Tải bản đầy đủ (.doc) (140 trang)

Luận văn thạc sỹ Liên kết kinh tế hộ nông dân trên địa bàn huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (671.44 KB, 140 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau gần 30 năm đổi mới, kinh tế nông nghiệp, nông thôn đã có bước chuyển
biến mang tính đột phá, từ nước thiếu về nguồn lương thực đến nay nước ta không
những đảm bảo nguồn an ninh lương thực ở trong nước mà còn cung cấp một
lượng lớn nguồn lương thực, thực phẩm cho nhu cầu xuất khẩu, là nước đứng trong
tốp đầu có trữ lượng gạo xuất khẩu trong khu vực và thế giới. Đạt được những kết
quả như vậy có sự đóng góp rất lớn từ các hộ nông dân, họ không chỉ đóng vai trò
quan trọng trong sản xuất nông nghiệp mà còn là lực lượng chính trong phát triển
kinh tế đất nước.
Trong những năm gần đây Đảng, Nhà nước đã có nhiều chủ trương chính
sách quan trọng để tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp nông thôn,
nông dân phát huy vai trò của mình như: Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày
05/8/2008 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa X) về nông nghiệp, nông
dân, nông thôn; Liên kết 4 nhà; Chương trình xây dựng nông thôn mới...
Lâm Thao là huyện đồng bằng, nằm trong tam giác phát triển của tỉnh Phú
Thọ, gồm thành phố Việt Trì - Lâm Thao - Phù Ninh, nhiều năm nay, Lâm Thao đã
tập trung khai thác lợi thế về sản xuất nông nghiệp, thủy sản, tận dụng ảnh hưởng
lan tỏa của các khu công nghiệp để phát triển kinh tế truyền thống, hình thành cụm
công nghiệp, làng nghề, cơ sở dịch vụ tạo sự chuyển dịch tích cực trong phát triển
kinh tế.
Trên địa bàn huyện Lâm Thao, kinh tế hộ nông dân giữ vai trò quan trọng
trong phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Hộ nông dân đã áp dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật vào thực tiễn sản xuất tạo ra những nông sản có giá trị kinh tế, cơ
bản đáp ứng nhu cầu thị trường trong huyện và vùng lân cận.
Tuy nhiên, sản xuất các hộ nông dân vẫn còn manh mún, nhỏ lẻ, thiếu sự liên
kết giữa sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, chế biến sâu chưa phát triển, số lượng sản
1


phẩm hàng hóa còn khiêm tốn, chưa đáp ứng được một số yêu cầu của doanh


nghiệp, do đó khó hình thành lợi thế theo quy mô tập trung khu vực và lợi thế theo
quy mô doanh nghiệp. . Vấn đề liên kết phát triển các khu vực với nhau, trong đó
có liên kết của hộ nông dân đóng vai trò then chốt để giải quyết những vấn đề nêu
trên. Một số hộ nông dân đã tham gia liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
nhưng ở mức độ thấp, . Với những lý do trên tôi chọn nghiên cứu đề tài “Liên kết
kinh tế hộ nông dân trên địa bàn huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ hiện nay”
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
* Nghiên cứu về liên kết kinh tế,
Perroux (1955) tiếp cận khái niệm liên kết về mặt không gian với lý thuyết
về “cực tăng trưởng”. Ý tưởng chủ yếu của ông là chiến lược thiết lập các khu vực
trong đó có ngành (hoặc doanh nghiệp lớn) có sức hút mạnh, nghĩa là tập trung các
hoạt động kinh tế năng động nhất vào một cực tăng trưởng của vùng. Từ đó, sự
phát triển của các khu vực và ngành khác sẽ được thúc đẩy trong một hệ thống
không gian các mối liên kết và mạng lưới buôn bán, hình thành nên một tập hợp
các liên kết kinh tế giữa cực tăng trưởng và các vùng xung quanh, với mỗi nơi có
một vai trò nhất định.
Tuy nhiên, không gian kinh tế và không gian địa lý của Perroux đôi khi
không trùng khớp. Vì thế Boudeville (1966) đã cố gắng nhấn mạnh yếu tố địa lý
trong lý thuyết cực tăng trưởng bằng cách đưa ra các ranh giới rõ ràng về mặt địa lý
của các hiệu ứng phát triển tích cực. Từ đây, yếu tố then chốt trong phát triển
không chỉ là sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các ngành mà để có sự phát triển kinh tế
vùng phải có sự tập trung về mặt không gian của các hoạt động sản xuất; Nhiều nhà
nghiên cứu vùng hiện đại cho rằng sự tập trung đó có thể là các cực tăng trưởng
(vùng, đô thị). Các liên kết trong phát triển vùng ở đây nằm ở sự tương tác giữa cực

2


tăng trưởng/đô thị và các vùng nằm trong ảnh hưởng qua lại của các vùng cung ứng

và vùng sản xuất, chế biến, vùng vành đai nông nghiệp và vùng công nghiệp.
Một cách tiếp cận về liên kết không gian trong phát triển vùng tương đối
giống lý thuyết cực tăng trưởng là mô hình trung tâm - ngoại vi của Friedmann
(1966). Trong đó vùng trung tâm là nơi tương đối dồi dào vốn và là nơi phát sinh
đổi mới, do đó là nơi sự phát triển diễn ra; còn các vùng ngoại vi tương đối dư thừa
lao động và sự phát triển của chúng hoàn toàn phụ thuộc vào vùng trung tâm, và
phải phục vụ cho các nhu cầu của vùng trung tâm. Kiểu liên kết này tạo ra các dòng
lao động và tài nguyên chảy về vùng trung tâm; còn vùng ngoại vi, sau khi vùng
trung tâm phát triển mạnh, sẽ nhận được các luồng thu nhập chảy về, và cuối cùng
sự bất cân bằng về nhân tố sản xuất ban đầu sẽ được san lấp.
Fujita & Mori (2005) cho rằng, có hai loại liên kết chủ yếu, tạo ra xung lực
trong tương tác giữa các ngành. Loại thứ nhất gọi là liên kết kinh tế (E-linkages),
liên quan tới các hoạt động sản xuất và trao đổi hàng hóa và dịch vụ; loại thứ hai là
liên kết kiến thức (K-linkages), bao gồm các hoạt động của con người trong sáng
tạo và chuyển giao kiến thức, từ đó tạo ra hiệu ứng lan tỏa kiến thức (knowledge
spillover effects). Ohlin (Mỹ) đã tập trung nghiên cứu vấn đề quan hệ liên vùng và
đưa ra lý thuyết về “trao đổi hàng hoá liên vùng”. Nội dung cơ bản của lý thuyết
này là “mọi vật đều tuỳ thuộc lẫn nhau”. Các vùng khác nhau có những nguồn tài
nguyên thiên nhiên và nguồn lực con người khác nhau. Do những khác biệt về lịch
sử phát triển kinh tế, nên các vùng cũng có những cơ sở sản xuất và thiết bị sản
xuất trên thực tế không giống nhau. Những khác biệt trên đây gây ra những chi phí
sản xuất khác nhau, cũng như nhu cầu khác nhau cho từng chủng loại hàng hoá,
dịch vụ cụ thể, dẫn đến giá cả cũng thay đổi. Tuy vậy, những chênh lệch ấy còn tạo
ra những khác biệt về vùng và chu chuyển hàng hoá và dịch vụ giữa các vùng.
Trạng thái cân bằng sẽ được thiết lập khi cùng tham gia trao đổi lẫn nhau trên một
địa bàn. Từ những ý tưởng của lý thuyết này, hiện nay người ta quan tâm đến các

3



dòng luân chuyển, trao đổi liên vùng về công nghệ, kiến thức khoa học, năng lực
nghiên cứu, thông tin và năng lực sản xuất kinh doanh.
Còn có nhiều nhà khoa học khác cũng đã đưa ra những mô hình lý thuyết khác
song tựu chung lại có thể thấy tồn tại hai mô hình phát triển không gian khác nhau
liên quan đến việc xây dựng mô hình phát triển kinh tế liên vùng. Đó là mô hình
phát triển cân bằng và mô hình phát triển không cân bằng. Những mô hình này
cũng đã được các nhà khoa học Việt Nam nghiên cứu phân vùng và điều hành phát
triển các vùng. Nói một cách chính xác hơn là mô hình liên vùng được xét ở 2 trạng
thái cân bằng và không cân bằng.
Việc ứng dụng công nghệ vào sản xuất, ở kinh tế hộ nông dân thường rất hạn
chế; Hộ nông dân thường gặp khó khăn trong tiếp cận về vốn và các dịch vụ khác;
Thị trường sản phẩm của kinh tế hộ nông dân, thường chỉ mang tính địa phương.
Vì vậy, các liên kết trước và sau của kinh tế hộ thường hẹp do trình độ chuyên môn
hóa sản xuất thấp, đặc biệt đối với các nhà cung cấp các dịch vụ đầu vào và công
nghiệp chế biến.
* Nghiên cứu về bản chất liên kết kinh tế
Key, N. và Runsten, D. (1999), nhìn nhận bản chất liên kết kinh tế là một thể
chế kinh tế (economic institution) [34]. Theo từ điển mở Wikipedia tiếng Anh thể
chế là bất kỳ cấu trúc(structure) hoặc cơ chế(mechanism) nào của trật tự xã hội và
điều chỉnh hành vi của một tập hợp các cá nhân trong một cộng đồng người nhất
định còn cơ chế là một bộ qui tắc được thiết kế để mang lại một kết quả nhất định.
Theo các kinh tế thuộc trường phái "Kinh tế học thể chế mới (New
Institutional Economics - NIE)", thể chế là "những nguyên tắc của cuộc chơi" trong
xã hội; trong đó có người chơi, luật chơi và sân chơi. Người chơi trong mối quan hệ
của nó tạo thành cấu trúc tổ chức của thể chế; luật chơi là cơ chế, qui tắc ràng buộc
của thể chế và sân chơi là cơ sở vật chất, phương tiện gắn liền với một lĩnh vực
hoạt động cụ thể của thể chế. Luật chơi hay cơ chế, qui tắc là “phầm mềm” của thể
chế; hai thành tố còn lại: người chơi và sân chơi là “phần cứng của thể chế”
4



Về mối quan hệ giữa cơ chế và tổ chức trong một thể chế kinh tế, Douglass
C.North (1998) đã cho rằng việc những tổ chức hình thành và phát triển như thế
nào phụ thuộc vào cơ chế bên trong nó và ngược lại tổ chức sẽ lại ảnh hưởng đến
sự vận động của cơ chế [28].
Williamson (1985) mô tả 3 loại thể chế quản lý nhằm thay đổi mức độ phụ
thuộc lẫn nhau giữa các đối tác mậu dịch: thị trường giao ngay, hợp đồng dài hạn
và quan hệ thứ bậc (Hierarchies) [39].
Michael S. and P. Joseph (2003) đã khái quát quản trị thị trường thành 5 thể
chế: Hợp đồng giao ngay (Hợp đồng cổ điển), Hợp đồng đặt hàng chi tiết kỹ thuật
(Hợp đồng tân cổ điển), đồng minh chiến lược (Hợp đồng tân cổ điển), hợp tác
chính thức(Quan hệ song phương), hợp nhất dọc đầy đủ (Quan hệ hợp nhất) [36].
Minot N. (2007), đã tổng kết 4 loại quan hệ quản lý: Quan hệ thị trường,
quan hệ thứ bậc (hay quan hệ quyền lực), quan hệ mạng lưới (network) và quan hệ
xã hội [37].
Gina Porter và Kenvin Phillips-Howardb (2007) đã đưa ra 5 loại quản trị thị
trườngchuỗi giá trị toàn cầu: Tự do, chìa khóa trao tay, liên kết, ràng buộc và hợp
nhất theo chiều dọc [31].
Prowse M. (2012) đề xuất rằng bất kỳ hoạt động kinh tế nào cũng có thể
được tổ chức bởi một sự tiệm cận của kết cấu quản trị ở giữa thị trường mở và sự
hợp nhất dọc đầy đủ và mỗi cấu trúc này có thể được biểu hiện bởi một số hình
thức hợp đồng [35].
Tóm lại, có thể có 4 cách tiếp cận khác nhau về bản chất của liên kết kinh tế:
(i)Xem liên kết kinh tế là một cơ chế kinh tế;(ii) Xem liên kết kinh tế là một hình
thức tổ chức sản xuất;(iii) Xem liên kết kinh tế vừa là cơ chế kinh tế vừa là hình
thức tổ chức sản xuất và đều này đồng nghĩa với việc xem liên kết kinh tế là một
thể chế kinh tế;(iv) Xem liên kết kinh tế là một quá trình kinh tế [38]. Dưới giác độ
kinh tế - chính trị, luận văn này lựa chọn cách tiếp cận xem liên kết kinh tế là một
thể chế kinh tế.
5



Có thể thấy, nếu như đã có nhiều học giả nghiên cứu về liên kết kinh tế vùng,
thì ngược lại còn thiếu vắng những nghiên cứu về liên kết kinh tế của hộ nông dân
trong nền kinh tế thị trường. Đây là khoảng trống cần tiếp tục nghiên cứu nhất là ở
những nước có nền kinh tế nông dân chưa phát triển như Việt Nam.
2.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước
a. Những quan niệm cơ bản về kinh tế hộ nông dân
Về phương diện lý luận, khái niệm kinh tế hộ và kinh tế hộ nông dân đã
được nghiên cứu một cách rõ ràng và không phải bàn luận thêm. Theo đó, kinh tế
hộ là các hoạt động kinh tế của hộ gia đình và những lợi ích kinh tế mà hoạt động
đó mang lại [25]. Trong bối cảnh nghiên cứu của thời kỳ đầu đổi mới, khi Nghị
quyết 10 của Bộ Chính trị năm 1988 ra đời, kinh tế hộ đồng nghĩa với kinh tế hộ
nông nghiệp, bởi số lượng hộ gia đình nông thôn vẫn rất đông đảo. Kinh tế hộ nông
dân là một hình thức kinh tế cơ bản và tự chủ trong nông nghiệp, được hình thành
và tồn tại khách quan, lâu dài dựa trên cơ sở sử dụng lao động, đất đai và tư liệu
sản xuất khác của gia đình là chính. Kinh tế hộ khu vực thành thị có được đề cập
trong các nghiên cứu điều tra của Vũ Tuấn Anh (1995) [1], và trong những nghiên
cứu gần đây nhất về kinh tế hộ như Chu Tiến Quang (2007), Lê Xuân Đình (2008) ,
nhưng về cơ bản Kinh tế hộ nông dân vẫn là đối tượng nghiên cứu chủ yếu. Do tồn
tại khác biệt lớn về số lượng cũng như về đặc tính hộ giữa khu vực nông thôn và
thành thị, nên kinh tế hộ ở thành thị thường được nghiên cứu riêng rẽ.
Về vai trò của kinh tế hộ nông dân. Các nghiên cứu đều thống nhất về tính
phổ biến và vai trò của kinh tế hộ nông dân ở cả Việt Nam và trên thế giới. Nó có
vai trò rất quan trọng trong đời sống và phát triển kinh tế - xã hội, nhất là trong phát
triển nông nghiệp. Ở Việt Nam, kinh tế hộ nông dân lại càng có ý nghĩa to lớn hơn,
bởi Việt Nam bước vào nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, hoạt động theo cơ
chế thị trường trên nền tảng hơn 80% dân số sinh sống ở nông thôn, điểm xuất phát
để tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa lại từ nền kinh tế chủ yếu dựa vào sản
xuất nông nghiệp, quản lý theo cơ chế tập trung, bao cấp [12], [13].

6


Mặc dù không phải là một thành phần kinh tế, nhưng kinh tế hộ nông dân là
một loại hình để phân biệt với các hình thức tổ chức kinh tế khác. Một trong các
thành viên của kinh tế hộ nông dân đồng thời lại là chủ hộ gia đình. Trong hoạt
động kinh tế, gia đình có thể tiến hành tất cả các khâu của quá trình sản xuất và tái
sản xuất. Chủ hộ điều hành toàn bộ mọi quá trình sản xuất, kinh doanh và chịu
trách nhiệm vô hạn về mọi hoạt động đó [13]. Ở Việt Nam, kinh tế hộ gia đình phát
triển chủ yếu ở nông thôn, thường được gọi là kinh tế hộ gia đình nông dân. Trong
khu vực nông thôn Việt Nam, có thể nói hoạt động của kinh tế hộ nông dân gắn
liền với sự hiện diện của hộ gia đình. Mặt khác, do sự song trùng vừa là đơn vị kinh
tế, vừa là đơn vị xã hội cơ bản, nên trong các hoạt động kinh tế của hộ gia đình
nông dân, ngoài chịu sự tác động của các yếu tố kinh tế, còn phải chịu sự chi phối
của các yếu tố xã hội (như nhân khẩu, giới tính, sức khỏe, trình độ học vấn...) [5].
Thực tiễn đó, một mặt đã và đang quy định tính đa dạng, phong phú, không đồng
nhất của các hoạt động kinh tế diễn ra ở hộ gia đình nông dân.
b. Những khó khăn, thách thức hiện nay của kinh tế hộ nông dân
Đánh giá sau gần 30 năm đổi mới đất nước, chúng ta có thể khẳng định vấn
đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân, trong đó đặc biệt vấn đề kinh tế hộ nông
dân đã có nhiều thay đổi lớn [1]. Các mô hình sản xuất nông nghiệp kết hợp theo
hình thức hộ sản xuất hàng hóa đã xuất hiện và phát triển ở nhiều nơi. Tuy nhiên,
những khó khăn của kinh tế hộ nông dân cũng xuất hiện, nằm ở quy mô đất đai,
nguồn tài chính, nhân lực, khả năng quản trị, khả năng kết nối và khả năng chống
chịu rủi ro. Theo Lê Xuân Đình (2008) thì những khó khăn và thách thức lớn đối
với nông dân nước ta nói chung và kinh tế hộ nói riêng, trong tiến trình hội nhập
ngày một sâu vào kinh tế thế giới, là chênh lệch lớn về năng suất lao động giữa
công nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp. Hộ nông dân thường rất dễ bị tổn thương
trước sự chi phối khắc nghiệt của quy luật thị trường. Vốn tích lũy của các hộ gia
đình cũng có sự phân biệt khá rõ giữa các loại hình sản xuất [15].


7


Mặc dù công nhận tính tích cực của kinh tế hộ nông dân, nhưng một số học
giả như Nguyễn Thế Trường (2002), đã đưa ra những số liệu và bằng chứng để
khẳng định rằng, kinh tế hộ nông dân không còn đủ khả năng tiến xa hơn do có sự
ràng buộc bởi nhiều điều kiện như quy mô, tiềm lực kinh tế, khả năng thâm nhập
thị trường. Ngoài ra, do diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp để phát triển đô thị và
công nghiệp, nền sản xuất hàng hóa đã phát triển đến một mức độ nhất định và hội
nhập kinh tế sâu rộng hơn, kinh tế hộ đã tận dụng hết tiềm năng của mình và không
còn là động lực để đưa nông nghiệp phát triển lên sản xuất lớn hay công nghiệp hóa
và hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn [7].
c. Về xu hướng phát triển của kinh tế hộ nông dân
Về xu hướng phát triển của kinh tế hộ nông dân ở Việt Nam hiện nay, cũng
có nhiều nhận định khác nhau. Nhiều nghiên cứu đều cho rằng cần phải phát triển
kinh tế hộ nông dân theo hướng sản xuất hàng hoá, tích tụ ruộng đất, phát triển theo
mô hình kinh tế trang trại gia đình với việc đa dạng hóa loại hình, đa dạng hóa sản
xuất kinh doanh theo hướng tập trung hóa, chuyên môn hóa và phát huy lợi thế so
sánh của từng địa phương. Hiện nay chính sách dồn điền đổi thửa đang được thực
hiện ở nhiều nơi, nhất là ở khu vực đồng bằng [15]. Vấn đề tích tụ ruộng đất thực
ra cũng đã được đề cập từ trước đó, trong các nghiên cứu như của Trần Đức (1995),
ông cho rằng đất đai cho sản xuất của nông nghiệp theo mô hình trang trại phải lớn,
còn theo tác giả Nguyễn Ngọc Tuân (1999), lại đưa ra nhận định quá trình “tích tụ
ruộng đất” để hình thành phát triển các nông trại lớn trong bối cảnh nông nghiệp ở
nước ta là khó thực hiện. Cùng với quan điểm về tích tụ đất đai trong sản xuất nông
nghiệp của hộ nông dân và nông trại, một số tác giả khác lại đưa ra những cảnh bảo
về những nguy cơ trong chính sách hoạch định phát triển loại hình kinh tế này, đó
là việc tích tụ ruộng đất thiếu kiểm soát sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lực lượng lao
động còn lớn ở nông thôn hiện nay của Việt Nam, dẫn đến nguy cơ nông dân bị

thất nghiệp càng cao, theo đó sẽ gây ra những hậu quả xấu về mặt xã hội [16].

8


Trong khi đó, quy định hạn điền để hướng tới sự công bằng tương đối lại mâu
thuẫn với việc tập trung đất đai cho sản xuất hàng hóa quy mô lớn [10].
Một khía cạnh nghiên cứu khác mà nhiều tác giả đã xem xét và phân tích, đó
là mối liên hệ giữa kinh tế hộ nông dân và kinh tế trang trại, như của các tác giả
(Nguyễn Xuân Sanh 1998, Trần Trác 1998, Nguyễn Ngọc Tuân 1999, Nguyễn Thế
Trường 2002). Các tác giả đã cho rằng sự chuyển hóa từ kinh tế hộ đến kinh tế
trang trại là quy luật chung của nền nông nghiệp thế giới và đến kinh tế trang trại là
xu hướng phát triển tất yếu của nông thôn. Tuy vậy, theo tác giả Nguyễn Ngọc
Tuân (1999) lại cho rằng trong điều kiện cụ thể của Việt Nam hiện nay, phát triển
kinh tế hộ vẫn là nền tảng của kinh tế nông thôn, nhưng phát triển theo hướng phân
công hóa, chuyên môn hóa, xã hội hóa và nhất thể hóa cao độ. Ông cho rằng, bằng
cách phân công hóa lao động kinh tế hộ theo cả chiều ngang và chiều dọc, đồng
thời tạo liên kết giữa các khâu bằng cách nhất thể hóa, phát triển kinh tế hộ sẽ là
con đường hàng hóa hóa và hiện đại hóa nông nghiệp khả thi. Còn tác giả Nguyễn
Thế Trường (2002) lại đề xuất nhiều hướng phát triển khác cho kinh tế hộ như việc
chuyển dịch cơ cấu sản xuất và mặt hàng, tạo khung thể chế chính sách để tăng
cường hoạt động của kinh tế hộ, kinh tế hộ như một hình thức duy trì an ninh lương
thực và sinh kế quy mô nhỏ. Tác giả Trần Văn Dư (2002) thì cho rằng cần phát
triển kinh tế hộ nông dân theo hướng sản xuất hàng hóa, dựa trên những điều kiện
về kinh tế - văn hóa – xã hội tại địa phương.
d, Những nghiên cứu về liên kết kinh tế
Trần Đức Thịnh(1984) cho rằng liên kết kinh tế là sự quan hệ kinh tế giữa
các tổ chức, các ngành, các địa phương và các đơn vị kinh tế. Liên kết kinh tế vừa
là hình thức tổ chức sản xuất vừa là cơ chế quản lý [23]
Vũ Minh trai (1993) cho rằng Liên kết kinh tế là những quan hệ phối hợp

hoạt động giữa các doanh nghiệp và các chủ thể kinh doanh khác [24].
Quyết định số 38/HĐBT ngày 10 tháng 4 năm 1989 về “Liên kết kinh tế
trong sản xuất, lưu thông, dịch vụ” của nhà nước đã nêu liên kết kinh tế là những
9


hình thức phối hợp hoạt động, do các đơn vị kinh tế tự nguyện tiến hành để cùng
nhau bàn bạc và đề ra các chủ trương, biện pháp có liên quan đến công việc sản
xuất, kinh doanh của mình, nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển theo hướng có lợi
nhất. [17]
Nguyễn Đình Phan (1992) đã đưa ra khỏi khái niệm liên kết kinh tế những
hình thức quan hệ kinh tế thông thường như: Mua bán trao đổi hàng hóa thông
thường, thuê mướn đất đai, nhà xưởng, địa điểm kinh doanh, cho vay vốn. [19]
Hoàng kim Giao (1989) theo một cách tiếp cận khác đã cho rằng đặc trưng
của liên kết kinh tế cũng là quan hệ kinh tế , nhưng không phải là mọi loại quan hệ
kinh tế mà chỉ những quan hệ kinh tế diễn ra trong các hình thức tổ chức sản xuất
đặc thù của liên kết kinh tế như hợp tác, liên doanh, liên hợp trong lĩnh vực sản
xuất kinh doanh. [7]
Dương Bá Phượng (1995) là người tổng kết và phát triển các khái niệm trước
đó khi cho rằng liên kết kinh tế là những hình thức hay những biểu hiện của sự
phối hợp hoạt động giữa các thành viên liên kết không chỉ để thực hiện quan hệ
kinh tế bất kỳ mà là nhằm xích lại gần nhau và ngày càng cố kết, đi đến thống nhất
để đạt đến trình độ gắn bó chặc chẽ, ổn định, thường xuyên, lâu dài, thông qua
những thoả thuận hợp đồng từ trước giữa các bên và là khâu trung gian đi đến sát
nhập, kết hợp, hợp nhất hình thành một doanh nghiệp mới, có qui mô lớn hơn và
theo đó thực chất của liên kết kinh tế là quá trình xã hội hóa sản xuất”[18].
Bách khoa toàn thư Việt Nam định nghĩa liên kết kinh tế là hình thức hợp
tác và phối hợp thường xuyên các hoạt động do các đơn vị tự nguyện tiến hành để
cùng đề ra và thực hiện các chủ trương, biện pháp có liên quan đến công việc sản
xuất kinh doanh của các bên tham gia nhằm thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển

theo hướng có lợi nhất. Được thực hiện trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng, cùng có
lợi thông qua hợp đồng kinh tế ký kết giữa các bên tham gia và trong khuôn khổ
pháp luật của nhà nước [4].
10


e, Những nghiên cứu về liên kết kinh tế vùng
Trong thời gian qua, liên kết vùng đã thu hút được một số nhà nghiên cứu.
Các tác giả Nguyễn Đức Tuấn, Nguyễn Viết Thịnh và Đỗ Thị Minh Đức đã tập
trung nghiên cứu khoa học về phân vùng để phân nhóm các tỉnh/thành phố theo
trình độ phát triển. Từ đó, giúp nhà nước có chính sách phát triển riêng cho từng
vùng, từng địa bàn theo trình độ phát triển tương ứng. Các nghiên cứu này chưa đề
cập nhiều tới tới liên kết vùng và giải pháp để các vùng phát triển bền vững [21].
Cơ chế liên kết vùng và việc hình thành các tổ chức điều phối vùng đã được
các tác giả Lê Thế Giới, Đinh Sơn Hùng và cộng sự, Trần Hữu Hiệp (Văn phòng
Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ) đề cập nhiều. Đặc biệt, tác giả Đinh Sơn Hùng và cộng
sự đã đề cập tới Mô hình xây dựng cơ chế liên kết kinh tế tổng quát – mô hình
được nhiều nước trên thế giới áp dụng (như Đức, Phần Lan, ..) [22]. Tuy nhiên, khi
đề xuất mô hình liên kết cho Việt Nam, tác giả Đinh Sơn Hùng và cộng sự lại đề
xuất mô hình tương đối giống với mô hình đang được áp dụng hiện nay. Mô hình
này mang tính chất mệnh lệnh từ trên xuống (up – down) nên chưa tạo ra sự bình
đẳng giữa các thành viên liên kết và chưa phát huy được tính chủ động của người
dân và chính quyền địa phương; chưa làm rõ lợi ích của người dân trong liên kết
vùng; chưa có cơ chế thu hút tài chính để có thể thực hiện những công việc của
vùng [9].
Để bổ sung cho các nghiên cứu trong nước, nhóm tác giả Nguyễn Xuân
Cường (Viện Nghiên cứu Trung Quốc) đã có các báo cáo về hợp tác Vùng Chu
Giang mở rộng (Trung Quốc), Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương đã
khảo sát liên kết vùng ở Cộng hòa Liên bang Đức… Đây là những gợi ý quan trọng
về thực tiễn giúp cho các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam có điều kiện so

sánh, cân nhắc trong chính sách phát triển liên kết vùng của Việt Nam [8].
Đối với vùng KTTĐ Bắc Bộ, nhóm tác giả Ngô Doãn Vịnh, Lê Văn Nắp và
cộng sự, Vũ Thành Hưởng đã có những nghiên cứu về tiềm năng, thế mạnh và mối
quan hệ giữa vùng KTTĐ Bắc Bộ với các vùng xung quanh. Đặc biệt, tác giả Vũ
11


Thành Hưởng đã đề cập tới việc phát triển bền vững của các khu công nghiệp trong
vùng KTTĐ Bắc Bộ. Tuy nhiên, các đề tài này chưa gắn được mối liên kết giữa
vùng KTTĐ Bắc Bộ với khu vực, và quốc tế, chưa đưa ra được mô hình liên kết
mới cũng như chưa xác định được vai trò của nhà nước trong việc thúc đẩy liên kết,
đưa vùng KTTĐ Bắc Bộ phát triển bền vững [9].
Như vậy, trên thế giới và Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu về
cách phân vùng lãnh thổ - kinh tế và liên kết vùng, đặc biệt là liên kết kinh tế. Tất
cả các tác giả đều chỉ ra sự cần thiết phải liên kết vùng, tưởng chừng như không
cần phải nghiên cứu thêm nữa. Tuy nhiên, thực tế liên kết vùng ở Việt Nam đến
nay không giống bất cứ quốc gia nào trên thế giới ở hai lý do: Thứ nhất, liên kết
vùng áp dụng đại trà trên toàn quốc; Thứ hai, các công việc cụ thể của liên kết vùng
thường được bàn thảo nhiều mà ít được triển khai thành kết quả cụ thể. Như vậy,
đâu là nguyên nhân của tình trạng này và có giải pháp nào khắc phục được tình
trạng trên, đưa lý thuyết, mô hình liên kết vùng vào thực tiễn, góp phần đưa các
vùng kinh tế trọng điểm phát triển bền vững?
Trong luận văn này chúng tôi tập trung nghiên cứu các vấn đề liên quan đến
liên kết của hộ nông dân trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản với các hộ
nông dân khác, trang trại, hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp, doanh nghiệp. Những
kết quả của luận văn hy vọng có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc hoạch
định cơ sở phát triển kinh tế xã hội ở các huyện miền núi nói chung và huyện Lâm
Thao nói riêng trong việc phát triển liên kết kinh tế hộ nông dân nhằm mang lại lợi
ích cho người nông dân, nâng cao hiệu quả kinh tế mang tính bền vững và ổn định;
có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu giảng dạy ở các chuyên

đề kinh tế liên quan. Đồng thời xác lập những phương hướng và giải pháp có tính
khả thi cho công tác liên kết phát triển kinh tế hộ ở các huyện, các tỉnh miền núi
theo hướng CNH – HĐH và từng bước đưa kinh tế hộ tiến tới kinh tế tập thể kiểu
mới.
3. Mục tiêu nghiên cứu
12


3.1.Mục tiêu chung
Làm rõ thực trạng và giải pháp thúc đẩy liên kết kinh tế của hộ nông dân
huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ.
3.2. Mục tiêu cụ thể
- Làm rõ cơ sở lý luận về liên kết kinh tế của hộ nông dân
- Làm rõ thực trạng liên kết kinh tế của hộ nông dân với doanh nghiệp, hộ
nông dân với hộ nông dân, với trang trại, những mặt được và hạn chế; nguyên nhân
hạn chế từ 2012 - 2015.
- Đề xuất các giải pháp thúc đẩy liên kết kinh tế của hộ nông dân huyên Lâm
Thao, tỉnh Phú Thọ đến 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là liên kết kinh tế của hộ nông dân huyện
Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
4.2.1. Phạm vi nội dung
Liên kết kinh tế của hộ nông dân là một đề tài có nội dung rất rộng và phức
tạp. Trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ, đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề liên
quan đến liên kết của hộ nông dân trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản với
các hộ nông dân khác, trang trại, hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp, doanh nghiệp.
4.2.2. Phạm vi không gian
Về không gian: đề tài nghiên cứu liên kết kinh tế của các hộ nông dân trên

địa bản huyện Lâm Thao. Liên kết kinh tế của hộ nông dân không chỉ được nghiên
cứu trong pham vi huyện Lâm Thao mà còn nghiên cứu liên kết kinh tế của hộ
nông dân với các chủ thể bên ngoài phạm vi huyện Lâm Thao.
4.2.3. Thời gian nghiên cứu đề tài
13


Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng liên kết kinh tế của hộ nông dân từ
năm 2012 đến 2015 và các giải pháp thúc đẩy liên kết của hộ nông dân đến năm 2020.
4.2.4. Câu hỏi nghiên cứu
- Thực tế có tồn tại và phát triển các hình thức liên kết kinh tế của hộ nông
dân huyện Lâm Thao?
- Những yếu tố nào ảnh hưởng đến sự liên kết kinh tế của hộ nông dân huyện
Lâm Thao với các chủ thể khác?
- Những tồn tại, hạn chế trong liên kết kinh tế của hộ nông dân huyên Lâm
Thao?
- Những giải pháp để thúc đẩy sự liên kết kinh tế của hộ nông dân với với các
chủ thể khác?
4.2.5. Giả thuyết nghiên cứu
Trong thời gian gần đây, liên kết trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông
sản của các hộ nông dân trên địa bàn huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ với các chủ
thể khác ở trong và bên ngoài huyện đã phát triển, mang lại nhiều lợi ích cho nông
dân. Tuy nhiên, thực tế cho thấy còn tồn tại nhiều bất cập trong liên kết kinh tế hộ
nông dân với các chủ thể khác: tỷ lệ hộ nông dân tham gia liên kết thấp, liên kết
thiếu bền vững, hiệu quả liên kết thấp.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp thu thập số liệu
Nguồn số liệu luận văn thu thập gồm có nguồn số liệu thứ cấp và số liệu điều
tra.
5.1.1. Thu thập số liệu thứ cấp

Số liệu, tài liệu thứ cấp bao gồm các tài liệu, báo cáo của UBND tỉnh Phú
Thọ, UBND huyên Lâm Thao, UBND các xã khảo sát, các phòng ban có liên quan
của huyện Lâm Thao như Phòng Nông nghiệp – Nông thôn, Phòng Tài nguyên và
môi trường, Phòng khuyến nông, Bảo vệ thực vật, Hội Nông dân, Hội phụ nữ, …
5.1.2. Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp
14


Để thu thập số liệu mới luận văn tiến hành điều tra thực địa tại một số xã, thị
trấn và các doanh nghiệp trên địa bàn huyện Lâm Thao. Trong đợt điều tra thực địa,
luận văn sử dụng hai phương pháp chính: phương pháp phỏng vấn sâu và phương
pháp điều tra bằng bảng hỏi.
* Chọn điểm nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, địa điểm nghiên cứu phải đại diện cho
vùng nghiên cứu về các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, môi trường, văn hóa.
Đối với từng điểm, luận văn lựa chọn những sản phẩm có sự phát triển tương
đối tốt của vùng đó, để qua đó bên cạnh việc phân tích, đánh giá thực trạng liên kết
còn hướng tới việc đưa ra những bài học, khuyến nghị nhằm tăng cường mối liên
kết giữa các chủ thể trong sản xuất, tiêu thụ nông sản trên địa bàn nghiên cứu. Cụ
thể như sau:
- Sản phẩm lúa, rau màu: Xã Xuân Huy (với Trung tâm giống cây trồng Phú Thọ).
- Các Sản phẩm làng nghề như: bánh truyền thống ở Xã Xuân Lũng (với Công ty
TNHH Làng Dòng), Tương Dục Mỹ, Làng nghề nuôi Rắn ở Cao Xá, Làng nghề
Gạch và vật liệu xây dựng ở Xuân Huy,…
- Sản phẩm giống vật nuôi: lợn con giống ở Hợp Hải, Tôm, cá ở Thạch Sơn.
* Phương pháp điều tra bảng hỏi:
Để thu thập số liệu mới tôi sử dụng phương pháp điều tra bảng hỏi đối với
các cán bộ chủ chốt ở huyện, xã, các chủ doanh nghiệp, tiểu thương, chủ trang trại,
…ở những điểm nghiên cứu. Cụ thể điều tra các nhóm đối tượng:



Đối với nhóm cán bộ huyện, xã, thị trấn: điều tra bảng hỏi đối với 22 cán bộ

hiện là phó chủ tịch huyện, chủ tịch các xã, chủ tịch hội nông dân, hội phụ nữ, tín
dụng các xã.
Chúng tôi tiến hành thiết kế bảng hỏi dựa trên các câu hỏi:
Diện tích gieo trồng các loại cây trồng của huyện, xã từ 2012 đên nay?
Năng suất của cây trồng, vật nuôi chính trên địa bàn huyện, xã từ 2012 đến
nay?
Chi phí sản xuất cho cây trồng, vật nuôi của huyện, xã?
Sản lượng tiêu thụ các mặt hàng nông sản của huyện, xã?
Các tác nhân ảnh hưởng đến năng suất và sản lượng tiêu thụ nông sản của
huyện, xã?
15


-

Thu nhập từ sản xuất – kinh doanh cây trồng, vật nuôi của huyện, xã?
Tại Lâm thao có tồn tại và phát triển các hình thức liên kết kinh tế của hộ

nông dân? Thực tế có bao nhiêu xã đã thực hiện mô hình này?Các hình thức liên
kết đã có trong huyện, xã?
Những yếu tố nào ảnh hưởng đến sự liên kết kinh tế của hộ nông dân huyện
Lâm Thao với các chủ thể khác?
Những tồn tại, hạn chế trong liên kết kinh tế của hộ nông dân ở huyên Lâm
Thao?
Những giải pháp để thúc đẩy sự liên kết kinh tế của hộ nông dân với với các
chủ thể khác?


Đối với nhóm Doanh nghiệp: chúng tôi tiến hành điều tra bảng hỏi ở 8 doanh
nghiệp tiêu biểu trong liên kết kinh tế với hộ nông dân: Công ty Cổ phẩn ủ ấm Sơn
Vy, Công ty TNHH Làng Dòng (Xuân Lũng), Công ty TNHH thương mại và thủy
sản Hà Anh (Xuân Lũng), Công ty Cp Gạch và vật liệu cao cấp Xuân Huy, Công ty
TNHH Giống cây trồng Phú Thọ (Xuân Huy), Hội chăn nuôi và chế biến Rắn Cao
Xá, Công ty TNHH chế biến thực phẩm GOC (Kinh Kệ), Công ty CP mộc và đồ
gỗ mỹ nghệ Việt Tiến (Tứ Xã).
Với nhóm doanh nghiệp, chúng tôi thiết kế bảng hỏi dựa trên các câu hỏi?
- Tình hình chung về doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp?
- Quy mô doanh nghiệp?Ngành nghề sản xuất chính? Tổng số lao động của
doanh nghiệp?Doanh thu? Lợi nhuận của doanh nghiệp?
- Hiện tại doanh nghiệp có tồn tại và phát triển các hình thức liên kết kinh tế
với hộ nông dân? Liên kết trong những nội dung nào? thời điểm, giai đoạn
liên kết?
- Những yếu tố nào ảnh hưởng đến sự liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp với
hộ nông dân?
- Mức độ liên kết?
- Tác động của liên kết đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp? Tích cực
hay hạn chế ra sao?
- Nhu cầu liên kết?
- Các giải pháp quý doanh nghiệp đưa ra nhằm để thúc đẩy sự liên kết kinh tế


với hộ nông dân?
Nhà nông ở 14 xã, thị trấn thuộc huyện Lâm Thao: 500 chủ hộ, chủ trang trại
16


trong huyện. Với nhóm Nông dân chúng tôi thiết kế bảng hỏi dựa trên các câu hỏi:
- Thông tin chung về hộ và chủ hộ:

Giới tính? Tuổi trung bình của chủ hộ/trang trại?
Trình độ học vấn của chủ hộ/trang trại
Trình độ chuyên môn của chủ hộ/trang trại
Nghề nghiệp chính của chủ hộ/trang trại
Bình quân lao động/hộ, trang trại
Diện tích đất nông nghiệp, đất sản xuất sản phẩm /hộ, trang trại
Thu nhập, tỷ lệ thu nhập từ sản phẩm của hộ/trang trại
- Hiện tại hộ/trang trai có tồn tại và phát triển mối liên kết kinh tế với các hộ
khác hoặc các doanh nghiệp, HTX,... trong sản xuất và tiêu thụ nông sản
phẩm của gia đình không?
- Liên kết của hộ với các chủ thể khác ở những nội dung nào (sản xuất, chế
biến, tiêu thụ)? Tại những thời điểm, giai đoạn nào?
- Những yếu tố nào ảnh hưởng đến sự liên kết kinh tế của hộ với chủ thể khác?
- Mức độ liên kết (chặt chẽ/ lỏng lẻo)? Nhu cầu liên kết (giống, phân bón, thức
ăn, vốn, kỹ thuật, tiêu thụ sản phẩm)?
- Tác động của liên kết đến kết quả, hiệu quả sản xuất của hộ? Tích cực hay
hạn chế ra sao?
* Phương pháp phỏng vấn sâu:
Đối với phương pháp phỏng vấn sâu, tôi tiến hành phỏng vấn trực tiếp tại 5
xã (Cao Xá, Xuân Huy, Kinh Kệ, Tứ Xã, Xuân Lũng) trong đó mỗi xã phỏng vấn
100 hộ. Đây là các xã, các hộ có các sản phẩm phát triển tương đối tốt theo mô
hình liên kết kinh tế hộ về sản xuất cũng như tiêu thụ nông sản giữa các hộ trong
xã, trong huyện với nhau và với các thương lái bên ngoài huyện. Với phương pháp
phỏng vấn, chúng tôi đưa ra các câu hỏi phỏng vấn chủ yếu đòi hỏi người dân đưa
ra ý kiến chủ quan của mình về mối liên kết kinh tế đang diễn ra giữa họ với các
chủ thể khác. Từ đó tìm hiểu thực trạng, tác động và nhu cầu thực đồng thời đưa ra
được các giải pháp giúp tăng cường mối liên kết kinh tế giữa hộ nông dân với các
chủ thể khác trên địa bàn. Một số câu hỏi và gợi ý đưa ra phỏng vấn các hộ nông
dân:
-


Hình thức tham gia trong liên kết?
17


-

Nhận xét của hộ tham gia liên kết về chất lượng giống: đảm bảo, không đảm

bảo…?
Nhận xét của hộ tham gia liên kết về giá thực hiện khi liên kết: có thỏa thuận,
-

chấp nhận giá…?
Lượng vốn vay trong liên kết: có đáp ứng đủ, không đáp ứng đủ…?
Mức lãi suất vay vốn khi liên kết: cao, ưu đãi, bình thường…?
Thời hạn vay vốn khi liên kết: có kỳ hạn, không kỳ hạn…?
Hình thức vay vốn khi liên kết: góp vốn, vay vốn…?
Thủ tục vay vốn khi liên kết: rườm ra, thuận lợi?
Thời điểm liên kết: giai đoạn đầu sản xuất, giai đoạn cuối sản xuất, suốt cả giai

-

đoạn sản xuất…?
Mức độ phù hợp về nội dung liên kết: rất phù hợp, phù hợp, không phù hợp…
Mức độ liên kết: lỏng lẻo, bình thường, chặt chẽ…
Tác động của liên kết đến kết quả và hiệu quả sản xuất – kinh doanh: chi phí,

-


doanh thu, thu nhập hỗn hợp, lợi nhuận …
Nhận xét về tác động của liên kết đến các nội dung trong liên kết:
+ Tác động của liên kết đến nội dung về cung ứng giống, thức ăn, phân bón: số

lượng đáp ứng đủ, giá cả rẻ, chất lượng đảm bảo, thời gian cung ứng kịp thời, được
mua giống chịu, hỗ trợ vận chuyển…
+ Tác động của liên kết đến nội dung về cung ứng vốn: huy động được vốn lớn
hơn, lãi suất vay vốn lớn hơn, đáp ứng kịp thời nhu cầu vay vốn…
+ Tác động của liên kết đến nội dung về phòng trừ dịch bệnh: nắm bắt thông tin
về phòng trừ dịch bệnh sớm hơn, hiểu biết tốt hơn về phòng trừ dịch bệnh, trừ bệnh
kịp thời…
+ Tác động của liên kết đến nội dung chuyển giao kỹ thuật: nâng cao kiến thức
kỹ năng sản xuất, nhân rộng mô hình sản xuất, năng suất tăng lên…
+ Tác động của liên kết đến nội dung tiêu thụ: lượng tiêu thụ ổn đinh, giá đầu ra
ổn định, tiếp cận thông tin thị trường tốt hơn, thanh toán kịp thời, sản phẩm bao tiêu
được đảm bảo…
Nhu cầu của các hộ về nội dung trong liên kết như : giống, phân bón, thức ăn,
vốn, kỹ thuật, tiêu thụ:
5.2. Phương pháp phân tích số liệu
5.2.1. Phương pháp xử lý số liệu
Luận văn sử dụng phần mềm Excel để xử lý số liệu.
5.2.2. Phương pháp thống kê so sánh
18


Phương pháp này được sử dụng chủ yếu để mô tả, phân tích và so sánh kết
quả thực hiện liên kết giữa các nhà thông qua các chỉ tiêu định tính (các hình thức
liên kết, trách nhiệm và lợi ích của các bên...) và định lượng (thời gian tham gia
liên kết, tỷ lệ tham gia liên kết...).
5. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, mục lục, kết luận và kiến nghị, danh mục tài liệu tham
khảo, luận văn được chia thành ba chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về liên kết kinh tế của hộ
nông dân.
Chương 2: Thực trạng liên kết kinh tế của hộ nông dân huyện Lâm Thao từ
2012 đến nay
Chương 3: Quan điểm, định hướng và giải pháp tăng cường liên kết của hộ
nông dân ở huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ đến năm 2020.

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ LIÊN KẾT KINH
TẾ CỦA HỘ NÔNG DÂN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
a, Khái niệm về liên kết kinh tế
19


Liên kết nói chung, liên kết trong nông nghiệp và liên kết trong sản xuất
nông nghiệp nói riêng đều có bản chất chung là liên kết.
Khái niệm liên kết xuất phát từ tiếng Anh “integration” mà trong hệ thống
thuật ngữ kinh tế có nghĩa là sự hợp nhất, sự phối hợp hay sát nhập của nhiều bộ
phận thành một chỉnh thể. Trước đây khái niệm này được biết đến với tên gọi là
nhất thể hóa và gần đây mới gọi là liên kết (Nguyễn Như Ý, 1999).
Theo từ điển thuật ngữ kinh tế học của Viện nghiên cứu và phổ biến tri thức
bách khoa thì “Liên kết kinh tế là hình thức hợp tác, phối hợp hoạt ñộng do các đơn
vị kinh tế tự nguyện tiến hành nhằm thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển theo
hướng có lợi nhất trong khuôn khổ pháp luật của Nhà nước. Mục tiêu là tạo ra mối
liên kết kinh tế ổn định thông qua các hoạt ñộng kinh tế hoặc các quy chế hoạt
động ñể tiến hành phân công sản xuất, khai thác tốt tiềm năng của các đơn vị tham

gia liên kết để tạo ra thị trường tiêu thụ chung, bảo vệ lợi ích cho nhau”.
Theo David (1999) “Liên kết kinh tế chỉ các tình huống khi mà các khu vực
khác nhau của một nền kinh tế thường là khu vực công nghiệp và nông nghiệp hoạt
động phối hợp với nhau một cách có hiệu quả và phụ thuộc lẫn nhau, là một yếu tố
của quá trình phát triển. Điều kiện này thường đi kèm với sự tăng trưởng bền
vững”.
Điều 1 quyết định số 38/1989/QĐ-HĐBT ngày10/04/1989 của Hội đồng bộ
trưởng về liên kết kinh tế trong SX lưu thông và dịch vụ: “Liên kết kinh tế là những
hình thức phối hợp hoạt động do các đơn vị kinh tế tiến hành để cùng nhau bàn bạc
và đề ra các chủ trương, biện pháp có liên quan đến công việc SX kinh doanh của
mình nhằm thúc đẩy SX theo hướng có lợi nhất”.
Theo Trần Văn Hiếu (2005) thì “Liên kết kinh tế là quá trình xâm nhập, phối
hợp với nhau trong SX kinh doanh của các chủ thể kinh tế dưới các hình thức tự
nguyện nhằm thúc đẩy SX kinh doanh theo hướng có lợi nhất trong khuôn khổ luật
pháp, thông qua hợp đồng kinh tế để khai thác tốt các tiềm năng của các chủ thể
tham gia liên kết. Liên kết kinh tế có thể tiến hành theo chiều dọc hoặc chiều
20


ngang, trong nội bộ ngành hoặc giữa các ngành, trong một quốc gia hay nhiều quốc
gia, trên phạm vi khu vực và quốc tế”.
Theo Phạm Thị Minh Nguyệt (2006) cho rằng: “Liên kết kinh tế chính là
những phương thức hoạt động của các hình thức hợp tác kinh tế, liên kết kinh tế
phát triển ngày càng phong phù, đa dạng theo sự phát triển của hợp tác kinh tế; tất
cả các mối quan hệ kinh tế được hình thành giữa hai hay nhiều đối tác với nhau dựa
trên những hợp đồng đã ký kết với những thoả thuận nhất định được gọi là liên kết
kinh tế”.
Theo Hồ Quế Hậu (2012), Liên kết kinh tế trong kinh tế thị trường và hội
nhập kinh tế là sự chủ động nhận thức và thực hiện mối liên hệ kinh tế khách quan
giữa các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế xã hội, nhằm thực hiện mối quan hệ phân

công và hợp tác lao động để đạt tới lợi ích kinh tế xã hội chung.
Qua đó, chúng tôi cho rằng: Liên kết kinh tế là một phạm trù khách quan
phản ánh những quan hệ giữa các chủ thể sản xuất, kinh doanh nhằm tiết kiệm thời
gian, tiết kiệm chi phí, đạt hiệu quả cao hơn trong sản xuất kinh doanh nông sản,
tạo ra sức mạnh cạnh tranh, cùng nhau chia sẻ các khả năng, mở ra những thị
trường mới. Mục tiêu của liên kết kinh tế là các bên tìm cách bù đắp sự thiếu hụt
của mình từ sự phối hợp hoạt động với các đối tác nhằm đem lại lợi ích cho các
bên.
b, Liên kết trong sản xuất – kinh doanh nông nghiệp
Khác với các ngành sản xuất – kinh doanh khác, sản xuất – kinh doanh nông
nghiệp có những đặc thù riêng do có đặc điểm riêng của ngành nông nghiệp, chẳng
hạn như: các sản phẩm nông nghiệp có chu kỳ sản xuất kinh doanh rất khác nhau
(kể cả trong cùng một sản phẩm cũng có những điểm đặc thù như: có cây trồng chu
kỳ thay giống mới kéo dài vài năm mới thay giống một lần…, khác với các khâu
khác như kỹ thuật, chăm sóc, tiêu thụ… lại diễn ra thường xuyên); các tác nhân (tổ
chức, cá nhân) tham gia sản xuất – kinh doanh cũng rất đa dạng, đặc biệt là các hộ

21


cá thể… Do vậy, liên kết trong sản xuất – kinh doanh nông nghiệp cũng có những
điểm khác biệt, và có thể được định nghĩa như sau:
“Liên kết trong sản xuất – kinh doanh nông nghiệp là hình thức phối hợp, hợp tác
thường xuyên các hoạt động do các đơn vị kinh tế tự nguyện tiến hành để cùng
nhau đề ra và thực hiện các công việc sản xuất kinh doanh của các bên tham gia
nhằm thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển theo hướng có lợi nhất. Liên kết
kinh tế được xây dựng trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi thông qua
hợp đồng kinh tế ký kết giữa các bên tham gia dưới hai hình thức chủ yếu là hợp
đồng bằng văn bản (hợp đồng chính thống) trong khuôn khổ pháp luật của Nhà
nước và hợp đồng phi chính thống (thỏa thuận miệng). Mục tiêu của liên kết kinh

tế là tạo ra mối quan hệ kinh tế ổn định, hoặc các quy chế hoạt động để tiến hành
phân công sản xuất chuyên môn hóa, hợp tác hóa, nhằm khai thác tốt tiềm năng
của mỗi đơn vị tham gia liên kết, hoặc để cùng nhau tạo ra thị trường chung, phân
định hạn mức sản lượng cho từng đợn vị thành viên, giá cả cho từng loại sản
phẩm, nhằm bảo vệ lợi ích của nhau và cùng có lợi. Trong liên kết các đơn vị
thành viên có tư cách pháp nhân đầy đủ và không đầy đủ, không phân biệt hình
thức sở hữu, quan hệ trực thuộc về mặt quản lý Nhà nước, ngành kinh tế - kỹ thuật
hay lãnh thổ. Trong khi tham gia liên kết, không một đơn vị thành viên nào bị mất
quyền tự chủ của mình, không được miễn giảm bất cứ nghĩa vụ nào đối với Nhà
nước theo pháp luật hoặc nghĩa vụ hợp đồng đã ký với các đơn vị khác.
1.1.2. Các khái niệm liên quan đến kinh tế hộ nông dân
1.1.2.1. Khái niệm hộ
Hộ đã có từ lâu đời, cho đến nay nó vẫn tồn tại và phát triến. Trải qua mỗi
thời kỳ kinh tế khác nhau, hộ và kinh tế hộ được biểu hiện dưới nhiều hình thức
khác nhau song vẫn có bản chất chung đó là:“Sự hoạt động sản xuất kinh doanh
của các thành viên trong gia đình cố gắng làm sao tạo ra nhiều của cải vật chất đế
nuôi sống và tăng thêm tích luỹ cho gia đình và xã hội”.

22


Theo Martin (1988) thì hộ là đơn vị cơ bản liên quan đến sản xuất, tái sản
xuất, đến tiêu dùng và các hoạt động xã hội khác. Theo Harris, ở viện nghiên cứu
phát triển trường Đại học tổng hợp Susex (Lon Don- Anh) cho rằng: “Hộ là một
đơn vị tự nhiên tạo nguồn lao động” Theo Raul Iturna, giáo sư trường đại học tổng
hợp Liôbon khi nghiên cứu cộng đồng nông dân trong quá trình quá độ ở một số
nước châu Á đã chứng minh “Hộ là một tập hợp những người cùng chung huyết tộc
có quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình sáng tạo ra vật phẩm để bảo tồn chính
bản thân họ và cộng đồng”Qua các quan điểm khác nhau về khái niệm hộ trên, có
thể rút ra một số đặc trưng về hộ. Hộ là một nhóm người cùng chung huyết tộc hay

không cùng huyết tộc. Hộ cùng sống chung hay không cùng sống chung một mái
nhà. Có chung một nguồn thu nhập và ăn chung. Cùng tiến hành sản xuất chung.
Qua nghiên cứu cho thấy, có nhiều quan niệm của các nhà khoa học về hộ:
- Theo từ điển chuyên ngành kinh tế và từ điển ngôn ngữ "Hộ là tất cả những
người cũng sổng chung trong một mủi nhà. Nhóm người đó bao gồm những người
cùng chung huyết tộc và những người làm công".
- Theo Liên hợp quốc "Hộ là những người cùng sổng chung dưới một mái
nhà, cùng ăn chung và có chung một ngân quỹ".
1.1.2.2. Kinh tế hộ nông dân
GS. Frank Ellis (1988) cho rằng kinh tế nông hộ khác những người làm kinh
tế khác trong nền kinh tế thị trường ở 3 yếu tố: đất đai, lao động, vốn “Kinh tế nông
hộ là một hình thức tổ chức kinh tế cơ sở của nền kinh tế xã hội. Các nguồn lực đất
đai, tư liệu sản xuất, vốn, lao động được góp chung, chung một ngân sách, ngủ
chung một mái nhà, ăn chung, mọi quyết định trong sản xuất kinh doanh và đời
sống đều do chủ hộ phát ra” Từ khái niệm trên đã thống nhất những vấn đề cơ bản
của kinh tế nông hộ đó là: Kinh tế hộ nông dân là đơn vị hoạt động của xã hội, làm
cơ sở cho phân tích kinh tế. Các nguồn lực cùng được góp vào thành nguồn vốn
chung của mọi thành viên trong gia đình và cùng chung một ngân sách. Cùng sống
chung dưới một mái nhà.
23


Kinh tế hộ nông dân là loại hình kinh tế có qui mô hộ gia đình, trong đó các
hoạt động chủ yếu là dựa vào lao động gia đình.
Phát triển kinh tế là quá trình tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế trong một
thời kỳ nhất định. Trong đó bao gồm cả sự tăng lên về quy mô sản lượng và tiến bộ
mọi mặt của xã hội hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý.
1.1.2.3. Đặc điểm của kinh tế hộ nông dân
Dựa vào các khái niệm và các đặc trưng của kinh tế hộ nông dân ta có thể
thấy các đặc điểm cơ bản của kinh tế hộ nông dân là:

- Hoạt động của kinh tế hộ nông dân chủ yếu là dựa vào lao động gia đình
hay là lao động có sẵn mà không cần phải thuê ngoài. Các thành viên tham gia hoạt
động kinh tế hộ có quan hệ gắn bó với nhau về kinh tế và huyết thống.
- Đất đai là tư liệu sản xuất quan trọng nhất không thể thiếu của sản xuất
kinh tế hộ nông dân.
- Người nông dân là người chủ thật sự của quá trình sản xuất trực tiếp tác
động vào sinh trưởng, phát triển của cây trồng vật nuôi, không qua khâu trung gian,
họ làm việc không kể giờ giấc và bám sát vào tư liệu sản xuất của họ.
- Kinh tế nông hộ có cấu trúc lao động đa dạng, phức tạp, trong một hộ có
nhiều loại lao động vì vậy chủ hộ vừa có khả năng trực tiếp điều hành, quản lý tất
cả các khâu trong sản xuất, vừa có khả năng tham gia trực tiếp quá trình đó.
- Do có tính thống nhất giữa lao động quản lý và lao động sản xuất nên kinh
tế hộ nông dân giảm tối đa chi phí sản xuất, và nó tác động trực tiếp lên lao động
trong hộ nên có tính tự giác để nâng cao hiệu quả và năng suất lao động.
1.1.2.4. Vai trò của kinh tế hộ nông dân đối với phát triển kinh tế - xã hội
* Kinh tế hộ nông dân với vấn đề việc làm và sử dụng tài nguyên ở nông
thôn.
Việc làm hiện nay là một vấn đề cấp bách với nông thôn nói riêng và với cả
nước nói chung. Đặc biệt nước ta có tới 80% dân sống ở nông thôn. Nếu chỉ trông
chờ vào khu vực kinh tế quốc doanh, Nhà nước hoặc sự thu hút lao động ở các
24


thành phố lớn thì khả năng giải quyết việc làm ở nước ta còn rất hạn chế. Lao động
là nguồn lực dồi dào nhất ở nước ta, là yếu tố năng động và là động lực của nền
kinh tế quốc dân nhưng việc khai thác và sử dụng nguồn nhân lực vẫn đang ở mức
thấp.
Hiện nay ở nước ta còn khoảng 10 triệu lao động chưa được sử dụng, chiếm
khoảng 25% lao động và chỉ có 40% quỹ thời gian của người lao động ở nông thôn
là được sử dụng. Còn các yếu tố sản xuất chỉ mang lại hiệu quả thấp do có sự mất

cân đối giữa lao động, đất đai và việc làm ở nông thôn. Kinh tế hộ sản xuất có ưu
thế là mức đầu tư cho một lao động thấp, đặc biệt là trong nông nghiệp, kết quả
nghiên cứu ở Việt Nam cho thấy:
- Vốn đầu tư cho một hộ gia đình: 1,3 triệu đồng/1 lao động/ 1 việc làm
- Vốn đầu tư cho một xí nghiệp tư nhân: 3 triệu/ 1 lao động / 1 việc làm
- Vốn đầu tư cho kinh tế quốc doanh địa phương: 12 triệu/1 lao động/ 1 việc
làm. (Đây chỉ là vốn tài sản cố định, chưa kể vốn lưu động).
Như vậy, chi phí cho một lao động ở nông thôn ít tốn kém nhất. Đây là một điều
kiện thuận lợi khi nền kinh tế nước ta còn nghèo, ít vốn tích luỹ. Mặt khác, là kinh
tế độc lập trong sản xuất kinh doanh hộ sản xuất đồng thời vừa là lao động chính,
vừa là lao động phụ thực hiện những công việc không nặng nhọc nhưng tất yếu
phải làm.
Xen canh gối vụ là rất quan trọng đối với hộ sản xuất trong sản xuất nông
nghiệp để có khả năng cao, khai thác được mọi tiềm năng của đất đai. ở các nước
tiên tiến, thâm canh là quá trình cải tiến lao động sống, chuyển dịch lao động vào
các ngành nghề hiện đại hoá nông nghiệp. Còn ở Việt Nam do trang bị kỹ thuật cho
lao động cho nên thâm canh là quá trình thu hút thêm lao động sống, tạo thêm công
ăn việc làm từ những khâu hầu như còn làm thủ công: cày bừa, phòng trừ sâu bệnh,
làm cỏ...
Do việc gắn trực tiếp lợi ích cá nhân với quyền sử dụng, quản lý, lâu dài đất
đai, tài nguyên nên việc sử dụng của hộ sản xuất hết sức tiết kiệm và khoa học,
25


×