Tải bản đầy đủ (.docx) (122 trang)

Hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ tại Tập đoàn Hóa chất Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (983.67 KB, 122 trang )

DANH MỤC KÝ HIỆU VIẾT TẮT
Ký hiệu

Giải thích từ ngữ

AICPA

Hiệp hội kiểm toán viên công chứng Hoa Kỳ

BGĐ

Ban giám đốc

BKS

Ban kiểm soát

COSO

Hiệp hội các tổ chức tài trợ

HTKSNB

Hệ thống kiểm soát nội bộ

HĐQT

Hội đồng quản trị

HĐTV


Hội đồng thành viên

IFAC

Liên đoàn Quốc tế

KSV

Kiểm soát viên

KSNB

Kiểm soát nội bộ

KTNB

Kiểm toán nội bộ

NCC

Nhà cung cấp

NĐD

Người đại diện

TGĐ

Tổng giám đốc


TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

TSCĐ

Tài sản cố định

TĐKT

Tập đoàn kinh tế

TNHHMTV Trách nhiệm hữu hạn một thành viên


MỤC LỤC


DANH MỤC CÁC BẢNG


DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài


Trong thời gian vừa qua để đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, tăng
cường khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế toàn cầu, tăng cường vị trí của doanh
nghiệp nhà nước trong việc bảo đảm vai trò chủ đạo, dẫn dắt các doanh nghiệp thuộc

các thành phần kinh tế khác hoạt động theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy Nhà
nước đã thực hiện chủ trương tiếp tục đổi mới, sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước
và thành lập các doanh nghiệp Nhà nước có qui mô lớn, kinh doanh trong những lĩnh
vực quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Theo chủ trương đó, Thủ tướng chính phủ đã
ban hành Quyết định 91/TTg ngày 7/3/1994 về thí điểm thành lập các tập đoàn kinh tế.
Việc thành lập này sẽ tạo tiền đề cho sự phát triển kinh tế của Việt Nam trong tương
lai. Tập đoàn kinh tế (TĐKT) là một cơ cấu sở hữu được tổ chức thành hệ thống với
quy mô lớn, vừa có chức năng sản xuất - kinh doanh, vừa có chức năng liên kết kinh tế
thông qua hoạt động trên nhiều ngành, nhiều lĩnh vực ở nhiều vùng lãnh thổ khác
nhau. Sự hội nhập vào nền kinh tế thế giới ngày càng sâu rộng của Việt Nam đòi hỏi
phải có những tập đoàn kinh tế mạnh, giữ vai trò chủ đạo và điều tiết một số lĩnh vực
quan trọng trong nền kinh tế để hạn chế sự thao túng và chi phối của nhiều công ty đa
quốc gia và các tập đoàn kinh tế tư bản quốc tế xâm nhập vào Việt Nam khi Việt Nam
đã trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Song các tập đoàn
kinh tế Việt Nam được thành lập dựa trên các tổng công ty có quy mô chưa lớn, yếu
kém trong quản lý. Kinh doanh đạt hiệu quả thấp, chưa phát huy tốt vai trò chủ lực
trong nền kinh tế. Một số làm ăn thua lỗ kéo dài và lâm vào tình trạng phá sản. Nhiều
tập đoàn nhà nước đầu tư dàn trải, không tập trung vào ngành kinh doanh chính, đầu tư
vào những lĩnh vực nhạy cảm, rủi ro và không thuộc thế mạnh của mình như bất động
sản, chứng khoán, ngân hàng, nợ nần chồng chất của một số TĐKT đã được phát hiện
và báo động từ nhiều năm nay như Vinashin, Vinalines. Bên cạnh đó Nhà Nước còn
nhiều hạn chế, thiếu sót trong các chính sách, pháp luật đã ban hành liên quan đến các
tập đoàn, dẫn đến những tồn tại, yếu kém trong tổ chức quản lý, sử dụng vốn và tài sản
tại các doanh nghiệp này. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến những yếu kém đó, trong
đó có nguyên nhân quan trọng là kiểm soát nội bộ kém hiệu quả.
Năm 2009 trong ngành hoá chất nhà nước đã ký quyết định thành lập Tập đoàn
Hoá chất Việt Nam dựa trên cơ sở sắp xếp lại Tổng Công ty Hoá chất Việt Nam. Với
qui mô lớn và hoạt động đa ngành nghề thì việc phải thiết lập một HTKSNB đủ mạnh
để hỗ trợ để hỗ trợ cho công tác quản lý là một tất yếu khách quan nhằm đảm bảo cho



tập đoàn đạt được các mục tiêu như: bảo vệ tài sản, đảm bảo độ tin cậy của thông tin,
đảm bảo thực hiện các quy định đề ra, đảm bảo hiệu quả hoạt động. Tuy nhiên tập
đoàn được thành lập không phải do quá trình tích tụ vốn và phát triển quy mô dần trở
thành tập đoàn như các nước trên thế giới nên trong quá trình hoạt động còn rất nhiều
hạn chế như: vẫn còn dựa vào bao cấp, độc quyền, kinh doanh đạt hiệu quả thấp chưa
tương xứng với những lợi thế và sự đầu tư của nhà nước, đầu tư ra ngoài ngành kém
hiệu quả. Chưa tách bạch được vai vai trò chủ sở hữu với chức năng quản lý nhà nước.
Sự tích tụ, tập trung vốn và kiểm soát vốn còn nhiều hạn chế. Một số vị trí quản lý chủ
chốt được bổ nhiệm vì lý do chính trị mà không dựa trên năng lực quản trị kinh
doanh. Hệ thống thông tin tiềm ẩn nhiều hạn chế không thực sự hữu dụng cho quá
trình ra quyết định. Rất ít các đơn vị thuộc tập đoàn có được những chính sách và thủ
tục KSNB riêng phù hợp với thực tiễn của đơn vị. Hơn nữa một trong bảy nội dung
chủ yếu theo chủ trương tái cơ cấu Tập đoàn giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2015 của
Thủ tướng Chính phủ thì là phải tăng cường công tác KSNB tại Tập đoàn.
Xuất phát từ những lý do trên, hoàn thiện hệ thống KSNB tại Tập đoàn Hóa
chất Việt Nam trở thành vấn đề có tính cấp bách trong quản lý, có ý nghĩa cả về lý
luận và thực tiễn trong giai đoạn hiện nay. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề
này, em đã lựa chọn Đề tài: "Hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ tại Tập đoàn
Hóa chất Việt Nam" làm đề tài nghiên cứu của mình.

2. Tổng quan các nghiên cứu về hệ thống kiểm soát nội bộ
Cho đến nay, đã có rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu hệ thống kiểm soát nội
bộ trên những khía cạnh và lĩnh vực khác nhau. Luận án đã tổng quan các công trình
nghiên cứu và rút ra kết luận.
Thứ nhất, các lý luận về hệ thống KSNB trên thế giới đã phát triển tập trung
làm rõ các khái niệm về hệ thống KSNB, vai trò của hệ thống KSNB trong doanh
nghiệp, các tiêu chí và công cụ để đánh giá hệ thống KSNB, các bộ phận cấu thành của
hệ thống KSNB. Năm 1929, khái niệm về KSNB và công nhận vai trò của hệ thống
KSNB trong doanh nghiệp được đưa ra trong các văn bản hướng dẫn của các tổ chức

nghề nghiệp và quản lý công bố của Cục Dự trữ Liên bang Hoa kỳ. Nó được sử dụng
trong các tài liệu kiểm toán và được hiểu là một công cụ nhằm bảo vệ tài sản, tuân thủ
pháp luật, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, đưa ra các tiêu chuẩn tìm
hiểu về hệ thống KSNB. Năm 1934, Ủy ban Chứng khoán Hoa kỳ vận dụng khái niệm


về KSNB để soạn thảo pháp luật về giao dịch chứng khoán Hoa kỳ, trong đó có nêu
vai trò của hệ thống kiểm soát nội bộ đối với việc bảo đảm các mục tiêu cơ bản như:
quy định các tiêu chuẩn về cung cấp thông tin và mô hình các hành vi, qua đó tổ chức
phát hành phải cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, rõ ràng, phản ánh hoạt động kinh
doanh, rủi ro, lợi nhuận của dự án đầu tư mới hay các hoạt động đang diễn ra. Điều
này nhằm mục đích khuyến khích các nhà đầu tư thực hiện các quyết định đầu tư mua,
bán hay giữ chứng khoán một cách hợp lý trong tình trạng đầy đủ thông tin. Luật pháp
cũng quy định các chế tài nghiêm khắc nhằm ngăn chặn các hành vi xuyên tạc thông
tin, lừa dối, gian lận trên thị trường chứng khoán. Năm 1936, Hiệp hội kiểm toán viên
công chứng Hoa kỳ (AICPA) đã xác định KSNB có tác dụng bảo vệ tiền và tài sản
cũng như kiểm tra tính chính xác trong ghi chép của sổ sách từ đó cung cấp các số liệu
kế toán tin cậy, thúc đẩy hoạt động có hiệu quả, khuyến khích sự tuân thủ các chính
sách của nhà quản lý. Năm 1958, trong tài liệu qui định phạm vi của kiểm toán viên
độc lập xem xét KSNB, trong đó lần đầu tiên phân biệt KSNB về quản lý và KSNB về
kế toán.
Đến năm 1970, khi thiết kế hệ thống kế toán và kiểm toán, người ta đặc biệt chú ý
đến KSNB tại doanh nghiệp và coi việc hoàn thiện nó là công việc của kiểm toán viên.
Năm 1977, lần đầu tiên khái niệm về hệ thống KSNB xuất hiện trong một văn bản pháp
luật của Hạ viện Hoa Kỳ, nó được đúc rút từ sau vụ bê bối với các khoản thanh toán bất
hợp pháp cho chính phủ nước ngoài. Đến thập niên 80 (1980-1988), với sự sụp đổ hang
loạt các công ty cổ phần tại Hoa kỳ, các nhà lập pháp buộc phải quan tâm đến KSNB và
ban hành nhiều quy định hướng dẫn như: Qui định về các qui tắc đạo đức, kiểm soát và
làm rõ chức năng của KSNB; Qui định về phòng chống gian lận báo cáo tài chính; Các
nguyên tắc về báo cáo trách nhiệm và đánh giá hiệu quả của KSNB.

Như vậy, từ trước năm 1929 đến năm 1992, lý luận về KSNB không ngừng
được mở rộng, tuy nhiên KSNB vẫn chỉ dừng lại là một phương tiện phục vụ cho các
kiểm toán viên trong quá trình kiểm toán báo cáo tài chính, có nhiều quan điểm không
đồng nhất về KSNB, do đó dẫn đến yêu cầu phải hình thành một hệ thống lý luận có
tính chuẩn mực về KSNB.
Đến năm 1992, các công ty ở Hoa kỳ phát triển rất nhanh, kèm theo đó là tình
trạng gian lận, gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế. Do đó, nhiều uỷ ban ra đời để tìm
cách khắc phục và ngăn chặn các gian lận, hỗ trợ phát triển kinh tế trong đó có Uỷ ban


COSO (Committee Of Sponsoring Organizations) là một uỷ ban gồm nhiều tổ chức
nghề nghiệp nhằm hỗ trợ cho Uỷ ban Treadway như: Hiệp hội kế toán viên công
chứng Hoa Kỳ (AICPA), Hội kế toán Hoa Kỳ (AAA), Hiệp hội các nhà quản trị tài
chính (FEI), Hiệp hội kiểm toán viên nội bộ (IIA) và Hiệp hội kế toán viên quản trị
(IMA) đã đưa ra khuôn mẫu lý thuyết chuẩn cho kiểm soát nội bộ. Báo cáo của COSO
gồm 4 phần và là tài liệu đầu tiên trên thế giới nghiên cứu một cách đầy đủ có hệ
thống về KSNB, làm nền tảng cho lý thuyết về KSNB hiện đại sau này. Điểm mới của
báo cáo là đã đưa ra được các bộ phận cấu thành của hệ thống KSNB (môi trường
kiểm soát, đánh giá rủi ro, hoạt động kiểm soát, thông tin và truyền thông, giám sát),
các tiêu chí cụ thể để đánh giá hệ thống KSNB cho mục tiêu báo cáo thông tin tài
chính, đưa ra được các công cụ đánh giá hệ thống KSNB, KSNB không còn chỉ là một
vấn đề liên quan đến báo cáo tài chính mà còn mở rộng ra các lĩnh vực hoạt động và
tuân thủ
Sau Báo cáo COSO, đã có hàng loạt nghiên cứu mở rộng và phát triển lý luận
về KSNB trên nhiều lĩnh vực như: Sử dụng báo cáo COSO là nền tảng đánh giá hệ
thống KSNB trong kiểm toán độc lập về kiểm toán báo cáo tài chính và ảnh hưởng của
công nghệ thông tin đến việc xem xét KSNB trong báo cáo tài chính được thể hiện
trong Chuẩn mực kiểm toán Hoa Kỳ; Vận dụng KSNB của COSO vào hệ thống ngân
hàng và các tổ chức tín dụng trong Báo cáo Basel của Uỷ ban Basel
Trong lĩnh vực kiểm toán một số công trình nghiên cứu cũng đề cập đến kiểm

soát, kiểm soát nội bộ trong mối quan hệ với kiểm toán nội bộ: Tác giả Victor Z.Brink
và Herbert Witt (1941) về “Kiểm toán nội bộ hiện đại – đánh giá các hoạt động và hệ
thống kiểm soát”; Tác giả O.Ray Wittington và Kurt Pany (1995) về “Các nguyên tắc
của kiểm toán” [32]
Trong lĩnh vực quản trị doanh nghiệp, KSNB cũng được đề cập rất rõ ràng
trong mối quan hệ biện chứng với công tác quản trị: Tác giả Merchant, K.A (1985) về
“Kiểm soát trong tổ chức kinh doanh”; Tác giả Anthonny, R.N và Dearden,
J.Bedford (1989) về “Kiểm soát quản lý”; Tác giả Laura F.Spira và Micheal Page
(2002) “Nghiên cứu về quản trị rủi ro trong mối quan hệ với KSNB”; Tác giả Yuan Li,
Yi Liu, Younggbin Zhao (2006) “Nghiên cứu về vai trò định hướng thị trường của
doanh nghiệp và KSNB có tác động đến hoạt động phát triển sản phẩm mới” [32]


Thứ hai, hệ thống lý luận về hệ thống KSNB ở Việt Nam thể hiện ở những cuốn
giáo trình, sách, tạp chí, báo, các bài viết tập trung nghiên cứu khái niệm về hệ thống
kiểm soát nội bộ, các yếu tố cấu thành hệ thống KSNB, vai trò và trách nhiệm của các
đối tượng có liên quan đến KSNB, những hạn chế tiềm tàng của hệ thống KSNB, trình
tự và phương pháp nghiên cứu hệ thống KSNB của kiểm toán viên. Năm 2007,
Trường Đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh xuất bản lần thứ 5 cuốn kiểm toán,
trong cuốn sách này có chương 3 đề cập tới hệ thống KSNB [29]. Tác giả Nguyễn
Quang Quynh (2006) tái bản lần 2 cuốn “Giáo trình kiểm toán tài chính” có chương 4
đánh giá hệ thống KSNB và các sách kiểm toán tài chính của các trường đại học trong
cả nước [73]. Những tài liệu trên cũng chỉ cung cấp và chỉ rõ hơn lý luận về kiểm soát
nội bộ, cũng không vận dụng nó trong một tổ chức cụ thể.
Thứ ba, sự ra đời và phát triển lý luận về hệ thống KSNB ở Việt Nam gắn liền
với sự ra đời và phát triển của hoạt động kiểm toán và nhu cầu quản trị của các doanh
nghiệp. Năm 1980, khi Nhà nước từng bước chuyển nền kinh tế bao cấp sang nền kinh
tế thị trường theo định hướng XHCN, đặc biệt là khi xuất hiện các nhà đầu tư nước
ngoài, các công ty cổ phần xuất hiện với nhiều hình thức sở hữu, quyền quản lý tài sản
tách rời quyền sở hữu tài sản, nhu cầu minh bạch thông tin của các nhà quản lý, các

nhà đầu tư, nhu cầu được cung cấp thông tin chính xác về báo cáo tài chính đòi hỏi
phải có hoạt động kiểm toán, lúc này hoạt động kiểm toán mới được chú trọng, sự
thành lập của Công ty kiểm toán đầu tiên của Việt Nam (VACO) vào tháng 5/1991
đánh dấu một bước ngoặt lớn đối với công tác kiểm tra kế toán ở Việt Nam. Sau đó,
với sự thành lập của nhiều công ty kiểm toán khác như các công ty hợp danh, công ty
liên doanh, các công ty kiểm toán quốc tế tại Việt Nam đã tạo nhiều cơ hội thuận lợi
cho kiểm toán Việt Nam phát triển và hội nhập với nền kinh tế thế giới sự ra đời hàng
loạt các công ty kiểm toán và Kiểm toán Nhà nước, dẫn đến yêu cầu về đánh giá hệ
thống KSNB của các doanh nghiệp. Do đó đòi hỏi phải có một nền tảng lý thuyết căn
bản về KSNB. Trước tình hình đó: Tháng1/1994, Chính phủ ban hành Quy chế kiểm
toán độc lập. Tháng 7/1994 thành lập Kiểm toán Nhà nước trực thuộc Chính phủ.
Tháng 10/1994, Bộ Tài chính ban hành Quy chế kiểm toán nội bộ áp dụng cho các
doanh nghiệp Nhà nước.
Nhìn chung, ở Việt Nam, lý luận về kiểm soát nội bộ còn sơ sài và chưa được
coi trọng, kiểm soát nội bộ chủ yếu vẫn chỉ được xem là công cụ quan trọng hỗ trợ


kiểm toán viên độc lập thực hiện kiểm toán. Chức năng kiểm soát nội bộ chưa thực sự
tách rời hoàn toàn khỏi kiểm toán nội bộ và kiểm soát nội bộ chưa được xem là công
cụ hữu hiệu giúp ích cho quá trình quản lý hoạt động của doanh nghiệp.
Thứ tư, Tại Việt Nam nghiên cứu ứng dụng hệ thống KSNB trong một đơn vị
cụ thể ở các ngành, các lĩnh vực cũng được nhiều tác giả quan tâm ở các luận văn cao
học. Kết quả nghiên cứu của luận văn đều hệ thống hóa được các nguyên lý chung về
hệ thống KSNB, chưa có tác giả nào bổ sung cho lý luận mới về hệ thống KSNB, chưa
có tác giả nào đưa ra được tiêu chí để đo lường và đánh giá HTKSNB hoạt động đạt
hiệu quả như mong muốn và phân tích được mối quan hệ giữa nhân tố tác động đến
việc thiết kế và vận hành của hệ thống KSNB. Điểm riêng của các nghiên cứu này là
quá trình phân tích và đánh giá thực trạng hệ thống KSNB của từng đơn vị cụ thể để
đưa ra giải pháp hoàn thiện hệ thống KSNB. Có thể kể đến các luận văn thạc sỹ:
Thuộc lĩnh vực ngân hàng có: Tác giả Trần Thị Minh Thư (2001) về “Hoàn

thiện hệ thống kiểm soát nội bộ trong tổng công ty nhà nước Việt Nam” [79]. Tác giả
Dương Thị Thu Trang (2006) về “Hoàn thiện hệ thống KSNB trong Công ty tài chính
công nghiệp Tầu thủy” [81]. Tác giả Khúc Thị Huyền Trang (2008) về “Hoàn thiện hệ
thống KSNB với việc tăng cường quản lý tài chính tại chi nhánh ngân hàng Nông
nghiệp và phát triển nông thôn Long Biên” [82]... Ngân hàng là một tổ chức kinh
doanh đặc biệt, với chức năng tạo tiền, thanh toán và tín dụng. Vì vậy việc xây dựng
mô hình tổ chức hệ thống KSNB phù hợp để đạt được mục tiêu của tổ chức là vô cùng
quan trọng. Các nghiên cứu đã khái quát được đặc điểm của hệ ngân hàng có ảnh
hưởng tới thiết kế và vận hành hệ thống KSNB, đánh giá được thực trạng hệ thống
KSNB tại các ngân hàng, từ đó đưa ra các giải pháp kiến nghị và hoàn thiện. Một số
luận văn cũng chỉ giải quyết được hoàn thiện hệ thống KSNB về hoạt động tín dụng tại
ngân hàng.
Thứ năm, một số các tác giả cũng đề cập tới hệ thống KSNB trên góc độ xây
dựng hệ thống KSNB như: Tác giả Ngô Trí Tuệ và cộng sự (2004) với đề tài “Xây
dựng hệ thống kiểm soát nội bộ với việc tăng cường quản lý tài chính tại Tổng công ty
Bưu chính viễn thông Việt Nam” đề tài nghiên cứu đặc điểm hoạt động của doanh
nghiệp để từ đó thiết kế và vận hành hệ thống KSNB phù hợp với doanh nghiệp [74].
Tác giả Lê Thị Minh Hồng (2002) với đề tài “Tăng cường hệ thống kiểm soát nội bộ
trong các khách sạn” đã đề cập tới tăng cường hệ thống kiểm soát nội bộ trong lĩnh


vực kinh doanh khách sạn [36]
Thứ sáu, trong thời gian gần đây đã có một số nghiên cứu thuộc Luận án tiến sỹ
về hệ thống KSNB nhưng không phải trong một doanh nghiệp cụ thể mà phạm vi
nghiên cứu rộng hơn trong một ngành, bộ hoặc một tổng công ty. Với việc nghiên cứu
này các nghiên cứu đã lập phiếu khảo sát các đơn vị để đánh giá được thực trạng hệ
thống KSNB trong các đơn vị thành viên, tìm ra các điểm giống nhau và khác nhau
trong việc thiết kế và vận hành hệ thống KSNB để từ đó hoàn thiện cho cả hệ thống.
Có thể kể đến:
Tác giả Phạm Bính Ngọ (2011) với Luận án tiễn sĩ về “Tổ chức hệ thống kiểm

soát nội bộ trong các đơn vị dự toán trực thuộc Bộ Quốc Phòng” [56]. Đề tài đã nêu
được đặc điểm của các đơn vị dự toán trực thuộc Bộ quốc phòng với tổ chức KSNB
(phân theo từng cấp từ bộ đến các sư đoàn và đơn vị tương đương với các các đặc
điểm về tài chính: là đơn vị quản lý và sử dụng ngân sách đảm bảo cho việc thực hiện
nhiệm vụ của đơn vị, tài chính chịu tác động của các qui luật kinh tế và qui luật chiến
tranh và được xây dựng trên cơ sở kết hợp giữa phân cấp theo ngành với phân cấp theo
đơn vị sử dụng ở từng cấp), đã tìm hiểu và đúc rút được các kinh nghiệm quốc tế về tổ
chức kiểm soát ngân sách trong các đơn vị quân đội (kinh nghiệm tại các quốc gia
như: Hoa Kỳ, Canada, Trung Quốc, Ba Lan, Hàn Quốc). Đề tài cũng nêu ra một số hạn
chế (Nhận thức về hệ thống KSNB của một số lãnh đạo chưa đầy đủ, phân cấp quản lý
chưa đi đôi với quyền hạn và trách nhiệm, đội ngũ cán bộ có trình độ không đồng đều,
hoạt động kiểm soát thiếu sự đồng bộ, hệ thống định mức không đầy đủ) và nguyên
nhân của hạn chế về hệ Tác giả Phạm Bính Ngọ (2011) với Luận án tiễn sĩ về “Tổ
chức hệ thống kiểm soát nội bộ trong các đơn vị dự toán trực thuộc Bộ Quốc Phòng”
[56]. Đề tài đã nêu được đặc điểm của các đơn vị dự toán trực thuộc Bộ quốc phòng
với tổ chức KSNB (phân theo từng cấp từ bộ đến các sư đoàn và đơn vị tương đương
với các các đặc điểm về tài chính: là đơn vị quản lý và sử dụng ngân sách đảm bảo cho
việc thực hiện nhiệm vụ của đơn vị, tài chính chịu tác động của các qui luật kinh tế và
qui luật chiến tranh và được xây dựng trên cơ sở kết hợp giữa phân cấp theo ngành với
phân cấp theo đơn vị sử dụng ở từng cấp), đã tìm hiểu và đúc rút được các kinh
nghiệm quốc tế về tổ chức kiểm soát ngân sách trong các đơn vị quân đội (kinh
nghiệm tại các quốc gia như: Hoa Kỳ, Canada, Trung Quốc, Ba Lan, Hàn Quốc). Đề
tài cũng nêu ra một số hạn chế (Nhận thức về hệ thống KSNB của một số lãnh đạo


chưa đầy đủ, phân cấp quản lý chưa đi đôi với quyền hạn và trách nhiệm, đội ngũ cán
bộ có trình độ không đồng đều, hoạt động kiểm soát thiếu sự đồng bộ, hệ thống định
mức không đầy đủ) và nguyên nhân của hạn chế về hệ thống KSNB (cơ sở pháp lý
về tổ chức hoạt động của hệ thống KSNB chưa hình thành đồng bộ, trình độ hiểu biết
hệ thống KSNB còn hạn chế, công tác chỉ đạo và kiểm tra còn thiếu cụ thể và chưa rõ

ràng) trong các đơn vị dự toán trực thuộc bộ quốc phòng, từ đó vận dụng đưa ra một số
giải pháp hoàn thiện (xác định mô hình tổ chức hệ thống KSNB, tạo dựng môi trường
kiểm soát khoa học và có hiệu lực, nâng cao chất lượng công tác kiểm tra tài chính,
hoàn thiện hệ thống thông tin và thủ tục kiểm soát). Tuy nhiên đề tài còn chưa phân
tích được mối quan hệ giữa các nhân tố tác động đến hệ thống KSNB, chưa xây dựng
được mô hình với mối liên hệ giữa các biến phụ thuộc và biến độc lập để tìm ra được
qui luật của sự tác động đó, từ đó thiết kế hệ thống KSNB cho hiệu quả. Đề tài cũng
chưa xây dựng được các thước đo để đánh giá hệ thống KSNB của đơn vị từ đó đưa ra
nhận định về sự yếu kém của hệ thống KSNB còn mang tính định tính
Thứ bảy, Tổ chức hoạt động kinh doanh dưới mô hình tập đoàn còn là vấn đề
mới mẻ, trong quá trình hoạt động hơn 10 năm qua còn bộc lộ khá nhiều mặt hạn chế.
Trong thời gian qua có các tác giả nghiên cứu về hoạt động kinh doanh mô hình hoạt
động tập đoàn nhưng trên những khía cạnh khác nhau. Tác giả Nguyễn Đình Phan
(1996) với đề tài “Thành lập và quản lý các tập đoàn kinh doanh ở Việt Nam” [57],
với nội dung chủ yếu là trình bày những lý luận chung về tập đoàn, đưa ra những nhận
xét về mô hình hoạt động này, đồng thời đưa ra các khuyến nghị nhằm đảm bảo cho
mô hình này hoạt động hiệu quả ở Việt Nam.
Như vậy, theo hiểu biết của tác giả chưa có một nghiên cứu nào khái quát cả về
lý luận và thực tiễn về hệ thống kiểm soát nội bộ tại các tập đoàn kinh tế nói chung
cũng như Tập đoàn Hóa chất nói riêng. Vì lý do đó Luận án tập trung vào nghiên cứu
lý luận về hệ thống KSNB trong các đơn vị hoạt động theo mô hình tập đoàn kinh tế,
kinh nghiệm quốc tế về hệ thống KSNB của các tập đoàn trên thế giới, thực trạng hệ
thống KSNB bộ tại Tập đoàn Hóa chất Việt Nam. Từ đó đưa ra các giải pháp hoàn
thiện cho hệ thống KSNB cho Tập đoàn Hóa chất Việt Nam.
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm phát triển lý luận về HTKSNB trong Tập
đoàn kinh tế. Từ đó đánh giá thực trạng HTKSNB tại Tập đoàn Hoá chất Việt Nam để


đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện HTKSNB phù hợp với đặc thù hoạt
động của Tập đoàn.


3. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu hệ thống kiểm soát nội bộ tại Tập đoàn Hóa chất Việt Nam.
Với đối tượng này, Luận án đi sâu nghiên cứu các vấn đề lý luận cơ bản và tiến hành
khảo sát thực trạng HTKSNB tại Tập đoàn Hoá chất Việt Nam, từ đó đề xuất các giải
pháp hoàn thiện HTKSNB tại Tập đoàn hiện nay.

4. Phạm vi nghiên cứu
+ Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, Luận án tập trung vào nghiên cứu
HTKSNB tại công ty mẹ, công ty thành viên (gồm công ty con và công ty liên kết)
thuộc Tập đoàn Hoá chất Việt Nam, danh sách các công ty con, công ty liên kết thuộc
Tập đoàn [Phụ lục 01]
+ Thời gian thực hiện điều tra, phỏng vấn từ năm 2011 đến nay

5. Mục tiêu và ý nghĩa nghiên cứu của đề tài
- Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm phát triển lý luận về HTKSNB trong Tập
đoàn kinh tế. Từ đó đánh giá thực trạng HTKSNB tại Tập đoàn Hoá chất Việt Nam để
đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện HTKSNB phù hợp với đặc thù hoạt
động của Tập đoàn.
- Ý nghĩa nghiên cứu của đề tài
Về lý luận: Luận án đã tổng hợp toàn diện các quan điểm khác nhau về HTKSNB,
đồng thời chỉ ra được các đặc điểm các tập đoàn nói chung và Tập đoàn hóa chất nói
riêng tác động đến việc thiết kế và vận hành HTKSNB tại Tập đoàn (tập đoàn được
thành lập dựa trên cơ sở tổ chức sắp xếp lại Tổng công ty Hoá chất Việt Nam mà
không phải được hình thành qua quá trình tích tụ vốn và phát triển quy mô dần trở
thành tập đoàn)
Về thực tiễn: Luận án khảo sát và phân tích các yếu tố cấu thành của HTKSNB
tại Tập đoàn Hoá chất Việt Nam. Trên cơ sở đó đánh giá những điểm mạnh và điểm
yếu của các yếu tố cấu thành nên HTKSNB. Các nguyên nhân được luận giải và là cơ

sở sở đề xuất được những quan điểm và giải pháp khả thi nhằm hoàn thiện HTKSNB
tại tập đoàn.

6. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Để giải quyết được các câu hỏi nghiên cứu của đề tài và đạt được mục tiêu


nghiên cứu, Luận án sử dụng phương pháp
- Phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác Lê Nin vào
nghiên cứu xã hội học. Xuất phát từ ứng dụng thực tiễn của Luận án và nghiên cứu
hoạt động cụ thể HTKSNB tại Tập đoàn Hoá chất Việt Nam, Luận án sử dụng phương
pháp khái quát hoá, tổng hợp và phân tích những nguyên lý cơ bản về hệ thống KSNB
qua các giáo trình, tài liệu, công trình một số tác giả gắn với hoạt động của Tập đoàn
để thấy được ảnh hưởng của đặc thù hoạt động tới việc thiết kế và vận hành
HTKSNB tại Tập đoàn từ đó đưa ra nhận định, đánh giá. Hệ thống hoá tài liệu quốc tế
về HTKSNB tại Tập đoàn của một số nước trên thế giới, từ đó tổng hợp kinh nghiệm áp
dụng cho Việt Nam.
- Phương pháp điều tra, quan sát, phỏng vấn: Tác giả đã thực hiện thiết kế bảng câu hỏi để
điều tra kết hợp với phỏng vấn sâu tại công ty mẹ và các công ty thành viên thuộc Tập
đoàn. Bên cạnh đó tác giả kết hợp quan sát các hoạt động và các nghiệp vụ của đơn vị.
Tất cả nhằm mục đích làm rõ thực trạng HTKSNB tại Tập đoàn.
Đối tượng phỏng vấn là TGĐ, GĐ, các trưởng phòng: Tài chính - Kế toán, kiểm
soát, tổ chức nhân sự, đầu tư xây dựng, kế hoạch kinh doanh, hợp tác phát triển, kỹ
thuật và văn phòng tại công ty mẹ, công ty con và công ty liên kết thuộc Tập đoàn để
làm rõ hơn những thông tin thu thập từ phiếu điều tra.
- Phương pháp xử lý dữ liệu: từ kết quả điều tra, quan sát và phỏng vấn sâu tác giả đã
tổng hợp thành 14 bảng để từ đó mô tả, đánh giá, phân tích, tổng hợp, so sánh nhằm
hoàn chỉnh những thông tin định lượng thu được từ kết quả điều tra nhằm đánh giá
được thực trạng HTKSNB tại Tập đoàn.
- Nguồn dữ liệu sử dụng

+ Nguồn dữ liệu thứ cấp: để tổng quan được toàn bộ hệ thống KSNB tại Tập
đoàn Hóa chất Việt Nam tác giả đã tìm hiểu các báo cáo tổng kết, báo cáo tài chính,
báo cáo kiểm toán của Tập đoàn, các báo cáo thanh tra, kiểm tra của các cấp trong 3
năm gần nhất. Trong mỗi báo cáo này đều có phần đánh giá về hệ thống KSNB của tập
đoàn. Tác giả nghiên cứu thiết kế hệ thống KSNB tại Tập đoàn, đi theo nó là toàn bộ
hệ thống các văn bản, qui chế, qui định của tập đoàn ban hành để vận hành hệ thống
KSNB, từ đó tìm hiểu, phân tích, đánh giá xem còn điều gì bất cập, chưa phát huy hiệu
quả thậm chí còn kìm hãm sự phát triển của Tập đoàn.
+ Nguồn tài liệu sơ cấp: Để tìm hiểu sâu hơn về HTKSNB tại Tập đoàn Tác giả
đã thực hiện điều tra bằng Bảng câu hỏi điều tra kết hợp với phỏng vấn và quan sát tới


công ty mẹ và các công ty thành viên thuộc tập đoàn, số lượng các công ty thành viên
được điều tra là 30. Việc cụ thể về lý do chọn mẫu nghiên cứu, Tác giả đã trình bày tại
mục 2.1.3

7. Những đóng góp mới của Luận án
Những đóng góp của Luận án thể hiện ở cả hai mặt lý luận và thực tiễn, cụ thể:
- Về lý luận:
+ Cụ thể hoá để làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về HTKSNB tại doanh nghiệp.
Phân tích các quan điểm khác nhau về HTKSNB, từ đó tổng quát đưa ra mô hình tổ
chức HTKSNB làm khung lý thuyết nghiên cứu HTKSNB tại Tập đoàn Hoá chất Việt
Nam gồm: Nội dung (chính sách kiểm soát, thủ tục kiểm soát), các yếu tố cấu thành
(môi trường kiểm soát, hệ thống thông tin, thủ tục kiểm soát), mục tiêu của HTKSNB
(bảo vệ tài sản của đơn vị, đảm bảo độ tin cậy của thông tin, đảm bảo việc thực hiện
chế độ pháp lý, bảo đảm hiệu quả hoạt động)
+ Phân tích được đặc điểm hoạt động (địa vị pháp lý, cơ cấu tổ chức, qui mô và phạm
vi hoạt động, quan hệ liên kết và quản lý vốn, ngành nghề và lĩnh vực kinh

doanh,


chế độ sở hữu), đặc điểm về vốn (sở hữu vốn, quyền sở hữu và quyền điều hành vốn,
công khai minh bạch và điều chỉnh cơ cấu vốn, chịu sự điều tiết của cơ chế quản lý tài
chính, rủi ro vốn) tập đoàn chi phối đến việc thiết kế và vận hành HTKSNB tại tập
đoàn. Phân biệt được HTKSNB tại tập đoàn kinh tế với HTKSNB tại các doanh doanh
nghiệp đơn lẻ nhằm làm rõ hơn vấn đề thiết kế và vận hành HTKSNB mô hình hoạt
động tập đoàn.
+ Luận án đã nghiên cứu kinh nghiệm tổ chức HTKSNB của các tập đoàn kinh tế trên
thế giới như ở: Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc và trên cơ sở đó đã rút ra được
các bài học kinh nghiệm cho Việt Nam: HTKSNB xây dựng trên quan điểm thống
nhất dung hoà được lợi ích của các đơn vị thành viên; Phân định rõ việc thiết kế
HTKSNB cho tập đoàn Nhà nước và tập đoàn kinh tế tư nhân; Thiết kế phù hợp với sự
hình thành và phát triển của tập đoàn; Cơ chế kiểm tra, giám sát đối với tập đoàn


- Về thực tiễn: Điều tra, phân tích, đánh giá thực trạng HTKSNB tại Tập đoàn
Hoá chất Việt Nam, tính hiệu lực của các chính sách và vận hành của HTKSNB. Kết
quả đánh chỉ ra những mặt đạt được, đặc biệt là những tồn tại và nguyên nhân của
những tồn tại, từ đó Luận án đề xuất những giải pháp chủ yếu và thiết thực hoàn thiện
HTKSNB tại Tập đoàn Hoá chất Việt Nam cụ thể:
+ Hoàn thiện các yếu tố cấu thành HTKSNB gồm: môi trường kiểm soát (đặc
thù quản lý, cơ cấu tổ chức, chính sách nhân sự, công tác kế hoạch, bộ máy kiểm soát),
hệ thống thông tin (hệ thống thông tin toàn tập đoàn, hệ thống thông tin kế toán), thủ
tục kiểm soát (các nguyên tắc, các hoạt động cơ bản)
+ Hoàn thiện qui chế quản lý NĐD: cách thức kiểm soát, xác định vị trí làm
việc của người đại diện phù hợp với từng công ty thành viên, thu nhập của NĐD, qui
định việc kiêm nhiệm đối với NĐD, tiêu chuẩn và điều kiện tuyển trọn NĐD, thực
hiện luân chuyển NĐD
+ Hoàn thiện kiểm soát vốn tại tập đoàn: cơ chế giám sát, năng lực quản trị điều
hành, cơ cấu vốn, minh bạch về tài chính, xây dựng phương án tài chính theo chủ

trương tái cấu trúc tập đoàn
+ Một số giải pháp tái cấu trúc tập đoàn từ nay đến năm 2015: đầu tư sâu vào
ngành nghề kinh doanh chính, đầu tư vào sản phẩm mới, xây dựng kế hoạch phát triển
thị trường, đẩy mạnh quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp, triển khai ứng dụng,
đầu tư đổi mới công nghệ, phân công hợp tác không cạnh tranh nội bộ

8. Kết cấu, bố cục của đề tài nghiên cứu
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về hệ thống kiểm soát nội bộ và hệ thống
kiểm soát nội nộ trong các tập đoàn kinh tế
Chương 2: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại Tập đoàn Hóa chất Việt Nam
Chương 3 : Phương hướng và giải pháp hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ tại Tập
đoàn Hóa chất Việt Nam.


CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỆ THỐNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ
VÀ HỆ THỐNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ TRONG CÁC
TẬP ĐOÀN KINH TẾ
1.1. Kiểm soát trong quản lý
Để một tổ chức tồn tại và phát triển thì cần phải có quản lý. Có rất nhiều quan
điểm khác nhau về quản lý. Nhìn nhận quản lý theo hoạt động, James H. Donnelly và
các cộng sự đưa ra khái niệm về quản lý nhấn mạnh trên khía cạnh hành vi của quản
lý: “Quản lý là một quá trình do một hay nhiều người thực hiện, nhằm phối hợp các
hoạt động của những người khác để đạt được kết quả mà một người hành động riêng
rẽ không thể nào đạt được” [90, tr52]. Nhận định quản lý theo chức năng GS.TS
Nguyễn Quang Quynh nói “Quản lý là một quá trình định hướng và tổ chức thực hiện
các hướng đã định trên cơ sở những nguồn lực xác định nhằm đạt được hiệu quả cao
nhất” [73, tr8]. Quá trình định hướng này bao gồm nhiều giai đoạn, đầu tiên cần phải
dự báo và kiểm tra các thông tin về nguồn lực và mục tiêu cần đạt tới, sau đó xây dựng
kế hoạch và chương trình hành động, cuối cùng là tổ chức thực hiện các kế hoạch và
chương trình đã định. Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, sự nhận thức của

con người ngày càng được mở rộng nên lý giải trong khái niệm về quản lý càng trở
nên rõ rệt. Để hình thành nên hoạt động quản lý cần xác định ba vấn đề: Chủ thể quản
lý, đối tượng quản lý, mục đích quản lý, hoạt động này được tiến hành trong một môi
trường và điều kiện nhất định nào đó. Hoạt động quản lý cần vận dụng chức năng và
phương pháp quản lý để đạt được mục đích quản lý. Chủ thể quản lý ở đây chính là bộ
máy quản lý của đơn vị bao gồm cán bộ lãnh đạo các cấp, các bộ phận cán bộ chuyên
môn thực thi các nghiệp vụ quản lý điều hành đơn vị. Đối tượng quản lý chính là con
người và các sự vật hiện tượng diễn ra trong đơn vị, đối tượng quản lý khác nhau do
đó quá trình quản lý cũng phát sinh những vấn đề phức tạp. Vì vậy thực hiện chức
năng quản lý có hiệu quả sẽ góp phần đưa doanh nghiệp phát triển không ngừng, lấy
hiệu quả kinh tế thực tế làm nguyên tắc hoạt động.
Kiểm soát có liên quan mật thiết với quản lý, nó có vai trò quan trọng trong
việc ra quyết định của nhà quản lý, nó là một trong năm chức năng của quản lý bao
gồm: Xác định mục tiêu và lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, phối hợp, kiểm soát.
Thông qua kiểm soát nhà quản lý nhìn nhận được những thiếu sót trong hệ thống tổ


chức để đề ra các biện pháp điều chỉnh kịp thời. Khi có kiểm soát nhà quản lý sẽ có
đầy đủ thông tin để ra quyết định thích hợp nhằm thích ứng với môi trường, đạt được
mục tiêu đề ra.
Có nhiều quan điểm khác nhau về kiểm soát, theo Henri Fayol “Kiểm soát là
việc kiểm tra để khẳng định mọi việc có thực hiện theo đúng kế hoạch hoặc các chỉ
dẫn và các nguyên tắc đã được thiết lập hay không, từ đó nhằm chỉ ra các yếu kém và
sai phạm cần điều chỉnh, tìm ra các nguyên nhân để ngăn ngừa chúng không được
phép tái diễn” [110, tr49]. Theo Anthony và các cộng sự thì cho rằng “Kiểm soát là
một quá trình thực hiện một tập hợp các thay đổi nhằm đạt được các mục tiêu đã định”
[109, tr20] khái niệm này nhấn mạnh đến sự điều khiển theo phạm vi rộng của kiểm
soát. Theo quan điểm kiểm soát là chức năng của quản lý GS.TS Nguyễn Quang
Quynh cho rằng “Kiểm soát phải là một pha hay một giai đoạn của quá trình quản lý
mà là một chức năng không thể tách rời của quản lý.

Trong suốt quá trình quản lý, kiểm soát luôn luôn tồn tại trước, trong và sau
mỗi hoạt động định hướng hoặc tổ chức để thực hiện hoặc điều chỉnh mỗi hoạt động
đó. Một cách tổng hợp nhất, kiểm soát được hiểu là tổng hợp các phương sách để nắm
lấy và điều hành đối tượng hoặc khách thể quản lý” [71, tr9]. Theo PGS.TS Nguyễn
Thị Phương Hoa đã đưa khái niệm về kiểm soát quản lý “Kiểm soát là quá trình đo
lường, đánh giá và tác động lên đối tượng kiểm soát nhằm đảm bảo mục tiêu, kế
hoạch của tổ chức được thực hiện một cách có hiệu quả” [37, tr14]. Từ các khái niệm
trên có thể khái quát kiểm soát bao gồm những hoạt động chính: thiết lập tiêu chuẩn,
đánh

giá thực tế bằng cách so sánh thực tế với tiêu chuẩn, tìm ra được các nguyên

nhân và chỉnh sửa các sai lệch đó.
Kiểm soát được thực hiện khác nhau đối với các đơn vị và cá nhân tùy thuộc
vào kinh phí, vào quan hệ quản lý, vào loại hình hoạt động, vào truyền thống văn hóa,
kinh tế, xã hội của từng nước: Với cấp quản lý, kiểm soát ở cấp vĩ mô do nhà nước
thực hiện trực tiếp hoặc gián tiếp với cấp dưới, khác với kiểm soát ở cấp vi mô; Với
loại hình hoạt động kiểm soát đối với hoạt động sự nghiệp hướng tới hiệu năng quản lý
khác với hoạt động kinh doanh hướng tới hiệu quả của vốn, lao động, tài nguyên;
Trong quan hệ với truyền thống kinh tế, văn hóa, xã hội thì kiểm soát cũng khác nhau
về trình độ dân trí, trình độ quản lý, tính kỷ cương và truyền thống pháp luật.
Hoạt động quản lý là một quá trình định hướng và tổ chức thực hiện các mục


đích đã định trên cơ sở các nguồn lực xác định nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Quản lý
cần phải có kiểm soát để phát hiện các sai lệch và có hành động điều chỉnh kịp thời,
hướng dẫn và điều khiển đơn vị đi đúng mục đích, từ đó bảo vệ tài sản tiền vốn, tạo
niềm tin cho những người quan tâm, theo sát và đối phó với sự thay đổi của môi
trường, tạo chất lượng tốt hơn cho hoạt động của đơn vị. Trong giai đoạn định hướng
cần kiểm soát những dự báo về nguồn lực và mục tiêu có thể đạt tới, kiểm soát việc

xây dựng chương trình, kế hoạch, kiểm soát tính khả thi của các chương trình kế hoạch
trên mọi phương diện như: tài chính, nhân sự, kỹ thuật, pháp lý... từ đó đưa ra các
quyết định cụ thể để tổ chức thực hiện. Trong giai đoạn tổ chức thực hiện cần kết hợp
các nguồn lực một cách tối ưu đồng thời thường xuyên kiểm tra diễn biến và kết quả
của các quá trình để điều hòa mối quan hệ, điều chỉnh định mức và mục tiêu nhằm tối
ưu hóa hoạt động.
Như vậy, trên cơ sở phân tích các quan điểm khác nhau về kiểm soát và nhận
diện vai trò của nó trong quản lý, tác giả đưa ra khái niệm về kiểm soát như sau:
“Kiểm soát là một chức năng quan trọng của quản lý được thực hiện liên tục ở mọi cấp
quản lý và hoạt động của tổ chức thông qua các hoạt động thiết lập tiêu chuẩn, đánh
giá thực tế bằng cách so sánh thực tế với tiêu chuẩn, tìm ra được các nguyên nhân và
chỉnh sửa các sai lệch nhằm đạt được các mục tiêu của tổ chức đó” Hoạt động kiểm
soát được tiến hành thường xuyên trong tất cả các giai đoạn của quá trình quản lý, nó
tác động và bị tác động bởi toàn bộ các hoạt động khác. Các tiêu chuẩn đặt ra sẽ không
có ý nghĩa nếu không có các biện pháp đo lường việc thực hiện các công việc. Hơn
nữa chức năng chủ yếu của mỗi một tổ chức là xác định trách nhiệm đối với mỗi kết
quả. Cho nên kiểm soát phải đưa ra được các thước đo để biết sai, đúng và xác định
được vấn đề đó thuộc lĩnh vực và trách nhiệm của ai để điều chỉnh.

1.2. Các loại kiểm soát
Kiểm soát luôn có liên hệ trực tiếp và gián tiếp với các mục tiêu, trong khi đó
tính chất và phạm vi của các mục tiêu có thể thay đổi linh hoạt. Vì vậy các loại kiểm
soát cũng có thể thay đổi theo mục tiêu đó. Trên quan điểm nghiên cứu một cách toàn
diện dựa trên nguồn gốc của vấn đề, GS.TS Nguyễn Quang Quynh cho rằng sự phù
hợp của các loại hình kiểm soát phải dựa trên những nhân tố ảnh hưởng đến quản lý do
kiểm soát là một chức năng không thể tách rời của quản lý [71, tr8]. Quản lý gắn liền
với quan hệ sở hữu giữa chủ thể và khách thể quản lý, phụ thuộc vào loại hình hoạt


động và phân cấp quản lý, cơ chế kinh tế và các điều kiện kinh tế xã hội cụ thể, khi các

nhân tố này thay đổi thì kiểm soát cũng phải thay đổi thích ứng như: Cấp quản lý vĩ
mô nhà nước thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát thông qua hình thức kiểm tra
trực tiếp và gián tiếp. Kiểm tra trực tiếp với tư cách là chủ sở hữu nhà nước tiến hành
kiểm tra mục tiêu, chương trình, kế hoạch, nguồn lực, quá trình thực hiện các mục tiêu,
tính trung thực của thông tin và tính pháp lý trong việc thực hiện các nghiệp vụ. Đối
với kiểm tra gián tiếp, nhà nước có thể sử dụng các kết quả của các chuyên gia, các tổ
chức kiểm tra độc lập bên ngoài như thanh tra, cơ quan thuế, để thực hiện điều tiết vĩ
mô nền kinh tế. Với loại hình hoạt động kinh doanh và hoạt động sự nghiệp thì kiểm
soát cũng khác nhau. Hoạt động kinh doanh, lợi nhuận được xem là mục tiêu và thước
đo chất lượng cho hoạt động sản xuất kinh doanh, do đó kiểm tra kiểm soát hướng tới
hiệu quả sử dụng vốn, tài nguyên. Còn với hoạt động sự nghiệp thì mục tiêu chủ yếu là
thực hiện các nhiệm vụ cụ thể về xã hội, quản lý trên cơ sở tiết kiệm nguồn kinh phí, vì
vậy kiểm tra kiểm soát xem xét đến hiệu năng của quản lý. Theo PGS.TS Nguyễn Thị
Phương Hoa nghiên cứu kiểm soát gắn liền với kiểm soát quản lý trong một tổ chức
cho rằng có nhiều loại hình kiểm soát khác nhau do chúng bị chi phối từ các nhân tố
ảnh hưởng đến việc thiết kế hệ thống kiểm soát nội bộ trong quản lý [37, tr29]. Để tạo
điều kiện cho các nhà quản lý lựa chọn cách thực kiểm soát phù hợp với yêu cầu tổ
chức, cần tiến hành phân loại kiểm soát theo các tiêu thức sau:
Thứ nhất, phân theo mục tiêu kiểm soát có kiểm soát ngăn ngừa, kiểm soát phát
hiện và kiểm soát điều chỉnh. Kiểm soát ngăn ngừa chủ yếu tập trung vào việc quản lý
nhân sự, xây dựng qui trình thực hiện các thao tác, tác nghiệp, để các nhân viên trong
một tổ chức thực hiện các hoạt động theo ý muốn của nhà quản lý, nó được thực hiện
trước khi các hoạt động tác nghiệp xảy ra nhằm đề phòng nguy cơ gian lận và sai sót.
Kiểm soát phát hiện tập trung vào việc phát hiện gian lận, sai sót, sai lầm và rủi ro
trong quá trình tác nghiệp một cách nhanh chóng nhằm giúp các nhà lãnh đạo có
những quyết định và xử lý kịp thời để hạn chế thấp nhất những thiệt hại có thể xảy ra.
Thời điểm thực hiện kiểm soát có thể thực hiện trong hoặc sau khi các hoạt động tác
nghiệp kết thúc. Kiểm soát điều chỉnh hướng tới việc cung cấp thông tin cần thiết cho
việc ra quyết định, điều chỉnh các sai sót được phát hiện.
Thứ hai, theo phạm vi kiểm soát phân thành kiểm soát nội bộ và kiểm soát bên

ngoài. Kiểm soát nội bộ là một hệ thống chính sách và thủ tục do nhà quản lý đơn vị


thiết lập nhằm bảo vệ tài sản của đơn vị, đảm bảo sự tin cậy của các thông tin, ngăn
ngừa các sai sót trong báo cáo tài chính, đảm bảo việc tuân thủ các qui chế quản lý và
đảm bảo hiệu quả các hoạt động quản lý nói chung và hoạt động kinh doanh nói riêng.
Kiểm soát bên ngoài là sự kiểm soát từ cấp trên hoặc từ tổ chức khác nhau có liên quan
Thứ ba, theo nội dung kiểm soát phân thành kiểm soát tổ chức và kiểm soát kế
toán. Kiểm soát tổ chức là hệ thống các chế độ, thủ tục, các qui định mà lãnh đạo đơn
vị thiết lập nhằm đảm bảo sự tuân thủ đối với các chính sách, pháp luật và các qui
định. Kiểm soát tổ chức gắn liền với trách nhiệm thực hiện mục tiêu của một tổ chức
và là cơ sở cho kiểm soát kế toán. Đối với doanh nghiệp nội dung kiểm soát tổ chức là
việc đề ra những chuẩn mực, định mức, xây dựng, triển khai và thực hiện các thủ tục
kiểm soát nhằm sử dụng các nguồn lực của đơn vị một cách có hiệu quả. Kiểm soát kế
toán là việc lập kế hoạch, tổ chức thực hiện các trình tự thủ tục cần thiết nhằm đảm
bảo tài sản và độ tin cậy của sổ sách kế toán, đảm bảo các nghiệp vụ kinh tế phát sinh
được tiến hành theo đúng nguyên tắc và chuẩn mực kế toán được thừa nhận.
Thứ tư, theo chủ thể quản lý phân thành kiểm soát trực tiếp và kiểm soát gián
tiếp. Trong đó kiểm soát trực tiếp là chủ thể phải tiến hành quan sát và kiểm tra nhằm
đánh giá việc tuân thủ các qui định đã đặt ra. Kiểm soát gián tiếp thì lại dựa trên các
báo cáo của một tổ chức từ đó phát hiện ra những vấn đề bất thường, sau đó chủ thể
quản lý tiến hành điều tra để chứng minh những vấn đề đó, kiểm soát gián tiếp sẽ không
hiệu quả nếu tổ chức đó có một hệ thống thông tin không đầy đủ và kịp thời.
Như vậy, có rất nhiều loại hình kiểm soát mà nhà quản lý có thể lựa chọn phù
hợp với tổ chức của mình. Khi tính phức tạp của quản lý càng gia tăng, sự nắm bắt thị
trường và dự báo càng khó khăn hơn thì nên phải tiến hành kiểm soát trước, từ đó nhà
quản lý có thể định hướng được cho tổ chức của mình đi đúng hướng theo mục tiêu và
thích nghi được với những biến đổi không lường trước của môi trường kinh doanh.
1.3. Kiểm soát nội bộ
Với các nhà quản lý, kiểm soát là phương sách để đạt được mục tiêu đã đặt ra.

Căn cứ vào phạm vi kiểm soát chia thành kiểm soát từ bên ngoài (ngoại kiểm) và
KSNB (nội kiểm). Kiểm soát bên ngoài được thực hiện bởi những người bên ngoài
đơn vị, còn KSNB được thực hiện bởi những người bên trong đơn vị. Tuy nhiên cách
phân chia này cũng chỉ mang tính chất tương đối cả về lý luận và thực tiễn trong một
hoạt động kiểm soát cụ thể. Chẳng hạn, trong một Tập đoàn đối với công ty con, công


ty liên kết chịu sự kiểm soát của công ty mẹ thì đây là kiểm soát bên ngoài, nhưng xét
trong một phạm vi tổng thể của Tập đoàn thì hoạt động này lại mang tính nội kiểm
(KSNB). Có rất nhiều khái niệm liên quan đến kiểm soát nội bộ
Trong chuẩn mực kiểm toán AICPA phần thực hành kiểm toán (32009) có định
nghĩa như sau “Kiểm soát nội bộ gồm kế hoạch tổ chức và tất cả những phương pháp,
biện pháp phối hợp được thừa nhận dùng trong kinh doanh để bảo vệ tài sản của tổ
chức, kiểm tra sự chính xác và độ tin cậy của thông tin kế toán, thúc đẩy hiệu quả hoạt
động và khích lệ bám sát những chủ trương quản lý đã đề ra” [26, tr82]. Với khái niệm
này kiểm soát nội bộ thiên về kiểm soát kế toán, tài chính, kiểm soát sự tuân thủ các
chế độ kế toán và kiểm toán. Quan điểm cho rằng kiểm soát kế toán nằm trong phạm
vi nghiên cứu và đánh giá của kiểm soát nội bộ, có vai trò chủ yếu trong ngăn ngừa sai
phạm, thất thoát tài sản, đảm bảo việc thực thi pháp luật của đơn vị.
Theo quan điểm của COSO nhìn nhận kiểm soát nội bộ khá toàn diện, đây cũng
là khái niệm được chấp nhận rộng rãi trên thế giới “Kiểm soát nội bộ là quá trình
do người quản lý, hội đồng quản trị và các nhân viên của đơn vị chi phối, nó được thiết
lập để cung cấp một sự đảm bảo hợp lý nhằm thực hiện các mục tiêu: Đảm bảo sự tin
cậy của của báo cáo tài chính; Đảm bảo sự tuân thủ các qui định và luật lệ; Đảm bảo
các hoạt động được thực hiện hiệu quả [111,tr 186]
Với khái niệm này COSO nhấn mạnh vào bốn nội dung căn bản đó là: quá
trình, con người, đảm bảo hợp lý và mục tiêu được cụ thể:
Kiểm soát nội bộ là một quá trình, bởi tất cả các hoạt động của một đơn vị đều
phải thông qua một chuỗi các quá trình từ lập kế hoạch, thực hiện và giám sát. Để đạt
được mục tiêu mong muốn, các đơn vị phải kiểm soát được hoạt động của mình, các

hoạt động này được diễn ra hằng ngày và được hiện diện trong mọi bộ phận, gắn chặt
vào hoạt động của một tổ chức và là nội dung cơ bản trong các hoạt động của tổ chức.
Kiểm soát nội bộ được thiết kế và vận hành bởi con người như: HĐQT, BGĐ,
nhà quản lý và các nhân viên trong đơn vị. Kiểm soát nội bộ là công cụ của nhà quản
lý chứ không thay thế cho quản lý. Con người sẽ vạch ra mục tiêu đưa ra các biện pháp
kiểm soát và vận hành chúng. Mỗi thành viên tham gia trong một tổ chức với những
khả năng, kinh nghiệm, kiến thức khác nhau. Việc hiểu rõ, trao đổi, hành động nhiều
khi không nhất quán. Do vậy để KSNB có hiệu quả thì mọi thành viên trong một tổ
chức phải hiểu rõ về trách nhiệm và quyền hạn của mình, xác định được mối liên hệ,


nhiệm vụ, cách thức thực hiện để đạt được mục tiêu của tổ chức.
Kiểm soát nội bộ đảm bảo tính hợp lý cho nhà quản lý, điều này khẳng định
KSNB chỉ đảm bảo tính hợp lý của việc thực hiện các mục tiêu của nhà quản lý chứ
không đảm bảo tuyệt đối. Bởi KSNB khi vận hành vẫn còn có những hạn chế vốn có
như: sai lầm của con người khi đưa ra quyết định, sự thông đồng của các cá nhân, sự lạm
quyền của nhà quản lý...Hơn nữa một nguyên tắc cơ bản trong quản lý là chi phí cho quá
trình kiểm soát không thể vượt quá lợi ích được mong đợi từ quá trình kiểm soát đó
Kiểm soát nội bộ đảm bảo các mục tiêu, có rất nhiều mục tiêu kiểm soát nội bộ
cần đạt tới đó là: Mục tiêu về hoạt động (sự hữu hiệu và hiệu quả của việc sử dụng
nguồn lực), mục tiêu về báo cáo tài chính (tính trung thực và đáng tin cậy của báo cáo
tài chính), mục tiêu về sự tuân thủ (tuân thủ pháp luật và các quy định)
Cho đến nay định nghĩa này được chấp nhận khá rộng rãi và được IFAC thừa
nhận bởi nó đáp ứng được yêu cầu minh bạch thông tin của các công ty đặc biệt là các
công ty niêm yết. Tuy nhiên, COSO chỉ dừng lại ở việc đưa ra khái niệm về “kiểm soát
nội bộ” mà không phải là “hệ thống kiểm soát nội bộ”. Theo COSO, KSNB bao gồm 5
yếu tố cấu thành: Môi trường kiểm soát; Đánh giá rủi ro; Hoạt động kiểm soát; Thông
tin và truyền thông; Giám sát
1.3.1. Hệ thống kiểm soát nội bộ trong doanh nghiệp
Khi qui mô của một đơn vị càng lớn dần thì chức năng quản lý và kiểm soát

càng trở nên cấp thiết, các nhà quản lý phải gắn vào đó sự kiểm soát của mình về mọi
phương diện thông qua các chính sách, thủ tục quy định về tổ chức và hoạt động. Hệ
thống chính sách và thủ tục đó chính là hệ thống KSNB của một đơn vị. Trước tiên
chúng ta phải hiểu từ “hệ thống” là gì. Theo Đại từ điển Tiếng Việt, hệ thống, xét một
cách chung nhất là “thể thống nhất được tạo lập bởi các yếu tố cùng loại, cùng chức
năng, có liên hệ chặt chẽ với nhau” hoặc “thể thống nhất bao gồm những tư tưởng,
những nguyên tắc, qui tắc liên kết nhau một cách chặt chẽ và logich. Theo Bách khoa
Toàn thư mở Wikipedia “hệ thống được hiểu là tập hợp các phần tử có quan hệ cơ hữu
với nhau, tác động và chi phối lẫn nhau theo các quy luật nhất định để trở thành một
chỉnh thể” [39]. Từ đó xuất hiện thuộc tính mới gọi là tính trồi của hệ thống mà từng
phần tử riêng lẻ không có hoặc có không đáng kể. Với Luận án, Tác giả tiếp cận trên
quan điểm là HTKSNB mà không phải là KSNB. Khái niệm về hệ thống kiểm soát nội
bộ cũng được đề cập trên nhiều góc độ.


Theo hiệp hội kế toán viên công chứng Hoa Kì (AICPA – American institute of
certified Public Accountants), thì hệ thống kiểm soát nội bộ được định nghĩa là: “ Hệ
thống kế hoạch, tổ chức và tất cả các phương pháp phối hợp được thừa nhận dùng
trong kinh doanh để bảo vệ tài sản của các tổ chức, kiểm tra độ chính xác và tin cậy
của thông tin kế toán, thúc đẩy hiệu quả hoạt động và khích lệ, bám sát chủ trương
quản lý đã đặt ra” [115]
Định nghĩa này nhấn mạnh đến tầm quan trọng của HTKSNB đối với công việc
của các kiểm toán viên trong quá trình lập kế hoạch kiểm toán, tổ chức thực hiện công
việc kiểm toán đến lập báo cáo kiểm toán
Tại Việt Nam theo chuẩn mực kiểm toán (VSA) 400 trước đây – Đánh giá rủi
ro và kiểm soát nội bộ có đưa ra khái niệm: “Hệ thống kiểm soát nội bộ được hiểu là
các qui định và các thủ tục kiểm soát do đơn vị kiểm toán xây dựng và áp dụng nhằm
đảm bảo cho đơn vị tuân thủ pháp luật và các qui định để kiểm tra, kiểm soát, ngăn ngừa,
phát hiện các gian lận, sai sót để lập báo cáo tài chính trung thực và hợp lý; nhằm bảo vệ,
quản lý và sử dụng có hiệu quả tài sản của đơn vị” [108]

Một là, Môi trường kiểm soát là văn hóa của một tổ chức, nó tác động đến ý thức
kiểm soát của toàn bộ thành viên trong một đơn vị, làm nền tảng quan trọng cho các
bộ phận còn lại. Các nhân tố chính của môi trường kiểm soát bao gồm: Tính chính trực
và giá trị đạo đức thể hiện ở việc nhà quản lý phải làm gương cho cấp dưới về việc
tuân thủ các chuẩn mực, đạo đức, lối sống, cư xử đúng đắn, phải xây dựng được văn
hóa trong đơn vị lành mạnh, chuẩn mực và tuyên truyền phổ biến đến mọi thành viên
bằng các thể thức thích hợp
Hai là, Đánh giá rủi ro, không lệ thuộc vào qui mô, cấu trúc loại hình hay vị trí
địa lý, bất kỳ tổ chức nào khi hoạt động đều phải đối mặt với các rủi ro, để hạn chế
những thiệt hại do rủi ro gây ra, các nhà quản lý cần tuân thủ qui trình đánh giá rủi ro
được thể hiện qua sơ đồ sau:


NHẬN DẠNG

Xác định mục
tiêu
Thiết lập cơ chế nhận dạng rủi ro

ĐÁNH GIÁ

Thiệt hại
Xác suất xảy ra

BIỆN PHÁP

Tăng kiểm soát
Mua bảo hiểm
Tăng tốc độ thu hồi vốn
Không làm gì hết


Sơ đồ 1.1: Khái quát qui trình đánh giá rủi ro của COSO
Với qui trình này đầu tiên nhà quản lý cần phải xác định mục tiêu, mục tiêu là
điều kiện tiên quyết để đánh giá rủi ro, xác định rủi ro làm cho mục tiêu đó khó thực
hiện được. Bước tiếp theo cần phải nhận dạng rủi ro, rủi ro xuất hiện trong kinh doanh
(liên quan đến lĩnh vực kinh tế, kỹ thuật hay đối thủ cạnh tranh như thông tin bị giả
mạo, thông tin sai hoặc chậm...), rủi ro về tài chính (liên quan đến lãi suất, dòng tiền,
tỷ giá hối đoái...), rủi ro nhân nhượng (liên quan đến việc vi phạm pháp luật như luật
kế toán, chuẩn mực kế toán...), rủi ro điều hành (thiếu vắng những nhân lực chủ chốt,
thị trường, độ tin cậy về sản phẩm, khách hàng...).
Ba là, hoạt động kiểm soát là những chính sách, thủ tục để đảm bảo cho các chỉ
thị của nhà quản lý được thực hiện thể hiện ở việc phân chia trách nhiệm (mục đích để
kiểm soát lẫn nhau như thủ quỹ và kế toán, thủ kho và kế toán kho phải tách biệt với
nhau), kiểm soát quá trình xử lý thông tin (kiểm soát chặt chẽ hệ thống chứng từ, sổ
sách và việc phê chuẩn các nghiệp vụ phải đúng đắn)
Bốn là, thông tin và truyền thông, các đơn vị dù sử dụng bằng máy tính cũng
như thủ công thì thông tin cung cấp phải đảm bảo được độ chính xác, thích hợp và cập
nhật, truy cập thuận tiện. Sự thu nhận và truyền đạt thông tin đảm bảo mọi thành viên
trong doanh nghiệp đều phải hiểu rõ công việc của mình, tiếp nhận đầy đủ và chính
xác các chỉ thị của cấp trên, hiểu rõ mối quan hệ của các thành viên
Năm là, hoạt động giám sát là quá trình mà nhà quản lý đánh giá chất lượng của
hệ thống kiểm soát, xác định KSNB có vận hành như đúng thiết kế hay không, cần phải
sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với điều kiện thực tế. Cần phải tiến hành giám sát thường
xuyên đối với những góp ý từ khách hàng, nhà cung cấp, các biến động bất thường...và
giám sát định kỳ đối với báo cáo tài chính thông qua các cuộc kiểm toán định kỳ.


×