Tải bản đầy đủ (.docx) (158 trang)

Luận văn hiện thực chiến tranh trong văn xuôi ở việt nam hiện đại qua ba tác phẩm tiêu biểu dấu chân người lính (nguyễn minh châu),đất trắng (nguyễn trọng oánh),nỗi buồn chiến tranh (bảo ninh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (629.97 KB, 158 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC
XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA
HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN ANH VŨ

HIỆN THỰC CHIÉN TRANH
TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
QUA BA TÁC PHẨM TIÊU BIỂU
DẤU CHÂN NGƯỜI LÍNH (NGUYỄN MINH CHÂU),
ĐẤT TRẮNG (NGUYỄN TRỌNG OÁNH),
NỖI BUỒN CHIẾN TRANH (BẢO NINH)

LUẬN ÁN TIÉN SĨ VĂN HỌC


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC
XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA
HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN ANH VŨ

HIỆN THỰC CHIÉN TRANH
TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
QUA BA TÁC PHẨM TIÊU BIỂU
DẤU CHÂN NGƯỜI LÍNH (NGUYỄN MINH CHÂU),
ĐẤT TRẮNG (NGUYỄN TRỌNG OÁNH),
NỖI BUỒN CHIẾN TRANH (BẢO NINH)

LUẬN ÁN TIÉN SĨ VĂN HỌC


Chuyên ngành: Lý luận văn
học Mã số:
62.22.01.20


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các tài liệu, những kết luận, nhận định trong luận án
là trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ công trình một công trình nào khác.
Hà Nội, ngày 06 tháng 6 năm 2016
Tác giả luận án

Nguyễn Anh Vũ
MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài

.

Trong văn học nhân loại, chiến tranh là một đề tài lớn. Điều này có thể xem như một tất yếu bởi để phản ánh

một cách chân thực và sinh động nhất hiện thực cuộc sống, cuộc đấu tranh sinh tồn trong những hoàn cảnh lịch sử đặc biệt
quan trọng của mỗi quốc gia và của cả loài người, chiến tranh là một đề tài thường trực có ý nghĩa trung tâm không thể thay
thế. Soi chiếu vào lịch sử văn học của cả phương Đông và phương Tây, ta có thể thấy sự hiện diện đậm nét và chi phối
mạnh mẽ của siêu đề tài này với hàng loạt những tác phẩm có giá trị. Văn học phương Tây với rất nhiều những tác giả, tác

phẩm tiêu biểu đã để lại cho nhân loại những kiệt tác có thể coi là đã đạt đến đỉnh cao của văn học về đề tài chiến tranh như
Chiến tranh và hòa bình của Lep Tônxtôi, Sông Đông êm đềm của Sôlôkhốp, Mặt trận phía Tây vẫn yên tĩnh, Một thời để


yêu, Một thời để chết, Đêm Lisbone, Ba người bạn, Khải hoàn môn... của E.M. Remarque. Văn học phương Đông cũng
không hề thua kém về thành tựu của mảng đề tài hiện thực chiến tranh với những pho tiều thuyết chương hồi nổi tiếng có

quy mô phản ánh hết sức rộng lớn, đồ sộ và hoành tráng như Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, Thủy hử của Thi
Nại Am trong văn học Trung Quốc.

.

Trong bối cảnh đó, văn học Việt Nam với tư cách là một bộ phận vận động đương nhiên không thể nằm ngoài

quỹ đạo của văn học nhân loại. Ngoài ra, văn học Việt Nam còn gánh vác một sứ mệnh cao cả và vô cùng quan trọng, đó là
nhiệm vụ phải luôn song hành với với lịch sử dân tộc, với vận mệnh đất nước và gắn liền với những cuộc chiến tranh vệ

quốc vĩ đại. Chiến tranh đã, đang và sẽ còn rất lâu nữa vẫn là một đề tài lớn của văn học Việt Nam, là nguồn mạch, cảm
hứng bất tận cho nhiều thế hệ nhà văn tìm tòi, thể nghiệm. Đó cũng là một hiện tượng rất dễ lý giải, bởi chỉ tính riêng trong
thế kỷ XX vừa qua, dân tộc Việt Nam đã có ngót bốn mươi năm sống trong không khí của chiến tranh bom đạn. Nhìn xa
hơn nữa về quá khứ, chúng ta hẳn vẫn chưa quên một nghìn năm dân tộc Việt Nam bị phong kiến phương Bắc đô hộ, gần
một thế kỷ dưới ách cai trị của thực dân Pháp... Không gì khác, chính văn học là tấm gương phản ánh một cách chân thực,
sinh động nhất cuộc chiến đấu hào hùng đánh đuổi giặc ngoại xâm và bảo vệ bờ cõi của dân tộc Việt Nam. Đề tài chiến

tranh trong văn học Việt Nam hình thành và phát triển như một sự tất yếu, trưởng thành qua từng giai đoạn, thời kỳ của lịch
sử và văn học dân tộc.
Tuy nhiên, ở từng giai đoạn, mỗi chặng đường, đề tài chiến tranh lại được khai thác, tiếp cận và phản ánh ở nhiều
góc độ theo những cảm hứng khác nhau. Ba mươi năm kháng chiến trường kỳ với hai cuộc kháng chiến chống Pháp và
chống Mỹ đã đem lại cho dân tộc Việt Nam độc lập tự do và đồng thời đem lại cho văn học Việt Nam một nền văn học hiện


đại viết về chiến tranh tương đối đồ sộ. Văn học giai đoạn 1945- 1975 là giai đoạn văn học mang âm hưởng sử thi, với cảm
hứng chủ đạo là ngợi ca mà khi tiếp cận người ta thấy tầng tầng lớp lớp những sự kiện lịch sử, những chiến công hiển hách,
những chí khí oai hùng. Ở đó, có thể do yêu cầu của lịch sử, những gì thuộc về con người thân phận dường như chưa được

đề cập đến, cũng có thể là né tránh, hoặc nếu có cũng chỉ lướt qua, khá mờ nhạt, chưa định hình, rõ nét.
Một đất nước có chiến tranh, những người cầm bút sống và xúc cảm cùng chiến tranh, nhìn và viết về chiến tranh
đương nhiên sẽ có một dòng văn học viết về chiến tranh. Tuy nhiến viết về chiến tranh, cảm nhận về chiến tranh khi cuộc
chiến đã lùi vào quá khứ hay việc phản ánh về cuộc sống và con người thời hậu chiến khi người viết đã có một “độ lùi” cần
thiết lại là vấn đề hoàn toàn khác. Văn học sau năm 1975 đã chuyển sang một diện mạo mới, có thể gọi đó là giai đoạn văn
học mang cảm hứng thế sự, đời tư. Nếu trong chiến tranh, văn học viết về đề tài chiến tranh ít nói đến mất mát hy sinh, ít

nói về buồn vui của cuộc sống thường nhật, ít quan tâm đến số phận con người thì những tác phẩm viết về đề tài này sau
chiến tranh đã có xu hướng viết về sự thật của đời sống, viết về sự ác liệt, gian khổ, thậm chí cả những sai lầm, vấp ngã của
người lính trước những cám dỗ thường nhât. Cuộc sống thời hậu chiến bộn bề phức tạp làm thay đổi hệ quan niệm nghệ
thuật về đời sống xã hội và con người đòi hỏi các nhà văn phải có những sự cách tân mạnh mẽ về nội dung cũng như hình
thức để tạo dấu ấn, phong cách riêng. Sau chiến tranh, với một độ lùi cần thiết, những tiểu thuyết viết về chiến tranh giai
đoạn này đã dần chuyển sang một âm điệu mới, không chỉ có hào hùng mà còn có cả bi tráng, không chỉ ở chiến trường mà
cả ở hậu phương, bên cạnh những con người anh hùng còn có những con người mang số phận bi kịch, thất cơ lỡ vận...
1.3. Ba cuốn tiểu thuyết: Dấu chân người lính (Nguyễn Minh Châu), Đất trắng (Nguyễn Trọng Oánh), Nỗi buồn
chiến tranh (Bảo Ninh) có thể coi là ba tác phẩm xuất sắc, tiêu biểu, đánh dấu những mốc quan trọng trong quá trình vận
động của tiểu thuyết viết về đề tài chiến tranh trong văn học Việt Nam sau 1945. Dấu chân người lính là tác phẩm tiêu biểu
cho tiểu thuyết sử thi trong văn học cách mạng (1945 - 1975). Đất trắng tiêu biểu cho tiểu thuyết viết về đề tài chiến tranh
giai đoạn mười năm đầu sau giải phóng, từng được giải thưởng của Bộ Quốc phòng năm 1984 và Giải A của Hội Nhà văn
Việt Nam năm 1986. Nỗi buồn chiến tranh được đánh giá là một tác phẩm đặc sắc với nhiều ý tưởng cách tân, tiêu biểu cho
tiểu thuyết Việt Nam sau Đổi mới (1986), từng được Hội Nhà văn Việt Nam trao tặng giải Nhất về tiểu thuyết năm 1991.
Cùng viết về đề tài chiến tranh, song cái nhìn nghệ thuật và hiện thực chiến tranh trong mỗi tác phẩm lại có những cách tiếp
cận, phản ánh và thể hiện khác nhau. Đó có thể xem là quy luật vận động sự đổi thay, phát triển tất yếu của văn học. Dẫu
cảm hứng sử thi đang ngày càng phai nhạt, song tự trong sâu thẳm ký ức dân tộc, chiến tranh vẫn là một bộ phận chính yếu
trong đời sống văn học, đề tài chiến tranh vẫn là một đề tài lớn chưa thể thay thế và hứa hẹn nhiều bất ngờ trong tương lai.
Xuất phát từ lý do đó, chúng tôi chọn đề tài “Hiện thực chiến tranh trong văn xuôi Việt Nam hiện đại qua ba tác phẩm tiêu


biểu: Dấu chân người lính (Nguyễn Minh Châu), Đất trắng (Nguyễn Trọng Oánh), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh)” cho
luận án Tiến sĩ của mình với mục đích làm rõ diện mạo, khuynh hướng, giá trị hiện thực cũng như những cách tân về thi

pháp trong ba tác phẩm tiêu biểu nhất của văn xuôi Việt Nam hiện đại viết về chiến tranh chống Mỹ.
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là vấn đề hiện thực chiến tranh trong văn xuôi Việt Nam hiện đại. Xác định đối
tượng nghiên cứu như vậy, đề tài của chúng tôi hướng tới cái nhìn tổng quan về vấn đề hiện thực chiến tranh bao hàm
phương thức phản ánh và giá trị hiện thực trong văn xuôi Việt Nam hiện đại thời chống Mỹ. Tuy nhiên, chúng tôi chỉ lựa

chọn nghiên cứu trường hợp là ba tác phẩm Dấu chân người lính, Đất trắng và Nỗi buồn chiến tranh để qua đó nhìn nhận
các bước vận động và phát triển của thể tài chiến tranh trong dòng chảy của văn xuôi Việt Nam nửa cuối thế kỷ XX. Lựa
chọn tiểu thuyết thay vì truyện ngắn đại diện cho văn xuôi vì chúng tôi cho rằng, tiểu thuyết là thể loại nòng cốt, tiêu biểu
hơn cho những biến động trong đời sống của một nền văn học.
Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận án là ba tiểu thuyết Dấu chân người lính (1972), Đất trắng (1979; 1984), Nỗi buồn
chiến tranh (1990). Bên cạnh đó, chúng tôi cũng tiến hành khảo sát những tiểu thuyết, truyện ngắn, tiểu luận và trả lời
phỏng vấn của ba tác giả Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Trọng Oánh, Bảo Ninh để hỗ trợ cho quá trình nghiên cứu.
Ngoài ra, để có cái nhìn tổng quan, những tiểu thuyết của những tác giả khác viết về đề tài chiến tranh trước và sau
1975 cũng là những tư liệu tham khảo hữu ích cho tác giả trong việc triển khai luận án.
Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khái quát diện mạo, khuynh hướng của tiểu thuyết về đề tài chiến tranh trong văn xuôi hiện đại Việt Nam, chỉ ra
những ảnh hưởng, tác động từ môi trường sinh thái, lịch sử văn hóa... chi phối đến sự phản ánh hiện thực chiến tranh trong
từng tác phẩm.

Luận án thông qua ba tác phẩm cụ thể là Dấu chân người lính, Đất trắng và Nỗi buồn chiến tranh để phân tích, lý giải sự
vận động, những tiếp biến và đổi thay để hướng tới cái mới và cái khác trong hành trình sáng tạo của các nhà văn trước
cùng một đề tài.
Luận án tìm hiểu những đặc trưng thi pháp của các tiểu thuyết này để thấy được sự vận động và những cách tân thể loại
trong cách thức tái tạo hiện thực chiến tranh.


Từ đó, luận án khẳng định vai trò, vị trí và những đóng góp của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Trọng Oánh và Bảo Ninh vào
thành tựu của văn xuôi chiến tranh cùng tiến trình hiện đại hóa tiểu thuyết Việt Nam hiện đại và đương đại.

Phương pháp nghiên cứu

Để tìm hiểu hiện thực chiến tranh trong văn xuôi Việt Nam hiện đại qua ba tác phẩm Dấu chân người lính (Nguyễn
Minh Châu), Đất trắng (Nguyễn Trọng Oánh), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), chúng tôi sử dụng nhiều phương pháp và
cách tiếp cận khác nhau để có thể soi chiếu đối tượng từ nhiều góc độ. Phương pháp chủ đạo được sử dụng xuyên suốt luận
án là phương pháp tiếp cận hệ thống. Như Khravechenco đã chỉ ra thì một đặc điểm quan trọng của phương pháp phân tích
hệ thống là việc khám phá những liên hệ bên trong của một tổng thể nhất định các hiện tượng, các liên hệ của từng thành tố
trong các hiện tượng xã hội khác nhau, là sự nghiên cứu thống nhất về cấu trúc của chúng, ở đó luôn phải xem xét mỗi
thành tố trong mối liên hệ phối thuộc lẫn nhau không thể tách biệt.
Bên cạnh đó, chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu loại hình và cấu trúc loại hình để giải mã cấu trúc của

loại hình tác phẩm văn học viết về chiến tranh. Chúng tôi cũng sử dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp khi lựa chọn
tác phẩm cụ thể để tìm hiểu hiện thực chiến tranh trong văn xuôi Việt Nam hiện đại, từ những trường hợp cụ thể có ý nghĩa
tiêu biểu cho từng giai đoạn để khái quát được những vấn đề mang tính hệ thống.
Ở từng vấn đề, chúng tôi kết hợp các phương pháp và các cách tiếp cận:
Phương pháp so sánh lịch sử: Khi nghiên cứu mối quan hệ giữa đời sống thể loại với cơ sở xã hội mà nó phát sinh và phát
triển, sự tác động của xã hội tới tiến trình phát triển của thể loại.
Phương pháp tiếp cận thi pháp học: Khi muốn nghiên cứu về sự tiến hóa của các phương thức, phương tiện chiếm lĩnh thế
giới bằng hình tượng, sự hoạt động chức năng xã hội- thẩm mỹ của chúng, nghiên cứu số phận của các khám phá nghệ
thuật.
Phương pháp phân tích tác phẩm: Khi muốn tìm hiểu các yếu tố của văn bản tác phẩm thông qua việc phục nguyên lại đời
sống văn hóa của một thời đại nhất định, dùng nó để lý giải các vấn đề văn học, đặc biệt là các quan niệm về văn học và
sáng tác văn chương.
Phương pháp nghiên cứu loại thể: là một đề tài nghiên cứu về thể loại văn học, đây là phương pháp quan trọng để chúng tôi
tìm ra những đặc trưng về mặt thi pháp của thể loại.
Ngoài ra, chúng tôi vận dụng các thao tác thông thường như: phân tích, đối chiếu, thống kê, phân loại, mô hình hóa,
khảo sát văn bản...


Đóng góp của luận án

Luận án cung cấp cái nhìn hệ thống về vấn đề hiện thực chiến tranh trong văn học Việt Nam 1945 đến hết thế kỷ XX.

Luận án với ba tác phẩm cụ thể Dấu chân người lính, Đất trắng và Nỗi buồn chiến tranh đã nhìn nhận sự vận động của vấn
đề hiện thực chiến tranh, lý giải nguyên nhân cũng như kết quả của những biến đổi từ nhiều góc độ, hướng tới việc khẳng
định các giá trị bền vững thông qua các hiện tượng tiêu biểu đã lựa chọn.
- Luận án lý giải sự vận động và phát triển của vấn đề hiện thực chiến tranh song hành cùng quá trình hiện đại hóa
tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.

7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung chính của luận án được triển khai thành bốn chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Sự vận động của đề tài chiến tranh trong tiểu thuyết Việt Nam hiện đại từ 1945 đến cuối thế kỷ XX
Chương 3: Các góc tiếp cận hiện thực chiến tranh trong ba tiểu thuyết Dấu
chân người lính, Đất trắng và Nỗi buồn chiến tranh
Chương 4: Thi pháp tiểu thuyết chiến tranh qua Dấu chân người lính, Đất trắng và Nỗi buồn chiến tranh


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1.

Tình hình nghiên cứu về hiện thực chiến tranh trong văn xuôi những năm

chống Mỹ cứu nước và tiểu thuyết Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu

1.1.1.

Ngày 5 tháng 8 năm 1964 là một thời khắc quan trọng trong lịch sử dân tộc Việt

Nam khi bầu trời xuất hiện những tốp máy bay mang bom phá hoại và những tiếng súng chống

Mỹ đầu tiên nổ ra trên miền Bắc, cả nước lại bước vào một cuộc trường chinh mới gian khổ
nhưng vĩ đại. Lòng yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, ý thức tự tôn dân tộc, lòng quả
cảm, đức hi sinh, sức mạnh quật khởi của tinh thần đoàn kết dân tộc lại một lần nữa được tiếp
tục trỗi dậy mạnh mẽ. Hòa trong khí thế ấy, hàng triệu con tim thanh niên Việt Nam đã đi theo
tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, từ biệt gia đình, gác bút nghiên băng mình vào tuyến lửa.
Trong vô vàn những trái tim sôi sục đầy nhiệt huyết ấy có không ít chiến binh là những nhà
văn, bên cạnh nhiệm vụ cầm súng chiến đấu còn gánh vác một trọng trách cao cả, đó là cổ vũ,
động viên chiến sĩ bằng ngòi bút và trang văn của mình.
Chính bởi trọng trách thiêng liêng ấy mà trong những năm kháng chiến chống Mỹ, văn
học luôn xuất hiện ở vị trí mũi nhọn chiến đấu, luôn bám sát và phục vụ nhiệm vụ chính trị.
Những nhà văn đồng thời là những người lính, họ sống và chiến đấu ở tất cả các mặt trận, các
chiến dịch, họ viết bằng những cảm xúc hết sức chân thật và trẻ trung, hào hứng với mong
nuốn tái hiện thật chi tiết, đầy đủ những diễn biến của cuộc chiến. Chính vì vậy các tác phẩm
văn học nói chung và tiểu thuyết nói riêng giai đoạn này đều tập trung phản ánh, khắc họa
những diễn biến cực kỳ mau lẹ của cuộc kháng chiến, khoảng cách cố hữu giữa sự kiện lịch sử
và văn học được thu hẹp một cách tối đa.
Với một vai trò, chức năng gần như duy nhất, “trùng khít” như vậy, lẽ đương nhiên
tiểu thuyết chiến tranh của giai đoạn này đều tập trung phản ánh một phạm vi hiện
thực cách mạng rộng lớn với tầng tầng lớp lớp những sự kiện, với muôn vàn biến cố
lớn lao mang tầm vóc sử thi của đời sống dân tộc. Cảm hứng chủ đạo bao


trùm lên các tác phầm không thể có gì khác ngoài sự ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng,
khẳng định và biểu dương khí thế hừng hực niềm tin chiến thắng của quân và dân ta trên khắp
mọi miền Tổ quốc. Bên cạnh đó, tiểu thuyết chiến tranh thời kỳ này còn là những bản cáo trạng
đanh thép, lên án mạnh mẽ cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa, vạch rõ bộ mặt dã man, độc
ác, tàn bạo và hèn nhát của kẻ thù. Chính vì thế, nhiều tiểu thuyết giai đoạn này mang dáng dấp
của thể loại kí sự, nặng về “tả” và “kể”. Tuy nhiên, cũng phải ghi nhận một thành tựu nổi bật
nhất của tiểu thuyết chiến tranh giai đoạn này, đó là nghệ thuật xây dựng nhân vật- cụ thể là
những nhân vật được coi là điển hình. Thành tựu này thể hiện sự phát triển, mở rộng dung

lượng phản ánh khi lần đầu tiên nhân vật người lính chống Mỹ được đặt trong bối cảnh rộng
lớn của đất nước, gắn hậu phương với chiến trường, gắn số phận một người với nhiều người,
lớp già và lớp trẻ... Đó là thời điểm đáng nhớ của văn xuôi cách mạng khi hình tượng người
lính, người chiến sĩ giải phóng quân mang trên vai mình trọng trách lớn lao của lịch sử dân tộc
được khắc họa như những nhân vật chính của thời đại, ở vào vị trí trung tâm xoáy động của cả
một thời kỳ lịch sử mà không đơn thuần chỉ ở nơi chiến trường. Với kiểu nhân vật người lính,
các tác giả tiểu thuyết thời kỳ này đã xây dựng thành công nhiều hình tượng cá nhân điển hình,
bên cạnh những điển hình tập thể, những hình tượng nhân vật “đám đông”.
Bối cảnh lịch sử- xã hội, hiện thực cuộc sống chiến đấu đã trở thành mảnh đất màu mỡ
để văn học nói chung và tiểu thuyết chiến tranh nói riêng giai đoạn chống Mỹ cứu nước kế
thừa những thành quả có tính chất nền tảng, tiền đề của văn xuôi thời kỳ kháng chiến chống
Pháp 1945- 1954, tiếp tục phát triển và gặt hái được những thành tựu to lớn. Đã có rất nhiều
bài viết và công trình nghiên cứu về văn xuôi nói chung, tiểu thuyết nói riêng viết về chiến
tranh trong giai đoạn chống Mỹ cứu nước. Điều dễ nhận thấy nhất là hầu như tất cả các bài
viết, các công trình nghiên cứu đều thống nhất một quan điểm rằng, mảng văn xuôi nói chung
và văn xuôi viết về đề tài chiến tranh trước 1975 mang đậm tính chất sử thi và cảm hứng lãng
mạn; đã xây dựng được những hình tượng nhân vật anh hùng tiêu biểu cho thế hệ, cho dân tộc;
đã hoàn thành xuất sắc vai trò, chức năng của văn học thời kỳ này trong việc cổ vũ, động viên
tinh thần chiến đấu của bộ đội, nhân dân. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh đã khẳng định:
“Ra đời và phát triển trong không khí lịch sử đó, văn học giai đoạn 1945- 1975 là văn học của


những sự kiện lịch sử, của số phận toàn dân, của chủ nghĩa anh hùng. Nhân vật trung tâm của
nó là những con người đại diện cho giai cấp dân tộc, thời đại và kết tinh một cách chói lọi
những phẩm chất cao quý của cộng đồng” [140, tr. 61]. Đề cập đến nghệ thuật xây dựng nhân
vật với những cá nhân điển hình, Đinh Xuân Dũng nhận định: "chưa bao giờ trong văn học của
chúng ta lại xuất hiện nhiều đến thế những điển hình cao đẹp sáng ngời chất lý tưởng của con
người mới, con người anh hùng trong chiến tranh" và "mỗi điển hình văn học tích cực là một
đại diện chung cho cả một dân tộc hay một tầng lớp, một thế hệ những người cầm súng" [36, tr.
49]. Sau khi khảo sát một loạt tiểu thuyết mở đầu cho giai đoạn văn học mới (1945 - 1975),

cùng chung quan điểm và tinh thần ghi nhận ấy, nhà nghiên cứu Lê Thành Nghị đã khẳng định:
trong các tiểu thuyết này, "nhân vật anh hùng của cuộc kháng chiến hiện ra sau một bút pháp
vừa thực vừa ảo - một thứ "chủ nghĩa hiện thực" rắn rỏi mà mượt mà, tỉnh táo mà say mê trào
dâng sau ngọn bút" [140, tr. 166].
So sánh với tiểu thuyết chiến tranh giai đoạn kháng chiến chống Pháp, tiểu thuyết
chiến tranh thời chống Mỹ đã có những chuyển biến tích cực trên mọi phương diện, tuy nhiên
vẫn còn những hạn chế nhất định. Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra không ít những hạn chế của
văn xuôi viết về đề tài chiến tranh giai đoạn này. Đó là cách nhìn nhận một chiều: thuận lợi
nhiều hơn khó khăn, chiến thắng nhiều hơn thất bại, thành tích nhiều hơn tổn thất... cách phản
ánh hiện thực cuộc chiến, thể hiện con người và cuộc sống còn giản đơn, xuôi chiều, phiến
diện, công thức. Nhà nghiên cứu Lê Thành Nghị cho rằng: "Nhìn chung, vẫn thiếu một số phận
điển hình tiêu biểu trọn vẹn của một cuộc đời cụ thể. Hình như cả một giai đoạn, tiểu thuyết
nặng về ký họa các hình ảnh, gương mặt, chân dung mà thiếu đào sâu một cách hệ thống số
phận, tính cách, lịch sử của nhân vật" [140, tr. 169, 170]. Với một đúc kết mang tầm khái quát,
tác giả Trần Đình Sử đã có nhận định chân xác hơn rằng: “Văn học Việt Nam 40 năm qua chưa
có nhiều thành công về mặt hình tượng tính cách. Yếu tố cá tính chưa nổi bật, sự phân tích xã
hội, phân tích tâm lý chưa được phát triển đầy đặn. Còn ít có những hình tượng tầm cỡ cung
cấp một mẫu mực thuyết phục trọn vẹn về phương diện này” [141, tr. 93].

1.1.2.

Nguyễn Minh Châu (1930 - 1989) là một trong những nhà văn lớn của nền văn học

Việt Nam hiện đại nửa sau thế kỷ XX. Trong hơn ba mươi năm cầm bút, Nguyễn Minh Châu


đã để lại cho đời 13 tập văn xuôi và 1 tập tiểu luận phê bình. Có thể thấy: tác phẩm của
Nguyễn Minh Châu không quá đồ sộ nhưng đa dạng về thể loại, bao gồm cả truyện ngắn,
truyện vừa, tiểu thuyết, bút ký, phê bình... Đánh giá về Nguyễn Minh Châu, các nhà phê bình,
nghiên cứu từ trước đến nay đều thừa nhận những tác phẩm của ông đã phản ánh được khí thế

hào hùng và phẩm chất cao đẹp của con người Việt Nam trong chiến đấu. Bên cạnh đó, khi đất
nước chuyển mình từ đời sống bất thường của ngày có giặc sang đời sống bình thường, nhà
văn không còn là người phát ngôn “nhân danh kinh nghiệm cộng đồng” mà là “kinh nghiệm cá
nhân”, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện sâu sắc sự trăn trở và khát vọng thức tỉnh lương tâm
trong cảm hứng nhân văn mạnh mẽ. Đặc biệt, sau 1986, Nguyễn Minh Châu đã hiện diện và
được mệnh danh là một trong những người tiên phong, “tinh anh”, “tài năng” và đầy bản lĩnh
trong công cuộc đổi mới nói chung và văn học nói riêng.
Tiểu thuyết Dấu chân người lính là một trong những tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Minh
Châu và cũng là một trong những tác phẩm có vị trí quan trọng trong tiểu thuyết thể tài chiến
tranh của văn học cách mạng Việt Nam (1945- 1975). Tác phẩm đã đưa ông lên vị trí những
nhà văn hàng đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Dấu chân người lính viết về cuộc hành
quân, bao vây và tiêu diệt địch ở vùng đất Quảng Trị, kết quả của những lần đi theo bộ đội
tham gia chiến đấu ở các mặt trận Khe Sanh, Đường 9 Nam Lào của Nguyễn Minh Châu với tư
cách phóng viên tạp chí Văn nghệ Quân đội. Cuốn tiểu thuyết đã phản ánh hùng hồn và sinh
động khí thế sục sôi “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng
qua vẻ đẹp người lính chiến đấu vì độc lập tự do của dân tộc. Dấu chân người lính là sự kết
hợp hài hoà đến mức lý tưởng chất sử thi và chất tiểu thuyết. Ngay từ đầu, khi được trích đăng
trên tạp chí Văn nghệ Quân đội và sau khi xuất bản, tác phẩm này đã trở thành cuốn sách gối
đầu giường của thanh niên thế hệ những thập niên 70 thế kỷ XX. Theo nhà nghiên cứu Phan
Cự Đệ: “Cuốn tiểu thuyết đã miêu tả, với một sức hấp dẫn, cuộc trường chinh kỳ lạ trong lịch
sử chống ngoại xâm của dân tộc” [70, tr. 50]. Dấu chân người lính đánh dấu một chặng đường
quan trọng trên hành trình văn chương của Nguyễn Minh Châu đồng thời mở ra một thời kỳ
phát triển của dòng văn học chiến tranh cách mạng Việt Nam.
Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu ra đời vào năm 1972, giai đoạn khốc liệt


nhất của cuộc kháng chiến, được mệnh danh là “bài ca người lính”, bản anh hùng ca của chủ
nghĩa anh hùng cách mạng cũng không nằm ngoài âm hưởng đó. Có thể thấy chất sử thi và anh
hùng ca vẫn là cảm hứng chủ đạo của tác phẩm này. Người đọc như đắm mình trong cuộc
chiến với khung cảnh rộng lớn và hào hùng của hành trình “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”

của các binh đoàn chủ lực, rồi những chiến dịch Khe Sanh - Tà Cơn long trời lở đất với những
trận đánh ác liệt trên vùng đất Quảng Trị- địa đầu giới tuyến. Tuy nhiên với Dấu chân người
lính, Nguyễn Minh Châu đã có sự kết hợp giữa thể tài sử thi (lịch sử dân tộc) và thể tài tiểu
thuyết (thế sự, đời tư) để tạo nên cuốn tiểu thuyết có khả năng bao quát một hiện thực rộng lớn,
thế nhưng cái quyết liệt, hùng tráng của cuộc chiến đấu vẫn không át đi sắc thái trữ tình. Chất
anh hùng ca và trữ tình, chất thơ và văn xuôi đan chéo, chuyển hoá vào nhau đã dựng nên một
cuộc sống chiến đấu đầy khốc liệt, gian khổ nhưng vẫn không kém phần lãng mạn nên thơ. Và
cũng nhờ đó bức tranh hiện thực chiến tranh dường như đậm nét và sinh động hơn qua từng
trang sách. Có thể nói, với Dấu chân người lính, phong cách văn xuôi của Nguyễn Minh Châu
bước đầu được định hình, và điều quan trọng hơn đó là những dấu hiệu đổi mới trong tác phẩm
của ông đã manh nha cho một hướng tiếp cận đối với đề tài chiến tranh trở thành một trong
những sự lựa chọn của đa số những lớp nhà văn sau này.
Là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho nền văn học cách mạng Việt Nam (1945 1975), từ khi ra đời đến nay, tiểu thuyết Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu đã thu
hút được sự quan tâm, chú ý của nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu, nhà lý luận phê bình văn học
và theo đó cũng đã có khá nhiều bài viết và công trình nghiên cứu về tác phẩm này. Trung
Dũng trong bài viết Đọc Dấu chân người lính đã khẳng định đây là “một sáng tác văn học có
tính chiến đấu phản ánh một hiện thực cuộc sống còn đang nóng bỏng” [31]. Tiếp xúc với Dấu
chân người lính, Thiếu Mai nhận định: “Ở đây ta tiếp xúc với những người lính trẻ, ta được
tắm trong không khí hào hùng, lạc quan dệt bằng tinh thần dũng cảm và ý thức hy sinh cao cả”
[121]. Bên cạnh đó, hầu hết các bài viết và công trình nghiên cứu đều khẳng định thành công
nhất của Dấu chân người lính là việc đã xây dựng được tính cách điển hình trong hoàn cảnh
điển hình. Theo Phan Cự Đệ, “cuốn tiểu thuyết đã miêu tả, với một sức hấp dẫn, cuộc trường
chinh kì lạ trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc” [70, tr. 57]. Song Thành cũng cho rằng,


với Dấu chân người lính, "ngòi bút Nguyễn Minh Châu đã lột tả được vẻ đẹp tinh thần phong
phú và đằng sau những khuôn mặt phong trần ấy, anh đã làm ánh lên những nét hào hoa không
phải là không có sức hấp dẫn, vẫy gọi đối với bạn đọc thanh niên" [91, tr. 130]. Trần Trọng
Đăng Đàn tiếp tục khẳng định: "Với Dấu chân người lính, Nguyễn Minh Châu đã góp một
phần quan trọng vào việc đẩy những hình tượng người anh hùng cách mạng trong văn học lên

gần với những điển hình mà công chúng đang chờ đợi" [70, tr. 66]. Cùng chung quan điểm này,
nhà phê bình Ngô Thảo nhận định: Mặc dầu còn có những thiếu sót nhưng "thành công của
Nguyễn Minh Châu vẫn là cơ bản, vững vàng. Chính là trên những thành tựu đó mà với Dấu
chân người lính, Nguyễn Minh Châu đã đóng góp vào văn học chống Mĩ một tác phẩm xuất
sắc viết về người lính" [91, tr. 135].
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt được coi là thành công, các nhà nghiên cứu cũng đã
chỉ ra những hạn chế, thiếu sót nhất định trong Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu.
Hà Minh Đức cho rằng: "Thiên hướng khai thác của Nguyễn Minh Châu là thuận chiều và một
chiều. Tuy có những tổn thất hi sinh nhất định nhưng bộ mặt chiến trường còn thiếu cái ngổn
ngang quyết liệt, đau đớn (...). Bộ mặt kẻ thù cũng chưa được khắc họa rõ nét và thường miêu
tả từ xa" [70, tr. 64]. Theo Phan Cự Đệ: “tác phẩm của anh chưa có những tư tưởng chủ đề lớn
quán xuyến toàn bộ cốt truyện và nhân vật. Chất liệu tốt nhưng khả năng tổ chức, khái quát
hóa còn yếu” [70, tr. 57]. Cụ thể hơn, Vương Trí Nhàn chỉ rõ: "Ngay từ những mặt này- mặt
bút pháp, bố cục, nói chung là những yếu tố hình thức, Dấu chân người lính đã có gì đó không
đều tay, toàn bộ không trọn vẹn, bởi các yếu tố không thật hòa hợp. Từng mảng đậm nhạt
không đều. Không đều về hình khối bên ngoài cũng như về cấu trúc bên trong. Nhân vật đứt
nối tùy tiện. Một đôi chỗ, thấy những "vết hàn" khá rõ" [91, tr. 143].

1.2.

Tình hình nghiên cứu về hiện thực chiến tranh trong văn xuôi sau 1975 và

hai tiểu thuyết Đất trắng của Nguyễn Trọng Oánh, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh
1.2.1. Như đã trình bày ở trên, văn học Việt Nam sau 1975 đã chuyển sang một diện
mạo mới, đó là chặng đường của tiến trình hội nhập và đổi mới. Đời sống văn học thời kỳ này
ghi dấu sự bùng nổ đồng thời gặt hái được nhiều thành công cả về lượng lẫn về chất của mảng
văn xuôi và trở thành đối tượng được nhiều người quan tâm nghiên cứu. Trong đó, một lần nữa


mảng đề tài về chiến tranh của văn xuôi nói chung và tiểu thuyết nói riêng lại vẫn thu hút được

sự quan tâm nhất. Đây cũng là điều dễ lý giải bởi chiến tranh đã không còn mang ý nghĩa đề tài
một cách thuần túy mà nó đã ăn sâu vào đời sống con người và thực sự là một phần máu thịt
của dân tộc suốt một thời gian dài. Tác giả Đinh Xuân Dũng đã có nhận xét có sức khái quát về
vấn đề này: “Đề tài chiến tranh trong văn học Việt Nam có độ dài ngang với chính độ dài của
lịch sử văn học dân tộc. Nếu tính từ truyền thuyết
Thánh Gióng, chúng ta có thể nghĩ rằng, đề tài chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc là
nguồn chủ lực, là nguồn mạch phong phú nhất, không bao giờ vơi của văn học Việt Nam từ khi
hình thành đến nay” [36]. Khi đất nước có chiến tranh, cuộc sống và con người sẽ chịu sự chi
phối của quy luật chiến tranh là một điều tất yếu. Tuy nhiên, sau 1975, khi đất nước đã hoàn
toàn độc lập, văn học sáng tạo trong hòa bình, đời sống và con người trở về với quy luật bình
thường của cuộc sống thì vấn đề đặt ra ở đây là văn học nói chung, tiểu thuyết nói riêng thời
hậu chiến viết về cuộc chiến có gì thay đổi, nhận diện quá khứ có gì khác trước? Đây chính là
sự biểu thị rõ rệt nhất những đổi mới và trưởng thành trong quan niệm thẩm mỹ, tư duy nghệ
thuật cũng như những cách tân trong thi pháp thể loại của các nhà văn. Hòa chung xu thế đó,
tiểu thuyết về đề tài chiến tranh và người lính cũng không nằm ngoài lộ trình vận động chung
đó của văn xuôi sau 1975.
Sau khi đánh giá, phân tích những phương diện cơ bản, thể hiện quy luật phát triển của
văn học, phần lớn các ý kiến nghiên cứu phê bình đều khẳng định đã xuất hiện một số thành
tựu cách tân trong văn xuôi Việt Nam sau 1975. Hà Xuân Trường nhận định: “có sự đổi mới
thực sự trong văn học”, “dư luận rộng rãi tập trung đánh giá mặt tích cực của văn học, chủ yếu
là văn xuôi trong những năm gần đây. Chính mặt tích cực đó đại diện cho sự đổi mới của văn
học” (Trả lời PV Lễ tưởng niệm và hội thảo về Nguyễn Minh Châu, Văn nghệ Quân đội số
3/1994). Theo nhà văn Nguyên Ngọc: “Tình hình sáng tác văn học hiện nay theo tôi có hai
mặt: một mặt, mặt chính là rất tốt. Sáng tác văn học của chúng ta đang hay dần lên. Hình như
sáng tác về đại thể đang chuyển lên một bình diện mới cao hơn, sâu sắc hơn, văn học hơn,
người hơn. Tính xã hội rất mạnh mẽ, nhiều khi đến gay gắt, tính nhân văn ngày càng sâu,
không dễ dãi” [127]. Nhà văn Nguyễn Quang Thân vô cùng hứng khởi: “Chưa bao giờ văn


xuôi phát triển mạnh như bây giờ... chưa bao giờ nhà văn được thành thật như bây giờ” [69].

Nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến đã tỏ ra hào hứng khi đánh giá về văn học từ 1975 đến
1990: “Điều đặc biệt quan trọng là trong mười lăm năm qua, kinh nghiệm văn học của người
sáng tác cũng như công chúng văn học là một sự kinh nghiệm bừng tỉnh, rõ ràng là có một sự
thay đổi trong thị hiếu và nhu cầu văn học” [65]. Cũng vẫn là ý kiến của nhà văn Nguyên Ngọc
về đề tài chiến tranh, trong báo cáo Đôi nét về tình hình văn học và công việc của những người
cầm bút Việt Nam trong thời gian qua tại Hội nghị lần thứ 19 những người lãnh đạo các hội
nhà văn các nước xã hội chủ nghĩa tại Hà Nội ngày 11, 12/3/1983 đã nhấn mạnh rằng: “Có thể
thấy, một đặc điểm rõ rệt ở những tác phẩm viết về đề tài đó xuất hiện mấy năm gần đây, ấy là
xu hướng dựng lên những bức tranh toàn cảnh bao quát một không gian hay một thời điểm
quan trọng nhất của chiến tranh hoặc cũng có khi cả một thế hệ đã cống hiến phần chủ yếu nhất
của cuộc đời mình cho cuộc chiến đấu mất còn của dân tộc. Cũng có những tác giả, ngược lại,
không triển khai tác phẩm của mình theo chiều rộng mà chú trọng khai thác theo chiều sâu,
trong khi miêu tả tập trung một sự kiện thoáng trông không có gì to tát, vang dội thì tìm hiểu
sự xung đột và chuyển hóa của các giai cấp và tầng lớp xã hội, trong những chấn động xã hội
ấy diễn ra cuộc vật lộn căng thẳng của con người về tư tưởng và đạo đức. Và dù là một bức
tranh toàn cảnh hay đột phá vào chỉ một điểm tập trung, thì ở đây nhà văn đều muốn cuộc
chiến đấu đã qua mà tìm lấy và nhắn nhủ một điều tâm huyết, một bài học nào đấy về đạo đức,
về trách nhiệm, về ý nghĩa sự sống và cống hiến của con người hôm nay... ” [126]. Ý kiến này
của nhà văn Nguyên Ngọc đã cho thấy yêu cầu thay đổi là một lẽ tất yếu trong mối tương quan
giữa cách viết cũ và lối viết mới, và điều quan trọng hơn đó là sự manh nha của xu hướng nhận
thức lại hiện thực chiến tranh.
Đồng nhất quan điểm về một sự đổi mới cần thiết cho văn học Việt Nam viết về đề tài
chiến tranh cách mạng sau 1975, Phan Cự Đệ đã nhận định: “Bây giờ, sau khi cuộc kháng
chiến chống Mỹ đã kết thúc, trong những điều kiện mới, các nhà tiểu thuyết đang đặt vấn đề
nâng cao chất lượng hiện thực của những tác phẩm viết về chiến tranh” [42]. Cũng với vấn đề
này, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Long đã đề cập và diễn giải một cách chi tiết hơn khi cho
rằng: “Trong nhiều sáng tác gần đây, bên cạnh ý nghĩa lịch sử của cuộc chiến tranh, đã thấy gia


tăng sự chú ý của nhà văn đến việc trình bày con người trong biến diễn lịch sử. Nhiều tác phẩm

đã đặc biệt chú ý xây dựng những hoàn cảnh quyết liệt, đẩy xung đột phức tạp, đưa nhân vật
của mình vào những tình huống hết sức khó khăn, trình bày những diễn biến và số phận không
đơn giản của con người” [107].
Là người trực tiếp cầm bút hoạt động trong lĩnh vực sáng tác, nhà văn Hữu Mai đã
không ngần ngại chỉ ra những hạn chế, tồn tại của văn học viết về chiến tranh trước đây. Ông
cho rằng người viết hôm nay không được phép né tránh hiện thực, cần phải nhìn thẳng vào sự
thật để phản ánh khuôn mặt muôn hình muôn vẻ của hiện thực chiến tranh. Trong bài Viết về
đề tài chiến tranh giải phóng, nhà văn Hữu Mai đã nhận định: “Bình diện viết về chiến tranh
đã được mở rộng. Chúng ta đã có điều kiện đi vào nhiều vấn đề trước đây do những yêu cầu
của chiến thắng, của giai đoạn lịch sử còn chưa đề cập tới”; “Một tầm nhìn mới của nhà văn là
điều kiện không thể thiếu để đào sâu những vấn đề triết học, đạo đức nâng cao khả năng miêu
tả biện chứng những mặt khác nhau của hiện thực chiến tranh: anh hùng và hèn nhát, yêu
thương và căm thù, trung thành và phản bội, ý thức trách nhiệm và bản năng sợ chết của con
người, chiến thắng và những hy sinh, mất mát, cái đẹp và cái tàn phá, ác liệt của chiến tranh...
” [122]. Nguyễn Minh Châu- một nhà văn mà tên tuổi đã gắn liền với những thành công ở thể
loại tiểu thuyết sử thi trước 1975, cũng là người vô cùng nhạy bén với xu hướng đổi mới cách
tân và hết sức táo bạo với những thể nghiệm văn xuôi hiện đại. Trong bài viết Viết về chiến
tranh [21], bên cạnh những nhận định về đặc điểm cơ bản của văn học 1945- 1975 trong việc
khai thác hình tượng người lính và hiện thực chiến tranh, ông đồng thời chỉ ra những hạn chế
“một chiều, theo hướng tích cực, những mặt xấu được giấu đi trong trang sách” của văn học
viết về chiến tranh của giai đoạn này, Nguyễn Minh Châu đã đặt ra một vấn đề hết sức nhân
bản. Đó là vấn đề thể hiện “con người” trong văn học, ông kêu gọi những góc nhìn mới, chân
thực hơn về chiến tranh, khai thác đề tài chiến tranh dưới góc độ chiều sâu nhân văn, nhân bản.
Có thể nói, Nguyễn Minh Châu- “người mở đường tinh anh và tài năng”, là một trong những
nhà văn có công đầu trong thời điểm thay đổi mang tính bước ngoặt khi đặt ra vấn đề bức thiết,
đầy tính thời sự của nhu cầu đổi mới. Bài viết Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ
minh họa [20] là đỉnh điểm của sự bức xúc, gay gắt trong luận đề đổi mới của Nguyễn Minh


Châu với tư cách một nhà lý luận phê bình. Sự trở về nguyên lý: Văn học là nhân học là nhận

định của nhà văn Hồ Phương khi nhận xét về quá trình vận động của văn học viết về chiến
tranh sau 1975. Ông cho rằng văn học sau 1975 chủ yếu đi sâu khám phá và biểu hiện tâm hồn,
tính cách, sức sống của con người qua những số phận rất khác nhau trong muôn vàn sự kiện
xảy ra trong cuộc sống. “Để đi sâu vào số phận con người, không ít tác giả đã đi sâu viết về các
bi kịch cá nhân nằm trong bi kịch chung của dân tộc trong cuộc chiến. Qua những bi kịch ấy,
tính cách và bản ngã con người đã được bộc lộ rõ”, “càng đi sâu vào con người, văn học ta
càng gần tới bản chất cuộc sống, do đó tính nhân văn cũng cao hơn” [70]. Nhà văn Xuân Thiều
trong bài viết Mấy suy nghĩ về mảng văn học chiến tranh cách mạng [176] đã phân tích tương
đối bao quát và sâu sắc những vấn đề của văn học viết về đề tài chiến tranh trong tương quan
với văn học trước và sau 1975. Ông nhận định: “Nhân dân ta đã trải qua nửa thế kỷ chiến
tranh, nên sự biến động xã hội sẽ vô cùng lớn lao. Nó chi phối số phận từng con người, cả
trong chiến tranh và thời hậu chiến. Nó vẫn là một vấn đề lớn của con người Việt Nam không
chỉ trong qua khứ mà còn cả trong hiện tại và cả tương lai nữa”. Nhà văn Xuân Thiều cũng đã
vô cùng sâu sắc khi nhận xét về những tác phẩm của những tác giả đang cháy hết mình cho
công cuộc đổi mới: “Những tác phẩm viết về chiến tranh của họ đã khác trước kia, ngòi bút
của nhà văn đã dấn sâu đến tận cùng của hiện thực chiến tranh, đào sâu vào tính cách Việt
Nam, tâm hồn Việt Nam, phát hiện những vẻ đẹp khác nhau, tái hiện lại khuôn mặt chiến tranh
đúng như vốn có của nó”.
Một số vấn đề về sự thay đổi có tính chất bước ngoặt của văn xuôi sau 1975 đã được
đề cập cụ thể hơn trong một số bài viết của các nhà nghiên cứu: Bích Thu, Vũ Tuấn Anh, Tôn
Phương Lan... đã phân tích sự vận động đổi mới theo từng chặng và cho rằng văn học từ sau
1975 có thể chia thành hai giai đoạn; Từ 1975 đến 1986 văn học vẫn phát triển theo quán tính
cũ, đầu những năm 80 văn học đã có một số tín hiệu đổi mới nhưng phải từ 1986 trở đi văn học
mới khởi sắc và đổi mới ở nhiều lĩnh vực. Do có sự chuyển mình từ tư duy sử thi sang tư duy
tiểu thuyết; đề tài chiến tranh cách mạng, lịch sử và dân tộc dần dần nhường chỗ cho đề tài thế
sự- đời tư. Đó là quan điểm nhất quán được Bích Thu khẳng định trong bài viết của mình. Ở
bài Văn học đổi mới và phát triển [2], Vũ Tuấn Anh đã đưa ra nhận định tính chất dân chủ hóa


như một xu hướng vận động của văn học sau 1975 và chỉ ra rằng chủ nghĩa nhân đạo cộng sản

và chủ nghĩa yêu nước là những thước đo cơ bản nhằm đánh giá văn học suốt một thời gian dài
được vận dụng một cách uyển chuyển và mở rộng hơn, chủ nghĩa nhân văn cũng tạo ra một
động lực mạnh mẽ thúc đẩy những thể nghiệm nghệ thuật theo khuynh hướng dân chủ hóa. Ở
một tầng bậc khác, Tôn Phương Lan đã khái quát những vấn đề cần khai thác trong xu thế mới
viết về chiến tranh. Trong văn học trước 1975, hiện thực chiến tranh được khắc họa chưa thực
sự là hiện thực theo đúng nghĩa của nó, chiến tranh được nhìn nhận đơn giản, thuần túy một
chiều, một phía và mang đậm hào quang chiến thắng mà không hề phản ánh hết những hy sinh
mất mát, những khó khăn quyết liệt, những sai lầm, vấp váp. Trong bài viết Chiến tranh trong
các tác phẩm văn chương được giải, Tôn Phương Lan đã nhận xét: “Văn học viết về đề tài
chiến tranh trong những năm chiến tranh ít nói về buồn vui của cuộc sống thường nhật, ít nói
về những đau thương, mất mát, hy sinh trên chiến trường, ít quan tâm đến số phận con người
mà tập trung quan tâm đến số phận đất nước. Sau chiến tranh, văn học viết về đề tài này mới
có xu hướng viết về sự thật của đời sống, viết về những khó khăn, ác liệt, những sai lầm, vấp
ngã, thiếu sót của người lính trong chiến tranh cũng như trước sự cám dỗ của cuộc sống đời
thường” [92].
Khẳng định văn học sau 1975 đã, đang bước vào một chặng đường mới với nhiều
thành tựu đáng ghi nhận và sẽ còn hứa hẹn rất nhiều những sự đóng góp, khám phá mới là
quan điểm chung của rất nhiều nhà lý luận phê bình. Nhận xét về giai đoạn văn học 19751985, Hà Xuân Trường đã khẳng định: “Nền văn học của chúng ta đang vươn tới. Mười năm
qua là mười năm thử thách đối với bản chất xã hội chủ nghĩa của nền văn học nước ta”. Những
tác phẩm văn học bước đầu manh nha cho một dòng văn học đổi mới chính là minh chứng cho
sự vượt qua “mười năm thử thách” ấy. Phan Cự Đệ tin tưởng: “Văn xuôi chúng ta đang bước
vào một chặng đường mới với những thành tựu đáng phấn khởi. Nó đang tập trung giải quyết
hàng loạt vấn đề mới của chủ nghĩa xã hội trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ,
đồng thời trang trải món nợ tinh thần đối với hai cuộc chiến tranh vĩ đại của dân tộc. Văn xuôi
cũng đang có những tìm tòi, khám phá đáng kể, đáng khích lệ những đóng góp mới về mặt thể
loại và phong cách thể hiện”, (Mấy vấn đề lí luận văn xuôi hiện nay- Tạp chí Văn học, số 5-


1986). Trong Mấy ghi nhận về sự đổi mới của tư duy nghệ thuật và hình tượng con người
trong văn học ta thập kỷ qua, Trần Đình Sử đã tổng kết: “Nhìn chung có thể khẳng định được

là nền văn học nước ta thập kỉ vừa qua đánh dấu sự biến đổi đáng kể của tư duy văn học và
đang ở vào thời kỳ mới, thời kỳ hứa hẹn một sự khám phá và tái hiện hình tượng con người
nhiều mặt trong tất cả chiều sâu phong phú của nó”. Đinh Xuân Dũng đã có những phân tích
mang tính lý luận, khái quát khá toàn diện và sâu sắc sự thay đổi trong cảm nhận về chiến
tranh của các nhà văn ở một tâm thế mới: “Khuynh hướng chính của sự phát triển, mặc dầu trải
qua không ít khó khăn, nhiều nhà văn trong số những người nhiều năm viết về chiến tranh
trong chiến tranh, đã bứt lên, tự đổi mới chính mình, đặc biệt các nhà văn hình thành vào cuối
thời kỳ chống Mỹ, đã cho ra đời những tác phẩm thực sự đổi mới, đáp ứng nhu cầu xã hội và
minh chứng cho một nhu cầu xã hội không thể né tránh của mảng văn học viết về chiến tranh
sau chiến tranh. Đó là sự đào sâu mới, đó là khả năng phân tích bình giá và mổ xẻ hiện thực đa
chiều của chiến tranh, đó là sự phân tích mối quan hệ cực kỳ phức tạp giữa số phận từng con
người với biến cố chiến tranh, đó là năng lực khám phá và đặt ra những vấn đề nóng bỏng nhất
trong chiến tranh và sau chiến tranh do tác động dai dẳng của chiến tranh trong đời sống của
từng cá nhân và toàn xã hội” [33].

1.2.2.

Nguyễn Trọng Oánh (1929 - 1993) là một trong những cây bút trưởng thành và gắn

liền sự nghiệp sáng tác văn học của mình với đời sống quân ngũ và chiến trường. Ông mở đầu
hành trình văn chương bằng thể loại thơ tuy không nhiều và chủ yếu là sáng tác trong thời kỳ
trước 1975. Đóng góp lớn nhất của Nguyễn Trọng Oánh là bộ tiểu thuyết 2 tập Đất trắng (Tập
1, 1979; Tập 2, 1984). Tác phẩm là sự khắc hoạ hiện thực chiến trường vùng ven Sài Gòn sau
cuộc tổng tiến công và nổi dậy sau tết Mậu Thân 1968, thời điểm khốc liệt, cam go, đầy thử
thách của cuộc kháng chiến chống Mỹ, Trung đoàn 16 với nhiệm vụ tiếp tục tử thủ, chiến đấu
“một mất một còn” với kẻ thù quyết giành lại địa bàn, giành lại nhân dân dù chịu nhiều tổn
thất, hy sinh. Tác phẩm đã nhận Giải thưởng của Bộ Quốc phòng và Hội Nhà văn Việt Nam
năm 1984.
Có thể khẳng định, với Đất trắng, Nguyễn Trọng Oánh đã khai mở cho một sự đổi mới
cách nhìn, cách tiếp cận và phản ánh hiện thực chiến tranh. Bên cạnh việc tái tạo bộ mặt chiến



trường qua từng trận đối đầu khốc liệt, Nguyễn Trọng Oánh còn đi sâu khai thác “cuộc chiến”
trong lòng mỗi con người tham chiến ở tầng sâu nhân cách. Bộ tiểu thuyết đã lột tả trung thực,
đa chiều và toàn diện hiện thực cuộc chiến. Qua Đất trắng, hiện thực chiến tranh đã được tái
dựng, hiện hữu với tất cả sự tàn sát dữ dội, sự đau thương chất ngất, lòng dũng cảm kiên cường
và cả sự phản bội. Đó có thể xem là sự lựa chọn can đảm trong lối viết của Nguyễn Trọng
Oánh, đưa tác phẩm trở thành một sự kiện của mảng văn học viết về chiến tranh, thậm chí là
một “nghi án” trong đời sống văn học đương thời và đỉnh điểm là Đất trắng bị thu hồi ngay
chính trên quê hương tác giả. Tuy nhiên, sự vinh danh, vị thế Đất trắng trong dòng chảy của
văn học chiến tranh cách mạng và trong ký ức của cộng đồng tiếp nhận đã nói lên tất cả giá trị
của bộ tiểu thuyết để đời cho cả một sự nghiệp của Nguyễn Trọng Oánh.
Đất trắng của Nguyễn Trọng Oánh xuất hiện năm 1979- nghĩa là chỉ bốn năm sau ngày
đất nước hoàn toàn giải phóng- dường như đã gợi mở những suy nghĩ mới cho tiểu thuyết về
đề tài chiến tranh giai đoạn này. Hiện thực chiến tranh trong Đất trắng được tái hiện khá chân
thực và đầy đủ từ những khó khăn gian khổ cho đến những thương vong, mất mát hy sinh,
thậm chí là cả sự phản bội... Người đọc cảm nhận rõ nét hơn bao giờ hết sự dữ dội của cuộc
chiến đấu, sự thiệt hại nặng nề của quân đội ta và đặc biệt là cái giá của chiến công và chiến
thắng cuối cùng. Đất trắng vượt lên trên tất cả những tác phẩm viết về chiến tranh cùng thời
bởi cái nền hiện thực cực kỳ nghiệt ngã ấy.
Nhà phê bình Đặng Quốc Nhật đã nhận xét về Đất trắng: “Đất trắng gợi ra cho chúng
ta những suy nghĩ mới cho tiểu thuyết về đề tài chiến tranh lúc này. Ở đây người đọc thấy được
sự dữ dội của cuộc chiến đấu giữa ta và địch, những thiệt hại nặng nề của ta, những vùng đất
trắng, sự chịu đựng đến mức ghê gớm, cái giá của chiến thắng và chiến công cuối cùng”. Nhà
nghiên cứu Trần Duy Thanh ghi nhận: “Đất trắng nằm trong số tiểu thuyết viết về chiến tranh
xuất hiện sau chiến tranh đã có chặng đường dài một thập kỷ. Một thử thách với tác giả cũng
như nhiều cây bút khác là: yêu cầu của bạn đọc khắt khe hơn; không thể miêu tả chiến tranh
một cách dễ dãi, toàn những chuyện ngọt ngào, suôn sẻ. Và ai cũng thấy là tiểu thuyết với đề
tài chiến tranh sau 1975 đã có những khởi sắc”, [165].
Đánh giá về Đất trắng, Ngô Văn Phú đã coi đây là bộ tiểu thuyết viết về chủ đề chiến



tranh với những biểu hiện táo bạo và mới mẻ: “Đất trắng đã mở đầu cho lối viết mới, suy nghĩ
mới cho tiểu thuyết chiến tranh, sau ngày toàn thắng. Hiện thực chiến tranh được đề cập ở mức
độ quyết liệt, đến một thời điểm mà cuộc chiến đấu chính nghĩa của ta gặp khó khăn không
tưởng tượng nổi. và chính trong một không gian, thời gian cụ thể ấy, phẩm chất của con người
mới được tôi luyện, cái chân cái giả mới bộc lộ rõ ràng” [153, tr. 19]. Và có lẽ những tâm sự
của nhà văn Nguyễn Trọng Oánh về tiểu thuyết Đất trắng đã nói lên tất cả: “Tôi nói chuyện
với người hôm nay bằng câu chuyện của hôm qua. Nói về quá khứ một cách nghiêm túc và
trung thực thì không sợ không có điều gì để nói với hôm nay”.
vẫn ở mảng đề tài chiến tranh, văn học Việt Nam sau 1986 đã có những bước đột phá
ấn tượng. Đón nhận luồng không khí đổi mới của đất nước và thời đại các nhà văn trong giai
đoạn này đã có những góc nhìn, góc nghĩ, và phương cách thể hiện vừa mang đậm dấu ấn cá
nhân, vừa chất chứa tính nhân văn sâu sắc. Với họ đề tài chiến tranh không chỉ là sự giải tỏa
của ký ức trong quá khứ, nó phải gắn liền với cuộc sống muôn mặt để hướng tới đối thoại và
đồng cảm với những người cùng thời. Sự cách tân đó là hoàn toàn phù hợp với sự phát triển
của văn học cũng như nhu cầu đổi mới, khát vọng dân chủ trong xã hội, và có thể thấy rằng,
một hướng tiếp cận mới về hiện thực chiến tranh đã được hình thành. Chiến tranh đã được nhìn
sâu từ bản chất, hiện thực chiến tranh được khắc họa từ số phận cá nhân, chiến tranh được tái
dựng trong bối cảnh, yêu cầu của cuộc sống thời bình Và có lẽ sẽ không ai có thể phủ nhận
rằng tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh là đỉnh cao của dòng văn học viết về chiến
tranh thời kỳ đổi mới.
Bảo Ninh (1952) được xem là một trong những gương mặt tiêu biểu của văn học Việt
Nam thời kỳ đổi mới tuy bước vào nghiệp văn khá muộn và trầm lắng. Đã từng tham gia chiến
đấu ở chiến trường Tây Nguyên tại mặt trận B3, sau khi rời quân ngũ, Bảo Ninh đã tiếp tục học
tập và làm một công việc ít liên quan đến văn chương. Tuy nhiên, như một sắp đặt của số phận,
từ 1984 đến 1986, Bảo Ninh theo học trường viết văn Nguyễn Du và bắt đầu sự nghiệp bằng
những truyện ngắn. Tuy được đánh giá là một trong những cây bút “có duyên với truyện ngắn”,
nhưng phải sau sự ra đời của Nỗi buồn chiến tranh - cuốn tiểu thuyết đầu tay và duy nhất của
Bảo Ninh tính đến thời điểm hôm nay - tên tuổi của ông mới thực sự gây chú ý, được dư luận



trong và ngoài nước đặc biệt quan tâm.
Nỗi buồn chiến tranh là một tác phẩm có số phận khác thường. Trong lần xuất bản đầu
tiên năm 1990, cuốn sách ra mắt bạn đọc với tên gọi Thân phận của tình yêu, một cái tên đã
thu hẹp diện phản ánh và làm giảm nhiều ý nghĩa đặt ra từ tác phẩm. Được biết tiêu đề này do
Nhà xuất bản Hội Nhà văn đặt. Một năm sau đó, tác phẩm được tái bản với đúng tên gọi ban
đầu của tác giả: Nỗi buồn chiến tranh. Năm 1991, cuốn tiểu thuyết được trao tặng Giải thưởng
Hội Nhà văn Việt Nam, được đông đảo bạn đọc nồng nhiệt đón nhận và nhanh chóng trở thành
một hiện tượng của văn học thời kỳ đổi mới, rộng ra là văn học Việt Nam hiện đại nửa cuối thế
kỷ XX. Nỗi buồn chiến tranh được đánh giá là một tiểu thuyết có lối viết mới và khác so với
những tác phẩm cùng thời. Đó là sự khai thác chiến tranh ở tận cùng bi thảm, tận cùng bất
tuyệt. Bảo Ninh đã miêu tả chiến tranh không phải là một bài ca chiến trận hào hùng mà là
khám phá số phận con người và nỗi niềm cá nhân. Chiến tranh không chỉ có sự khốc liệt nơi
chiến trường mà còn là những ám ảnh nặng nề, những nỗi đau không thể xoa dịu, kết tụ, trở
thành “chấn thương tinh thần”, “hội chứng chiến tranh” ở người lính thời hậu chiến - những
con người vừa trở về từ chiến thắng vinh quang. Nhà văn Nguyên Ngọc đã khẳng định: “Xét
về mặt nghệ thuật, đó là thành tựu cao nhất của văn học đổi mới” [138]. Bên cạnh đó, Nỗi
buồn chiến tranh cũng tạo nên làn sóng mạnh từ dư luận quốc tế. The Guardian, một tờ báo
Anh đã nhận định: “Một cuốn tiểu thuyết không thể đặt xuống. Bất kỳ nhà chính trị hoặc nhà
hoạch định chính sách nào của Mỹ cũng cần nên đọc cuốn sách này. Nó lẽ ra phải được giải
Pulitzer, nhưng đã không được. Nó quá hấp dẫn để xứng được thế” [14]. Dennis Mansker,
thành viên của hội cựu binh vì hoà bình và hội cựu binh Việt Nam chống chiến tranh, tác giả
cuốn sách Abad Attitudu: A Novel from the Vietnam War đã hết sức kinh ngạc khi được đọc
Nỗi buồn chiến tranh: “Đây là một bức tranh trung thực và tàn nhẫn đến kinh ngạc. Đã đến lúc
thế giới phải thức tỉnh trước nỗi đau mang tính phổ quát của những người lính ở mọi bên xung
đột và cuốn sách này là nên đọc đối với những ai chọn nghề “binh nghiệp”” [131]. Có thể
khẳng định, cùng với những cách tân đồng bộ, mạnh mẽ về nội dung cảm hứng, hình thức và
thi pháp, qua Nỗi buồn chiến tranh Bảo Ninh đã đưa văn học Việt Nam hội nhập với không khí
phát triển theo chiều hướng hiện đại và hậu hiện đại của văn học toàn cầu.



Với Nỗi buồn chiến tranh Bảo Ninh đã xác lập một cách nhìn mới, một phương cách
thể hiện mới về hiện thực chiến tranh. Hiện thực chiến tranh trong Nỗi buồn chiến tranh được
biểu hiện qua những hồi ức bị cắt vụn, qua rất nhiều những cái chết, qua sự tổn hại của nhân
tính, qua một mối tình đau khổ với những vết thương mãi mãi không lành, qua sự tự thú, sám
hối... Tất cả đã gợi nên sức mạnh hủy diệt của chiến tranh. Đó thực sự là một cuốn tiểu thuyết
của chiến tranh, về chiến tranh, vừa là “nỗi thống khổ đớn đau”, vừa là đỉnh “vinh quang hạnh
phúc” của cả một dân tộc.
Cùng với Nguyễn Trọng Oánh, nhà văn Bảo Ninh với tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh
thực sự trở thành một “điểm nhấn”, một hiện tượng đặc biệt thu hút sự quan tâm của đông đảo
người viết, kể cả giới sáng tác lẫn nghiên cứu phê bình. Đánh giá về Nỗi buồn chiến tranh nhà
văn Nguyên Ngọc cho rằng: “Đây là một cuốn sách nghiền ngẫm về hiện thực- hiện thực chiến
tranh và hậu chiến” [138, tr. 6- 14]. Đỗ Đức Hiểu trong Thi pháp hiện đại [67] đã viết: “Trong
văn học mấy chục năm nay, có thể Thân phận của tình yêu (tên gọi khác của Nỗi buồn chiến
tranh) là cuốn tiểu thuyết hay về tình yêu, quyển tiểu thuyết về tình yêu xót thương nhất” và
ông cho rằng “Nỗi buồn chiến tranh thể hiện một điểm nhìn mới về cuộc chiến tranh kéo dài
ba mươi lăm năm”.
Nét đổi mới đặc sắc của Nỗi buồn chiến tranh không chỉ bộc lộ ở chiều sâu tư tưởng tư
duy nghệ thuật mà còn là những cách tân theo chiều hướng hiện đại, hậu hiện đại của thi pháp
thể loại. Đó là nỗi đau, nỗi mất mát, nỗi ám ảnh kinh hoàng của người lính về sự tàn khốc của
chiến tranh. Vượt lên trên nỗi đau thể xác là nỗi đau tinh thần, và gọi đúng tên của nó là “hội
chứng chiến tranh”. Về vấn đề này Trần Đình Sử cho rằng: “Văn học nói nhiều đến tính chính
nghĩa, tính anh hùng, tính cách mạng nhưng chưa có gì đáng kể về tính tàn bạo, tính hủy diệt,
bi thảm của nó, những tính chất không chỉ thể hiện ở cái chết nơi chiến trận, mà còn mở rộng
thành cái chết nơi tâm hồn. ” [138, tr. 6- 14]. Nguyễn Đăng Điệp lại nhìn thấy sự mới mẻ trong
cách viết và tiếp cận hiện thực của Bảo Ninh qua kỹ thuật dòng ý thức: "Cho dù viết nhiều về
chiến tranh nhưng xét đến cùng tinh huyết của Bảo Ninh kết tụ trong cuốn tiểu thuyết để đời
của ông: Thân phận của tình yêu. Toàn bộ tác phẩm là niềm khắc khoải không nguôi của một
người lính bước ra từ cuộc chiến khắc nghiệt ấy. Vì thế, nó trung thực đến tận đáy..." [164- tr.



399].
Nguyễn Thanh Sơn cho rằng, "Nỗi buồn chiến tranh không phải chỉ là một tác phẩm viết về
chiến tranh. Bản thân tiểu thuyết đã là một cuộc chiến tranh, một thảm họa chiến tranh, một thế
giới chiến tranh thu nhỏ trong bi kịch vĩ đại của một con người" [159- tr. 63]. Còn Nguyễn
Trường Lịch thì khẳng định: "Tác phẩm Thân phận tình yêu (1990) của Bảo Ninh mở ra một
bước ngoặt đáng kể trên quá trình phát triển tiểu thuyết đương đại" [105]...
Với Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh đã xây dựng một không gian đa chiều về hiện
thực chiến tranh, điều mà các tiểu thuyết viết về chiến tranh trước đó chưa từng làm được.
Hiện thực chiến tranh trong Nỗi buồn chiến tranh được khắc họa qua tâm lý của nhân vật chứ
không phải theo phương thức phản ánh miêu tả thông thường của trật tự tuyến tính theo dòng
cốt truyện. Phạm Xuân Thạch trong bài viết Nỗi buồn chiến tranh viết về thời chiến tranh thời
hậu chiến- từ chủ nghĩa anh hùng đến nhu cầu đổi mới bút pháp, sau khi tìm hiểu thế giới nhân
vật, biểu tượng và ý nghĩa của nó đã khái quát cái nhìn mới về hiện thực chiến tranh và con
đường viết về chiến tranh trong thời hậu chiến: “Trong Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh đã xác
lập một cái nhìn mới về hiện thực lịch sử- hiện thực chiến tranh, mới trong sự đối chiếu với
văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa trong chiến tranh và trước 1986. Cái mới ở đây được xác
định không chỉ ở việc anh đưa vào trong tác phẩm của mình những chất liệu hiện thực chưa
từng có trong văn học chiến tranh (dù điều này cũng có giá trị thẩm mỹ riêng) mà trước hết thể
hiện ở việc anh đã tìm đến một phương pháp tiếp cận hiện thực khác với phương pháp điển
hình hóa trong văn học hiện thực truyền thống ”. “Riêng Bảo Ninh, anh đã đẩy những khuynh
hướng nghệ thuật của những nhà văn trước đây đến một chiều kích mới. Anh quyết liệt từ bỏ
hình thức tiểu thuyết hiện thực truyền thống (theo kiểu tiểu thuyết- kí sự như Đất trắng) để
theo đuổi tiểu thuyết tâm lý” [166].
Ra đời sau Đất trắng mười năm, Nỗi buồn chiến tranh đã đẩy những tín hiệu mới mẻ
trong quan niệm mới, góc nhìn mới về hiện thực chiến tranh trong Đất trắng đến gần và trở
nên rõ ràng hơn. Đó là một bước chuyển mình mạnh mẽ, đánh
dấu một thái độ, một cách nhìn công bằng và sòng phẳng về cuộc chiến. Tuy nhiên, bên cạnh
những ý kiến đánh giá cao cuốn tiểu thuyết của Bảo Ninh trên nhiều phương diện, xem nó như



×