửa Sót cách biển 8km. Các sông này
chịu ảnh hưởng trực tiếp chế độ thuỷ triều. Về mùa kiệt chủ yếu là dòng
triều. Về mùa lũ giao lưu giữa triều và lũ ở mức cao nhất +2,88m (P=1%).
Triều cường làm cho nhiễm mặn nước sông ảnh hưởng xấu đến sinh
hoạt hàng ngày và nước tưới cho cây trồng.

23


Mặc dù thành phố có hệ thống đê phòng hộ, toàn bộ thành phố vẫn
phải đối mặt với lũ lụt của sông Rào Cái với mức lũ cao nhất là 2,8m. Lưu
lượng dòng chảy chính của sông Rào Cái đo ở thượng nguồn cách thành phố
14km trung bình khoảng 13,6m3/s, mức thấp nhất là 0,2 m3/s và cao nhất 1,51
m3/s.
* Chế độ thuỷ văn
Việc tiêu thoát của thành phố Hà Tĩnh phụ thuộc vào chế độ thuỷ văn của
sông Rào Cái. Về mùa lũ thường có sự giao lưu giữa lũ và triều gây ra ngập
úng tại nội đồng trong thành phố.
Bảng 2. Mức lũ của sông Rào Cái
1

2

3

4

5


6

10

50

Hmax (m)

2,88

2,73

2,59

2,52

2,46

2,42

2,28

2,04

Hmin (m)

-1,39

-1,36


-1,35

-1,33

-1,32

-1,31

-1,29

-1,24

Chế độ dòng chảy của sông Rào Cái có hai mùa rõ rệt.
+ Dòng chảy mùa cạn từ (tháng 12 đến tháng 7) dòng chảy ổn định.
Khi có mưa tiểu mãn dòng chảy tăng lên khá nhiều vào tháng 5.
+ Dòng chảy mùa lũ thường từ tháng 8 đến 11 thường có biến động
lớn đạt bình quân 50% tổng lưu lượng cả năm.
4.1.5 Các nguồn tài nguyên
* Tài nguyên nước
Tài nguyên nước phục vụ sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt.
+ Nước ngầm: Theo số liệu điều tra khảo sát thủy văn tỉnh Hà Tĩnh không
đầy đủ, thì nguồn nước ngầm của tỉnh có 2 nguồn gốc, đó là nước khe nứt
(nước mạch) và ổ nước (nước lỗ hổng) trong lòng đất.
+ Nước mặt: Khu vực thành phố Hà Tĩnh có hệ thống sông khá dày, bao
gồm hệ thống sông Già, sông Kênh Cần hợp lưu với sông Nghèn tại xã Tùng
Lộc rồi đổ vào sông Đò Điệm tại Hộ Độ, sông Rào Cái ở phía nam đổ vào
sông Đồng Môn hợp lưu với sông Hộ Độ tại ngã ba Thạch Hạ rồi đổ vào
24



sông Cửa Sót. Như vậy, các sông thuộc vùng nghiên cứu đều là sông nội địa,
ngắn và chỉ đổ ra biển qua một cửa duy nhất là Cửa Sót, do đó về mùa mưa
mực nước sông dâng khá nhanh. Dòng chảy của các sông cao nhất vào tháng
9,10 (chiếm 60% dòng chảy cả năm) và thấp nhất vào tháng 4. Sự biến động
dòng chảy này làm tăng mức độ ảnh hưởng của thuỷ triều đối với sông Cửa
Sót, sông Rào Cái, sông Hộ Độ, sông Cày.
+ Nước biển: Vùng Hà Tĩnh đặc trưng bởi chế độ nhật triều không đều.
Hàng tháng có gần nửa số ngày có 2 lần nước lớn, 2 lần nước ròng trong
ngày. Vùng Cửa Sót thời gian triều cường thường chỉ 10 giờ nhưng thời gian
triều rút thường kéo dài 15-16 giờ. Biên độ triều trung bình 10 năm (19901999) ở trạm Thạch Đồng khoảng từ 19,86 cm (tháng 1) đến 30,93 cm
(tháng 7, 8). Chất lượng nước ven biển ở đây vẩn đảm bảo tính chất tự nhiên
vốn có. Nhiệt độ nước biển trung bình tháng dao động trong khoảng 180C
(tháng 12) đến 340C (tháng 7). Độ mặn nước biển 150/00 (tháng 9-tháng 10)340/00 (tháng 12 và tháng 1), độ pH là 8-8, 18, độ đục 20-30mg/lít, vùng hoà
tan (DO) 4,5-5,6mg/lít. Độ mặn của sông giảm dần từ sông Cửa Sót là 270/00
đến 200/00 sông Hộ Độ, sông Cày hạ xuống 190/00 và đạt mức thấp nhất 15160/00 và sông Rào Cái.
Hàm lượng phốt phát từ 2-3mg/m3 (tháng 4,5) đến 16 mg/m3 (tháng 8),
hàm lượng muối silic từ 446 đến 483 mg/m3 (tháng 2 đến tháng 5) đến 4291014mg/m3 (tháng 1). Hàm lượng dinh dưỡng tăng dần từ tầng mặt đến tầng
đáy từ ngoài khơi đến ven bờ, hàm lượng Nitơ đạt 190 đến 340 mg/m3, Fe tổng
số 100mg/m3. Nhìn chung nước biển không giàu chất dinh dưỡng nhưng đảm
bảo cho sự phát triển bình thường của sinh vật phù du. Bên cạnh đó, do hạn hán
và triều cường, đất ở một số vùng nông nghiệp trong vùng đã bị nhiễm mặn,
chủ yếu tập trung theo các con sông lớn như sông Rào Cái, sông Nghèn. Vì vậy
trong những năm gần đây người dân đã chuyển mục đích sang nuôi trồng thuỷ

25


×