Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Đề cương thể chế chính trị 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.68 KB, 16 trang )

Câu 1: Phân tích CĐCT theo Hiến pháp 2013
Chế độ chính trị của nước Cộng hòa XHCNVN được trình bày trong chương I của bản hiến
pháp 2013.
Điều 1 của Hiến pháp khẳng định Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước
độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và
vùng trời. Khẳng định quan điểm: Quyền lực Nhà nước là thống nhất, tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước bao
gồm quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp đều có chung một nguồn gốc thống nhất
là từ nhân dân, đều do nhân dân ủy quyền, giao quyền, thống nhất với nhau ở mục tiêu chính trị
chung là xây dựng nhà nước.
Hiến pháp 2013 thể hiện rõ bản chất của Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, bổ sung và phát triển nguyên tắc “Quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (Điều 2) theo tinh thần của Cương lĩnh. Kiểm
soát quyền lực là nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền để các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư
pháp thực thi có hiệu lực, hiệu quả chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo Hiến pháp và
pháp luật, tránh việc lợi dụng, hạn chế sự lộng quyền, lạm quyền và mâu thuẫn chồng chéo hoặc
trùng lắp trong quá trình thực hiện quyền lực nhà nước giữa các cơ quan. Nguyên tắc này đã được
thể hiện trong các Chương V, VI, VII, VIII và IX của Hiến pháp và tạo cơ sở hiến định cho việc
tiếp tục thể chế hóa trong các quy định của các luật có liên quan. Mặc dù có sự phân định nhưng cả
3 quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp không hoàn toàn tách biệt nhau mà ràng buộc, phối hợp,
kiểm soát lẫn nhau để thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn mà nhân dân giao mỗi quyền được
Hiến pháp quy định.
Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến, quy định “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng
dân chủ trực tiếp được ghi nhận và phát triển thành nguyên tắc trong Hiến pháp.Theo đó, nhân dân
thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội,
Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước (Điều 6) mà không chỉ thông qua
Quốc hội và Hội đồng nhân dân như Hiến pháp năm 1992. Nguyên tắc này được thể hiện nhất quán
trong toàn bộ Hiến pháp, từ chế độ chính trị, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân đến các thiết chế trong bộ máy nhà nước cũng như trong việc sửa đổi Hiến pháp.
Hiến pháp khẳng định tính lịch sử, tính tất yếu khách quan sự lãnh đạo của Đảng đối với quá


trình cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nước ta. Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là
đội tiên phong của giai cấp công nhân mà đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của
dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả
dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng HCM làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo
Nhà nước và xã hội. Đồng thời, Hiến pháp đã bổ sung vào Điều 4 quy định về trách nhiệm của
Đảng phải gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu
trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình. Bên cạnh đó, Hiến pháp không chỉ
khẳng định các tổ chức của Đảng mà còn quy định trách nhiệm của đảng viên hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.


Hiến pháp tiếp tục khẳng định “Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng
phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các
dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán,
truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và
tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước” (Điều 5). Sự
bình đẳng giữa các dân tộc là bình đẳng cả về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và tham gia bảo vệ
Tổ quốc; mỗi người dân các dân tộc thiểu số có quyền sống, làm việc theo pháp luật; ngoài quyền
ứng cử, còn có quyền bầu cử những người thay mặt mình tham gia vào cơ quan đại diện của Quốc
hội, Hội đồng Nhân dân các cấp, mỗi người dân đều bình đẳng trước pháp luật về hình sự, dân sự,
kinh tế, luật nghĩa vụ quân sự... Như vậy, quyền bình đẳng này đã trở thành một trong những nội
dung quan trọng của bản chất ưu việt chế độ xã hội chủ nghĩa của nước ta; thể hiện rõ ràng, kiên
định là: Vấn đề dân tộc, công tác dân tộc, đoàn kết dân tộc có vị trí chiến lược quan trọng trong
cách mạng nước ta. Đảng ta, Nhà nước ta đã dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền các dân tộc nên đã có chủ trương, chính sách dân tộc đúng
đắn, những nội dung quy định trong Hiến pháp là thể chế các nguyên tắc cơ bản: các dân tộc sinh
sống trên đất nước Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng nhau, giúp nhau cùng phát triển, các
nội dung này không tách rời mà có quan hệ khăng khít với nhau, tác động lẫn nhau, thúc đẩy nhau
trong quá trình phát triển, có thực sự bình đẳng thì mới càng phát huy được tình đoàn kết giữa các
dân tộc anh em. Về VH-XH các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết của mình, giữ gìn bản
sắc dân tộc, phát huy các phong tục tập quán, truyền thống văn hóa tốt đẹp của DT

Tiếp tục khẳng định và thể hiện rõ hơn tư tưởng phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, coi
đại đoàn kết toàn dân tộc là động lực, nguồn sức mạnh to lớn để xây dựng, bảo vệ và phát triển đất
nước. Cụ thể, Hiến pháp tiếp tục kế thừa Hiến pháp năm 1992 quy định Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính
đáng của Nhân dân nhưng bổ sung vai trò của Mặt trận trong tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội, giám sát, phản biện xã hội;
đồng thời tiếp tục khẳng định trách nhiệm của Mặt trận tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt
động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (Điều 9). Tiếp tục kế thừa Hiến
pháp năm 1992 về Công đoàn, Hiến pháp đã bổ sung vai trò, trách nhiệm của Công đoàn phù hợp
với giai đoạn phát triển mới của đất nước (Điều 10). Bên cạnh đó, Hiến pháp có sự bổ sung, phát
triển quan trọng trong việc ghi nhận vị trí, vai trò của Hội nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên
cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam là các tổ
chức chính trị - xã hội nòng cốt trong việc đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng
của thành viên, hội viên tổ chức mình, cùng các tổ chức thành viên khác của Mặt trận phối hợp và
thống nhất hành động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (khoản 2 Điều 10).
Hiến pháp nước CHXHCNVN đã sửa đổi, bổ sung chính sách đối ngoại của nước ta cho phù hợp
với tình hình mới; khẳng định nước CHXHCNVN thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,
hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội
nhập, hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào
công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều ước quốc
tế mà CHXHCNVN là thành viên; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng
quốc tế vì lợi ích quốc gia, dân tộc, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội trên thế giới (Điều 12).


Câu 2: Phân tích khái niệm, đặc điểm của bộ máy chính trị Việt Nam
Khái niệm hệ thống chính trị: là tổ hợp có tính chỉnh thể các thể chế chính trị (các cơ quan
quyền lực nhà nước, các đảng chính trị, các tổ chức chính trị- xã hội) được xây dựng dựa trên các
quyền và các chuẩn mực xã hội, phân bố theo kết cấu chức năng nhất định, vận hành theo nguyên tắc,
cơ chế và quan hệ cụ thể nhằm thực nhiện mục tiêu chung của các hệ thống chính trị.

- Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị trong xã hội bao gồm các cơ quan
quyền lực nhà nước, các đảng chính trị, các tổ chức chính trị-xã hội liên kết với nhau trong một hệ
thống tổ chức , gắn bó chặt chẽ và tác động lẫn nhau cùng thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân
lao động
-Hệ thống chính trị được xây dựng trên các quyền và các chuẩn mực xã hội
Hệ thống chính trị là một cơ cấu, tổ chức bao gồm đảng phái chính trị, nhà nước, các tổ chức
chính trị - xã hội tồn tại và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật hiện hành nhằm duy trì, bảo vệ, và
phát triển xã hội đó. Vì mục đích duy trì, bảo vệ, và phát triển xã hội cho nên các quyền và chuẩn mực
xã hội là nền tảng cho việc xây dưng hệ thống chính trị sao cho phù hợp và hoạt động có hiệu quả đối
với chính xã hội đó
-Hệ thống chính trị phân bố theo kết cấu chức năng nhất định, vận hành theo nguyên tắc, cơ chế
và quan hệ cụ thể nhằm thực hiện mục tiêu chung của các hệ thống chính trị
Đặc điểm của hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay
- Tính nhất nguyên chính trị
+ Không có chính đảng đối lập: Chế độ chính trị ở Việt Nam là thể chế chính trị một đảng duy
nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hệ thống chính trị ở Việt Nam là thể chế nhất nguyên chính trị,
không tồn tại các đảng chính trị đối lập.
+ Nhất nguyên về tổ chức: Hệ thống chính trị ở Việt Nam gắn liền với vai trò tổ chức và lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mỗi tổ chức thành viên của hệ thống chính trị đều do Đảng Cộng
sản Việt Nam sáng lập vừa đóng vai trò là hình thức tổ chức quyền lực của nhân dân (Nhà nước), tổ
chức tập hợp, đoàn kết quần chúng, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của quần chúng (Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức chính trị - xã hội)
+ Nhất nguyên về tư tưởng: Toàn bộ hệ thống chính trị đều được tổ chức và hoạt động trên nền
tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
+Nhất nguyên về mục tiêu hoạt động: Độc lập dân tộc + CNXH
-Hệ thống chính trị mang tính nhân dân sâu sắc
Sự gắn bó mật thiết giữa hệ thống chính trị với nhân dân được thể hiện trên các yếu tố:
+ Đây là quy luật tồn tại của Đảng, là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng cầm quyền.
+ Nhà nước là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.



+ Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội là hình thức tập hợp, tổ chức của chính các
tầng lớp nhân dân.
+Dân cử các nhà đại diện để trở thành các nhà lãnh đạo cấp cao trong nhà nước
+Dân giám sát hoạt động của nhà nước và phản biện thông qua các tổ chức chính trị- xã hội của
mình.
-HTCT được tổ chức rộng khắp, chặt chẽ theo nguyên tắc tập trung dân chủ:
+ Hiện nay cả nước ta có 63 tỉnh, thành phố, trên 500 quận, huyện và hàng chục nghìn xã,
phường, thị trấn. Hầu như ở đâu cũng có đầy đủ các tổ chức đảng, tổ chức chính trị - xã hội của quần
chúng. Các tổ chức đảng, đoàn thể này được tổ chức theo hệ thống từ trên xuống dười có mặt ở mọi
cấp, hoạt động theo nguyên tắc cấp trên chỉ đạo, hướng dẫn cấp dưới, cấp dưới phục tùng cấp trên.
Hệ thống chính trị còn tồn tại theo các đơn vị, các cơ quan, các tổ chức hành chính, sự nghiệp, các
doanh nghiệp trong và ngoài quốc doanh.
+Ngay trong một cơ quan, đoàn thể nào đó cũng có mặt các tổ chức của các đoàn thể khác,
nghĩa là các tổ chức không chỉ tồn tại bên cạnh nhau, mà còn tồn tại đan xen, lồng vào nhau. Tất cả
tạo nên một mạng lưới chằng chịt, gắn kết chặt chẽ.
-Các thành viên của HTCT do Đảng sáng lập ra có lịch sử đấu tranh vẻ vang
Các đoàn thể quần chúng đều do Đảng Cộng sản lập ra nhằm mục đích đấu tranh chống đế
quốc, thực dân, giành độc lập dân tộc. Các thành viên của hệ thống chính trị gắn mình với sự nghiệp
cao cả của Đảng và lịch sử hào hùng của dân tộc. Hội nông dân được lập ngày 14/10/1930, Hội Phụ
nữ thành lập ngày 20/10/1930, Đoàn thanh niên ngày 26/3/1930, Mặt trận Tổ quốc mà tiền thân là
Hội phản đế được lập ngày 18/11/1930, trước đó từ tháng 7/1929, tổ chức Công đoàn đầu tiên đã
được thành lập (Công hội đỏ Bắc Kỳ)
-Các thành viên của HTCT có địa vị pháp lý vững chắc:
Việt Nam các thành viên của hệ thống chính trị được xác định cụ thể. Vị trí, vai trò của mỗi tổ chức
trong
hệ
thống
chính
trị

được
Hiến
pháp,
pháp
luật
khẳng
định
Với địa vị pháp lý được củng cố, các thành viên của hệ thống chính trị có điều kiện thuận lợi rất lớn
là được Nhà nước đảm bảo mọi điều kiện vật chất, tài chính cần thiết; được thường xuyên cử đại
diện vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp; là đầu mối mà Đảng, Nhà nước phải tham khảo ý
kiến trước khi ban hành các quyết định chính trị quan trọng.

Câu 3: Sơ đồ hóa HTCT, phân tích thực trạng và đề xuất hướng giải pháp trong xd
HTCT VN


* Thực trạng của HTCT:
- Quốc hội chưa làm tốt được chức năng giám sát và lập pháp tối cao:
+ Hoạt động giám sát của Quốc hội cũng còn có những hạn chế nhất định. Một số báo cáo
gửi đến Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội còn chậm, chưa bảo đảm đúng thời
hạn do pháp luật quy định nên thời gian để đại biểu Quốc hội nghiên cứu, xem xét kỹ các báo cáo
còn ít.
+ Việc giám sát văn bản quy phạm pháp luật trong một số trường hợp vẫn chưa được quan
tâm đúng mức, có lúc còn chưa đi sâu vào nội dung cụ thể của từng văn bản, chủ yếu mới tập trung
vào tiến độ ban hành, số lượng văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn chi tiết. Các kết luận giám
sát còn phụ thuộc nhiều vào các báo cáo, giải trình của các cơ quan (đối tượng) được giám sát; việc
tự xác minh, thu thập thông tin, tài liệu của các đoàn giám sát còn hạn chế. Chính vì vậy, một số
vấn đề trong kết luận giám sát chưa phản ánh đầy đủ, khách quan, toàn diện bản chất của sự việc,
đối tượng giám sát.
+ Một số kiến nghị của đoàn giám sát còn chung chung, chưa cụ thể, chưa xác định rõ trách

nhiệm của các chủ thể liên quan sau giám sát. Việc theo dõi, đôn đốc thực hiện nghị quyết, kết
luận, kiến nghị sau giám sát chưa được thường xuyên nên hiệu lực và hiệu quả giám sát của Quốc
hội còn chưa được như mong muốn.
- Năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, hiệu quả quản lý, điều hành của Nhà nước, hiệu
quả hoạt động của các đoàn thể chính trị-xã hội chưa nâng lên kịp với đòi hỏi của tình hình nhiệm
vụ mới. Bộ máy Đảng, Nhà nước, đoàn thể chậm được sắp xếp lại cho tinh giản và nâng cao chất
lượng, còn nhiều biểu hiện quan liêu, vi phạm quyền dân chủ của nhân dân. Công tác tuyển chọn,


bồi dưỡng, thay thế, trẻ hoá, chuẩn bị cán bộ kế cận còn lúng túng, chậm trễ. Năng lực và phẩm
chất của đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị chưa tương xứng với yêu cầu của nhiệm vụ. Một bộ
phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng cách mạng, tha hoá về phẩm chất đạo đức, sức chiến đấu
của một số tổ chức cơ sở Đảng chưa cao.
- Hệ thống chính trị ở cơ sở hiện nay còn nhiều mặt yếu kém, bất cập trong công tác lãnh
đạo, quản lý, tổ chức thực hiện và vận động quần chúng. Tình trạng tham nhũng, quan liêu, mất
đoàn kết nội bộ, vừa vi phạm quyền làm chủ của dân, vừa không giữ đúng kỷ cương, phép nước
xảy ra ở nhiều nơi, có những nơi nghiêm trọng. Chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận trong hệ
thống chính trị chưa được xác định rành mạch, tránh nhiệm không rõ; nội dung và phương thức
hoạt động chậm đổi mới, còn nhiều biểu hiện của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp. Đội ngũ cán
bộ cơ sở ít được đào tạo, bồi dưỡng; chính sách đối với cán bộ cơ sở còn chắp vá.
* Đề xuất 1 số hướng khắc phục trong xây dựng hệ thống chính trị nước ta
+ Đổi mới HTCT là một nhu cầu tất yêu và khách quan, với nguyên tắc đổi mới kinh tế và
chính trị phải đi đôi với nhau.
+ Đổi mới phải đảm bảo giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, không gây bất ổn
về chính trị, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng
+ Kiên quyết không chấp nhận đa nguyên về chính trị và đa đảng đối lập.
+ Trong điều kiện một đảng cầm quyền, khâu mấu chốt của đổi mới HTCT là phân định rõ
chức năng và giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng, nhà nước và các đoàn thể

Câu 4: Trình bày các nguyên tắc cơ bản trong tổ chức hoạt động của bộ máy Nhà nước

CHXHCNVN


a)

Nguyên tắc Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo đối với nhà nước.

Điều 4 Hiến pháp 1992 khẳng định "Đảng CS Việt Nam là lực lượng lãnh đạo đối với nhà nước".
Nội dung nguyên tắc đó thể hiện ở việc Đảng định hướng sự phát triển về tổ chức bộ máy nhà
nước, giới thiệu, bồi dưỡng cán bộ ưu tú để nhân dân lựa chọn bầu hoặc để các cơ quan nhà nước
đề bạt bổ nhiệm giữ các vị trí quan trọng trong bộ máy nhà nước; Đảng vạch ra phương hướng xây
dựng nhà nước, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước; Đảng lãnh đạo nhà nước thông qua
các đảng viên, các tổ chức Đảng trong các cơ quan nhà nước, thông qua công tác tuyên truyền, vận
động quần chúng trong bộ máy nhà nước. Đảng lãnh đạo nhà nước nhưng mọi tổ chức của Đảng
phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước là một tất yếu khách quan, là sự bảo đảm cho nhà nước ta
thực sự là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,nhà nước của nhân dân,do nhân dân,vì nhân dân.
b)

Nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.

Hiến pháp 1992 quy định "Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân". Nhân dân sử dụng
quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân. Quốc hội và Hội đồng nhân dân
bao gồm các đại biểu của nhân dân do nhân dân bầu ra, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân
dân, thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước, quyết định những vấn đề quan trọng nhất
của đất nước và ở địa phương.
Ngoài ra nhân dân còn trực tiếp thực hiện quyền lực nhà nước bằng nhiều cách khác nhau
như: nhân dân trực tiếp tham gia vào công việc quản lý nhà nước; tham gia thảo luận Hiến pháp và
luật; trực tiếp bầu ra các đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân, giám sát hoạt động của các đại
biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân, bãi nhiệm các đại biểu này khi họ không còn xứng đáng với

sự tín nhiệm của nhân dân; bỏ phiếu trưng cầu ý dân về những vấn đề quan trọng thuộc nhiệm vụ
quyền hạn của nhà nước.
c)

Nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ giữa các dân tộc.

Điều 5 Hiến pháp 1992 quy định "Nhà nước CHXH Việt Nam là nhà nước thống nhất của các dân
tộc cùng sinh sống trong đất nước Việt Nam. Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết,
tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Các dân tộc có quyền
dùng tiếng nói chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập quán, truyền
thống và văn hóa tốt đẹp của mình. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển về mọi mọi mặt,từng
bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào DT thiểu số".
Thực hiện nguyên tắc này trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước đòi hỏi, tất cả các dân
tộc phải có đại diện của mình trong các cơ quan nhà nước đặc biệt trong Quốc hội và Hội đồng
nhân dân các cấp. Các cơ quan nhà nước phải xuất phát từ lợi ích của nhân dân, của các dân tộc,
bảo đảm sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa các dân tộc. Nhà nước có chính sách ưu tiên giúp
đỡ để các dân tộc ít người mau đuổi kịp trình độ phát triển chung của toàn xã hội.


Bên cạnh đó, nhà nước nghiêm trị những hành vi miệt thị gây chia rẽ, hằn thù giữa các dân tộc
cũng như bất cứ hành vi nào lợi dụng chính sách dân tộc để phá hoại an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội và chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng, nhà nước ta.
d) Nguyên tắc tập trung dân chủ.
Điều 6 Hiến pháp 1992 quy định "Quốc hội với Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của nhà
nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ".
Bản chất của nguyên tắc này thể hiện sự thống nhất biện chứng giữa chế độ tập trung lợi ích của
nhà nước, sự trực thuộc, phục tùng của các cơ quan nhà nước cấp dưới trước các cơ quan nhà nước
cấp trên và chế độ dân chủ, tạo điều kiện cho việc phát triển sự sáng tạo, chủ động và quyền tự
quản của các cơ quan nhà nước cấp dưới.
Tập trung và dân chủ là hai mặt của một thể thống nhất kết hợp hài hòa với nhau. Nếu chỉ chú

trọng sự tập trung thì dễ dẫn đến chuyên quyền, độc đoán, mất dân chủ, nhưng nếu chỉ chú trọng
phát triển dân chủ mà không bảo đảm sự tập trung thì dễ dẫn đến tình trạng vô chính phủ, cục bộ
địa phương. Để bảo đảm thực hiện tốt nguyên tắc này đòi hỏi trong tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước phải đáp ứng các yêu cầu sau đây:
Thứ nhất, bộ máy nhà nước phải do nhân dân xây dựng nên. Nhân dân thông qua bầu cử để
lựa chọn những đại biểu xứng đáng, thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước, chịu trách
nhiệm trước nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân.
Thứ hai, quyết định của cấp trên, của trung ương buộc cấp dưới, địa phương phải thực hiện.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, cấp dưới, địa phương có quyền phản ánh những kiến nghị của
mình đối với cấp trên, trung ương, có quyền sáng kiến trong quá trình thực hiện cho phù hợp với
tình hình, đặc điểm của đơn vị, địa phương.
Thứ ba, những vấn đề quan trọng của cơ quan nhà nước phải được đưa ra thảo luận tập thể
và quyết định theo đa số.
d)

Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Điều 12 Hiến pháp 1992 quy định "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa". Nguyên tắc này đòi hỏi:
Thứ 1, nhà nước phải xdựng một hệ thống pháp luật hoàn thiện. Đây là cơ sở pháp lý cần thiết để
thực hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
Thứ hai, việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước phải tiến hành theo đúng pháp luật.
Các cơ quan nhà nước,cán bộ,công chức phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật một cách nghiêm túc
Thứ ba, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện Hiến pháp và pháp luật, xử lý
nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp luật. Bất cứ mọi hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cá
nhân nhân, tổ chức nào cũng phải được xử lý ngiêm minh theo đúng quy định của pháp luật.
Thứ tư, các cơ quan nhà nước có trách nhiệm tuyên truyền, giáo dục pháp luật để nâng cao ý thức
pháp luật của mọi công dân để mọi công dân hiểu biết pháp luật, tôn trọng pháp luật nghiêm chỉnh
chấp hành pháp luật và tích cực đấu tranh với mọi hành vi vi phạm pháp luật.



Câu 5: trình bày và phân tích các chức năng cơ bản của QUốc Hội nước CHXHCNVN
Về chức năng của Quốc hội, Hiến pháp năm 2013 đã xác định rõ hơn, khái quát hơn trên ba
phương diện: thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp; quyết định những vấn đề quan trọng của
đất nước; giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.
* Trong lĩnh vực xây dựng pháp luật
- Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền ban hành, sửa đổi Hiến pháp và luật. Luật của Quốc
hội có khả năng điều chỉnh những quan hệ xã hội cơ bản, quan trọng nhất.
Hiến pháp năm 2013 đòi hỏi Quốc hội phải tập trung hơn nữa vào chức năng làm luật để
khắc phục tình trạng vừa thiếu pháp luật, vừa mẫu thuẫn, chồng chéo trong hệ thống pháp luật,
thực hiện có hiệu quả chủ trương của Đảng trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam
xã hội chủ nghĩa, bảo đảm mọi hoạt động của các cơ quan Nhà nước, trong đó có Quốc hội đều
phải tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, không thể tự định cho mình những nhiệm vụ, quyền hạn khác
ngoài những nhiệm vụ và quyền hạn đã được Hiến pháp, pháp luật quy định.
- Nhiệm vụ quyền hạn của Quốc hội trong hoạt động lập hiến và lập pháp là rất lớn, không bị
giới hạn
- Có quyền bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước, UBTV Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng,
TANDTC và VKSNDTC nếu các văn bản đó trái với Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội
* Quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước
So với quy định của Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 đã quy định theo hướng khái
quát hơn, bảo đảm phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
tạo cơ sở để cụ thể hóa nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội trong Hiến pháp và trong các đạo luật
chuyên ngành.
Theo đó, Quốc hội chỉ quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước như:
Quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - XH: quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách,
nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội của đất nước (khoản 3 Điều 70); quyết định chính sách
cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế; quyết định phân
chia các khoản thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương; quyết
định mức giới hạn an toàn nợ quốc gia, nợ công, nợ chính phủ; quyết định dự toán ngân sách nhà
nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước (khoản 4 Điều

70)
Quyết định chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của nhà nước (khoản 5 Điều 70); quyết
định đại xá (khoản 11 Điều 70); quyết định vấn đề chiến tranh và hòa bình và quy định về tình
trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia (khoản 13
Điều 70);
Quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn, quyết định gia nhập hoặc chấm dứt
hiệu lực của điều ước quốc tế liên quan đến chiến tranh, hòa bình, chủ quyền quốc gia, tư cách
thành viên của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng,
điều ước quốc tế về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và các điều ước quốc
tế khác trái với luật, nghị quyết của Quốc hội (khoản 14 Điều 70); quyết định trưng cầu ý dân
(khoản 15 Điều 70).
* Trong tổ chức xây dựng bộ máy nhà nước
- Quyết định mô hình tổ chức và nguyên tắc hoạt động của Bộ máy Nhà nước từ Trung ương đến
địa phương


+ Luật tổ chức Quốc hội
+ Luật tổ chức Chính phủ
+ Luật tổ chức Toà án nhân dân
+ Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân
+ Luật tổ chức HĐND và Uỷ ban nhân dân
- Quốc hội quyết định các chức danh cao nhất trong bộ máy nhà nước
+ Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước
+ CT Quốc hội - các P. Chủ tịch QH
+ các ủy viên
+ Uỷ Ban TVQH
+Chủ tịch HĐ DT
+ Thủ tướng Chính phủ
+ Chánh án TANDTC - Viện trưởng
VKSNDTC

+ Hội đồng Bầu cử QG
+Tổng kiểm Toán nhà Nước
- phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng:
+ Các vị trí trong chính phủ: các P.thủ tướng, Các Bộ trưởng
+ phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch Nước: Thành viên hội đồng quốc phòng và an ninh
- Quyết định Thành lập hoặc Bãi bỏ:
+ Các Bộ và cơ quan ngang bộ của Chính Phủ
+ Nhập, chia, điều chỉnh địa giới tỉnh, Thành phố trực thuộc trung ương.
* Trong việc thực hiện chức năng giám sát tối cao
Về giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Đây là hoạt động mang tính chất chính
trị, thể hiện ý chí của cử tri và là một trong những tiêu chí để đánh giá tính hiệu lực, hiệu quả của
quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
- Thực hiện quyền giám sát tối cao với việc tuân theo Hiến pháp, Luật và Nghị quyết
của Quốc Hội
(1) phạm vi thẩm quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước của Quốc hội là có
giới hạn, không mở rộng đến “toàn bộ” hoạt động của Nhà nước (bao gồm các cơ quan thực hiện
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp ở Trung ương và các cơ quan nhà nước ở địa phương mà chỉ
tập trung vào các cơ quan ở trung ương như Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao).
(2) Bổ sung thẩm quyền của Quốc hội trong việc thực hiện quyền giám sát tối cao đối với
các thiết chế độc lập như Kiểm toán nhà nước, Hội đồng bầu cử quốc gia và các cơ quan nhà nước
khác do Quốc hội thành lập.
(3) Quy định khái quát để các luật có điều kiện cụ thể hóa những hoạt động nào của Nhà
nước thuộc thẩm quyền giám sát tối cao của Quốc hội.
- Xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, VBTVQH, Chính phủ, TANDTC,
VKSNDTC, Hội đồng bầu cử quốc gia, kiểm toán nhà nước
Việc thực hiện chức năng giám sát của Quốc hội được thực hiện tại kỳ họp Quốc hội trên cơ
sở hoạt động giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội,
Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội, bằng các hình thức: xét báo cáo công tác của các cơ



quan Nhà nước (Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước và các cơ quan
khác do Quốc hội thành lập);
Xem xét việc trả lời chất vấn của Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ,
Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao; thành lập Ủy ban lâm thời để điều tra về một vấn đề nhất định và
xem xét kết quả điều tra của Ủy ban;
Tổ chức các đoàn giám sát; bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu
hoặc phê chuẩn (việc bỏ phiếu tín nhiệm với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn là
phương thức để Quốc hội thực hiện quyền miễn nhiệm, bãi nhiệm, cách chức người giữ chức vụ do
Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn khi người đó không xứng đáng với trọng trách được giao);
Bãi bỏ văn bản của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị
quyết của Quốc hội…
Câu 6: Phân tích quy trình bầu cử đại biểu quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp
của nước CHXNCNVN
* Tổ chức Hội nghị toàn quốc triển khai công tác bầu cử đại biểu Quốc hội
và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp
- Dự kiến về cơ cấu thành phần, số lượng ĐBQH và ĐBHĐND
- UBND tỉnh, thành phố sau khi thống nhất với Thường trực HĐND và Ban Thường trực
UBMTTQ cùng cấp thành lập UB bầu cử ĐBQH và ĐBHĐND cấp tỉnh để thực hiện công tác bầu
cử ĐBQH và ĐBHĐND các cấp.(Điều 15)
* Các tỉnh, thành phố tổ chức hội nghị triển khai công tác bầu cử sau khi thành lập UB bầu cử QH
và bầu cử HĐND
Bước 1: tổ chức hội nghị hiệp thương lần 1:
- Thành phần tham gia: UBMTTQVN với các thành viên được tiến hành ở trung ương và địa
phương.
- Thỏa thuận cơ cấu, thành phần, sô lượng người của cơ quan, tổ chức, đơn vị được giới thiệu ứng
cử đại biểu QH, đại biểu HĐND các cấp cũng như việc lập danh sách sơ bộ và lựa chọn người ứng

cử ĐBQH, đại biểu HĐND các cấp
Bước 2: UB bầu cử ĐBQH và ĐB HĐND, hội đồng bầu cử báo cáo UBTVQH điều chỉnh lần thứ
nhất về cơ cấu, thành phần, số lượng đại biểu. Trên cơ sở điều chỉnh của UBTVQH, Ủy ban mặt
trận Tổ quốc Việt Nam sẽ có nhiệm vụ sau:
+ Thông báo về việc phân bố số lượng ứng viên ở các cơ quan tổ chức.
+ Hướng dẫn các ứng cử viên làm hồ sơ ( lí lịch, đơn, bằng cấp, kê khai tài sản,...)
+ Hướng dẫn các cơ quan tổ chức làm các thủ tục để giới thiệu các ứng viên:
• Lãnh đạo cơ quan phối hợp với ban chấp hành cơ quan tổ chức giới thiệu ứng cử viên.
• Lấy phiếu tín nhiệm của cử tri nơi công tác.
Bước 3: Tổ chức hội nghị hiệp thương lần thứ 2
- Thành phần tham gia: Ủy ban mặt trận Tổ quốc Việt Nam với các tổ chức thành viên được tiến
hành ở trung ương và địa phương


- Mục đích: Lập danh sách sơ bộ các ứng cử viên ĐBQH và ĐBHĐND ( điều 36, điều 38)
Bước 4:
- Tổ chức lấy ý kiến nhận xét của cử tri nơi cư trú đối với những người được ứng cử, lấy ý kiến
nhận xét và tín nhiệm cử tri nơi làm việc đối với người tự ứng cử ( điều 39, 37)
- Tiến hành xong việc xác minh và trả lời về các vụ việc mà cử tri nêu lên đối với người ứng cử
ĐBQH và ĐB HĐND các cấp ( điều 42, 38)
Bước 5: Tổ chức hội nghị hiệp thương lần 3
- Lập danh sách chính thức những người ứng cử ĐBQH và ĐBHĐND
- Thành lập tổ bầu cử đồng thời thực hiện nhiệm vụ phụ trách bầu cử ĐBQH và ĐBHĐND ( điều
17)
- Niêm yết danh sách cử tri bầu ĐBQH và bầu đại biểu HĐND các cấp ( điều 25)
- Ban thường trực TWMTTQVN gửi biên bản hội nghị hiệp thương lần thứ 3 và danh sách chính
thức những người ứng cử ĐB QH và ĐBHĐND ( điều 44, 45)
* Hội đồng bầu cử phân bố ĐBQH do TW giới thiệu về 63 tỉnh, thành phố, các tỉnh, thành phố
phân bố về các đơn vị bầu cử và lập danh sách người úng cử theo đơn vị bầu cử của tỉnh, thành phố
về Hội đồng bầu cử.

- Hội đồng bầu cử lập và công bố danh sách những người ứng cử theo đơn vị bầu cử ( điều 46, điều
41)
- Ban bầu cử niêm yết danh sách những người úng cử ( điều 47, 41)
* Người có tên trong danh sách ứng cử ĐBQH và ĐBHĐND các cấp thực hiện vận động bầu cử
- ĐBQH và ĐBND các cấp ngưng việc xem xét, giải quyết mội khiếu nại, tố cáo, kiến nghị về ứng
cử và lập danh sách những người ứng cử ( điều 49)
- Tổ bầu cử thông báo cho cử tri về ngày bầu cử, nơi bỏ phiếu, thời gian bỏ phiếu ( điều 56)
* Tiến hành bầu cử
* Kết thúc bầu cử, kiểm phiếu


Câu 7: Trình bày và phân tích thẩm quyền của Chính phủ?
* Lãnh đạo thống nhất bộ máy quản lý từ trung ương đến địa phương
- Đề xuất xây dựng chính sách trình QH, trình dự án luật và dự án ngân sách nhà nước
- Trình QH quyết định thành lập bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ, thành lập, giải thể, nhập chia,
điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc TW.
- Thống nhất quản lý nền hành chính quốc gia, thực hiện quản lý về cán bộ, công chức, viên
chức và công vụ trong các CQNN; giải quyết khiếu nại, tố cáo, chống quan liêu tham nhũng; lãnh
đạo công tác của bộ, cơ quan ngang bộ, UBND các cấp.
* Đảm bảo thi hành pháp luật
* Quản lý mọi mặt của đời sống xã hội
- Thống nhất quản lý về kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, Y tế, khoa học, công nghệ, môi
trường, thông tin, truyền thông, đối ngoại, quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, An toàn xã hội
- Thi hành lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, Lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và
các biện pháp cần thiết khác để bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm tính mạng và tài sản của công dân
* Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân
- Bảo vệ quyền và lợi ích của nhà nước và xã hội, quyền con người, quyền công dân, bảo
đảm trật tự an toàn xã hội
- Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân
Thủ tục khám xét chỗ ở:

- Khi bắt đầu khám chỗ ở, phải đọc lệnh khám và đưa cho đương sự đọc lệnh khám đó; giải
thích cho đương sự và những người có mặt biết quyền và nghĩa vụ của họ. Người tiến hành khám
phải yêu cầu đương sự đưa ra những đồ vật, tài liệu có liên quan đến vụ án, nếu đương sự từ chối
thì tiến hành khám.
- Khi khám chỗ ở, địa điểm phải có mặt người chủ hoặc người đã thành niên trong gia đình
họ, có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn và người láng giềng chứng kiến; trong trường hợp
đương sự và người trong gia đình họ cố tình vắng mặt, bỏ trốn hoặc đi vắng lâu ngày mà việc khám
xét không thể trì hoãn thì phải có đại diện chính quyền và hai người láng giềng chứng kiến.
- Không được khám chỗ ở vào ban đêm, trừ trường hợp không thể trì hoãn, nhưng phải ghi rõ
lý do vào biên bản
- Khi tiến hành khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm những người có mặt không được tự ý rời
khỏi nơi đang bị khám, không được liên hệ, trao đổi với nhau hoặc với những người khác cho đến
khi khám xong
THAM KHẢO THÊM CHÍNH PHỦ
Điều 94
Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội.
Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc hội, Ủy ban
thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước
Điều 95
Chính phủ gồm Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và Thủ
trưởng cơ quan ngang bộ.


Cơ cấu, số lượng thành viên Chính phủ do Quốc hội quyết định. Chính phủ làm việc theo chế
độ tập thể, quyết định theo đa số.
Thủ tướng Chính phủ là người đứng đầu Chính phủ, chịu trách nhiệm trước Quốc hội về hoạt
động của Chính phủ và những nhiệm vụ được giao; báo cáo công tác của Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
Phó Thủ tướng Chính phủ giúp Thủ tướng Chính phủ làm nhiệm vụ theo sự phân công của

Thủ tướng Chính phủ và chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ về nhiệm vụ được phân
công. Khi Thủ tướng Chính phủ vắng mặt, một Phó Thủ tướng Chính phủ được Thủ tướng Chính
phủ ủy nhiệm thay mặt Thủ tướng Chính phủ lãnh đạo công tác của Chính phủ.
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ chịu trách nhiệm cá nhân trước Thủ tướng Chính
phủ, Chính phủ và Quốc hội về ngành, lĩnh vực được phân công phụ trách, cùng các thành viên
khác của Chính phủ chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của Chính phủ.
Điều 96
Chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1. Tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy
ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước;
2. Đề xuất, xây dựng chính sách trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định hoặc
quyết định theo thẩm quyền để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Điều này; trình dự án
luật, dự án ngân sách nhà nước và các dự án khác trước Quốc hội; trình dự án pháp lệnh trước Ủy
ban thường vụ Quốc hội;
3. Thống nhất quản lý về kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi
trường, thông tin, truyền thông, đối ngoại, quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; thi
hành lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và các biện pháp
cần thiết khác để bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm tính mạng, tài sản của Nhân dân;
4. Trình Quốc hội quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ; thành lập, giải thể,
nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính
- kinh tế đặc biệt; trình Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều
chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
5. Thống nhất quản lý nền hành chính quốc gia; thực hiện quản lý về cán bộ, công chức, viên
chức và công vụ trong các cơ quan nhà nước; tổ chức công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu
nại, tố cáo, phòng, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước; lãnh đạo công tác của các
bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp; hướng dẫn, kiểm tra
Hội đồng nhân dân trong việc thực hiện văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; tạo điều kiện để
Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do luật định;
6. Bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước và xã hội, quyền con người, quyền công dân; bảo
đảm trật tự, an toàn xã hội;

7. Tổ chức đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước theo ủy quyền của Chủ tịch
nước; quyết định việc ký, gia nhập, phê duyệt hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế nhân danh
Chính phủ, trừ điều ước quốc tế trình Quốc hội phê chuẩn quy định tại khoản 14 Điều 70; bảo vệ
lợi ích của Nhà nước, lợi ích chính đáng của tổ chức và công dân Việt Nam ở nước ngoài;
8. Phối hợp với Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan trung ương của tổ
chức chính trị - xã hội trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Điều 97


Nhiệm kỳ của Chính phủ theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chính
phủ tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khoá mới thành lập Chính phủ.
Điều 98
Thủ tướng Chính phủ do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội.
Thủ tướng Chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1. Lãnh đạo công tác của Chính phủ; lãnh đạo việc xây dựng chính sách và tổ chức thi hành
pháp luật;
2. Lãnh đạo và chịu trách nhiệm về hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước từ trung
ương đến địa phương, bảo đảm tính thống nhất và thông suốt của nền hành chính quốc gia;
3. Trình Quốc hội phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng
Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thứ
trưởng, chức vụ tương đương thuộc bộ, cơ quan ngang bộ; phê chuẩn việc bầu, miễn nhiệm và
quyết định điều động, cách chức Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương;
4. Đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ văn bản của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ,
Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến
pháp, luật và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; đình chỉ việc thi hành nghị quyết của Hội
đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và văn bản của cơ
quan nhà nước cấp trên, đồng thời đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội bãi bỏ;
5. Quyết định và chỉ đạo việc đàm phán, chỉ đạo việc ký, gia nhập điều ước quốc tế thuộc
nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ; tổ chức thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ

nghĩa Việt Nam là thành viên;
6. Thực hiện chế độ báo cáo trước Nhân dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng
về những vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền giải quyết của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ.
Điều 99
1. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ là thành viên Chính phủ và là người đứng đầu
bộ, cơ quan ngang bộ, lãnh đạo công tác của bộ, cơ quan ngang bộ; chịu trách nhiệm quản lý nhà
nước về ngành, lĩnh vực được phân công; tổ chức thi hành và theo dõi việc thi hành pháp luật liên
quan đến ngành, lĩnh vực trong phạm vi toàn quốc.
2. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ báo cáo công tác trước Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ; thực hiện chế độ báo cáo trước Nhân dân về những vấn đề quan trọng thuộc trách
nhiệm quản lý.
Điều 100
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành văn
bản pháp luật để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó và
xử lý các văn bản trái pháp luật theo quy định của luật.
Điều 101
Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người đứng đầu cơ quan trung
ương của tổ chức chính trị - xã hội được mời tham dự phiên họp của Chính phủ khi bàn các vấn đề
có liên quan.




×