Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

Văn hóa nông thôn trong mảnh đất lắm người nhiều ma của nguyễn khắc trường và dòng sông mía của đào thắng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (329.99 KB, 48 trang )

VŨ THỊ THANH
Bộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2

VĂN HÓA NÔNG THÔN TRONG
MẢNH ĐẤT LẢM NGƯỜI NHIỀU MA
CỦA NGUYỄN KHẮC TRƯỜNG
VÀ DÒNG SÔNG MÍA CỦA ĐÀO THẮNG

LUẬN VÃN THẠC sĩ
NGÔN NGỮ VÀ VÃN HổA VIỆT NAM


VŨ THỊ THANH

VĂN HÓA NÔNG THÔN TRONG
MẢNH ĐẤT LẨM NGƯỜI NHIỀU MA
CỦA NGUYỄN KHẮC TRƯỜNG
VÀ DÒNG SÔNG MÍA CỦA ĐÀO THẮNG
Chuyền ngành: Lí luận văn học
Mã sổ
: 60. 22. 01. 20 ’

LUẬN VĂN THẠC sĩ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HổA VIÊT NAM

Ngưòi hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP


Bằng tấm lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành cảm ơn thầy giáo PGS. TS Nguyễn Đăng Điệp - người đã tận tình
hướng dẫn tôi trong suốt quá trình làm luận văn với tinh thần khoa học, nghiêm túc.


Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong Tổ Lý luận văn học, Phòng sau đại học - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
LỜI CẢM
2 đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu.
Xin cảm ơn thầy cô, bạn bè và những người thân trong gia đình đã động viên, giúp đỡ, tạo điều kiện để tôi hoàn thành
luận văn này.
Hà Nội, tháng 12 năm 2015
Hoc viền *

Vũ Thị Thanh
Tôi xin cam đoan những nội dung tôi trình bày trong luận văn là kết quả quá trình nghiên cứu của bản thân tôi.
Trong quá trình nghiên cứu, tôi có tìm hiểu, tham khảo thành quả khoa học của các tác giả khác với sự trân trọng và
biết ơn, nhưng nội dung tôi nghiên cứu không hùng với kết quả nghiên cứu của các tác giả khác.

Hà Nội, tháng 12 năm 2015
Hoc viền *

Vũ Thi Thanh
i


MỤC LỤC

2.1.1.
Đời sổng văn hóa qua phong tục

2.1.2.1


2.1.2.2...............................................................................................................



6

2.1.2.3MỞ ĐẦU

1. Lí do
chon đè
tài *

2.1.2.4Với một đất nước có gần 80% dân số làm nông nghiệp và nông thôn là
địa bàn cư trú chủ yếu của người dân như Việt Nam thì văn học viết về vùng đất này là
một bộ phận có yị trí quan trọng không thể thiếu trong nền văn học dân tộc. Như một
quy luật tất yếu và cũng như có một sức hút bí ẩn chúng ta bắt gặp hiện thực xã hội
nông thôn và đời sống người nông dân in dấu ấn lên hầu hết trang viết của các nhà
văn. Từ những câu ca dao, những khúc hát ru mộc mạc từ thuở xa xưa đến những vần
thơ nhàn tản, tao nhã của các nho sĩ thời trung đại, gần hơn nữa là những nhà văn hiện
đại Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Thạch Lam và sau
này là các cây bút tài năng như Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Kiên,
Nguyễn Khắc Trường, Đào Thắng...

2.1.2.5Đặc biệt từ năm 1986 đến nay, công cuộc đổi mới với tinh thần tự do dân chủ, nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật đã thổi vào văn chương một luồng
sinh khí mới. Nó cổ vũ mạnh mẽ sức sáng tạo của các nhà văn làm cho nhiều mảng đề
tài mới được mở ra, nhiều bức màn bí ẩn đã được vén lên và nhiều góc khuất đã được
chiếu rọi. Tuy vậy, như sức hấp dẫn vốn có đầy bí ẩn của những làng quê Việt, văn học
viết về nông thôn vẫn được đặc biệt quan tâm và góp phần làm nên sự phong phú của
văn chương thời kì đổi mới.

2.1.2.6Trong văn học viết về nông thôn, vấn đề thu hút sự chú ý của các nhà
văn, được họ quan tâm và đi sâu vào khám phá chính là văn hóa nông thôn, là những
giá trị vật chất và tinh thần được tích lũy và gìn giữ hàng ngàn đời nay nơi những làng

quê ẩn mình sau lũy tre xanh yên ả. Đặc biệt với các nhà văn hiện đại, bằng tình yêu
với mảnh đất còn nhiều nghèo khó nhưng chan chứa tình người này, họ đã chắt lọc


7

những gì tinh túy nhất, tìm lấy những gì cốt lõi nhất trong văn hóa nơi đây làm tư liệu
cho những sáng tác của mình. Cũng bởi yậy mà tất cả những nét văn hóa truyền thống,
những phong tục tốt đẹp, những lệ tục còn tồn tại hay sự thay đổi của đời sống và biến
động của lịch sử được các nhà văn khắc họa phong phú, sinh động. Từ đó số phận
người nông dân được miêu tả tỉ mỉ và chân thực từ đời sống sinh hoạt bình dị gắn với
ruộng đồng đến đời sống tinh thần đa dạng nhiều chiều và ngay cả những góc khuất
trong số phận của họ cũng được tái hiện. Làm được điều đó không có lí do nào khác là
tất cả đều được bắt nguồn từ tình yêu với mảnh đất và con người nơi đây của những
người cầm bút.

2.1.2.7Từ thực tế trên có thể nhận thấy dù được nói lên một cách trực tiếp hay
gián tiếp thì văn hóa nông thôn vẫn luôn thấp thoáng ẩn hiện trong những trang viết
của các nhà văn và thực sự thu hút được sự quan tâm của đông đảo bạn đọc.

2.1.2.8Vì yậy, chọn đề tài Văn hóa nông thôn trong Mảnh đất lắm người
nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường và Dòng sông Mỉa của Đào Thẳng, chúng tôi có
mong muốn phần nào khám phá những nét văn hóa tiêu biểu, độc đáo và đặc sắc của
một vùng đất là cái nôi của hầu hết những người con nước Việt này. Qua đó phần nào
giải mã được sức hấp dẫn của một mảng đề tài vốn đã rất quen thuộc nhưng luôn có
sức quyến rũ khó chối từ.

2. Lịch sử vấn đề
2.1.


Những nhận định chung về văn học và văn hóa nông thôn

2.1.2.9Đe tài văn hóa nông thôn là một mảng đề tài lớn của văn học Việt Nam
hiện đại, vì vậy xung quanh đề tài này có khá nhiều công trình nghiên cứu, tiểu luận
khác nhau. Tuy mỗi bài viết đề cập đến những vấn đề, khía cạnh khác nhau nhưng hầu
hết các tác giả đều thống nhất với nhận định là văn xuôi viết về nông thôn thời đổi
mới cần và đã có sự thay đổi vượt bậc.

2.1.2.10

Tác giả Trần Cương trong bài viết “Ta« xuôi viết về nông thôn


8

nửa sau những năm 80” (Tạp chỉ văn học số 4, năm 1995) đã nhận định về sự chuyển
biến của văn xuôi viết về nông thôn nửa sau những năm 1986 so với trước đó là: “Đã
có hai sự chuyển biển trong văn xuôi viết về nông thôn những năm sau 1986 so với
trước đó là sự chuyển biển trong chủ đề và sự chuyển biển trong phạm vi bao quát
hiện thực, về chủ đề lần đầu tiên xuất hiện hai chủ đề thuộc về con người mà trước
kia chưa có. Đó là chủ đề về sổ phận con người và hạnh phúc cá nhân ”. Còn về
phạm vi phản ánh hiện thực, các nhân vật như đã nhìn nhận và phản ánh hiện thực
nông thôn kĩ càng, họ thấy những gì ở tầng sâu, mạch ngầm của đời sống nông thôn.
Qua đó có thể thấy trong văn học viết về nông thôn thời hiện đại các tác giả đã đi sâu
khám phá một nông thôn đa dạng nhiều tầng, khám phá mặt nổi và những mặt chìm
trong đời sống nơi đây.

2.1.2.11

Trong Báo cáo tổng kểt đợt 1 cuộc thỉ viết về nông thôn nhà


nghiên cứu Hoàng Châu đã đưa ra nhận định: ‘‘‘'Chỉnh những tư tưởng dãn chủ của
thời đại đã tạo ra thành công cho các tác phẩm viết về nông thôn trong cuộc thi này
”. Như vậy bằng hiểu biết và sự tìm tòi, nghiên cứu của mình nhà nghiên cứu này đã
chỉ ra những ảnh hưởng của hoàn cảnh lịch sử, xã hội đến những sáng tác về nông
thôn của các nhà văn hiện đại.

2.1.2.12

Tác giả Phạm Ngọc Tiến đã có cái nhìn lạc quan khi khẳng định

nông thôn dù đứng trước những tác động mạnh mẽ của lịch sử nhưng thẳm sâu trong
nó vẫn là sức hấp dẫn, là nơi tìm về cho mọi thế hệ con người sinh ra và lớn lên từ
mảnh đất này với bài viết Đe tài nông thôn không bao giờ mòn (nguồn:
tuoitre.vn.2/12/2007).

2.1.2.13

Cùng quan điểm, trong một bài trả lời phỏng vẫn báo nông

nghiệp Việt Nam, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp đã đưa ra những đánh giá vô
cùng xác đáng “Văn học về người nông dân và nông thôn tuy ít người theo đuổi
nhưng vẫn chưa đển mức đoản mệnh”, ‘‘sổ lượng người viết về nông thôn nhiều hay ít


9

không phải quá quan trọng mà quan trọng hơn nhiều là làm sao để có được nhiều tác
phẩm hay”.


2.1.2.14

Bên cạnh đó còn rất nhiều những công trình, tiểu luận viết về

văn hóa nông thôn xin được điểm qua như:

2.1.2.15

+ Văn xuôi viết về nông thôn - Tiến trình và đổi mới - Lã Duy

Lan (Nxb, khoa học xã hội Hà Nội, 2001)

2.1.2.16

+ Tìm kiểm những trang viết về nông thôn - Tác giả Đỗ Kim

Cuông (nguồn Vietbao.vn, 15/10/2003)

2.1.2.17

+ Bức tranh làng quê và những sổ phận - Tác giả Nguyễn Văn

Long (Văn học Việt Nam sau 1975 và việc giảng dạy trong nhà trường, Nxb. Giáo
dục, Hà Nội, 2009)

2.1.2.18

+ Nhà quê, nông thôn: Tự nó và về nó- Mai Anh Tuấn (Nguồn:

Phongdiep.net, 2009)


2.1.2.19

+ Đề tài về người nông dãn, làm sao cho xứng tầm? - Đào Thái

Tuấn (Báo Văn nghệ số 8/2008)

2.1.2.20

2.2. Những đánh giá trực tiếp vè Mảnh đất lắm người nhiều ma của

Nguyễn Khắc Trường và Dòng sông Mỉa của Đào Thắng

2.1.2.21

Nông nghiệp nông thôn và nông dân luôn là mảnh đất nuôi

dưỡng những giá trị cốt yếu để tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc. Song song với đề tài
viết về chiến tranh thì đề tài nông thôn cũng làm nên những thành tựu lớn của văn học
Việt Nam. Cùng với nhiều nhà văn xuất sắc khác viết về đề tài này, Nguyễn Khắc
Trường và Đào Thắng đã đóng góp tài năng của mình vào sự nghiệp phát triển văn học
dân tộc thời kì đổi mới. Trong quá trình thu thập tài liệu, chúng tôi sưu tập được một
số bài viết phê bình, bình luận, nghiên cứu về các sáng tác của hai nhà văn như sau:

2.1.2.22

Tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma ra mắt năm 1990 và

đoạt giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam. Tác phẩm không chỉ trở thành một dấu ấn



1

quan trọng trong sự nghiệp viết văn của Nguyễn Khắc Trường mà còn nhận được sự
quan tâm, đánh giá của giới nghiên cứu, phê bình qua nhiều công trình nghiên cứu và
bài viết.

2.1.2.23

Trước hết, sự thành công của cuốn tiểu thuyết đã đưa đến cuộc

thảo luận do báo Văn nghệ tổ chức ngày 25-1-1991, sau đó được tập trung in trên tờ
báo Văn nghệ số 11, ngày 16-03-1991

2.1.2.24

Nhà nghiên cứu Hà Minh Đức nhận thấy nông thôn được

Nguyễn Khắc Trường nói đến là: “"Nông thôn với cách nhìn chân thực và chủ động”,
với ‘‘‘'nhiều chuyển động, xáo trộn, đẩu tranh giữa cái tốt với cái xẩu, tranh chấp
nhau giữa các thể lực”. Nông thôn “không cuộn lên trong các phong trào đẩu tranh
yêu nước, cải cách, hợp tác mà sôi lên từ những nguyên nhân bên trong, những
chuyện làng xóm ”. Đó là một nông thôn hết sức bình dị với cuộc sống thường ngày
của người nông dân, một nông thôn được xem xét trên khía cạnh văn hóa và lối sống,
một nông thôn với những đợt sóng ngầm mâu thuẫn từ những gì tưởng chừng gần gũi
và giản đơn nhất.

2.1.2.25

Giáo sư Phong Lê trong cuộc hội thảo này cũng đã nói: “vẩn đề


trọng yểu gây ẩn tượng sâu đậm là các vẩn đề chìm và nổi, ở bề mặt và bề sâu trong
sự đan xen đỏ. Không chỉ là chất thơ, mà còn là bi kịch, và là những bi kịch. Không
chỉ là những con người nhân danh đủ dạng trong bài trừ tiêu diệt lẫn nhau mà còn là
đủ dạng “dị dạng” bị đẩy ra hoặc bị vướng vào những cuộc giao tranh quyết liệt đó
Như vậy nông thôn ở đây không chỉ được xem xét trên bề mặt nữa mà đã được các
nhà văn “đào sâu tìm tòi” nhằm khám phá ra tất cả những gì xấu xa đang được che
khuất như mặt sau của tảng băng trôi.

2.1.2.26

Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng: “Thành công

của tác giả là tạo được một không khí riêng cho tác phẩm, một không khí âm dương
lẫn lộn, có nhân vật thật khó tách bạch đâu là phần quỷ, đâu là phần người ”. Qua đó


1

có thể thấy thành công xuất sắc của tác giả là đã xây dựng được hình ảnh những người
nông dân tha hóa sau những Chí Phèo, Bá Kiến, Binh Chức...

2.1.2.27

Giáo sư Trần Đình Sử thì nhận thấy “Một hiện tượng xã hội

nghiêm trọng, đáng quan tâm trong cuộc sống hiện nay là ý thức dỏng họ, gia tộc
đang gây trở ngại cho sự nghiệp xây dựng xã hội mới, xã hội công dân ở nông thôn ”.
Và ý thức dòng họ đã được tác giả khắc họa như một tượng chìm sâu, ngấm ngầm, dai
dẳng nhưng có vai trò rất lớn. Bằng cái nhìn rất sâu sắc và tinh tế ông đã nhận ra và

chỉ ra được một trong những mặt hạn chế trong văn hóa tộc họ ở nông thôn- nơi người
dân bị ảnh hưởng và ràng buộc sâu sắc bởi mối quan hệ khăng khít trong dòng họ.

2.1.2.28

Bên cạnh đó là các ý kiến của một số cây bút xuất hiện trên một

số các bài báo, chuyên luận khác.

2.1.2.29

Tác giả Ngọc Anh trong bài viết “Thể giới nhãn vật trong tiểu

thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường” (báo Giảo dục và
thời đại, ngày 27/05/1991) đã đi sâu vào nghiên cứu những đặc trưng bút pháp của
Nguyễn Khắc Trường trong cuốn tiểu thuyết và đưa ra nhận định: “Nguyễn Khắc
Trường tỏ ra vững vàng, từ việc xây dựng truyện, xây dựng nhân vật đến sử dụng
ngôn ngữ. Trong tác phẩm của anh, sự việc nọ nổi tiếp sự việc kia, bi kịch này kéo
theo bi kịch khác, nhiều sự kiện rối rẳm phức tạp, nhưng tác giả đã nhìn vào bản chất
của sự việc, giải quyết thấu đáo cứ như sự việc đủng như nó đã xảy ra như thể... phải
công nhận rằng tác giả Nguyễn Khắc Trường am hiểu nông thôn và có vốn ngôn ngữ
rất phong phú ”.

2.1.2.30

Trong bài viết “Đọc Mảnh đất lẳm người nhiều ma” (Tác phẩm

mới, Hà Nội, số 8, tháng 8, 1999) tác giả Lê Thành Nghị đã nhận ra vấn đề bao quát
của tác phẩm là: “vẩn đề nhận dạng bộ mặt tinh thần nông thôn, thực chẩt bộ mặt
nông thôn hôm nay và từ ngàn xưa là sự chỉ phổi khá triệt để về ỷ thức các dòng họ ”.

Cũng cùng quan điểm với nhà nghiên cứu Trần Đình Sử tác giả bài viết đã chỉ ra vấn


1

đề mấu chốt trong cộng đồng người dân nông thôn chính là ý thức tộc họ, là sự chi
phối của quan niệm “một giọt máu đào hơn ao nước lã”, cũng như sự ganh đua, mối
hiềm khích và mất đoàn kết trong nội bộ nông thôn đều bắt nguồn từ họ tộc.

2.1.2.31

Bài viết của Trần Đăng Khoa về ‘‘‘'Nguyễn Khắc Trường và

Mảnh đất lắm người nhiều ma” (Chân dung và đối thoại, Nxb Thanh niên, 1999) đã
nhận định: “Điều đáng ghi nhận ở cuốn tiểu thuyết này là nhà văn đã có vốn sống, sự
am hiểu sầu sẳc về đời sổng nông thôn ở nghệ thuật miêu tả tâm li nhân vật và ngôn
ngữ của nó. Nhược điểm dễ nhận thấy là kểt cẩu truyện lỏng lẻo, bổ trí sự xuất hiện
của nhãn vật cỏ phần gượng ép ”.

2.1.2.32

Cũng như Mảnh đất lắm người nhiều ma, Dòng sông Mỉa của

Đào Thắng thu hút được sự chú ý của rất nhiều nhà nghiên cứu.

2.1.2.33

Trên Tạp chỉ Nhà văn (số 7/2005), Trần Mạnh Hảo có đăng bài

“Dòng sông Mỉa của Đào Thẳng hay tiếng nấc của sông Chầu Giang” trong bài viết

này tác giả nói: “Đọc xong cuốn tiểu thuyết viết về sự hoành tráng của cái ngọt ngào
mà rất đẳng đót này của Đào Thẳng, tôi ngờ rằng phù sa của sông Châu Giang - linh
hồn đất Hà Nam- chảy qua văn anh, chảy qua tâm hồn anh e rằng cũng là thứ phù sa
đẳng. Tôi đã đọc cuốn tiểu thuyết này của Đào Thẳng trong ba ngày và nhược cả
người, mệt đến rã rời vì tác giả đã đẩy tôi vào cái làng Mía, bẳt tôi nhập hồn vào tất
cả các nhân vật: sống chết, điên cuồng, gian dâm, loạn luân, ức hiếp, ác nhân, mưu
ma chước quỷ, nhảy sông tự tử, khóc than, thù hận, giết nhau, giả nhân giả nghĩa mà
làm điều that đức... ”. Với nhìn nhận sâu sắc và khách quan của mình Trần Mạnh Hảo
đã chỉ ra được cái hồn cốt của tác phẩm, đã chỉ ra cái dũng cảm và tài năng của Đào
Thắng khi tác giả dám viết về một làng Mía “rất đẳng”.

2.1.2.34

Hoàng Ngọc Hiến trong bài “Trên đất nước có bao nhiêu làng

Mỉa” (Tạp chí sông Hương - số 196, tháng 6/2008) đã đưa ra nhận định về sức sống
của tác phẩm, về những thực tại nhức nhối còn tồn tại nơi làng quê rằng: “Có những


1

tác phẩm văn học giống như những hạt sạn ngoan cổ trong đôi giày của những người
đương tiến bước, chúng thường trực nhắc họ những thực tại nhức nhổỉ của đất nước
mà vì mải vui hoặc quá “hăng say” họ đã quên tịt như chưa bao giờ có... Làng Mỉa
của Đào Thẳng là một hạt sạn ngang ngạnh”.

2.1.2.35

Cũng theo Hoàng Ngọc Hiến, trong xã hội làng Mía: “Những


câu chuyện loạn luân, cưỡng hiếp, thông dâm, chọc ghẹo, trẫm mình, đẩu tổ... xảy ra
như cơm bữa ”. Ở đây bài viết muốn nhấn mạnh Đào Thắng không chỉ miêu tả chân
thực cuộc sống mà còn mạnh dạn đưa vào văn học những yếu tố mà các nhà văn
truyền thống ít đề cập đến: con người bản năng, đời sống tính dục, cái dâm, sex... qua
đó tác phẩm đặt ra những vấn đề gay gắt của hiện thực đời sống, thể hiện ý nghĩa nhân
văn sâu sắc.

2.1.2.36

Tác giả Nguyễn Trọng Tạo với “Dỏng sông Mỉa - bất ngờ một

tài văn ” lại nhận định: “Có thể nói theo ỷ kiến của riêng tôi rằng, khá lầu rồi, tôi
chưa thấy một cuốn tiểu thuyết nào của Việt Nam viết về nông thôn lại hấp dẫn và góc
cạnh như tiểu thuyết Dòng sông Mỉa của Đào Thẳng. Những chi tiết độc đáo, những
tỉnh cách mạnh mẽ và riêng lẻ của các nhẫn vật xuất hiện trong tiểu thuyết tưởng như
huyền thoại mà lại vô cùng chân thật, sổng động... ”.

2.1.2.37

Trên đây là những ý kiến khác nhau bàn về hai tác phẩm Mảnh

đất lẳm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường và Dòng sông Mỉa của Đào Thắng
của các nhà nghiên cứu cũng như các nhà văn. Tuy còn có nhiều ý kiến khen chê trái
chiều nhau nhưng điều đó không làm giảm giá trị tác phẩm mà càng khẳng định hơn
nữa tài năng tác giả và sức sống của tác phẩm trong lòng người đọc nhiều thế hệ.

2.1.2.38

Trên cơ sở kế thừa ý kiến người đi trước chúng tôi tiếp tục đi


vào nghiên cứu hai tác phẩm trên nhưng trên một phương diện mới đó là khám phá nét
Văn hóa nông thôn trong Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường và
Dòng sông Mỉa của Đào Thắng hi vọng sẽ có được cái nhìn khái quát chung về nông


1

thôn Việt Nam thời kì đổi mới.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiền cứu
3.1.
-

Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu Mảnh đất lắm người nhiều ma và Dòng sông Mỉa chúng tôi hướng tới
khám phá văn hóa nông thôn Việt Nam thời kì đổi mới trong các mối quan hệ đa dạng,
phức tạp, nhiều chiều, số phận người nông dân trước những biến động lịch sử xã hội.

-

Từ đó khẳng định đây là hai cuốn tiểu thuyết có những đóng góp xuất sắc cho dòng
văn học nông thôn ở nước ta.

3.2.
-

Nhiệm vụ nghiên cứu

Phân tích hai tác phẩm để chỉ ra những biến đổi đời sống văn hóa nông thôn thời kì

đổi mới.

-

Phân tích những đặc sắc nghệ thuật của nhà văn trong việc miêu tả văn hóa nông thôn
thời kì đổi mới, đồng thời khẳng định đóng góp của hai nhà văn trong việc mở ra một
hướng đi mới trong việc khám phá văn hóa nông thôn trong văn học Việt Nam thời kì
đổi mới.

4. Đối tượng và phạm vỉ nghiên cứu
4.1.

Đổi tượng nghiên cứu

2.1.2.39

Văn hóa nông thôn Việt Nam trong hai tác phẩm Mảnh đất lẳm

người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường và Dòng sông Mỉa của Đào Thắng.

4.2.

Phạm vi nghiên cứu

2.1.2.40

Luận văn tập trung nghiên cứu khảo sát hai tác phẩm Mảnh đất

lẳm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường và Dòng sông Mỉa của Đào Thắng.


2.1.2.41

Đồng thời để làm nổi bật vấn đề nghiên cứu chúng tôi có sự so sánh với

các tác phẩm khác cùng viết về đề tài này.

5. Phương pháp nghiền cứu
2.1.2.42

Để thực hiện nhiệm yụ nêu trên, trong qua trình thực hiện đề tài


1

chúng tôi sử dụng kết họp các phuơng pháp sau:

5.1.

Phuơng pháp hệ thống

5.2.

Phuơng pháp thống kê

5.3.

Phuơng pháp so sánh

5.4.


Phuơng pháp phân tích tác phẩm

5.5.

Tiếp cận thi pháp học

6. Đóng góp của luận văn
2.1.2.43

Đây là công trình có tính chuyên sâu nghiên cứu về văn hóa

nông thôn trong hai tác phẩm Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Truờng
và Dòng sông Mỉa của Đào Thắng nhằm chỉ ra những nét đặc trung tiêu biểu và độc
đáo của văn hóa nông thôn thời kì đổi mới.

2.1.2.44

Khẳng định cái nhìn và cách tiếp cận mới của hai tác giả với đề

tài “cũ”. Thông qua đó khẳng định tài năng và đóng góp của hai nhà văn này

2.1.2.45

Hi vọng, luận văn này sẽ đem lại cho độc giả yêu mến nhà văn

Nguyễn Khắc Truông và Đào Thắng cái nhìn toàn diện hơn về tác giả, đồng thời luận
văn có thể làm tài liệu tham khảo cho giáo viên, sinh viên, học sinh khi nghiên cứu về
hai tác giả này.

7. Cấu trúc của luận văn

2.1.2.46

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,

luận văn của chúng tôi đuợc triển khai thành ba chuơng nhu sau:

2.1.2.47

Chuơng 1: Đe tài nông thôn trong văn học Việt Nam hiện đại

2.1.2.48

Chương 2: Đời sống văn hóa và số phận người nông dân trong
Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường và Dòng

sông Mỉa của Đào Thắng
2.1.2.49 Chương 3: Nghệ thuật miêu tả văn hóa nông thôn trong Mảnh
đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường và Dòng sông Mỉa của
Đào Thắng


2.1.2.50

NỘI DUNG

Chương 1

2.1.2.51 ĐÈ TÀI NÔNG THÔN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN
ĐẠI


1.1.
1.1.1.

Giới thuyết khái niệm
Văn hóa nông thôn

2.1.2.52

Là một đất nước nông nghiệp với phần lớn dân số là nông dân

vì thế văn hóa nông thôn luôn thể hiện đậm nét trong văn học. Cuộc sống của người
nông dân vất vả một nắng hai sương bán mặt cho đất bán lưng cho trời với bao cơ cực,
nghèo khó, nhọc nhằn ấy được nhân dân lao động gửi gắm trong những bài ca dao,
những câu dân ca những lời hát ru thấm đẫm tình người. Để rồi mỗi người khi đi xa
nghĩ về quê hương, về nơi đã nuôi dưỡng sinh thành lại bồi hồi xúc động.

2.1.2.53

Việt Nam từ ngàn đời nay tự hào là cái nôi của nền văn minh

lúa nước vì vậy nông thôn luôn là môi trường sống bền bỉ của người dân. Nhắc tới
nông thôn là nhắc tới ngô, khoai, lúa, mạ... - những sản phẩm đặc trưng của nông
nghiệp, những thứ bình dị, gần gũi nhưng đã nuôi dưỡng biết bao thế hệ người dân đất
Việt. Cũng vì lí do đó mà văn hóa nông thôn luôn là đề tài chính, đề tài truyền thống
trong văn học Việt.

2.1.2.54

Nói đến văn hóa thì đã có rất nhiều cách nhìn nhận khác nhau


về khái niệm này.

2.1.2.55

Theo Đại từ điển tiếng Việt (1998), (Nguyễn Như Ý chủ biên,

Nxb Văn hóa - thông tin) thì: “Văn hóa là những giá trị vật chất, tinh thần do con
người sảng tạo ra trong lịch sử”.

2.1.2.56

Trong Từ điển tiếng Việt (2004), (Viện Ngôn ngữ học, Nxb Đà

Nằng và Trung tâm Từ điển học) đưa ra một loạt quan niệm về văn hóa:

2.1.2.57

+ Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tỉnh


thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử.

2.1.2.58

+ Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tỉnh

thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự
tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội.

2.1.2.59


+ Văn hóa là những hoạt động của con người nhằm thỏa mẫn

nhu cầu đời sổng tỉnh thần (nói tổng quát)

2.1.2.60

+ Văn hóa là tri thức, kiến thức khoa học

2.1.2.61

+ Văn hóa là trình độ cao trong sinh hoạt xã hội, biểu hiện của

văn

2.1.2.62

minh.

2.1.2.63

Cuốn Xã hội học văn hóa của tác giả Đoàn Văn Chúc, (1997)

(Viện Văn hóa và Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin), cho rằng: “ Văn hóa - vô sở bất
tại (văn hóa không nơi nào không có) điều này cho thấy tất cả những sáng tạo của
con người trên nền của thể giới tự nhiên là văn hóa ”.

2.1.2.64

Nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm trong “Tìm về bản sẳc văn


hóa Việt Nam ”(2012)( Nxb Tổng họp Tp. Hồ Chí Minh), cho rằng: “ Văn hóa là một
hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tỉnh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua
quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự
nhiên và xã hội của mình. ”

2.1.2.65

Theo tổ chức Giáo dục và Khoa học của liên hiệp quốc

UNESSCO: “Văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc
kia. ” Còn Trần Quốc Vượng trong cuốn sách “Cơ sở văn hóa Việt Nam” (2004),
(Nxb Giáo dục) đã nhận định: “Vẫn hóa được xem là sản phẩm do con người sảng
tạo, có từ thủa bình minh của xã hội loài người. ”

2.1.2.66

Đồng chí Phạm Văn Đồng trong một bài nói chuyện khẳng

định: “Văn hóa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử của dân tộc, nó làm nên sức


sổng mãnh liệt, giúp cộng đồng dân tộc Việt Nam vượt qua biết bao sóng gió và thác
gềnh tưởng chừng không thể vượt qua được, để không ngừng lớn mạnh và phát triển

2.1.2.67

Như yậy từ những khái niệm trên có thể thấy văn hóa là một

tổng thể những hệ thống biểu trưng chi phối cách ứng xử và giao tiếp trong một cộng

đồng khiến cộng đồng ấy có đặc thù riêng. Văn hóa bao gồm hệ thống những giá trị để
đánh giá một sự việc, một hiện tượng (đẹp, xấu, đạo đức, vô luân...) theo cộng đồng
ấy. Nói đến văn hóa là nói đến nét riêng về yật chất tinh thần của từng quốc gia, dân
tộc. Văn hóa mỗi dân tộc có thể được biểu hiện rất cụ thể qua những giá trị vật chất
như kiến trúc, trang phục, thiên nhiên, ngôn ngữ, phong tục nhưng cũng có thể rất trìu
tượng như đời sống tinh thần, suy nghĩ, ứng xử... Văn hóa bao giờ cũng hình thành
trong một quá trình và được tích lũy qua nhiều thế hệ, mang tính lịch sử và tạo cho văn
hóa một bề dày, một chiều sâu. Nó được duy trì bằng truyền thống văn hóa, tức là cơ
chế tích lũy và truyền đạt kinh nghiệm trong cộng đồng qua không gian và thời gian.
Nó là những giá trị tương đối ổn định thể hiện dưới những khuân mẫu xã hội được tích
lũy và tái tạo trong cộng đồng người và được cố định hóa dưới dạng ngôn ngữ, phong
tục, tập quán, nghi lễ, dư luận...

2.1.2.68

Ở Việt Nam, nông thôn là danh từ để chỉ những vùng đất mà ở

đó người dân sống chủ yếu bằng nghề nông nghiệp. Nông thôn là nơi cư trú của phần
đông dân số nước ta (tính đến 2009 có đến 70,4%), bên cạnh đó nông nghiệp là ngành
sản xuất vật chất cơ bản của xã hội, chính vì thế cuộc sống và tổ chức nông thôn ảnh
hưởng rất mạnh mẽ đến toàn xã hội. Người dân nông thôn cũng tích lũy cho mình một
bề sâu văn hóa có tầm ảnh hưởng rộng rãi. Khi nghiên cứu về văn hóa nông thôn thì
một số nhà nghiên cứu văn hóa như Trần Ngọc Thêm, Trần Quốc Vượng đã có chung
một nhận xét rằng: Đặc trưng nổi bật nhất của vần hóa người nông dân Việt Nam là
luôn có chữ tình trong quan hệ giữa người với người, người với tự nhiên và người với
xã hội.


2.1.2.69


Một số nhà nghiên cứu khác, khi phân tích đặc trưng văn hóa

của xã hội nông thôn truyền thống đã tổng họp các đặc trưng cơ bản sau:

1. Xã hội nông thôn truyền thống lẩy nông nghiệp làm gốc, trọng nông ức thương, coi
trọng tước vị và lãnh nghiệm.

2. Đề cao tỉnh thần cộng đồng, không đề cao sự khác biệt, đa dạng, cá nhân chịu sự
khổng chế và giám sát của cộng đồng.

3. Tư tưởng cào bằng không chấp nhận sự nổi trội về mức sổng và lổi
2.1.2.70

sổng.

4. Những giá trị chung được xã hội khuyến khích là gìn giữ tình làng nghĩa xóm, trọng
cội nguồn, tổ tiên, lòng biết ơn công lao của các bậc tiền nhãn, phát huy tinh thần
tương thần tương ái.

2.1.2.71

Phan Đại Doãn trong cuốn ‘‘‘'Làng xã Việt Nam - một sổ vẩn đề

kỉnh tể, văn hóa, xã hội” (2004), (Nhà xuất bản chính trị quốc gia) đưa ra hai đặc điểm
chính của văn hóa truyền thống làng xã Việt, đó là:

2.1.2.72

Nền văn hóa của xã hội nông nghiệp thể hiện rõ ở tỉnh thần


trọng nông và rất thực tiễn (dĩ nông lập quốc).

2.1.2.73

Một nền văn hóa hướng nội, tuy có chịu nhiều ảnh hưởng của

văn hóa Trung Hoa, xong về cơ bản văn hóa Việt Nam vẫn lẩy quốc gia, lẩy làng - xã,
họ hàng và gia đình làm trung tâm.

2.1.2.74

Như vậy có thể tổng kết một số đặc điểm của văn hóa nông thôn

là: Trọng nông, trọng kinh nghiệm dân gian, trọng lão, trọng tình, trọng nghĩa, trọng
cộng đồng, trọng lệ làng, trọng cội nguồn, trọng giản dị. Ngoài ra, cũng phải nhận thấy
mặt hạn chế như: thái độ tự thỏa mãn, chấp nhận số phận, địa phương cục bộ, che giấu
thông tin, nghi kị những yếu tố đổi mới, e ngại sự giao lưu kết nối với bên ngoài, đặt lệ
làng cao hơn phép nước, đưa các mối quan hệ dòng tộc vào việc chung. Văn hóa Việt
Nam truyền thống có bản chất là một nền văn hóa nông nghiệp, chính vì thế, vai trò


của gia đình, họ hàng và cộng đồng xóm làng có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong đời
sống người dân nông thôn. Những quan hệ này được xây dựng và gìn giữ qua các thế
hệ bằng nhiều hình thức (hôn nhân, tín ngưỡng, đoàn kết xã hội...), nó gắn bó các
thành viên qua các sinh hoạt làng xã và tạo nên một thứ keo gắn bó các thành viên với
nhau để cùng vượt qua những khó khăn trong cuộc sống thường ngày hay trước những
biến cố lớn về giặc giã, thiên tai. Nó là cái gốc của tình làng nghĩa xóm, là yếu tố gợi
lên mối tình quê hương trong lòng người dân đi xa làng. Trong truyền thống người dân
nông thôn đã xây dựng cho mình những quy tắc ứng xử trong dòng họ, cộng đồng
được quy định rõ ràng trong tộc ước hay hương ước.


2.1.2.75

Trong làng xã Việt Nam truyền thống tồn tại nhiều mối dây liên

hệ gắn chặt các cá nhân trong cộng đồng với nhau. Nông thôn Việt Nam dày đặc
những mối quan hệ chặt chẽ về nghề nghiệp, dân cư, tổ chức, quan hệ xã hội, người
dân nông thôn Việt Nam luôn chịu sự chi phối mạnh của ít nhất một tổ chức nào đó
trong suốt cuộc đời mình, họ có vô vàn mối liên kết không thể và không dám gỡ bỏ:
phải phục tùng lệ làng, lệ họ, lệ phường, lệ hội... xét về ý nghĩa xã hội thì những ràng
buộc chặt chẽ của cộng đồng là chỗ dựa cho cá nhân khi có sự cố, nó cũng tạo nên sức
kiềm chế có hiệu quả đối với hành vi sai lệch của cá nhân, xong các liên kết này cũng
tạo nên tính thụ động, ỷ lại ăn sâu bám rễ trong tính cách người dân nông thôn truyền
thống.

1.1.2.

Văn hóa nông thôn trong văn học

2.1.2.76

Với phần lớn dân số Việt Nam có xuất thân từ nông thôn nên

văn học dù viết về chốn thôn dã hay thành thị đều ít nhiều mang dấu ấn cảm thức về
nông thôn. Bắt đầu từ văn học dân gian - chiếc cầu nối chuyển tải những tâm tư tình
cảm của con người, ngợi ca cuộc sống của nhân dân, thì đề tài nông thôn đã trở thành
đề tài chủ đạo trong các bài ca dao dân ca. Chúng ta bắt gặp những câu ca chan chứa
tình cảm như:



2.1.2.77

“Trên đồng cạn dưới đồng sâu

Chồng cày vợ cấy con trầu đi bừa”

2.1.2.78
2.1.2.79

Ca dao

Hay cuộc sống bần hàn của những con người có nghị lực vượt

khó khăn chông gai, trở ngại của cuộc sống:

2.1.2.80

“Cày đồng đang buổi ban trưa

Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày ”

2.1.2.81 Ca dao
2.1.2.82

Hoặc những câu tục ngữ đúc kết kinh nghiệm đời sống nông

nghiệp.

2.1.2.83 “Thưa ao tốt cá
2.1.2.84 “Nắng tốt dưa, mưa tốt lúa ”.

2.1.2.85 “Đất thiểu trồng dừa, đất thừa trồng cau ”.
2.1.2.86 “Con trầu là đầu cơ nghiệp ”.
2.1.2.87 “Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phần ”...
2.1.2.88 Tục ngữ
2.1.2.89

Trong các câu chuyện từ thần thoại, sử thi, đến truyện cổ tích,

truyện cười thì hình ảnh người nông dân lao động và cuộc sống của họ cũng đi vào
trong văn học một cách tự nhiên và hồn hậu. Đó là cô Tấm (Tẩm Cám), Lang Liêu
(Bánh chưng bánh giày), Mai An Tiêm trong (Sự tích dưa hấu),...

2.1.2.90

Sang đến văn học trung đại đề tài nông thôn hiện lên qua cuộc

sống ẩn dật của những nhà nho nhàn tản, bỏ chốn phồn hoa, cửa quyền nhiều ganh đua
để tìm về với thôn dã như: Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Khuyến. Đó là:

2.1.2.91

“Thu ăn măng trúc

đông ăn giả Xuân tẳm hồ sen, hạ
tẳm ao”


2.1.2.92

(Nhàn - Nguyễn Bỉnh


Khiêm)

2.1.2.93



2.1.2.94

“Rồi hóng mát thủa

ngày trường Hòe lục đùn đùn tán
rợp giương

2.1.2.95

{Cảnh ngày hè - Nguyễn

Trãi)

2.1.2.96

Đến

2.1.2.97

“Năm nay cày cấy vẫn

chân thua Chiêm mất đằng chiêm mùa
mất mùa”


2.1.2.98
2.1.2.99

(Chốn quê Nguyễn Khuyến)

Hoặc

2.1.2.100

“Sớm trưa dưa muối

cho qua bữa Chợ bủa trầu cau chẳng
dám mua”

2.1.2.101
2.1.2.102

(Chốn quê Nguyễn Khuyến)

Đó cũng có thể là một nông thôn nghèo đói, lạc hậu và tăm tối

trong sáng tác của những nhà văn hiện thực như Nam Cao, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng
Phụng. Nhưng cũng có thể là một nông thôn thanh bình yên ả, tuy nghèo đói nhưng
chan chứa tình người trong những trang viết của Thạch Lam.

2.1.2.103

Như yậy có thể thấy, một cách rất tự nhiên và hồn hậu, văn hóa


và con người nông thôn đã đi vào văn học, đã là nguồn cảm hứng, là đề tài cho những
áng văn thơ, những câu chuyện cổ hay những tác phẩm của các nhà văn hiện đại.
Mảnh đất nông thôn và những nét văn hóa nơi đây như sợi chỉ xanh lấp lánh cứ ẩn
hiện đâu đây và không bao giờ đứt trong suốt chiều dài hàng ngàn năm lịch sử của dân


tộc. Chừng nào người Việt Nam còn sống bằng ngô, khoai, lúa, gạo thì chừng đó văn
hóa nông thôn còn tồn tại trong những tác phẩm văn chương.

1.2.

Đề tài nông thôn trong văn học Việt Nam hiện đại

1.2.1.

Nông thôn trong văn học Việt Nam trước 1945

2.1.2.104

Sang đầu thế kỉ XX, xã hội Việt Nam có nhiều biến đối mạnh mẽ và

sâu sắc. Thực dân Pháp đẩy mạnh công cuộc khai thác thuộc địa dẫn đến đời

2.1.2.105

sống của nhân dân và đặc biệt là người dân nông thôn ngày càng bần

cùng, đen tối. Làng quê bao đời thanh bình yên ả nay li tán tiêu điều. Cùng với đó,
trước những biến động chính trị xã hội sâu sắc, trước xu thế tư sản hóa đa dạng, nhà
nho dần mất yị trí của mình trên vũ đài lịch sử. Do sự ngoại nhập của văn hóa phương

Tây, dẫn đến sự ra đời của các thể loại văn học như truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ... đã
làm thay đổi căn bản quan niệm và diện mạo văn học truyền thống từ văn học giáo
huấn sang văn học hiện thực. Một trong những vấn đề nóng được nhiều tác giả quan
tâm và phản ánh là đề tài nông thôn và cuộc sống của người nông dân trước những
biến chuyển đổi thay của xã hội. Các tác giả tiêu biểu của thời kì này có thể kể đến
như: Phạm Duy Tốn, Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam
Cao, Ngô Tất Tố.

2.1.2.106

Phạm Duy Tốn (1881 - 1947) với các truyện ngắn tiêu biểu:

Nước đời lắm nỗi, Con người Sở Khanh, sổng chết mặc bay... đã phản ánh thực trạng
xã hội bất công, thối nát đương thời bằng việc miêu tả hình ảnh người nông dân đói
khát, chết chóc vì lũ lụt và phải tha phương tìm kế sinh nhai trong xã hội thực dân nửa
phong kiến lúc bấy giờ. Hoặc miêu tả sự đối lập gay gắt giữa một bên là hàng ngàn
dân phu đang phải vật lộn với mưa lũ trong cảnh đất trời tối tăm đầy tai họa và một
bên là viên quan huyện đang đánh tổ tôm cùng đám nha lại có lính tráng phục vụ giữa
làng. Bằng ngòi bút sắc sảo của mình, tác giả đã làm xúc động biết bao thế hệ người
đọc.


2.1.2.107

Bên cạnh đó, Hồ Biểu Chánh (1900 - 1930) - nhà văn tiêu biểu

của văn học Nam Bộ nói riêng, văn học Việt Nam nói chung được đánh giá là tác giả
được nhiều người ưa thích, nhà viết tiểu thuyết đáng chú ý nhất của thời kì này. Tác
phẩm của ông với lối viết bình dị, ngôn ngữ gần gũi với lời nói hàng ngày và vốn sống
phong phú đã đề cập đến hiện thực rất nhiều mặt ở nông thôn Nam Bộ. Ở đó, hình ảnh

những tên địa chủ gian ác, tham lam, ức hiếp bóc lột dân lành và dưới chúng là cả một
lực lượng từ bọn hương chức, hội đồng... Đối lập với chúng là những người nông dân
nghèo khổ quanh năm bị bóc lột dù làm lụng vất vả cực nhọc vẫn không thoát khỏi cái
nghèo đói tăm tối nhưng ở họ tác giả còn nhìn thấy những phẩm chất tốt đẹp như: tính
cách nghĩa hiệp, trọng tình nghĩa, chất phác, đôn hậu...

2.1.2.108

Có thể nói văn xuôi giai đoạn giao thời tuy còn rất sơ khai

nhưng các nhà văn đã đi vào phản ánh hiện thực một cách xác thực hơn. cốt truyện và
nhân yật nông dân trong tác phẩm chân thật gần gũi hơn. Hình ảnh người nông dân
hiện lên bần cùng, khốn khổ bởi sự bóc lột của những thế lực đen tối trong xã hội. Các
nhà văn tôn trọng hiện thực khách quan, trên cái nhìn đầy tính nhân văn đã cho thấy
những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân.

2.1.2.109

Đen những năm 30 của thế kỉ XX, trong sự phát triển mạnh mẽ

của lịch sử xã hội, văn học viết về đề tài nông thôn giai đoạn này đã phát triển vượt
bậc, đạt nhiều thành tựu. số phận người nông dân bị áp bức bóc lột và sự vùng lên đấu
tranh tự phát được các nhà văn đi sâu miêu tả, khám phá.

2.1.2.110

Nguyễn Công Hoan (1903- 1977) với con mắt chế giễu và tấm

lòng cảm thông sâu sắc với người lao động nghèo khổ đã đả kích sâu cay vào thành trì
của xã hội cũ với những điển hình sống động về hình ảnh bọn cường hào địa chủ, quan

lại trong tiểu thuyết Bước đường cùng, và hàng loạt những truyện ngắn trào phúng:
Đồng hào có ma, Tinh thần thể dục, Chiếc quan tài... nhà văn đã thể hiện cái nhìn sắc
sảo và sâu sắc hơn khi phản ánh cuộc sống của người nông dân cùng với đó là tấm


lòng cảm thương, trân trọng trước hoàn cảnh sống của họ.

2.1.2.111

Ngô Tất Tố (1894-1954) - một nhà nho, sinh sống và gắn bó

máu thịt với những người nông dân ở làng quê nên ông thấu hiểu cảm thông và trân
trọng họ. Qua hai thiên phóng sự Việc làng và Tập án cái đình các tệ nạn xã hội cũng
như các hủ tục chốn làng quê được Ngô Tất Tố phanh phui. Tuy vậy phải đến

2.1.2.112

Tắt đèn (1939) tác phẩm xác định yị trí đầy vinh dự của ông trong lịch

sử văn học Việt Nam hiện đại và khẳng định dứt khoát Ngô Tất Tố xứng đáng với
danh hiệu nhà văn của nông thôn và người nông dân. Tắt đèn là một bản cáo trạng
đanh thép về chế độ thực dân phong kiến xấu xa đẩy người dân vào đói khổ điêu đứng.
Đồng thời tác phẩm đã rung lên hồi chuông làm thức tỉnh những người có mong muốn
hủy bỏ chế độ thuế thân - một thứ thuế dã man thời trung cổ đánh vào đầu người đang
sống và cả người đã chết. Bên cạnh đó, Tắt đèn còn xây dựng hình ảnh người phụ nữ
nông dân đẹp người đẹp nết (chị Dậu) dám đứng lên chống trả bọn thống trị. Đúng
như Vũ Trọng Phụng đã nói: Tắt đèn là một thiên tiểu thuyết... hoàn toàn phụng sự dân
quê, một áng văn có thể gọi là kiệt tác.

2.1.2.113


Nam Cao (1917- 1951)- đại biểu xuất sắc nhất của chủ nghĩa

hiện thực phê phán giai đoạn 1900 - 1945 đã để lại sự ám ảnh trong lòng người đọc về
một làng quê âm u nặng nề, quằn quại trong đói rách ngột ngạt với vô vàn nỗi khổ
chồng chất: khổ vì cường hào áp bức, khổ vì sưu cao thuế nặng, khổ vì bão lũ, khổ vì
hủ tục nặng nề, vì túng quẫn phản bán vợ dợ con... Với cái nhìn nhân đạo sâu sắc, nhà
văn đã phát hiện ra tình trạng người nông dân bị “Aỉỉy hoại cả nhân hình lẫn nhân
tỉnh”. Với hàng loạt những tác phẩm khó quên như: Lão Hạc, Dì Hảo, Nghèo, Một
bữa no, Một đảm cưới, Trẻ con không được ăn thịt chó... đã đưa Nam Cao trở thành
đại biểu xuất sắc nhất của chủ nghĩa hiện thực phê phán giai đoạn 1900 - 1945. Với
quan niệm: íiKhơi những nguồn chưa ai khơi và sảng tạo những gì chưa có” Nam Cao
đã để lại đỉnh cao xuất sắc nhất, kết tinh những giá trị của chủ nghĩa hiện thực phê
phán, đó chính là Chỉ Phèo - lần đầu tiên hình ảnh người nông dân bị

11

hủy hoại cả


×