Tải bản đầy đủ (.docx) (47 trang)

Đường lối đảng cộng sản việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.82 KB, 47 trang )

CHƯƠNG I: SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ
CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG



















Vấn đề 1: Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với việc thành lập Đảng Cộng Sản Việt
Nam?
Nguyễn Ái Quốc tên thật là Nguyễn Sinh Cung, sinh ngày 19/5/1890 trong gia đình nhà
nho yêu nước, có lòng yêu nước, thương dân sâu sắc.
Sống trong hoàn cảnh đất nước chìm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, thời niên thiếu
và thanh niên của Người đã chứng kiến nỗi khổ cực của đồng bào và những phong trào
đấu tranh chống thực dân, Người sớm có chí đuổi thực dân, giành độc lập cho đất nước,
đem lại tự do, hạnh phúc cho đồng bào.
5/6/1911 Người ra đi đường cứu nước. Người sang phương Tây chứ không sang
phương Đông bởi Người rút kinh nghiệm thất bại của thế hệ các nhà cách mạng tiền bối


Phan Bội Châu, Phan châu Trinh..., Người đến với nước Pháp để hiểu xem "nước Pháp
và các nước khác làm thế nào để về nước giúp đỡ đồng bào mình".
Người tìm hiểu cách mạng Mỹ(1776), Cách mạng Pháp(1789). Nguyễn Ái Quốc khẳng
định “con đường cách mạng tư sản không thể đưa lại độc lập và hạnh phúc thực sự cho
nhân dân và các nước nói chung, nhân dân Việt Nam nói riêng”.
Đăc biệt Người quan tâm tìm hiểu Cách mạng tháng 10 Nga năm 1917. Cách Mạng
thành công đã nêu một tấm gương sáng về giải phóng dân tộc “mở ra trước mắt họ thời
đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”.
1919 Thay mặt những người Việt Nam yêu nước gửi “Bản yêu sách của nhân dân An
Nam” tới Hội nghị Vecxay đòi quyền tụ do, dân chủ, bình đẳng.
7/1920 Người đọc bản Sơ khảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và
thuộc địa của Lênin. Người đã cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, vui mừng đến phát khóc”
vì Người đã tìm ra con đường giải phóng cho dân tộc.
12/1920 Nguyễn Ái Quốc gia nhập Quốc Tế Cộng Sản và tham gia thành lập Đảng
Cộng Sản Pháp.
1920-1930 Nguyễn Ái Quốc tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác-Lê nin vào Việt Nam.
Đặc biệt xuất bản một số tác phẩm: Bản án chế độ thực dân Pháp. Đường Cách Mệnh.
6/1925 Người thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên.
− Tháng 3-1929, Chi bộ Cộng sản đầu tiên thành lập ở số nhà 5D, Hàm Long, Hà
Nội.
Ngày 1-5-1929, tại Đại hội toàn quốc của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở
Hương Cảng, đoàn đại biểu Bắc Kỳ đưa ra đề nghị thành lập Đảng Cộng sản. Đề nghị
đó không được chấp nhận, trở về nước, ngày 17-6-1929, những đảng viên trong Chi bộ
Cộng sản thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng. Ngày 25-7-1929 An Nam Cộng sản
Đảng được thành lập ở Nam Kỳ. Tháng 9-1929 Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được
thành lập ở Trung Kỳ.





Sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia có nguy cơ
dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách mạng là cần có một Đảng thống nhất
lãnh đạo. Chính vì vậy từ ngày 3 đến 7-2-1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức Cộng sản
họp tại Cửu Long dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị nhất trí thành
lập đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua Chánh cương vắn
tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng.
− Ngày 3 tháng 2 năm 1930 trở thành Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Vấn đề 2: So sánh cương lĩnh tháng 2 và cương lĩnh tháng 10/1930?
Giống nhau :


Đều xác định được tính chất cách mạng VN là cách mạng tư sản dân quyền và cách
mạng xã hội.


Đều xác nhận mục tiêu CMVN là độc lập dân tộc và ruộng đất dân cày.
Khẳng định lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam là Đảng Cộng Sản, lấy chủ nghĩa
Mác-Lenin làm nền tảng và đội quân tiên phong là giai cấp công nhân.
Khẳng định CMVN là 1 bộ phận khăng khít của CMTG,đặc biệt là giai cấp vô sản.
− Xác định vai trò và sức mạnh của giai cấp công nhân.





Khác nhau:

Kẻ thù


Nhiệm vụ

Mục tiêu

Lực lượng
chính trị
Phương pháp
cách mạng

Cương lĩnh chính trị
-Đánh đổ đế quốc và phong
kiến tư sản, tay sai.
-Nhiệm vụ dân tộc đặt lên
hàng đầu
-Nhiệm vụ dân chủ dựa vào
vấn đề dân tộc giải quyết.
-Phổ cập giáo dục

Luận cương chính trị
-Đánh đổ phong kiến
-Nhiệm vụ dân tộc và dân
chủ tiến hành cùng lúc.
-Giải quyết được mâu
thuẫn trong xã hội.

-Làm cho Việt Nam độc lập,
tự do ,dân chủ ,bình đẳng.
-Giải quyết quyền lợi của
- Thành lập chính phủ và quân
giai cấp công nhân VN .

đội công nông, thi hành chính
sách tự do, bình đẳng.
-Công nhân , nông dân kết
hợptiểu tư sản, phú nông tiểu
địa chủ trung lập.

- Lực lượng chủ đạo là giai
cấp vô sản công nhân và
nhân dân.

-Thu phục các giai cấp.
-Cẩn thân và không khoan
nhượng.

-Con đường “võ trang bạo
động”

CHƯƠNG II
ĐƯỜNG LỐI ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN(1930-1945)
Vấn đề 3: Chứng minh nhận định trang 61. Tại sao trong giai đoạn này Đảng lại đặt
nhiệm vụ Giải phóng dân tộc lên hàng đầu?


Đây là giai đoạn hết sức khó khăn của Đẩng ta trong việc xác định dường lối đúng
đắn để giải quyết vấn đề dân tộc, mang tự do vè tay nhân dân. Chính tình hình thế giới
và trong nước đã khiến Đảng ta đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu:
1.Tình hình thế giới:





1/9/1939, Phát xít Đức tấn công Ba Lan, khơi ngòi cho cuộc chiến tranh thế giới thứ 2
bùng nổ
3/9/1939, Anh và Pháp tuyên chiến với Đức.
− Tháng 6/1940, Đức tấn công Pháp, chính phủ Pháp đầu hàng Đức.
22/6/1941, Phát xít Đức tấn công Liên Xô. Lúc này chiến tranh đề quốc trở thành chiến
tranh giữa lực lượng dân chủ do Liên Xô làm trụ cột với cá lực lượng phát xít do Đức
đứng đầu.
2.Tình hình trong nước









Chiến tranh thế giới thứ 2 đã ảnh hưởng trực tiếp đến ĐÔng Dương và Việt Nam, dẫn
đến ngày 28/9/1939, Toàn quyền ĐÔng Dương đã ra nghị định cấm hoàn toàn mọi thứ
liên quan đến Cộng sản.
Thực dân Pháp thi hành chính sách thời chiến ở Đông Dương, nổi bật là chính sách
“kinh tế chỉ huy” nhằm tăng cường vơ vét sức người , sức của phục vụ chiến tranh đế
quốc, bắt thanh niên Việt Nam sang Pháp làm bia đỡ đạn cho chúng.
23/9/1940, Pháp kí hiệp định đầu hàng Nhật, dân ta rơi vào cảnh một cổ hai tròng, chịu
sự áp bức cùng lúc của cả 2 thế lực Pháp- Nhật.
Mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc, phát xít Pháp- Nhật ngày càng trở nên gay gắt,
châm ngòi nổ cho các cuộc cách mạng liên tiếp xảy ra.
Sau Hội Nghị lần thứ 6 (11/1939), Hội nghị lần thứ 7(11/1940), Hội nghị lần thứ
8(5/1941), Đảng ta đã chỉ ra : “ trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân

tộc giải phóng, không đòi hỏi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng thế dân
tộc quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp
đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
Với tình hình trên, Đảng ta đã xác định đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng
đầu.

CHƯƠNG III: ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP
VÀ ĐẾ QUỐC MỸ XÂM LƯỢC (1945-1975)
Vấn đề 4: Phương châm kháng chiến toàn dân? Vận dụng vào công cuộc đổi mới
như thế nào?






+

+
+
+


+

+

Hoàn cảnh lịch sử : Ngày 19-10-1946, thường vụ Trung Ương Đảng mở Hội nghị Quân
sự toàn quốc lần thứ nhất . Xuất phát từ nhận định “ không sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh
mình và mình nhất định phải đánh Pháp”, hội nghị đề ra chủ trương, biện pháp cụ thể

về tư tưởng và tổ chức để quân dân cả nước sẵn sàng bước vào cuộc chiến mới. Trong
chỉ thị Công việc khẩn cấp bây giờ ( 5-11- 1946 ), Hồ Chí Minh đã nêu lên những việc
có tầm chiến lược , toàn cục khi bước vào cuộc kháng chiến.
Đường lối kháng chiến được thể hiện trong các văn kiện lớn được soạn thảo và công bố
ngay trước và sau ngày cuộc kháng chiến bùng nổ. Đó là văn kiện Toàn dân kháng
chiến của Trung ương Đảng ( 12-12-1946) , Lời kêu gọi toàn dân kháng chiến của Hồ
Chí Minh (19-12-1946) và tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Trường
Chinh.
− Phương châm kháng chiến toàn dân :
“Bất ỳ đàn ông đàn bà, không phân chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, bất kỳ người già,
người trẻ. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp”. Mỗi người dân
là một chiến sỹ, mỗi là xóm là một pháo đài.
+ Là cuộc kháng chiến của dân, do dân và vì dân
+ Là sự nghệ chung của toàn dân, có phát huy sức mạnh toàn dân thì mới có thể
đánh địch toàn diện và lâu dài.
− Vận dụng vào công cuộc đổi mới :
Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa , thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng
cường và mở rộng mặt trận thống nhất
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân.
Đảng đã xác định sự nghiệp công nghiệp hóa là sự nghiệp toàn dân, sức mạnh của đổi
mới là sức mạnh của nhân dân, việc tang cường đổi mới chính là tăng cường sức dân,
trong đó công nông là gốc

Vấn đề 5: Phương châm kháng chiến toàn diện? Vận dụng vào công cuộc đổi mới?
Kháng chiến toàn diện: Đánh địch về mọi mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, ngoại
giao. Trong đó:
Kháng chiến về chính trị: Thực hiện đoàn kết toàn dân, tăng cường xây dựng Đảng,
chính quyền, các đoàn thể nhân dân; đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng
tự do, hoà bình.

Kháng chiến vê quân sự: Thực hiện vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang
nhân dân, tiêu diệt địch, giải phóng nhân dân và đất đai, thực hiện du kích chiến tiến lên


+

+
+


+

+

+
+

vận động chiến, đánh chính quy, là "triệt để dùng du kích, vận động chiến. Bảo toàn
thực lực, kháng chiến lâu dài.... vừa đánh vừa võ trang thêm, vừa đánh vừa đào tạo
thêm cán bộ".
Kháng chiến về kinh tế: Phá hoại kinh tế địch như đường giao thông, cầu, cống, xây
dựng kinh tế tự cung tự cấp, tập trung phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương
nghiệp và công nghiệp quốc phòng theo nguyên tắc: “Vừa kháng chiến vừa xây dựng
đất nước”.
Kháng chiến về văn hoá: Xoá bỏ văn hoá thực dân, phong kiến, xây dựng nền văn hoá
dân chủ mới theo ba nguyên tắc: dân tộc, khoa học, đại chúng.
Kháng chiến về ngoại giao: Thực hiện thêm bạn bớt thù, biểu dương thực lực. "Liên
hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động thực dân pháp", sẵn sàng đàm phán nếu Pháp
công nhận Việt Nam độc lập.
Vận dụng vào công cuộc đổi mới.Quan điển toàn diện được áp dụng trên mọi mặt của

nền kinh tế nước ta hiện nay:
Về chính trị, kiên quyết xây dựng nhà nước dân chủ pháp quyền, tiếp thu các tư tưởng
tiến bộ nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn
minh, xây dựng nhà nước vững mạnh bang cách minh bạch hóa việc bổ nhiệm các chức
vụ cao cấp, thực hiện tuyên truyền, tuyển chọn công chức theo quy trình khách quan
dựa trên khả năng, cải cách chế độ, tiền lương hợp lý
Về kinh tế , phát triển kinh tế bền vững theo hướng tạo nhiều công ăn việc làm và
nhanh chóng cải cách việc điều hành doanh nghiệp quốc doanh trong đó có các tập
đoàn kinh tế.
Về văn hóa, ngăn chặn sự xuống cấp của văn hóa, đạo đức và xã hội
Về ngoại giao, triển khai một đường lối ngoại giao độc lập dựa trên một thể chế dân
chủ, chú trọng hơn đến quan hệ chiến lược giữa ASEAN và Mỹ, hữu nghị, bình đẳng
với Trung Quốc.
Với quan điểm kháng chiến tích cực và sự vận dụng sáng suốt trong công cuộc đổi
mới ngày nay, Đảng và nhà nước ta đang dần tiến bước đưa đất nước phát triển, vươn
xa ra tầm thế giới và quốc tế.

CHƯƠNG IV: ĐƯỜNG LỐI CÔNG NGHIỆP HÓA


Vấn đề 6: Phân tích lợi thế VN trước khi tiến hành CNH trong điều kiện hiện nay?
Vị trí địa lí: Nước ta có vị trí địa lý thuận lợi cho việc phát triển và giao lưu kinh tế.
Nằm trên bán đảo Đông Dương gần trung tâm Đông Nam á. Việt nam là cửa ngõ đầu
mối giao thông của các tuyến đường quốc tế quan trọng nơi diễn ra các hoạt động kinh
tế sôi động và được coi là khu vực phát triển năng động nhất hiện nay. Do đó, chúng











ta có điều kiện để mở rộng các hoạt động kinh tế đối ngoại có điều kiện thu thập và xử
lý thông tin nhanh chóng
Chính trị ổn định: tạo môi trường thuận lợi cho việc thực hiện các quan hệ kinh tế quốc
tế, các hợp đồng với nước ngoài, làm cho họ yên tâm đầu tư kinh doanh đồng thời cũng
là cơ sở pháp lý để bảo vệ lợi ích đất nước.
Sự phát triển của khoa học công nghệ :Trên thế giới cách mạng khoa học công nghệ
đang phát triển vào trình độ ngày càng cao. Đây là một thời cơ thuận lợi cho phép
chúng ta có thể khai thác được những yếu tố nguồn lực bên ngoài(vốn, công nghệ thị
trường ...) và những nguồn lực bên trong của đất nước có hiệu quả, thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá rút ngắn, kết hợp với các bước đi tuần tự nhảy vọt, vừa tăng
tốc vừa chạy trước đón đầu. Chúng ta có thể tiến hành khắc phục được những thất bại
mà những nước đi trước gặp phải.
Khối đại đoàn kết toàn dân tộc : trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức được mở rộng hơn, là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát
triển kinh tế, xã hội, giữ vững ổn định chính trị xã hội của đất nước .Là một nước có
nhiều dân tộc anh em cùng gắn bó, chung sống và phát triển, khối đại đoàn kết giữa các
dân tộc ở nước ta từ trước đến nay luôn luôn gắn bó khăng khít và chặt chẽ. Sự bình
đẳng, hợp tác giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc anh em trên đất nước ta ngày càng
được thực hiện tốt và thu được nhiều thành tựu to lớn. Nhất là, trong thời kỳ đổi mới,
khối đại đoàn kết các dân tộc anh em được nâng lên một tầm cao mới cả về nhận thức
lẫn hoạt động thực tiễn.
Xu thế toàn cầu hóa : toàn cầu hoá đã mang lại nhiều cơ hội cho Việt Nam giao lưu với
các nước trên thế giới, mở rộng quan hệ kinh tế, chính trị, ngoại giao. Việt Nam từ khi
mở cửa, hội nhập, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, có nhiều công ty
nước ngoài vào đầu tư, thương mại phát triển xuyên biên giới,ặc biệt là trong xu thế

toàn cầu hoá, Việt Nam gia nhập các tổ chức kinh tế thế giới và khu vực như BTA,
AFTA, WTO… Đây là cơ hội mà để ngành kinh tế Việt Nam, đặc biệt là các doanh
nghiệp có điều kiện phát triển và có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Vấn đề 7:Phân tích đặc trưng CNH trước đổi mới?



Nhìn chung, từ 1960 -1985, Đảng ta đã nhận thức và tiến hành CNH theo kiểu cũ
với các đặc trưng chủ yếu sau đây:
Công nghiệp hóa theo mô hình nền kinh tế khép kín, hướng nội: CNH trong điều kiện
nền kinh tế khép kín và hướng nội: (xét về mô hình thì đây chính là mô hình CNH thay
thế nhập khẩu). Đặc trưng này là do điều kiện khách quan đem lại. Tình hình của Việt
Nam trước đổi mới: Chiến tranh và bao vây cấm vận của các nước tư bản, chúng ta chỉ
nhận được sự hợp tác của một số nước trong hệ thống XHCN. Vì vậy, khó có thể lựa










chọn mô hình CNH khác. Mặt khác, sau khi đất nước thống nhất chúng ta đã mong
muốn xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ, không có điều kiện quan hệ kinh tế với
bên ngoài.
Thiên về phát triển công nghiệp nặng : Do tình hình thực tiễn của Việt Nam là một
nước nông nghiệp nghèo nàn, tỷ trọng công nghiệp không đáng kể. Tình hình kinh tế và

chính trị đòi hỏi Việt Nam phải có một nền công nghiệp nặng phát triển. Vì vậy, trong
đường lối tiến hành công nghiệp hoá đã đề cao vai trò của công nghiệp nặng để giải
quyết những vấn đề đó.
Gắn với cơ chế kế hoạch hoá, tập trung, quan liêu, bao cấp: nhà nước quản lý tất cả mọi
mặt của đời sống kinh tế xã hội trong đó có vấn đề về CNH. Mục tiêu, phân bổ nguồn
lực,… đều do Nhà nước quyết định.
Chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên đất đai và nguồn viện trợ của các nước
xã hội chủ nghĩa; chủ lực thực hiện CNH là Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước; việc
phân bổ nguồn lực để CNH chủ yếu bằng cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, trong
một nền kinh tế phi thị trường.
Nóng vội, đơn giản, chủ quan duy ý chí, ham làm nhanh, làm lớn, không quan tâm đến
hiệu quả kinh tế xã hội.

Vấn đề 8: Tại sao CNH phải gắn với HĐH?




Sở dĩ Đảng ta chủ trương gắn “Công nghiệp hóa” với “Hiện đại hóa” là vì:
Công nghiệp hóa: là quá trình trang bị công nghệ và cơ khí hóa cho các ngành kinh tế
quốc dân để tạo ra sự chuyển biến căn bản trong cơ cấu kinh tế, để chuyển từ một nền
kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp
Hiện đại hóa: là quá trình thường xuyên cập nhật, nâng cấp khoa học công nghệ tân
tiến, hiện đại phù hợp với công nghệ của thế giới để chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tạo ra
năng suất lao động xã hội cao.






+

+





Như vậy, hiện đại hóa là cái đích cuối cùng mà công nghiệp hóa hướng tới. Cái đích của
công nghiệp hóa không cố định mà luôn luôn thay đổi cùng với sự phát triển của khoa
học kĩ thuật và trình độ văn minh chung của nhân loại. Xu thế chung của thế giới là làm
thế nào thực hiện đổi mới công nghệ nhanh chóng nhằm rút ngắn chu kì sống của mỗi
loại công nghệ.
Xét về mặt lịch sử: công nghiệp hóa và hiện đại hóa không phải là một quá trình thực
hiện song song. Trên thế giới, cho đến nay đã diễn ra 2 cuộc cách mạng khoa học:
Cuộc cách mạng lần thứ nhất diễn ra ở Anh vào cuối thế kỉ 18, thời gian cho 1 phát
minh mới ra đời từ phòng thí nghiệm đi đến thực tiễn cuộc sống mất gần 40 đến 50
năm.
Cuộc cách mạng lần thứ 2 diễn ra vào cuối thế kỉ 20, thời gian từ phát minh đến ứng
dụng vào đời sống được rút ngắn lại chỉ còn có chưa đầy 1 năm, 2 năm, hay thậm chí
chỉ mấy tháng.
Tất cả các nước trên thế giới muốn đẩy nhanh quá trình phát triển của mình nên đã
không ngừng áp dụng những thành tựu khoa học để đưa nền kinh tế của nước đó sang
một bước tiến mới phát triển mạnh mẽ.Vì vậy có thể nói rằng, sự phát triển khoa học
công nghệ và các cuộc cách mạng khoa học trên thế giới đã thay đổi căn bản đời sống,
văn hóa, chính trị của nhân loại. Nó là một trong những nguyên nhân đầu tiên để quyết
định sức mạnh của quốc gia tiên phong và quyết định sự chuyển biến mạnh mẽ của cả
thế giới.
Việt Nam là 1 nước đi sau, tiến hành sau khi một số nước đã hoàn thành công nghiệp
hóa và đang bước sang quá trình hiện đại hóa nền kinh tế. Việt nam muốn đuổi kịp các

nước đó, thoát khỏi tình trạng của một nước đang phát triển thì buộc chúng ta phải tiến
hành công nghiệp hóa, gắn công nghiệp hóa với hiện đại hóa. Có như vậy chúng ta mới
có thể thực hiện được mục tiêu chuyển từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công
nghiệp, hội nhập kinh tế quốc tế sớm nhất.

Vấn đề 9: Tại sao CNH, HĐH phải gắn với kinh tế tri thức?
Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cấp và ứng dụng tri thức
giữ vai trò quyết định nhất với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng
cuộc sống. Trong nền kinh tế tri thức, những ngành kinh tế có tác động to lớn tới sự
phát triển là những ngành dựa nhiều vào tri thức, dựa vào các thành tựu mới của khoa
học công nghệ. Tiêu chí trong nền kinh tế tri thức là tổng sản phẩm GDP của kinh tế thị
trường làm ra là 70%.
Đặc điểm của nền kinh tế tri thức:












Một là, sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất ở trình độ cao, áp dụng những
thành tựu tiên tiến nhất về công nghệ kỹ thuật. Công nghiệp hoá hiện đại hoá là sự
nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó lực lượng cán bộ khoa học
và công nghệ, khoa học quản lí cũng như đội ngũ công nhân lành nghề giữ vai trò đặc
biệt quan trọng.

Hai là, các ngành kinh tế dựa nhiều vào kinh tế tri thức. nền kinh tế tri thức là nền kinh
tế mà trong đó quá trình sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức trở thành động lực
chính cho tăng trưởng cho quá trinh tạo ra của cải và việc làm trong tất cả các ngành
kinh tế.
Ba là, trong nền kinh tế tri thức, công nghệ thông tin được ứng dụng rộng rãi trong mọi
lĩnh vực của xã hội, khoa học và công nghệ có vai trò quyết định đến tăng năng suất lao
động, giảm chi phí sản xuất, nâng cao lợi thế cạnh tranh và làm cho kinh tế phát triển
với tốc độ vượt bậc.
Bốn là, trong nền kinh tế tri thức thì nguồn nhân lực được tri thức hoá thì xã hội đó sẽ
có được một nền kinh tế phát triển nhất định. Nguồn nhân lực trong nền kinh tế thị
trường đòi hỏi phải đủ số lượng, cân đối về cơ cấu và trình độ, có khả năng nắm bắt,
sáng tạo và sử dụng các thành tựu khoa học tiên tiến của thế giới.
Năm là,trong nền kinh tế tri thức ,mọi vấn đề của xã hội đều mang tính toàn cầu hoá
kinh tế, có tác động tích cực hoặc tiêu cực sâu rộng đến nhiều mặt của đời sống xã hội
trong mỗi quốc gia và trên toàn thế giới.

Vấn đề 10: Nguồn nhân lưc: Con người là yếu tố phát triển nhanh bền vững?





Phát triển nhanh bền vững là nền kinh tế tăng trưởng nhanh chóng,phát triển cân đối
giữa 3 cực tăng trưởng: xã hội,kinh tế , văn hóa. Ở nước ta quan điểm phát triển nhanh
và bền vững đã được nhận thức từ rất sớm,thể hiện trong nhiều chủ trương và nghị
quyết của Đảng
Nguồn lực con người là toàn bộ các yếu tố vật chất và tinh thần , đạo đức, phẩm
chất,trình độ tri thức tạo nên năng lực con người
Trong các yếu tố tham gia vào quá trình CNH-HĐH yếu tố con người luôn được coi là
yếu tố cơ bản và quyết định . Để phát triển nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu của

CNH-HĐH đất nước cần đặc biệt chú trọng đến phát triển giáo dục, đào tạo.






CNH-HĐH là sự nghiệp của toàn dân và mọi thành phần kinh tế ,trong đó lực lượng
cán bộ khoa học và công nghệ ,khoa học quản lý, đội ngũ công nhân lành nghề giữ vai
trò đặc biệt quan trọng.Nguồn nhân lực của CNH-HĐH phải có đầy đủ số lượng,cân đối
về cơ cấu và trình độ,có khả năng nắm bắt và sử dụng các thành tựu khoa học và công
nghệ tiên tiến của thế giới và có khả năng sáng tạo công nghệ mới
Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn lực nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là
một đột phá chiến lược bảo đảm cho phát triển nhanh,hiệu quả và bền vững.

Vấn đề 11: Vai trò của nguồn lực?




Thứ nhất: trong khi các nguồn lực khác như vốn,tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất,
nguồn lực nước ngoài trong quá trình khai thác sử dụng đến một lúc nào đó bị cạn kiệt
thì nguồn nhân lực được xem là vô tận và phát triển.Nó là nhân tố quyết định việc khai
thác,sử dụng,bảo vệ,tái tạo các nguồn lực khác.
Thứ hai:quá trình CNH-HĐH là do con người tổ chức,thực hiện do đó phải có sự hiện
diện của con người .Với bản chất hoạt động có mục đích và sáng tạo,con người bẳng trí
tuệ đã tạo ra các công cụ sản xuất ngày càng hiện đại.Con người là chủ thể của mọi
hành động,vừa là động lực vừa là mục tiêu của quá trình CNH-HĐH,Con người sáng
tạo ra của cải vật chất,tinh thần cho xã hội,có khả năng vận dụng thành tựu KHKT vào
hoạt động kinh tế thúc đẩy CNH-HĐH phát triển nhanh chóng.









Thứ ba:Nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những quyết định quá trình chuyển
đổi căn bản,toàn diện từ sử dụng lao động thủ công là phổ biến sang lao động được đào
tạo cùng công nghệ tiên tiến ,phương tiên và phương pháp hiện đại tạo ra năng suất lao
động cao . Đó là quá trình tất yếu để tiến đến CNH-HĐH.
Thứ tư: Nguồn nhân lực nếu được đào tạo và có chất lượng cao là điều kiện rút ngắn
khoảng cách tụt hậu,thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đẩy CNH-HĐH phát triển nhanh và
bền vững.Là điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ năm: xuất phát từ thực trạng CNH-HĐH đất nước đòi hỏi phải có nguồn nhân lực.
Đối với VN,nguồn lực tài chính vẫn còn hạn chế nên nguồn lực con người đóng vai trò
quyết định tác động trực tiếp đến tốc độ tăng trưởng kinh tế.

Vấn đề 12: Ưu điểm, hạn chế của nguồn nhân lực?






Ưu điểm:
Lực lượng lao động dồi dào: Với một lực lượng lao động dồi dào, giá rẻ như vậy sẽ là
một lợi thế lớn, tiềm năng và thế mạnh lớn để giúp cho phát triển kinh tế đối với một
nước đang phát triển và đang tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá như nước ta.

Tỷ trọng lao động trẻ cao, lực lượng lao động trẻ dồi dào và có văn hoá phổ thông có
nhiều lợi thế như là có sức khoẻ, năng động, có khả năng tiếp thu kiến thức nghề nghiệp
dễ dàng, ngay cả đối với các ngành mới và có nhiệt huyết với nghề nghiệp hơn. Một
nền kinh tế trẻ, năng động và phát triển.
Người Việt Nam vốn có bản tính hiếu học, thông minh, cần cù lao động và đoàn kết. Đó
là cơ sở cho việc nắm bắt, tiếp thu và vận dụng một cách nhanh chóng những sáng tạo,
những phát minh, sáng kiến khoa học của nhân loại phục vụ cho sự nghiệp phát triển


kinh tế - xã hội của đất nước. Tính cộng đồng, ý thức trách nhiệm với cộng đồng được
phát huy mạnh mẽ có thể hỗ trợ đắc lực không chỉ cho việc truyền bá tay nghề, kinh
nghiệm nghề nghiệp mà còn có thể giúp nhau về vốn, tạo dựng và phát triển cơ nghiệp,
giúp nhau về công ăn việc làm. Đây là một trong những ưu điểm mạnh nhất của lao
động Việt.






Hạn chế:
Nguồn nhân lực Việt Nam tuy dồi dào về số lượng nhưng chất lượng không cao. Bộ
phận lao động đã qua đào tạo vẫn còn nhiều lỗ hổng, thiếu sót, hạn chế về mặt kiến thức
khoa học, năng lực thực hành, phương pháp tư duy sang tạo, nắm bắt công nghệ hiện
đại…
Người lao động hạn chế về trình độ năng lực, tay nghề và phong cách làm việc. Phần
lớn lao động đamg làm việc trong các doanh nghiệp đều hạn chế về năng lực làm việc
kể cả lao động trực tiếp và lao động quản lý. Người lao động ít được đào tạo một cách
bài bản, kiến thức nghề nghiệp và kỹ năng làm việc của nhiều người hoặc không còn
phù hợp hoặc chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tế.

Thói quen làm việc nông nghiệp của chúng ta dẫn tới thói quen làm việc rề rà, giờ “cao
su”, vừa làm vừa chơi. Thói quen đó rất có hại cho việc sản xuất. Chúng ta cũng đã gặp
rắc rối với vấn đề lao động thiếu kỷ luật, thiếu trách nhiệm, tính tự giác kém.

Vấn đề 13: Vai trò của KH-CN?
+
+

− Khái niệm:
Khoa học: là toàn bộ hoạt động có hệ thống nhằm xây dựng và tổ chức kiến thức dưới
hình thức những lời giải thích và tiên đoán có thể kiểm tra được về vũ trụ.
Công nghệ: là sự tạo ra, sự biến đổi, việc sử dụng, và kiến thức về các công cụ, máy
móc, kỹ thuật, kỹ năng nghề nghiệp, hệ thống, và phương pháp tổ chức, nhằm giải
quyết một vấn đề, cải tiến một giải pháp đã tồn tại, đạt một mục đích, hay thực hiện một
chức năng cụ thể.
− Vai trò của KH-CN:
Khoa học và công nghệ là cái không thể thiếu được trông đời sống kinh tế –văn
hoá của một quốc gia. Vai trò này của khoa học và công nghệ càng trở lên đặc biệt quan
trọng đối với nước ta đang trên con đường rút ngắn giai đoạn phát triển để sớm trở
thành một xã hội hiện đại.


+

+

+

+







Ngay từ khi bắt đầu tiến hành công cuộc đổi mới đất nước,Đảng ta đã xác định khoa
học và công nghệ là cái giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển lực lượng sản xuất và
nâng cao trình độ quản lý, bản đảm chất lượng và tốc độ phát triển của nền kinh tế.
Công nghiệp hoá,hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công
bằng, văn minh, khoa học và công nghệ phải trở thành “quốc sánh hàng đầu”.
Nước ta đang bước vào một thời kỳ phát triển mới- thời kỳ đẩy mạnh CNHHĐH. Nghị quyết Trung ương hai của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã
xác định rõ :”CNH-HĐH đất nước phải bằng và dựa vào khoa học và công nghệ” “khoa
học và công nghệ phải trở thành nền tảng và động lực cho CNH- HĐH”. Chỉ bằng con
đường CNH-HĐH, phát triển khoa học và công nghệ mới có thể đưa nước ta từ nghèo
nàn lạc hậu trở thành một nước giàu mạnh văn minh. Việc đưa khoa học và công nghệ,
trước hết là phổ cập những tri thức khoa học và công nghê cần thiết vào sản xuất và đời
sống xã hội là một nhu cầu cấp thiết của xã hội ta hiệnnay.
Nghị quyết trung ương II cũng đã nhấn mạnh phải thật sự coi “Sự phát triển khoa học
và công nghệ là sự nghiệp cách mạng của toàn dân, phát huy cao độ khả năng
sáng tạo của quần chúng. Bởi lẽ dù chúng ta có tiến hành cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ, có đưa trang thiết bị kỹ thuật tân tiến nhất, những quy trình công nghệ
hiện đại nhất vào nước ta thì cũng không có gì để có thể bảo đảm đẩy mạnh được CNHHĐH.
Do đó, xã hội hoá tri thức khoa học và công nghệ là một trong những nhu cầu thiết thực
và cấp bách nhất để đẩy mạnh sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.
Vấn đề 14: Kinh tế tri thức là gì? Đặc trưng của kinh tế tri thức?
1. Kinh tế tri thức.
Tri thức là sản phẩm hoạt động trí tuệ của con người
Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế mà trong đó quá trình sản xuất, phân phối và sử dụng
tri thức trở thành động lực chính cho tăng trưởng, cho quá trình tạo ra của cải và việc
làm trong tất cả các ngành kinh tế

Kinh tế tri thức cũng được hiểu là nền kinh tế chủ yếu dựa trên việc sử dụng tri thức,
phản ánh sự phát triển của lực lượng sản xuất ở trình độ cao. Hoặc cũng được hiểu, là
một loại môi trường kinh tế- kỹ thuật, văn hoá-xã hội mới, có những đặc tính phù hợp
và tạo thuận lợi nhất cho việc học hỏi, đổi mới và sáng tạo. Trong môi trường đó, tri
thức sẽ tất yếu trở thành nhân tố sản xuất quan trọng nhất, đóng góp vào phát triển kinh
tế xã hội.
2. Đặc trưng của kinh tế tri thức.
Nền kinh tế tri thức dựa trên tiêu chí:
GDP, trên 70% là do các ngành sản xuất và dịch vụ ứng dụng công nghệ cao mang
lại.
Lao động xã hội, trên 70% lực lượng lao động là lao động trí thức
Nền kinh tế tri thức có những đặc trưng:





















Sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, dịch chuyển cơ
cấu nhanh tạo ra việc làm mới và nâng cao chất lượng cuộc sống,
Ứng dụng công nghệ thông tin được tiến hành rộng rãi trong mọi lĩnh vực hết. Mọi lĩnh
vực hoạt động xã hội đều có tác động của công nghệ thông tin.
Xã hội học tập, giáo dục phát triển, đầu tư cho giáo dục khoa học chiếm tỷ lệ cao. Đầu
tư vô hình (con người, giáo dục, khoa học...) cao hơn đầu tư hữu hình (cơ sở vật chất).
Phát triển con người trở thành nhiệm vụ trọng tâm. Hệ thống giáo dục đảm bảo cho mọi
người có thể học tập ở bất cứ lúc nào.
Tri thức trở thành vốn quý nhất trong nền kinh tế tri thức. Tri thức là nguồn lực hàng
đầu tạo sự tăng trưởng
Sáng tạo là linh hồn của đổi mới. Đổi mới thường xuyên là động lực thúc đẩy sự phát
triển. Công nghệ đổi mới nhanh, vòng đời công nghệ rút ngắn. Các doanh nghiệp muốn
phát triển phải luôn đổi mới công nghệ sản xuất
Nền kinh tế toàn cầu hoá. Thị trường và sản phẩm mang tính toàn cầu, một sản phẩm
được sản xuất từ bất kỳ nơi nào cũng có thể nhanh chóng có mặt khắp nơi trên thế giới
hoặc sản phẩm phần lớn được thực hiện từ nhiều nơi trên thế giới. Các doanh nghiệp
vừa hợp tác vừa cạnh tranh để phát triển
Văn hoá. Trong nền kinh tế tri thức- xã hội thông tin, văn hoá có điều kiện phát triển
nhanh và văn hoá là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Do thông tin, tri
thức bùng nổ, trình độ văn hoá nâng cao, nội dung và hình thức các hoạt động văn hoá
phong phú, đa dạng. Nhu cầu thưởng thức của người dân cũng tăng cao, giao lưu văn
hoá thuận lợi, tạo điều kiện cho các nền văn hoá giao thoa, dễ tiếp thu các tinh hoa văn
hoá của nhân loại để phát triển. Nhưng các nền văn hoá cũng đứng trước nguy cơ rủi ro
cao, dễ bị pha tạp, lai căng, dễ mất bản sắc văn hoá dân tộc..

Vấn đề 15: CNH,HĐH nông nghiệp, nông thôn?
Đảng chủ trương xây dựng công nghiệp hóa hiện đại hóa nông thôn.
Nước ta đang trong thời kỳ quá dộ lên chủ nghĩa xã hội. “Mà đặc điểm to lớn nhất của

ta trong thời kỳ đi lên chủ nghĩa xã hội là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng
lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Do đó,
chúng ta phải công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, mới tạo tiền đề
vững chắc để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Bởi
nông nghiệp, nông thôn là khu vực đông dân cư nhất, lại có trình độ phát triển nhìn
chung là thấp nhất so với các khu vực khác của nền kinh tế. Nông dân chiếm hơn 70%
dân số và hơn 76% lực lượng lao động cả nước, đóng góp từ 25% - 27% GDP của cả
nước ….
Nông thôn là khu vực kinh tế rộng lớn, tập trung phần lớn dân cư của đất nước. Chủ
trương xây dựng CNH-HĐH nông thôn nhằm phát triển kinh tế nông thôn một mặt đảm
bảo nhu cầu thực phẩm cho xã hội, nguyên liệu cho công nghiệp nhẹ, dịch vụ,…Do đó
xây dựng CNH-HĐH ở nông thôn thúc đẩy sự phát triển ở nông thôn, là cơ sở ổn định
phát triển nền kinh tế quốc dân.
Nông thôn là nơi có lực lượng lao động đông đảo nhất cả nước, đây là nguồn lực dồi
dào để phát triển kinh tế ở nông thôn, đồng thời sẽ giảm bớt thất nghiệp, hạn chế những
tai nạn xã hội.
























Khi xây dựng CNH-HĐH ở nông thôn thì đời sống của người nông dân được đảm bảo
cả về vật chất và tinh thần, điều này sẽ taọ ổn định về chính trị và xã hội cho đất nước.
Hơn thế nữa, Đảng ta coi đây là một nhiệm vụ hết sức quan trọng, còn vì nông dân
nông thôn Việt Nam, có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp đổi mới hiện nay. Khu vực
nông nghiệp,nông thôn hiện có tài nguyên lớn về đất đai và các tiềm năng thiên nhiên
khác: hơn 7 triệu ha canh tác, 10 triệu ha đất canh tác chưa sử dụng, các mặt hàng xuất
khẩu của Việt Nam chủ yếu là nông –lâm –hải sản (như cà phê, gạo, hạt tiêu ) Nông
nghiệp nông thôn còn giữ vai trò chủ đạo trong việc cung cấp các nguồn nguyên, vật
liệu cho phát triển công nghiệp - dịch vụ.
Thêm nữa, kinh nghiệm từ các nước trên thế giới và trong khu vực ( như singapo, Thái
Lan, Trung Quốc, Thụy Điển, Tây Ban Nha ….) đều cho thấy bài học: công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn là cơ sở để chuyển dịch cơ cấu, phát triển kinh tế
đất nước.
Xây dựng CNH-HĐH ở nông thôn sẽ tạo công ăn việc làm, nâng cao dân trí , phát triển
kết cấu hạ tầng nông thôn, từ đó làm thay đổi cơ cấu kinh tế và lao động trong nông
thôn theo hướng tăng tỷ trọng dịch vụ, công nghiệp, phát triển nông thôn văn minh,
hiện đại, phù hợp với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đảng ta đã nhận ra sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi để xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuật, vẫn chưa thực sự coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, công nghiệp
nặng không phục vụ kịp thời cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
Nước ta đi lên CNH-HĐH từ xuất phát thấp nông nghiệp lạc hậu, sản xuất tự cung tự

cấp là chủ yếu nên phải phát triển nông nghiệp, nông thôn cho phù hợp với sự phát triển
CNH-HĐH.
Nước ta có nền nông nghiệp phát triển lâu đời, nhân dân có kinh nghiệm có điều kiện tự
nhiên thuận lợi, lại là ngành có vốn đầu tư thấp nhưng hiệu quả kinh tế cao.
CNH thu hẹp diện tích nông nghiệp - nơi tạo ra lương thực, thực phẩm.
Vấn đề 16: Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế tác động như thế nào với quá trình
CNH ngày nay?
Từ thế kỉ XVII-XVIII, các nước Tây Âu tiến hành công ngiệp hóa. Khi đó, công nghiệp
hóa được hiểu là thay thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc.
Đại hội X của Đảng nhận định “khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt và
những đột phá lớn”. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ tác động sâu rộng đến mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội. Bên cạnh đó xu thế hội nhập và tác động của quá trình
toàn cầu hóa đã tạo ra nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với đất nước.
Toàn cầu hóa và những áp lực của nó sẽ thúc đẩy các quốc gia tăng cường, củng cố hơn
vao trò, vị trí của mình để chống trọi lại với sự cạnh tranh khốc liệt trên các phương
diện đời sống chính trị, kinh tế xã hội.
Nhà nước sẽ phải điều chỉnh, sửa đổi những chế định pháp luật, những đường lối, chính
sách...cho phù hợp với xu thế chung của thế giới. Trong lĩnh vực kinh tế, để phì hớp với
nền kinh tế chung của thế giới, nước ta tiến hành đàm phán, ký kết các điều ước, hiệp
ước quốc tế, các hiệp đinh song phương, đa phương để hình thành hành lang pháp lý,







xử sự chung, tiếng nói chung, có lợi cho các bên, có sự giúp đỡ nhau giữa các quốc gia
trong hoạt động kinh tế.
Trong bối cảnh đó nước ta cần tiến hành công nghiệp hóa trên con đường phát triển kết

hợp công nghiệp hóa với hiện đại hóa.
CNH, hiện đại hóa nền kinh tế nước ta hiện nay diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hóa
kinh tế tất yếu phải hội nhập và mở rộng kinh tế quốc tế; nhằm thu hút nguồn vốn nước
ngoài, thu hút công nghệ hiện đại,học hỏi kinh nghiện quản lý tiên tiến của thế giới ...
Sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển.
Hội nhập kinh tế nhằm khai thác thị trường thế giới để tiêu thụ sản phẩm mà nước ta có
nhiều lợi thế, có sức cạnh tranh cao. Nói cách khác, đó là việc kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại để phát triển kinh tế nói chung và công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nhanh hơn, hiệu quả hơn.

Vấn đề 17: Mô hình công nghiệp hóa trước đổi mới?
Trước đổi mới Đảng ta thực công nghiệp hóa theo mô hình: khép kín, hướng nội, thiên
về phát triển công nghiệp nặng.


Công nghiệp hóa theo mô hình nền kinh tế khép kín, hướng nội:

Công nghiệp hóa trong điều kiện kinh tế khép kín và hướng nội: (xét về mô hình thì đây
chính là mô hình công hình công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu). Đặc trưng này là do
điều kiện khách quan đem lại. Tình hình của Việt Nam trước đổi mới: Chiến tranh và
bao vây cấm vận của các nước tư bản, chúng ta chỉ nhận được sự hợp tác của một số
nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa. Vì vậy khó có thể lựa chọn mô hình công nghiệp
hóa khác. Mặt khác, sau khi đất nước thống nhất chúng ta đã mong muốn xây dựng một
nền kinh tế độc lập tự chủ, không có điều kiện quan hệ kinh tế với bên ngoài.


Thiên về phát triển công nghiệp nặng: Do tình hình thực tiễn của Việt Nam là một nước
nông nghiệp nghèo nàn, tỷ trọng công nghiệp không đáng kể. Tình hình kinh tế, chính
trị đòi hỏi Việt Nam phải có một nền công nghiệp nặng phát triển. Vì vậy, trong đường



lối tiến hành công nghiệp hóa đã đề cao vai trò của công nghiệp nặng để giải quyết
những vấn đề đó.

CHƯƠNG V: ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Vấn đề 18: Trình bày tư duy của Đảng về kinh tế thị trường?






Theo đại hội VI tới đại hội IX của Đảng, là sự hình thành và phát triển tư duy của
Đảng về kinh tế thị trường:
Kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu phát
triển chung của nhân loại .
Kinh tế thị trường còn tồn tại khách quan trong thời kỳ quá đô lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội 10 đã kế thừa và lràm sáng tỏ nội dung tư duy của Đảng ở những đại hội
trước đó, thể hiện qua 4 tiêu chí:
Về mục đích phát triển : Phát triển kinh tế vì con người, giải phóng lực lượng sản
xuất,phát triển kinh tế nâng cao đời sông, mọi người đều được hưởng thành quả phát
triển.














Về phương hướng phát triển: Phát triển các thành phần kinh tế trong đó nhà nước giữ
vai trò chủ đạo,kinh tế nàh nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng
vững chắc của nền kinh tế quốc dân .
Về định hướng xã hội và phân phối :Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội,tăng trưởng
kinh tế gắn với đồng bộ xã hội,văn hóa , giáo dục và đào tạo ,giải quyết cấc vấn đề xã
hội vì mục tiêu phát triển con người.
Về quản lý: Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, đảm bảo vai trò quản lý, điều tiết
nền kinh tế của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Vấn đề 19: Trình bày tư duy của Đảng về kinh tế thị trường IX-XI?
Đại hội IX của Đảng (4/2011) đã xác định nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chu nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế có sự quản lí của nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là “một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân
theo quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và chịu sự dẫn dắt chi phối bởi
các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội”. Trong đại hộ IX, X, XI nội dung cơ
bản của định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là:
Về mục đích phát triển: mục tiêu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta nhằm thực hiện “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, không
ngừng nâng cao đời sống nhân dân, đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo, khuyến khích mọi
người vươn lên làm giàu chính đáng giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá
giả hơn.
Về phương hướng phát triển: phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế

nông nghiệp giữ vai trò chủ đạo, là công cụ chủ yếu điều tiết nền kinh tế.
Về định hướng xã hội và phân phối:


+

+









Trong lĩnh vực xã hội: kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội; tăng
trưởng kinh tế gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với phát triển xã hội văn hoá, giáo dục và
đào tạo, giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người.
Trong lĩnh vực phân phối: có nhiều hình thức trong đó phân phối theo kết quả lao động,
hiệu quả kinh tế và phúc lợi xã hội là chủ yếu.
Về quản lí: phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, đảm bảo vai trò quản lí, điều tiết nền
kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Vấn đề 20: Phân tích đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường VN hiện nay. Từ
những đặc trưng đó, đặc trưng nào phản ánh rõ nhất sự khác biệt giữa kinh tế thị
trường VN với kinh tế tư bản chủ nghĩa?
1. Định nghĩa
Kinh tế thị trường: là một hình thức tổ chức kinh tế phát triển cao của kinh tế hàng hóa
mà mọi yếu tố đầu vào và đầu ra đều được thực hiện thông qua thị trường.

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: là mô hình kinh tế tổng quát của nước
ta trong thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN.
2. Đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường định hướng xã hội
Về mục đích phát triển: Mục tiêu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta nhằm thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”
giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất và không ngừng nâng cao đời sống nhân dân,
đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng,
giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn. Đây là sự khác biệt với mục
đích tất cả vì lợi nhuận phục vụ lợi ích của các nhà tư bản, bảo vệ và phát triển chủ
nghĩa tư bản.
Về phương hướng phát triển:


+

+

+

+

+
+


+
+

Phát triển nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế nhằm giải

phóng mọi tiềm năng trong mọi thành phần kinh tế, trong mỗi cá nhân và mọi vùng
miền... phát huy tối đa nội lực để phát triển nền kinh tế.
Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là công cụ chủ yếu để Nhà nước điều tiết nền
kinh tế, định hướng cho sự phát triển vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ văn minh.
Kinh tế nhà nước phải nắm được vị trí then chốt của nền kinh tế bằng trình độ khoa
học, công nghệ tiên tiến, hiệu quả sản xuất kinh doanh cao chứ không phải dựa vào bao
cấp, cơ chế xin – cho hay độc quyền kinh doanh.
Nền kinh tế dựa trên nền tảng của sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất chủ yếu.
Định hướng xã hội và phân phối:
Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát
triển. Hạn chế các tác động tiêu cực của kinh tế thị trường.
Trong phân phối, định hướng xã hội chủ nghĩa được thể hiện qua chế độ phân phối chủ
yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, phúc lợi xã hội.
Về quản lí:
Phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lí, điều hành, điều
tiết nền kinh tế pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát
triển. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài được khuyến khích phát triển.
Đặc trưng được phản ánh rõ nhất phản ánh rõ nhất sự khác biệt giữa kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở Việt Nam với kinh tế tư bản chủ nghĩa là “mục đích phát
triển”. Nó thể hiện rõ mục đích cao cả phát triển kinh tế vì con người, giải phóng lực
lượng sản xuất, phát triển kinh tế để nâng cao đời sống của nhân dân, mọi người đều
được hưởng những thành quả phát triển. Ở đây thể hiện sự khác biệt với mục đích tất cả
vì lợi nhuận phục vụ lợi ích của chủ nghĩa tư bản.


Vấn đề 21: A/c hiểu thế nào về nền kinh tế thị trường, định hướng XHCN ở nước ta
hiện nay?



+
+





+
+
+

Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hóa trong đó hai yếu
tố đầu vào và đầu ra do thị trường quyết định vận hành theo cơ chế thị trường do thị
trường quyết định và tiền tệ làm cơ sở .
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở VN là nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường theo định hướng XHCN dưới sự quản lý
của nhà nước.
Là nền kinh tế hàng hóa vì:
Chịu sự tác động của các quy luật sản xuất và lưu thông hàng hóa.Sản phẩm làm ra
mang ra trao đổi và buôn bán trên thị trường đáp ứng được nhu cầu của người mua.
Quy mô sản xuất còn nhỏ, công nghệ còn đơn giản,sản phẩm làm ra chưa phong phú và
đa dạng.
Nhiều thành phần kinh tế : kinh tế nhà nước,kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân,kinh tế tư
bản nhà nước,kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Vận hành theo cơ chế thị trường: là cơ chế tự điều tiết thông qua các quy luật vốn có
của thị trường( quy luật cung- cầu , giá trị,cạnh tranh,lưu thông tiền tệ) ,giá cả do thị
trường quyết định chứ không phải nhà nước quyết định.
Theo định hướng XHCN : Là kiểu tổ chức kinh tế vừa dựa trên cơ sở tiền tệ vừa chịu sự

dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH.
Dưới sự quản lý của nhà nước:
Hình thành luật kinh tế,buộc thực hiện luật và các quyết định của tòa án.
Đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô,chống lạm phát, ổn định tiền tệ.
Dự báo và ngăn ngừa những đổ vỡ của thị trường. Kiểm tra trực tiếp đối với giá cả,tiền
lương, định mức tiêu dùng những của cải nhất định.


Vấn đề 22: Tính tất yếu của nền kinh tế thị trường?





+

+
+

+



Khái niệm: Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác
động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng hàng hoá,
dịch vụ trên thị trường.
Sự phát triển của nền kinh tế thị trường đã phá vỡ nền kinh tế tự nhiên; thúc đẩy sản
xuất phát triển.
Tác động của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam: Thực tiễn gần 30 năm đổi mới ở nước
ta đã chứng minh đầy sức thuyết phục rằng: con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước

ta phải kinh qua kinh tế thị trường. Không phát triển kinh tế thị trường thì không thể đi
tới chủ nghĩa xã hội. Bởi vì, kinh tế thị trường có những lợi thế mà kinh tế hiện vật, tự
cung, tự cấp không thể so sánh được:
Một là, kinh tế thị trường tạo động lực lao động tích cực, tự giác cho từng người lao
động thông qua cơ chế cạnh tranh để trở thành người giỏi nhất (sáng tạo nhất, năng
động nhất và hợp lý nhất);
Hai là, kinh tế thị trường thúc đẩy chuyên môn hóa ngày càng sâu để phát huy tiềm
năng nhiều mặt của những con người khác nhau;
Ba là, kinh tế thị trường phối hợp, điều tiết hành vi của mọi người một cách tự giác
thông qua cơ chế trao đổi hàng hóa một cách tự nguyện, thỏa thuận theo quy luật cung cầu;
Bốn là, kinh tế thị trường phản ánh mức độ tự do, dân chủ cao trong điều kiện nguồn
lực để thỏa mãn nhu cầu còn khan hiếm. So với cơ chế kế hoạch hóa tập trung của Nhà
nước trong thời bao cấp, kinh tế thị trường không tốn chi phí lập và điều hành kế hoạch,
mà lại phát huy được sức mạnh của mọi người.
Nhưng cần khẳng định: kinh tế thị trường tự nó không thể mang lại chủ nghĩa xã hội
cho con người. Nước ta muốn đi lên chủ nghĩa xã hội phải phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Xu hướng phát triển nền kinh tế thị trường của Việt Nam:


+
+
+

Sự phát triển kinh tế gắn liền với toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, cạnh tranh giữa các
quốc gia về kinh tế.
Nước ta đang hòa nhập với nền kinh tế thị trường thế giới, sự giao lưu về hàng hóa dịch
vụ càng làm nước ta gần gũi hơn với nền kinh tế trị trường của thế giới.
Vì vậy cần tập trung phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.


Vấn đề 23: Ưu điểm, hạn chế của nền kinh tế thị trường?
















Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác động với
nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng hàng hoá, dịch vụ
trên thị trường.
Nền kinh tế thị trường vận hành theo cơ chế thị trường. Sản xuất cái gì? Sản xuất
cho ai?Sản xuất như thế nào
Ưu điểm:
Kinh tế thị trường là một thành tựu trong sự phát triển của xã hội loài người. Kinh tế thị
trường có tính năng động, tính cân đối và tính tự điều chỉnh.
Phát triển kinh tế thị trường phá vỡ kinh tế tự nhiên và thúc đẩy sản xuất.
Kích thích tính năng động sáng tạo của chủ thể kinh tế.
Thúc đẩy phân công lao động xã hội và chuyên môn hóa sản xuất nhờ đó phát huy tiềm
năng lợi thế từng vùng để tạo điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế.
Thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất. Tạo điều kiện để chuyển từ sản xuất

nhỏ lên sản xuất lớn có tính xã hội hóa cao đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước.
Kinh tế thi trường đào tạo tuyển chọn những người kinh doanh năng động. Kinh tế thị
trường tạo ra môi trường kinh doanh tự do, dân chủ trong kinh tế bảo vệ lợi ích người
tiêu dùng.
Hạn chế:
Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường dẫn đến sự phá sản hàng loạt của các đơn vị làm
ăn kém hiệu quả, nạn thất nghiệp gia tăng, sự phân hoá giàu nghèo phát triển
Nền kinh tế thị trường mang tính tự phát . Tính tự phát của thị trường còn dẫn đến tập
trung hóa cao sinh ra độc quyền, thủ tiêu cạnh tranh làm giảm hiệu quả chung và tính tự
điều chỉnh của nền kinh tế
Dẫn đến tình trạng phân hóa dân tộc, phân hóa giàu nghèo dẫn đến khủng hoảng kinh
tế, thất nghiệp, lạm phát
Phát sinh nhiều tệ nạn xã hội dẫn đến rối loạn xã hội kinh tế sa sút
Vì chạy theo lợi nhuận dẫn đến sự dụng bừa bãi tàn phá tài nguyên môi trường sinh thái
Chính vì vậy nhà nước có vai trò quan trọng tạo ra hành lang và bước đi cho nền kinh tế
thị trường vận động theo hướng XHCN


Vấn đề 24: Phân tích đăc trưng cơ chế quản lý tập chung bao cấp?









Thời bao cấp là tên gọi được sử dụng tại Việt Nam để chỉ một giai đoạn mà hầu hết
sinh hoạt kinh tế diễn ra dưới nền kinh tế kế hoạch hóa, một đặc điểm của nền kinh tế

theo chủ nghĩa cộng sản. Hàng hóa được nhà nước phân phối theo chế độ tem phiếu,
hàng hóa không được mua bán tự do trên thị trường, không được phép vận chuyển tự
do hàng hoá từ địa phương này sang địa phương khác. Phân phối hàng hóa, hạn chế trao
đổi bằng tiền mặt. Chế độ hộ khẩu được thiết lập trong thời kỳ này để phân phối lương
thực, thực phẩm theo đầu người. Lương đôi khi cũng được trả bằng hiện vật.
Trước đổi mới, cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta là cơ chế kế hoạch hóa tập trung
với những đặc trưng chủ yếu là:
Thứ nhất, nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ
thống chi tiêu pháp lệnh chi tiết từ trên xuống dưới. Các doanh nghiệp hoạt động trên
cơ sở các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các chỉ tiêu pháp lệnh
được giao. Tất cả phương hướng sản xuất, nguồn vật tư, tiền vốn, định giá sản phẩm, tổ
chức bộ máy, nhân sự, tiền lương… đều do các cấp có thẩm quyền quyết định. Nhà
nước giao chỉ tiêu kế hoạch, cấp phát vốn, vật tư cho doanh nghiệp, doanh nghiệp giao
nộp sản phẩm cho Nhà nước. Lỗ thì Nhà nước bù, lãi thì Nhà nước thu.
Thứ hai, các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh
của các doanh nghiệp nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về vật chất đối với các quyết
định của mình. Những thiệt hại vật chất do các quyết định không đúng gây ra thì ngân
sách Nhà nước phải gánh chịu.Hậu quả do hai điểm nói trên mang lại là cơ quan quản
lý nhà nước làm thay chức năng quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Còn
các doanh nghiệp vừa bị trói buộc, vì không có quyền tự chủ, vừa ỷ lại vào cấp trên, vì
không bị ràng buộc trách nhiệm đối với kết quả sản xuất.
Thứ ba, quan hệ hàng hóa – tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ hiện vật là chủ
yếu. Nhà nước quản lý kinh tế thông qua chế độ “cấp phát – giao nộp”. Hạch toán kinh
tế chỉ là hình thức.
Thứ tư, bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều cấp trung gian vừa kém năng động vừa sinh
ra đội ngũ quản lý kém năng lực, phong cách cửa quyền, quan liêu.


×