Tải bản đầy đủ (.docx) (124 trang)

Một số vấn đề lí thuyết giảng văn trong giảng văn chinh phụ ngâm của đặng thai mai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1021.08 KB, 124 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO
DỤC

NGUYỄN THỊ DỊU

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ THUYẾT GIẢNG VĂN TRONG
"GIẢNG VĂN CHINH PHỤ NGÂM" CỦA ĐẶNG THAI
MAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ
VĂN

HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO
DỤC

NGUYỄN THỊ DỊU

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ THUYẾT GIẢNG VĂN TRONG
"GIẢNG VĂN CHINH PHỤ NGÂM" CỦA ĐẶNG THAI
MAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ
VĂN
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP DẠY
HỌC
(BỘ MÔN NGỮ VĂN)


Mã số: 60 14 01 11

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Khánh Thành


HÀ NỘI - 2015


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy giáo, cô
giáo đang công tác tại trường Đại học Giáo Dục - Đại học Quốc gia Hà Nội đã
nhiệt tình giảng dạy và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt thời gian học
tập.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc tới PGS.TS. Trần Khánh
Thành, thầy đã định hướng và tận tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình làm và
hoàn thiện luận văn này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến ban giám hiệu Trường THPT A Hải Hậu,
nơi tôi đang công tác, các thầy các cô trường THPT A Hải Hậu đã tạo điều
kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận văn.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng song chắc chắn luận văn vẫn còn nhiều
thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự quan tâm và đóng góp ý kiến, bổ sung
của các thầy giáo, cô giáo và các bạn đồng nghiệp để luận văn này được hoàn
thiện hơn.
Trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 11 năm 2015
Học viên

Nguyễn Thị Dịu

i



MỤC LỤC
Lời cam ơn ......................................................................................................... i
Mục lục ............................................................................................................. ii
Danh muc̣ bang................................................................................................. iv
Danh muc̣ hinh ................................................................................................. iv
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN ....................................................................
5
1.1. Tác giả Đặng Thai Mai và "Giảng văn Chinh phụ ngâm"......................... 5
1.1.1. Tác giả Đặng Thai Mai ........................................................................... 5
1.1.2. "Giảng văn Chinh phụ ngâm"................................................................. 6
1.2. Quan điểm giảng văn của Đặng Thai Mai ............................................... 10
1.2.1. Khái niệm giảng văn ............................................................................. 10
1.2.2. Khái niệm giảng văn của Đặng Thai Mai ............................................. 12
1.2.3. Quan niệm của Đặng Thai Mai về mục đích, tác dụng của giảng văn
trong nhà trường.............................................................................................. 15
1.3. Vai trò của môn Ngữ văn và quan điểm về mục đích giảng văn trong nhà
trường phổ thông hiện nay .............................................................................. 18
1.3.1. Vai trò của môn Ngữ văn trong nhà trường .......................................... 18
1.3.2. Quan điểm về mục đích giảng văn trong nhà trường phổ thông hiện nay
......................................................................................................................... 19
Tiểu kết chương 1............................................................................................ 23
CHƢƠNG 2. Ý NGHĨA PHƢƠNG PHÁP LUẬN CỦA "GIẢNG VĂN
CHINH PHỤ NGÂM" .................................................................................. 25
2.1. Một số nguyên tắc và kĩ thuật giảng văn trong "Giảng văn Chinh phụ
ngâm" .............................................................................................................. 25
2.1.1. Một số nguyên tắc giảng văn trong "Giảng văn Chinh phụ ngâm" ...... 25
2.1.2. Một số kĩ thuật giảng văn trong "Giảng văn Chinh phụ ngâm" ........... 33

2.2. Vận dụng nguyên tắc, kĩ thuật giảng văn của Đặng Thai Mai trong đọc hiểu văn học trung đại .................................................................................... 44
ii


2.2.1. Đặc điểm của văn học trung đại............................................................ 44
2.2.2. Dạy học văn học trung đại từ hướng tiếp cận thi pháp học .................. 45
2.2.3. Dạy học văn học trung đại từ lịch sử phát sinh..................................... 47
2.2.4. Dạy học văn học trung đại từ đặc trưng thể loại................................... 48
Tiểu kết chương 2............................................................................................ 56
CHƢƠNG 3. THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM................................................
57
3.1. Các vấn đề chung ..................................................................................... 57
3.1.1. Mục đích thực nghiệm .......................................................................... 57
3.1.2. Nội dung thực nghiệm và phương pháp thực nghiệm........................... 57
3.1.3. Đối tượng thực nghiệm và đối chứng ................................................... 58
3.1.4. Chuẩn bị và tổ chức thực nghiệm ......................................................... 59
3.2. Thiết kế thực nghiệm................................................................................ 61
3.2.1. Giáo án đối chứng ................................................................................. 61
3.2.2. Giáo án thực nghiệm ............................................................................. 70
3.3. Kết quả thực nghiệm và đánh giá............................................................. 89
3.3.1. Kết quả thực nghiệm ............................................................................. 89
3.3.2. Phân tích, đánh giá ................................................................................ 93
Tiểu kết chương 3............................................................................................ 95
KẾT LUẬN .................................................................................................... 96
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 99
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 102
PHỤ LỤC .................................................................................................... 102

iii



DANH MUC BẢNG
Bảng 3.1. Kết quả khảo sát lực học của học sinh lớp thực nghiệm và lớp đối
chứng............................................................................................................... 59
Bảng 3.2. Phân công giáo viên dạy thực nghiệm và đối chứng...................... 59
Bảng 3.3. Kết quả khảo sát bài làm của học sinh lớp thực nghiệm và lớp đối
chứng............................................................................................................... 92
Bảng 3.4. Tổng hợp so sánh bảng kết quả lớp thực nghiệm và lớp đối chứng
......................................................................................................................... 92
DANH MUC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1. So sánh kết quả kiểm tra giữa lớp thực nghiệm và lớp đối chứng
......................................................................................................................... 92

iv


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong yêu cầu đổi mới hiện nay, vấn đề đổi mới phương phương pháp
dạy học là một yêu cầu cấp thiết cho nền giáo dục nước ta. Việc đổi mới ở
môn Ngữ văn ngoài sự thay đổi trong chương trình với những văn bản mới,
với những vấn đề mới đang được dự kiến thì việc thay đổi phương pháp giảng
dạy cũng rất được chú ý. Bên cạnh việc đưa ra và vận dụng những phương
pháp dạy học mới thì hướng tìm tòi, khai thác các kinh nghiệm của quá khứ
cũng là một hướng đi cần thiết nhằm rút ngắn con đường tìm tòi chân lí. Điều
đấy càng có ý nghĩa khi hiện nay chúng ta đang gặp không ít khó khăn trong
việc hệ thống hóa những phương pháp dạy học Văn mới nhằm nâng cao chất
lượng và hiệu quả của việc dạy và học trong nhà trường phổ thông.
Giáo sư Đặng Thai Mai là một nhà trí thức yêu nước và cách mạng,
một học giả uyên bác, một nhà giáo dục đầy tài năng đã có những cống hiến to

lớn cho nền giáo dục nước ta. Với phương pháp giảng dạy hấp dẫn, giáo sư đã
lôi cuốn nhiều học sinh sống và tham gia với bài giảng của mình. Không những
thế "Trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp, sách giáo khoa thiếu
thốn, giáo sư đã biên soạn giáo trình "Giảng văn Chinh phụ ngâm" rất công
phu cho thầy trò ở các trường có sách học" [40, tr. 78].
Cuốn "Giảng văn Chinh phụ ngâm" là một chuyên luận bàn về vấn đề
giảng văn. Nhiều học giả, nhiều nhà sư phạm đánh giá rất cao công trình này cả
về nội dung lẫn phương pháp. Có nhà nghiên cứu lớn đã nhận định đây là công
trình đặt nền móng đầu tiên cho phương pháp giảng văn hiện đại.
Những tư tưởng lớn trong cuốn sách trên cần được nghiên cứu, đánh
giá một cách đầy đủ, khoa học, đặc biệt trong thời đại ngày nay. Bởi vậy tôi đã
chọn Một số vấn đề lí thuyết giảng văn trong "Giảng văn Chinh phụ ngâm"
của Đặng Thai Mai làm đề tài nghiên cứu trong luận văn thạc sĩ của mình
nhằm tổng kết các phương pháp dạy học văn của tác giả Đặng Thai Mai

1


và việc vận dụng nó vào việc dạy học văn trong nhà trường phổ thông hiện
nay một cách có hiệu quả.
2. Lịch sử vấn đề
Đặng Thai Mai là một nhà sư phạm mẫu mực. Biết bao nhiêu thế hệ
học trò đã luôn nhớ tới công lao của giáo sư, luôn nhớ tới thầy với lòng kính
trọng, biết ơn sâu sắc. Hình ảnh của thầy giáo Đặng Thai Mai đã thấp thoáng
trong các trang hồi ức của những người học trò như: Đặng Thai Mai- người
thầy của thế hệ chúng tôi của Phong Lê, Thầy Đặng Thai Mai của chúng tôi
của Vũ Tú Nam, Nhớ về thầy, một nhà sư phạm, một học giả chân chính của
Phan Trọng Luận…
Đã có không ít các công trình nghiên cứu về sự nghiệp trước tác của
Đặng Thai Mai. Một số nhà nghiên cứu đã bước đầu tìm hiểu về cách dạy văn của

thầy trong một số bài viết như: Đặng Thai Mai bàn về quan hệ văn học Việt
Nam thời trung đại của Nguyễn Hữu Sơn, Phong cách Đặng Thai Mai của
Đặng Tiến, Đặng Thai Mai và đổi mới văn học của Trương Chính… Các công
trình ấy đã đề cập đến một vài khía cạnh trong các nghiên cứu của nhà phê
bình uyên thâm.
Thế nhưng quan niệm giảng văn của Đặng Thai Mai trước năm 1992
hầu như chưa có công trình bài viết nào đề cập tới. Năm 1992, cuốn "Giảng
văn Chinh phụ ngâm" của Đặng Thai Mai được tái bản, Trần Đình Sử có lời
bạt sau sách bằng bài viết Giảng văn Chinh phụ ngâm- một công trình viết
cho hôm nay. Sau này bài viết trên đã được tác giả sửa chữa và in lại với tiêu
đề Một số vấn đề lí thuyết giảng văn và thi pháp văn học cổ trong Giảng văn
"Chinh phụ ngâm". Đây là bài viết công phu đã đánh giá được vị trí của
"Giảng văn Chinh phụ ngâm" trong lịch sử bộ môn phương pháp giảng dạy
văn ở Việt Nam. Ông cho rằng: "Công trình của Đặng Thai Mai sẽ được ghi
nhận như một cố gắng đầu tiên để phân tích trọn vẹn một tác phẩm văn học cổ
điển theo phương pháp chỉnh thể. Và lịch sử bộ môn phương pháp giảng dạy

2


văn học Việt Nam sẽ ghi nhận đây là công trình đặt nền móng cho khoa giảng
văn hiện đại nước nhà" [40, tr. 307]. Trong bài viết này Trần Đình Sử đặc biệt đề
cao quan điểm lịch sử và phương pháp so sánh của Đặng Thai Mai.
Tiếp đó có thể kể đến bài viết của Hoàng Tuệ với nhan đề Đọc lại
Giảng văn "Chinh phụ ngâm" của Đặng Thai Mai đã điểm qua vài nét về khái
niệm giảng văn, khái niệm nếp áng văn đã được Đặng Thai Mai đề cập. Còn Đỗ
Hữu Châu trong bài viết Nghĩ về Giảng văn "Chinh phụ ngâm" lại đề cập đến
một khía cạnh khác trong bài giảng văn đó là kĩ thuật phân tích ngôn ngữ và
một số phương pháp, kĩ thuật phân tích trong "Giảng văn Chinh phụ
ngâm" như phương pháp gợi mở, phương pháp đối chiếu, so sánh…

Gần đây nhất có thể kể đến công trình nghiên cứu của tác giả Hoàng
Thị Mai trình bày trong luận án tiến sĩ mang tên Đặng Thai Mai với vấn đề
phương pháp luận giảng văn ở nhà trường phổ thông, ĐHSP Hà Nội, 2000.
Công trình này đã thể hiện quá trình làm việc công phu, khoa học của tác giả để
rút ra những nhận định, đánh giá khá toàn diện về phương pháp luận giảng văn
của Đặng Thai Mai. Song công trình này không đi sâu vào cuốn "Giảng văn
Chinh phụ ngâm" mà bao quát toàn bộ các tác phẩm mà Đặng Thai Mai trình
bày về phương pháp giảng văn cho nên những vấn đề nêu lên chưa tập trung
và chưa gắn với việc dạy học đọc hiểu văn học như hiện nay.
Các công trình nghiên cứu trên chưa bàn hết các vấn đề được đề cập
trong cuốn "Giảng văn Chinh phụ ngâm" của Đặng Thai Mai nhưng là những
tiền đề quan trọng định hướng cho tôi trong quá trình nghiên cứu công trình
này để từ đó đưa ra được những đánh giá toàn diện hơn, đầy đủ hơn những
vấn đề Đặng Thai Mai đã nói tới và nhất là gắn những quan điểm, phương
pháp ấy vào việc dạy học văn học trung đại hiện nay nhằm đem lại hiệu quả tốt nhất.
3. Mục đích, nhiệm vụ
- Mục đích: hệ thống các phương pháp giảng văn của Đặng Thai Mai và vận
dụng chúng vào dạy học văn ở trường phổ thông hiện nay.
- Nhiệm vụ: Nghiên cứu lí thuyết giảng văn của Đặng Thai Mai; Thực tiễn
3


dạy học văn ở trường phổ thông; Vận dụng lí thuyết giảng văn của Đặng Thai
Mai vào tổ chức dạy học văn; Thực nghiệm sư phạm.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: ở luận văn này người viết chủ yếu tìm hiểu một số vấn đề lí
thuyết giảng văn của Đặng Thai Mai, tìm hiểu thực trạng của việc dạy văn
trong nhà trường phổ thông nói chung, việc dạy học các tác phẩm văn học
trung đại nói riêng.
- Phạm vi: Những công trình nghiên cứu về Đặng Thai Mai và cuốn "Giảng

văn Chinh phụ ngâm".
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp khảo sát, phân tích, tổng hợp: Phân tích và tổng hợp những
công trình bài viết của Đặng Thai Mai bàn về vấn đề giảng văn. Các bài viết, ý
kiến của các nhà khoa học viết về vấn đề giảng văn của Đặng Thai Mai trong
"Giảng văn Chinh phụ ngâm".
- Phương pháp thực nghiệm: Chọn mẫu, xây dựng thiết kế bài dạy thực
nghiệm, dạy thực nghiệm và phân tích kết quả thực nghiệm nhằm đánh giá
hiệu quả của việc vận dụng phương pháp luận giảng văn của Đặng Thai Mai
vào dạy học văn học trung đại.
- Ngoài ra luận văn còn sử dụng một số phương pháp khác như: thống kê, đối
chiếu, so sánh… làm cơ sở đánh giá tính đúng đắn và khả thi của đề tài.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn được trình
bày theo 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận
Chương 2: Ý nghĩa phương pháp luận của "Giảng văn Chinh phụ ngâm"
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm

4


CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Tác giả Đặng Thai Mai và "Giảng văn Chinh phụ ngâm"
1.1.1. Tác giả Đặng Thai Mai
Đặng Thai Mai (1902- 1984) sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà
nho yêu nước ở làng Lương Điền, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Ngay từ
khi còn học trường Cao đẳng sư phạm Hà Nội (1925- 1928), Đặng Thai Mai
đã sớm đi theo cách mạng. Kể từ đó trải qua hơn 50 năm hoạt động, theo đại

tướng Võ Nguyên Giáp, Đặng Thai Mai bao giờ cũng là một trí thức yêu nước,
"một đồng chí cách mạng, một con người sống vì lí tưởng, trung thành với lí
tưởng" [40, tr. 52], sẵn sàng gánh vác mọi trọng trách nặng nề mà Bác Hồ và
Đảng tin tưởng giao phó vào những thời điểm cam go của cách mạng. Và
trong lời giới thiệu cuốn Đặng Thai Mai - Tác phẩm, Phan Cự Đệ cũng viết:
"Đặng Thai Mai là một hình ảnh rất đẹp của những người trí thức đi trên con
đường lớn cách mạng. Những người làm công tác lí luận, phê bình, nghiên
cứu căn học trẻ tuổi tìm thấy ở ông tấm gương về sự kết hợp nhà học giả và
nhà chiến sĩ cách mạng, tấm gương về một người thầy đôn hậu, đức độ" [9, tr.
5].
Bên cạnh đó, Đặng Thai Mai còn là một nhà sư phạm mẫu mực, người
có công lớn trong sự nghiệp giáo dục nước nhà. "Ông là một học giả uyên bác
nhưng luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn" [9, tr.19]. Ông vừa là một dịch
giả vừa là một nhà nghiên cứu lí luận phê bình xuất sắc, là tác giả các công
trình khoa học có giá trị như: Văn học khái luận (1944), Lỗ Tấn- thân thế, văn
nghệ (1944), Chủ nghĩa nhân văn dưới thời kì văn hóa phục hưng (1950),
Giảng văn Chinh phụ ngâm (1950), Văn thơ Phan Bội Châu (1958), Văn thơ
cách mạng Việt Nam đầu thế kỉ XX (1960)…
Những công trình của Đặng Thai Mai để lại cho chúng ta nhiều bài học
về mặt quan điểm và phương pháp luận nghiên cứu văn học. Qua những công
trình ấy thể hiện được phong cách độc đáo của Đặng Thai Mai. Đó là "cây bút

5


cứng rắn, nguyên tắc mà vẫn uyển chuyển, mềm mại; trang nghiêm, uyên bác
mà vẫn hài hước, mỉa mai; khoa học, khách quan mà vẫn trữ tình, đằm
thắm…" [9, tr. 41].
Trong các bài chuyên luận của mình, Đặng Thai Mai còn thể hiện
những ưu thế nổi bật. Đó là cây bút có "một vốn kiến thức uyên thâm, một

quan điểm vững vàng, một ngòi bút chiến đấu sắc nhọn. Với học vấn uyên
thâm, những bài viết của Đặng Thai Mai có thể tung hoành thoải mái từ cổ
đến hiện đại, từ Đông sang Tây và lúc cần có thể từ văn học bước sang các
lĩnh vực hội họa, kiến trúc, điện ảnh hoặc chính trị, tôn giáo, triết học, sử học"
[9, tr. 20]. Nhờ vốn kiến thức khoa học cơ bản vững chắc như vậy mà Đặng
Thai Mai có khả năng giải quyết một số vấn đề lí luận thời sự trên một bình diện
rộng về không gian và trải ra theo chiều dài của tiến trình lịch sử.
Tuy không phải là một chuyên gia phương pháp dạy học văn, nhưng
Đặng Thai Mai là một nhà khoa học tâm huyết với nhà trường, tâm huyết với
việc dạy văn, học văn. Di sản của ông về vấn đề giảng văn không nhiều, song
người đọc có thể gặp lại trong các công trình bài viết của ông, đặc biệt trong
"Giảng văn Chinh phụ ngâm", hầu như tất cả các vấn đề cơ bản của khoa
phân tích và dạy học tác phẩm văn chương hiện đại. Và điều quan trọng là,
tuy đi trước chúng ta hơn nửa thế kỉ, song tư tưởng và phương pháp giảng
văn, dạy văn của ông về nhiều điểm vẫn phát huy ý nghĩa và tác dụng trong
công cuộc đổi mới phương pháp dạy văn ở nhà trường phổ thông hiện nay.
1.1.2. "Giảng văn Chinh phụ ngâm"
"Giảng văn Chinh phụ ngâm" được Đặng Thai Mai viết trong thời kì
kháng chiến chống thực dân Pháp, vào năm 1949, khi ông đang giảng dạy tại
trường Đại học Văn khoa Liên khu IV ở Thanh Hóa. Trong điều kiện khó
khăn, thiếu thốn của cuộc kháng chiến, đặc biệt là thiếu thốn về tài liệu phục vụ
cho việc trình bày những vấn đề lí luận và lịch sử, Đặng Thai Mai hiểu hơn ai
hết điều đó như ông nói: "Hoàn cảnh và điều kiện nghiên cứu quả là khó

6


khăn". Có lẽ vì thế ông cho rằng "phát kiến riêng của cá nhân chỉ là phần rất
mỏng manh trong tập sách. Nếu như có ít nhiều đặc điểm đáng chú ý trong
công trình này, thì chúng tôi mong muốn là nó sẽ được phát triển thêm" [28, tr.

34]. Nhưng tác phẩm của Đặng Thai Mai không phải ra đời một cách ngẫu nhiên
mà nhằm đáp ứng những yêu cầu cấp thiết của hoàn cảnh lịch sử. Bởi cuốn
sách ra đời chỉ vài năm sau khi đất nước giành lại được độc lập. Trong công
trình này, ông đặc biệt đề cao vai trò của bản dịch, văn bản viết bằng chữ
Nôm: "Trong phạm vi giảng Việt văn, đáng để ý hơn là văn chương bản dịch"
[28, tr. 41]. Và khi phân tích nội dung tư tưởng của khúc ngâm, tác giả đặc biệt
đề cao đặc sắc riêng trong một áng văn của người Việt, vẻ đẹp riêng trong tính
cách con người Việt.
Phải chăng là điều mà tác giả muốn hướng tới đó là: "Văn học cũng là
một phương tiện để hoàn thành sự độc lập và thống nhất Tổ quốc. Chúng ta tin
rằng: Việt văn có đủ khả năng để phát triển, để làm một phương tiện truyền bá
tư tưởng mới, tư tưởng khoa học, tư tưởng dân tộc và dân chủ" [28, tr. 30]. Từ đó
mà ông đặt ra yêu cầu: "Khoa Việt văn trong các học hiệu phải gom góp vào sự
chuẩn bị cho văn học nước nhà một tương lai dồi dào hơn,
tinh tế hơn, dễ phu diễn được tình cảm và ý chí của dân tộc". [28, tr. 30]
Trần Khánh Thành trong bài mở đầu giới thiệu cuốn Đặng Thai Mai về
tác gia và tác phẩm đã đánh giá rất cao các công trình của Đặng Thai Mai.
Theo tác giả, "Ở mỗi tác giả, tác phẩm, Đặng Thai Mai đều có những phát
hiện độc đáo, thâu tóm được thần thái của đối tượng, có ý nghĩa gợi mở, định
hướng cho người đi sau nghiên cứu" [40, tr.34] và "Trong những công trình
nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam, cuốn "Giảng văn Chinh phụ ngâm" có
một giá trị đặc biệt về kiến thức và phương pháp" [40, tr.34].
Về bố cục tác phẩm: Cuốn sách gồm năm phần được sắp xếp theo trật
tự lôgíc, từ khái quát đến cụ thể, từ phương pháp đến thực hành, từ hình thành
đến cấu trúc. Gồm: Phần thứ nhất là "Vài đại ý về vấn đề giảng văn"; phần
thứ hai là "Tiểu dẫn"; phần thứ ba là "Phân tích khúc ngâm"; phần thứ tư là
7


"Một bài trích giảng" và cuối cùng là "Trình bày toàn khúc và chú thích lại".

Phần đầu tác giả Đặng Thai Mai trình bày địa vị của tiếng Việt và văn
học dân tộc trong trong nhà trường trước và sau cách mạng tháng Tám. Như
lời giới thiệu của chính tác giả: Phần thứ nhất của tập sách "Nó nêu một vài
nhận định về địa vị, về mục đích và tác dụng, về phương pháp và điều kiện
cần thiết cho sự thành công của một khóa trình giảng văn" [28, tr. 34]. Đây
chính là phần thể hiện tập trung quan niệm cũng như phương pháp giảng văn
của Đặng Thai Mai. Dung lượng của phần này không nhiều nhưng bộc lộ đầy đủ
và rõ ràng quan điểm của ông về các vấn đề như đã giới thiệu. Đó là quan điểm
về mục đích, tác dụng của giảng văn cũng như phương pháp giảng văn… Và
"Phương pháp giảng văn được tác giả trình bày ngay từ phần thứ nhất, như là chìa
khóa để mở ra thế giới nghệ thuật của tác phẩm" [40, tr. 35]
Sau đó là phần giới thiệu về tác giả, dịch giả và tác phẩm Chinh phụ
ngâm. Theo đánh giá của tác giả Đặng Thai Mai, "Phần thứ hai này, có thể gọi
là phần sơ lược và thiếu thốn hơn hết của tập sách" [40, tr. 34]. Do tài liệu thời
đó khan hiếm, cũng do thời gian có hạn, nhưng ở đây Đặng Thai Mai đã đưa
ra những gợi ý cần thiết để người thời sau tiếp tục nghiên cứu vấn đề tác giả
còn để ngỏ: "Chúng tôi chờ sự giúp đỡ của các bạn trong giáo giới và trong
văn giới về tài liệu, về ý kiến để bổ khuyết cho công trình ngày nay"
[28, tr. 42].
Phần thứ ba như một minh chứng cho những lí thuyết giảng văn đã
trình bày ở phần thứ nhất. Đó cũng là phần được tác giả trình bày dài nhất,
chiếm hơn 2/3 dung lượng của bài chuyên luận. Tác giả đã chia khúc ngâm để
phân tích theo từng phần từ mở đầu đến kết thúc. Ở phần trình bày về tác
phẩm này, dù tác giả có nêu lên những hạn chế nhưng mục đích chính vẫn là:
"Phần thứ ba của tập sách- là cốt nêu những đặc sắc trong tác phẩm của nhà
nữ sĩ Việt Nam thế kỉ thứ XVIII" [28, tr. 35]. Như vậy, mục đích giảng văn của
Đặng Thai Mai đã được ông thể hiện trực tiếp, rõ ràng: Giảng một khúc ngâm
của dân tộc để khám phá nét đặc sắc của dân tộc ấy, của tác giả ấy.
8



Trong phần thứ tư tác giả đi vào cụ thể một số đoạn trích giảng, từ đó
trình bày phương pháp giảng văn của mình. Đoạn "Người chinh phụ trông
chồng" với bài trích, bài tham khảo, bản dịch nghĩa, bài diễn giảng.
Mặc dù trước đó đã có công trình Chinh phụ ngâm khúc dẫn giải của
Nguyễn Đỗ Mục nhưng trong phần cuối của chuyên luận này, Đặng Thai Mai
vẫn muốn trình bày lại toàn khúc ngâm với mong muốn "bởi một lẽ rất dễ
hiểu là trong hoàn cảnh ngày nay những sách đã in ra hồi trước không còn đủ
cho học sinh dùng nữa, mà giảng văn không thể không có áng văn trước mắt"
[28, tr. 36].
Sự ra đời của cuốn "Giảng văn Chinh phụ ngâm" rất có ý nghĩa đối với
lịch sử phương pháp giảng văn. Chính bởi vậy, đã có nhiều nhà nghiên cứu
quan tâm tìm hiểu và đánh giá cao cuốn sách. Đỗ Hữu Châu khi bàn về hoàn
cảnh ra đời và vị trí của cuốn sách đã cho rằng Đặng Thai Mai đã "chỉ rõ vị trí
của khúc ngâm trong lịch sử diễn tiến của nền văn học Việt Nam, mà còn cả với
nền văn học thế giới, trước hết là nền văn học phương Đông, vị trí của nội dung
và hình thức nữa. Đây có lẽ là lí do trả lời câu hỏi tại sao vào lúc ấy, năm
1950, trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang đi vào giai đoạn "chuẩn
bị phản công" thầy Mai lại chọn ngay khúc Chinh phụ ngâm mà giảng, chắc
chắn ngoài lí do hứng thú cá nhân, còn có lí do- dù thầy không nói ra- cuốn
Chinh phụ ngâm có vị trí bản lề, đánh dấu sự đổi thay khá sâu sắc về tư tưởng
và kĩ thuật trong văn học Việt Nam. Nó là tiền thân của Truyện Kiều và mở
đường cho nền thi ca hiện đại" [40, tr. 300-301].
Bùi Duy Tân thì đánh giá: "Hình như viết gì, Đặng Thai Mai cũng phát
hiện được giá trị cơ bản nhất của đối tượng. Bài viết nào cũng có phần giá trị
"tạc bia", định hướng, mở đường" [40, tr. 287]. Còn Trần Đình Sử lại cho
rằng đây là một "công trình viết cho hôm nay" và nhận xét: "Đặng Thai Mai
đã đề xuất một phương pháp giảng văn mới mẻ theo hướng văn hóa học, thi
pháp học" và "con đường Đặng Thai Mai một mình đã sớm dẫn bước, lẻ loi từ
bốn mươi năm trước, hôm nay đã bắt đầu rộng mở và tấp nập" [40, tr. 307].

9


1.2. Quan điểm giảng văn của Đặng Thai Mai
1.2.1. Khái niệm giảng văn
Ở Việt Nam, giảng văn xuất hiện từ rất sớm, ngay từ khi chưa có các
môn học khác. Thế nhưng đến nay khái niệm này vẫn chưa có một định nghĩa
và cách dùng thống nhất.
- Theo Từ điển Từ Hán Việt định nghĩa: Giảng (động từ) có nghĩa là cắt
nghĩa [7, tr. 173]; "văn" là Văn học hoặc văn chương [7, tr. 461]. Như vậy,
giảng văn được hiểu là giảng giải, cắt nghĩa tác phẩm văn học hoặc văn
chương.
- Theo Từ điển Tiếng Việt, 1995, định nghĩa: "giảng" (động từ): trình
bày kiến thức cặn kẽ cho người khác hiểu [36, tr. 376]. Và quan niệm "giảng
văn" (động từ): giảng về văn học trong nhà trường bậc phổ thông [36, tr. 376].
- Theo Hoàng Tuệ, "giảng văn là tên gọi tương ứng với explication de
texte trong truyền thống Pháp… "Explication" có nghĩa là "giảng giải", "giải thích",
cũng có nghĩa là "phân tích". Từ Pháp này có gốc ở một động từ Latinh với
nghĩa "mở nếp" tức phân tích" [40, tr. 314].
- Trong lịch sử nghiên cứu phê bình văn học truyền thống, giảng văn
được dùng song song với "bình văn" để phân biệt hai khuynh hướng cảm thụ
tác phẩm văn học. Bình văn là một truyền thống văn hóa lâu đời của người Việt
Nam. Trên thực tế, "giảng văn" và "bình văn" gặp nhau và không tách biệt.
"Sự thật, hai truyền thống đó có gặp nhau. Giảng là phân tích để làm cơ sở cho
bình, và bình cần dựa trên cơ sở giảng, tức phân tích" [40, tr. 314].
- Theo lịch sử khoa cử và giáo dục Việt Nam, từ thời phong kiến, khái
niệm "giảng văn" đã được dùng để chỉ hoạt động giảng văn trên lớp của giáo
viên và là một phân môn cơ bản của môn Văn trong nhà trường [30, tr. 36].
Như vậy, khái niệm giảng văn có nhiều quan niệm khác nhau. Nhưng
có thể khái quát lại: giảng văn vừa là một công việc lao động trên tác phẩm, vừa

là lao động diễn giảng về văn của giáo viên đồng thời là một môn học có

10


tính cách nhà trường. Nó vừa là một môn khoa học đồng thời là một môn
nghệ thuật. Nó là khoa học nhận thức tác phẩm văn học, nó cũng là nghệ thuật
cảm thụ và truyền đạt cái hay cái đẹp của tác phẩm đó theo một yêu cầu sư
phạm nhất định. Nó đòi hỏi một năng lực có tính chất tổng hợp rất cao trong
mọi năng lực của người thầy. "Như vậy, môn giảng văn, tất nhiên có những
quy tắc của nó, nhưng phải chứa đựng yếu tố linh hoạt và sáng tạo, những yếu
tố quyết định thành công của khoa học và nghệ thuật này" [20, tr. 16].
Ở mỗi bài văn và ở mỗi người cách giảng văn có khác nhau. Nói như
vậy để nói rằng môn giảng văn dù không phá vỡ quy tắc của nó, vẫn không
thể áp đặt vào những khuôn cứng nhắc đối với tất cả các bài, hay đối với tất cả
các đối tượng phục vụ. Tuy nhiên tính linh hoạt và sáng tạo vẫn không mâu
thuẫn với các quy tắc chính của môn giảng văn, theo đúng nguyên lý sư
phạm, và như vậy, tất cả các bài giảng khi triển khai đều có một số điểm nhất
quán về kết cấu và trình tự chung, như phải nêu rõ xuất xứ, cắt nghĩa việc
trích đoạn, nêu rõ chủ đề, lựa chọn bố cục tương đối thích hợp nhất, trước khi đi
vào phân tích từng câu văn, từng từ ngữ, từng điển cố trong các đoạn mạch, để
bạn đọc dễ theo dõi đầu mối và hệ luận toàn bộ cấu trúc bài văn.
Bản chất của quá trình dạy văn trong nhà trường trước đây là truyền thụ
- tái tạo. Lối học ấy ngày càng tỏ ra không thể đáp ứng được những đòi hỏi,
bức xúc của thời đại, nên đã đặt ra yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học văn.
Cốt lõi của tinh thần đổi mới là: thầy hướng dẫn, tổ chức, học sinh chủ động,
sáng tạo chiếm lĩnh tác phẩm. Để phù hợp với tình thần này, môn "Giảng văn"
đã được đổi tên thành "Phân tích dạy học tác phẩm văn chương" và ngày
nay đổi tên thành "Đọc - hiểu văn bản".
Đến nay, khái niệm "giảng văn" hầu như không còn nhưng hoạt động

giảng văn vẫn được quan tâm. Tên gọi mới đã xuất hiện nhưng trong một số
cuốn sách ta vần thấy tác giả dùng khái niệm "giảng văn". Vấn đề ở đây
không phải nằm ở tên gọi. Quan trọng là ở quan niệm và hệ thống lí thuyết về
tên gọi ấy. Khi chưa có một quan niệm hoàn thiện về "giảng văn" thì tên gọi
11


chỉ là một cách nhấn mạnh khía cạnh này hay khía cạnh khác của hoạt động
tìm hiểu tác phẩm văn chương mà thôi.
1.2.2. Khái niệm giảng văn của Đặng Thai Mai
Trong "Giảng văn Chinh phụ ngâm" và nhiều công trình nghiên cứu
khác, Đặng Thai Mai đã sử dụng thuật ngữ "giảng văn". Vậy giảng văn theo
quan niệm của ông có hàm nghĩa như thế nào? Nhưng trước khi tìm hiểu quan
niệm giảng văn của Đặng Thai Mai cũng cần biết ông đã phê phán một số
quan niệm về giảng văn. Cụ thể là:
+ Giảng văn "không phải chỉ là ngồi nhận định và dẫn chứng với học
sinh về nghĩa đen của một chữ hay "xuất xứ" của một điển tích, của một hình
tượng, một câu văn mà thôi" [28, tr. 31].
Nếu lối giảng văn hình thức chủ nghĩa đi vào giảng giải tủn mủn câu
chữ thì ngược lại lối giảng văn này bỏ qua hình thức, chỉ căn cứ vào chủ đề, đại
ý, nghĩa hiển ngôn, bề mặt của ngôn từ tác phẩm rồi diễn nôm lại, thuyết minh
lại bằng lời của mình, theo cách hiểu chủ quan của mình. Đặng Thai Mai phê
phán một cách nghiêm khắc, hóm hỉnh là: "nói lại bằng mấy câu văn xuôi không
xuôi tí nào". Không đi từ hình thức, không phân tích nghệ thuật, bao nhiêu
tâm tư, khát vọng, "bao ý chí tình tứ sâu sắc mà người xưa đã nói với những
lời chan chứa thi vị" được thay bằng những câu văn, những nhận định hời hợt,
nông cạn, vụng về, thậm chí thô thiển. Đặng Thai Mai cho rằng, "đây không phải
là một sự trạng riêng biệt ở các học hiệu nước ta ngày xưa… và ngày nay" mà là
một thực trạng chung trong nhà trường Trung Quốc và Tây Âu một thời.
Nguyên nhân thứ nhất, theo ông, là ở trình độ của người giáo viên: Có những

thầy giáo giảng văn mà "không hiểu gì về văn học". Nguyên nhân thứ hai
được bắt nguồn từ một quan niệm siêu hình rằng: "thưởng thức văn chương chỉ
là câu chuyện chủ quan" chứ không phải giảng giải phê bình.
+ "Giảng văn không phải là phương tiện thôi miên vô ý thức làm học

12


sinh ngáp sái cả quai hàm" [28, tr. 31].
Sai lầm của giảng văn trong nhà trường chúng ta nhiều thập kỉ trước
đây là đã nhận thức chưa đúng vai trò của học sinh, coi học sinh như một
khách thể thụ động, một đối tượng chịu sự tác động từ phía giáo viên bằng một
hệ thống biện pháp sư phạm bên ngoài. Trong giờ giảng văn thầy tha hồ trổ hết tài
nghệ thuyết trình, diễn giảng. Giảng văn như một phương tiện thôi miên mà giáo
viên là một nhà ảo thuật còn học sinh là đối tượng bị điều khiển, chịu sự điều
khiển. Lối giảng văn ấy không chỉ khiến học sinh chán nản với môn Văn mà cái
gọi là chủ thể sáng tạo, vấn đề cá tính, bản lĩnh của học sinh trong thưởng thức,
đánh giá văn chương cũng không có điều kiện để bộc lộ và phát triển. Theo
Đặng Thai Mai đó cũng là một lối giảng văn cần phê phán.
Tuy ít nói về vai trò chủ thể của học sinh nhưng bằng việc phủ nhận lối
giảng văn thôi miên "vô ý thức", Đặng Thai Mai đã phần nào bày tỏ dược
quan điểm của mình về vị trí, vai trò của người học sinh trong dạy học tác
phẩm văn chương. Học sinh không phải là những con bệnh tâm thần mà là
những tâm hồn khỏe khoắn, yêu đời, có đầy đủ tố chất và phẩm chất để phát
triển và tự phát triển. Giáo viên không phải là một nhà ảo thuật tồi hay một bác
sĩ tâm thần giỏi mà là người "khơi gợi, hướng dẫn, truyền cảm". Giảng văn
theo Đặng Thai Mai phải là một khoa học về nghệ thuật có khả năng phát huy
"tinh thần suy nghĩ" sáng tạo của học sinh chứ không phải là một phương tiện
chữa bệnh hay giải trí "vô ý thức" và tẻ nhạt.
Từ việc phê phán những quan niệm sai lầm, Đặng Thai Mai đưa ra

những quan niệm đúng đắn về giảng văn:
+ Ông cho rằng từ giảng văn bắt nguồn từ một thuật ngữ phương Tây explication. Trong cuốn "Giảng văn Chinh phụ ngâm" ông viết: "Trong từ ngữ
các nước phương Tây, từ nguyên của chữ explication- giảng văn là do
chữ pli mà ra" [28, tr. 31]

13


Như vậy, từ giảng văn bắt nguồn từ từ "explication" một động từ cổ ở
các nước phương Tây, nó được hiểu là giảng, giải thích, giải nghĩa.
+ Từ sự cắt nghĩa về nguồn gốc của từ giảng văn ông mới đưa ra một
quan niệm về "Giảng văn" của mình: "Giảng văn trước hết là theo dõi trong
nếp (pli) áng văn tất cả cái tinh vi về tư tưởng, cái độc đáo về nghệ thuật của
một tác giả. Hiểu như vậy, giảng văn trước hết là chỉ rõ sự thống nhất giữa hình
thức và nội dung, giữa kĩ thuật và tư tưởng trong một tác phẩm văn chương"
[28, tr. 31]. Đặng Thai Mai đã nhấn mạnh đến phương diện kĩ thuật và tính
chính xác của giảng văn. Ông không tán thành lối bình tán tùy tiện. Theo Trần
Đình Sử, Đặng Thai Mai đã trình bày một quan niệm giảng văn sáng tỏ,
"giảng văn theo ông trước hết là một việc làm của trí tuệ và mang tính chất
khoa học" [40, tr. 308].
Như vậy, giảng văn là một hoạt động mà ở đó người thầy giáo khi đứng
trước một áng văn chương phải tìm cho được cái "tinh vi về tư tưởng" và cái
"độc đáo về nghệ thuật". Không những thế còn phải phát hiện ra được giữa
nội dung và nghệ thuật ấy có mối quan hệ thống nhất với nhau như thế nào.
Nghệ thuật phải chuyển tải được nội dung và nội dung phải được thể hiện qua một
hình thức nghệ thuật nhất định.
Trong "Giảng văn Chinh phụ ngâm" ông viết: "Nếu như phê bình văn
học cũng là một phương tiện xúc tiến xây dựng văn học, thì thiết tưởng khoa
giảng văn cũng là hình thức phê bình cần thiết cho học thuật nước nhà." [28,
tr. 33]. Nhưng nội dung, đối tượng của "hình thức phê bình cần thiết" này là

gì? Lối phê bình văn học cổ chỉ chuyên tâm tìm kiếm lời hay ý đẹp trong tác
phẩm, tập trung đánh giá, phẩm bình hơn là phân tích, nghiên cứu toàn bộ
những mối quan hệ trong ngoài phức tạp của sáng tác văn học. Những hình
thức phê bình này không những không có tác dụng nhiều trong trong việc
hướng dẫn, gợi ý, mở đường cho sáng tác mà ngược lại dễ sáng tác đi vào
những thiên hướng lệch lạc, bệnh hoạn.

14


Trong bối cảnh đó, "giảng văn" theo Đặng Thai Mai là một hình thức
phê bình cần thiết, bởi ông quan niệm giảng văn là những "công trình phân
tích thấu đáo nội dung và hình thức của áng văn, tác dụng của thiên tài, ảnh
hưởng của lịch sử và của thời đại trong công cuộc xây dựng văn nghệ, địa vị
cùng ảnh hưởng của tác phẩm trong tư tưởng và văn học Việt Nam" [28, tr. 33].
Quan niệm như vậy thì giảng văn bao gồm cả phê bình, phân tích tác
phẩm, một phần của lịch sử văn học và nghiên cứu văn học. Quan niệm đó góp
phần tránh được cách hiểu và lối giảng văn thiển cận, chỉ đóng khung trong
những "tìm kiếm về luân lí, thần cú nhãn tự trong bản thân tác phẩm
cùng như lối bình văn chủ quan, thiếu cơ sở lí luận và thực tiễn" [30, tr. 38].
Như vậy thuật ngữ "giảng văn" cũng được Đặng Thai Mai sử dụng với
hai nghĩa: giảng văn vừa là một "hình thức phê bình cần thiết" vừa là một
hoạt động giảng dạy văn học, một môn học ở nhà trường phổ thông.
Trong không khí đổi mới phương pháp dạy học văn, thuật ngữ "giảng
văn" nghe có vẻ cũ kĩ, lỗi thời. Bản thân âm hưởng của từ đó dễ gây cho
người ta ấn tượng về lối dạy học cũ đã từng ngự trị hàng thế kỉ trong nhà
trường phổ thông. Tuy nhiên như đã nói, tên gọi không phải là tất cả. Quan
niệm và hệ thống lí thuyết giảng văn của Đặng Thai Mai trong thực tế đã vượt quá
giới hạn chật hẹp của cách hiểu cảm tính về khái niệm "giảng văn" và cách
giảng văn phổ biến trong nhà trường cũ.

Để đảm bảo tính khách quan, ở đây người viết vẫn dùng nguyên khái
niệm "giảng văn" của Đặng Thai Mai chứ không thay bằng những thuật ngữ
hiện đại khác như "đọc - hiểu văn bản".
1.2.3. Quan niệm của Đặng Thai Mai về mục đích, tác dụng của giảng văn trong
nhà trường
Mục đích của một hoạt động là kết quả dự kiến mà mỗi chủ thể hoạt
động cần phấn đấu để đạt được. Mục đích có tác dụng định hướng, chỉ đạo
toàn bộ quá trình hoạt động, góp phần tạo nên chất lượng, hiệu quả của hoạt

15


động. Ý thức được tầm quan trọng đó, trước khi đi vào bàn những vấn đề cụ
thể của phương pháp giảng văn, việc xác định mục đích giảng văn là một thao tác
quan trọng đầu tiên trong phương pháp luận giảng văn của Đặng Thai
Mai. Về vấn đề này, "Giảng văn Chinh phụ ngâm" là một ví dụ cụ thể.
Theo Đặng Thai Mai, "Mục đích giảng văn trong tinh thần cấp học
chuyên khoa ( …) trước hết là theo dõi trong nếp (pli) áng văn, tất cả cái tinh vi về tư
tưởng, cái độc đáo về nghệ thuật của một tác giả . Hiểu như vậy, giảng văn
trước hết, là chỉ rõ sự thống nhất giữa hình thức và nội dung, giữa kĩ thuật và tư
tưởng trong một tác phẩm văn chương" [28, tr. 31]. Từ mục đích chung ấy,
Đặng Thai Mai đề cập đến tác dụng của khoa giảng văn ở hai
phương diện:
* Tác dụng thứ nhất: "Về phương diện chủ quan, một kĩ thuật giảng
văn sâu sắc và chính xác cũng là một động cơ xây dựng và bỗi dưỡng tâm hồn
người nghe, người đọc những hứng thú văn chương dồi dào và đúng đắn" [28, tr. 31].
Trình bày tác dụng này, tác giả phê phán hai lối giảng văn:
+ "Khi đọc một câu văn hay thì ai không cảm thấy là hay? Và nếu ta
cảm biết là câu văn hay là đủ rồi, hà tất phải giảng?" [28, tr. 31]. Lối giảng
văn này chỉ quan tâm tới việc cảm nhận, rung động trước áng văn. Không cần lí giải

tại sao câu văn ấy, tác phẩm ấy hay, hay bởi yếu tố nào? Đây là cách cảm nhận
hoàn toàn cảm tính, không dựa trên cơ sở khoa học.
+ "Hưởng thụ văn chương phải là một thái độ hồn nhiên phản luận lí
(illogique) của trực cảm" [28, tr. 32]. Đặng Thai Mai không hề xem nhẹ sự
cảm nhận hồn nhiên, trực tiếp. Nhưng theo ông, "cảm thấy hay chưa đủ, có
hiểu là hay, sự thưởng thức mới có nghĩa lí và có tác dụng" [28, tr. 33]. Mục
đích giảng văn như vậy rõ ràng là giúp nâng cao năng lực "hiểu cái hay" cho con
người. Quan niệm này vẫn còn có ý nghĩa thời sự cả trong ngành sư phạm giúp
uốn nắn cách hiểu giảng văn chỉ như là trình bày cảm nhận chủ quan,
nặng về bình tán suy diễn.

16


Từ sự phê phán ấy ông đặt ra vấn đề: cần kết hợp giảng văn giữa cảm
và hiểu. Có như vậy "thái độ thưởng thức cũng sẽ thấu đáo, vững vàng hơn.
Cảm tình nếu được cả một lực lượng của sự hiểu, ngộ tính làm hậu thuẫn bao
giờ cũng khỏe khoắn hơn, dồi dào hơn" [28, tr. 32].
* Tác dụng thứ hai, quan trọng hơn: "Đứng về phương diện khác mà
nói thì ngoài việc luyện văn cho học sinh, khoa giảng văn cũng là một phương
tiện để kiến thiết học thuật và tư tưởng" [28, tr. 33].
Hiểu giảng văn là công việc của khoa học và trí tuệ, Đặng Thai Mai đã
xác định vị trí của nó trong hoạt động học thuật nước nhà, xem nó là một bộ
phận của ngành phê bình, nghiên cứu có nhiệm vụ "kiến thiết học thuật và tư
tưởng". So với nhiều nước trên thế giới, văn chương nước nhà, xét về một số
phương diện, phải nhận là chưa lấy gì làm dồi dào phong phú cho lắm. Bởi
vậy, trong tình thế chính trị ngày nay, chúng ta đã có những điều kiện để mà
kiến thiết. Và công trình "Giảng văn Chinh phụ ngâm" là một hoạt động phê
bình cần thiết mà dù đang rất bận với nhiều công việc ở nhiều vị trí khác
nhau, Đặng Thai Mai vẫn cố gắng hoàn thành và hoàn thành một cách khoa

học để góp phần giúp nền học thuật nước nhà phát triển. Chính vì thế mà với
cuốn chuyên luận này, Đặng Thai Mai đã được đánh giá là "người đặt nền
móng cho khoa giảng văn hiện đại nước nhà" [40, tr. 307].
Từ quan niệm như vậy, trước khi đi vào giảng văn Chinh phụ ngâm,
Đặng Thai Mai viết: "Mục đích của bài phân tích khúc Chinh phụ ngâm- phần
thứ ba của tập sách- là cốt nêu những đặc sắc trong tác phẩm của nhà nữ sĩ
Việt Nam thế kỉ XVIII. Chúng tôi đã để ý đặc biệt đến quan niệm nhân sinh và
kĩ thuật của một thời đại" [28, tr. 35]. Khi diễn giảng đoạn trích Người chinh
phụ trông chồng, tác giả giảng văn cũng đặc biệt để ý đến sáng tạo của Đoàn Thị
Điểm trong việc lựa chọn thể thơ, cách cấu tứ bốn bức cảnh, thế giới quan,
"quan niệm thế giới" trong khi mô tả sự vật… Đối chiếu Chinh phụ ngâm với các
tác phẩm cổ điển Đông Tây kim cổ bằng một nghệ thuật so sánh bậc thầy, Đặng
Thai Mai đã làm nổi bật những đặc sắc, đóng góp của tác
17


phẩm, đặt tác phẩm vào đúng vị trí xứng đáng của nó trong tiến trình lịch sử
văn học dân tộc. Dù dừng lại ở phương diện nào, tác giả cũng cố công tìm
kiếm, lột tả được cái riêng, cái độc đáo của tác giả, dịch giả, tác phẩm. Đó là
những lí do tại sao ra đời từ năm 1950, sau này đã có nhiều công trình bài viết về
Chinh phụ ngâm nhưng "Giảng văn Chinh phụ ngâm" vẫn là một công trình
khoa học có tính khám phá sáng tạo, một tư liệu tham khảo quý mỗi khi chúng
ta muốn đi tiếp trên con đường tiếp cận Chinh phụ ngâm.
1.3. Vai trò của môn Ngữ văn và quan điểm về mục đích giảng văn trong
nhà trƣờng phổ thông hiện nay
1.3.1. Vai trò của môn Ngữ văn trong nhà trường
Để thấy được vai trò của môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông
hiện nay, trước hết phải hiểu được bản chất của nó. Trong nhà trường phổ
thông môn Ngữ văn có hai thuộc tính cơ bản: đó là một môn khoa học vừa có
tính nghệ thuật ngôn từ vừa mang tính chất một môn học.

Văn học trong nhà trường trước hết mang bản chất văn chương. Đây là
điểm phân biệt môn văn với các môn học nhân văn khác. Một sự phân biệt
chính xác phương pháp dạy học văn bắt nguồn từ sự nhận thức đúng đắn về
bản chất thứ nhất của môn Văn trong nhà trường. Văn học trong nhà trường
cũng là một bộ phận văn chương nên cũng có chuyện đọc văn, hiểu cảm văn
chương, bình giảng, bình luận, đánh giá, cắt nghĩa văn chương… cho nên cần coi
trọng giáo dục thẩm mĩ và nhân văn trong văn chương.
Nhưng nếu chỉ nhấn mạnh đến mặt thứ nhất, mặt văn học của môn Văn,
thì người giáo viên dễ lệch hướng khi thực hiện nhiệm vụ giáo dục và lúng
túng khi lựa chọn phương pháp giảng dạy. Bởi bên cạnh bản chất văn chương
môn Văn trong nhà trường còn có những đặc trưng khác, những yêu cầu khác.
Ngoài quy luật, nguyên lí của văn học ở đây còn có hội tụ nhiều quy luật tâm lí
sư phạm.
Môn Ngữ văn có những đặc điểm riêng, và vì vậy nó có một vai trò

18


×