Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

SỰ kết hợp độc lập dân tộc với CHỦ NGHĨA xã hội ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (333.72 KB, 65 trang )

SỰ KẾT HỢP ĐỘC LẬP DÂN TỘC VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
TRONG CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Đặt vấn đề :
- Độc lập dân tộc kết hợp với chủ nghĩa xã hội là đường lối xuyên suốt của Đảng
Cộng sản Việt Nam từ năm 1930 đến nay. Đó là sự kết hợp giữa mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, vị trí và biểu hiện của từng mục tiêu thay đổi qua
mỗi giai đoạn cách mạng.
+ Trong giai đoạn cách mạng dân chủ nhân dân, độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp
giành và bảo vệ độc lập dân tộc, còn chủ nghĩa xã hội là mục tiêu lý tưởng, mục tiêu
vươn tới của cách mạng. Nêu mục tiêu chủ nghĩa xã hội có ý nghĩa định hướng cách
mạng khi thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc.
+ Trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa xã hội là mục tiêu trực tiếp,
còn độc lập dân tộc là mục tiêu phối hợp nhằm bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Trong những
trường hợp cụ thể, độc lập dân tộc trở thành mục tiêu trực tiếp cả trong giai đoạn cách
mạng xã hội chủ nghĩa, nhằm bảo vệ chủ nghĩa xã hội.
- Cá biệt và cũng rất đặc biệt, trong thời kỳ 1954-1975, độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội đều là những mục tiêu trực tiếp được thực hiện ở hai miền Nam và Bắc. Ở mỗi
miền đất nước đồng thời kết hợp cả hai mục tiêu: ở miền Bắc, vừa xây dựng chủ
nghĩa xã hội, vừa chiến đấu bảo vệ độc lập dân tộc, ở miền Nam vừa chiến đấu để
giành độc lập tự do, vừa bảo vệ vùng giải phóng, từng bước xây dựng vùng giải
phóng định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Mối quan hệ, sự kết hợp giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là mối quan hệ biện
chứng, có tính quy luật. Đó là quy luật tồn tại và phát triển của bất cứ nước nào, của
bất cứ thời kỳ nào. Dân tộc Việt Nam trong quá trình tồn tại và phát triển cũng đã
thực hiện theo quy luật đó.
- Ở nước ta từ khi có Đảng lãnh đạo, khi chưa giành độc lập và chính quyền, cả sau
Cách mạng tháng Tám năm 1945 khi đất nước đã độc lập, chính quyền đã về tay nhân
dân thì xây dựng và bảo vệ là hai nhiệm vụ chiến lược luôn kết hợp với nhau, hỗ trợ
cho nhau. Thời kỳ kháng chiến chống Mĩ ở miền Nam (1954-1975) thì nhiệm vụ

1




giành độc lập dân tộc và chính quyền được thực hiện đồng thời với sản xuất xây dựng
và đấu tranh bảo vệ vùng giải phóng.
- Trong thời kỳ đất nước đã giành được độc lập và chính quyền (thời kỳ kháng chiến
chống thực dân Pháp) thì thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược kháng chiến và
kiến quốc kết hợp chiến đấu và xây dựng, bảo vệ chính quyền, bảo vệ độc lập dân
tộc, giải phóng dân tộc.
- Trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa (từ sau đại thắng mùa Xuân năm 1975
đến nay), trong khi Đảng và nhân dân ta đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng chủ
nghĩa xã hội, thì vẫn khẳng định vẫn không một phút được lơ là cảnh giác nhiệm vụ
bảo vệ Tổ quốc. Hai nhiệm vụ chiến lươc đó luôn luôn quan hệ khăng khít với nhau,
phối hợp chặt chẽ với nhau trong quá trình tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa.
- Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986), nhất là đến Đại hội
VII (6-1991), nhận thức của Đảng ta về mối quan hệ, sự kết hợp giữa xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc càng được nâng cao, tư duy được đổi mới:
+ Xây dựng và bảo vệ trong giai đoạn hiện nay có xu hướng hòa nhập nhau một cách
khăng khít, đến mức bảo vệ trở thành một bộ phận hợp thành của xây dựng, cũng như
vậy, xây dựng trở thành một bộ phận của bảo vệ.
+ Tác động giữa xây dựng và bảo vệ không chỉ là tác động giữa hai mặt tạo nên sức
mạnh để bảo vệ mà tác động đó nằm ngay trong xây dựng. Chính thành tựu đạt được
trong xây dựng đã tạo nên sức mạnh để bảo vệ.
- Điểm mới giữa mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là phải xây dựng chế
độ xã hội chủ nghĩa một cách toàn diện, làm cho các yếu tố hợp thành chế độ đó phát
triển bền vững, có khả năng bảo vệ trực tiếp từng tế bào của xã hội.
- Nói riêng về bảo vệ, trong những thập kỷ trước đây, để lật đổ một chế độ, một nhà
nước xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa đế quốc sử dụng đến chiến tranh lật đổ, xâm chiếm
lãnh thổ. Nay chủ nghĩa đế quốc vẫn dùng phương pháp đó, còn dùng phương pháp
tấn công thẳng vào các yếu tố hợp thành chế độ xã hội chủ nghĩa, làm suy yếu, hủy
hoại từ bên trong chế độ, như dùng diễn biến hòa bình, chiêu bài tôn trọng quyền dân

tộc tự quyết, nhân quyền, thậm chí là lấy cớ chống khủng bố để can thiệp vào công
việc nội bộ của các nước. Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc do đó khó khăn phức tạp hơn, vì

2


đối tượng đấu tranh mở rộng hơn, ngoài những thế lực thù địch bên ngoài, còn có
những thế lực thù địch ngay ở bên trong của mỗi nước.
Chương 1
Độc lập dân tộc kết hợp với chủ nghĩa xã hội - từ quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin đến đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
1.1. Quan điểm của C.Mác, Ăngghen và Lênin về chủ nghĩa xã hội
1.1.1. Quan điểm của C.Mác, Ăngghen
- C.Mác sinh ngày 5-5-1918 ở Tơrevơ (Cộng hòa liên bang Đức)
- Ăngghen sinh 28-11-1820 ở Bácmen (Cộng hòa liên bang Đức)
Tư tưởng chủ yếu về chủ nghĩa xã hội của C.Mác, Ăngghen, V.I Lênin được phản
ánh trong nhiều tác phẩm, trong đó tập trung nhất là các tác phẩm: Những nguyên lý
của chủ nghĩa cộng sản (1847); Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (1848); Tư bản; Phê
phán cương lĩnh Gôta (1875); Chống Đuyrinh (1876-1878); Sự phát triển của chủ
nghĩa xã hội từ không tưởng đến khoa học…
C.Mác, Ăngghen khẳng định rằng:
- Chủ nghĩa tư bản nhất định sẽ bị thay thế bởi chủ nghĩa xã hội: thông qua quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
- Đấu tranh giai cấp giữa tư sản và vô sản sẽ dẫn đến việc chủ nghĩa tư bản bị tiêu
diệt (đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của xã hội có giai cấp). Qua việc phân
tích các đặc điểm của giai cấp vô sản, hai ông cũng khẳng định sứ mệnh lịch sử của
giai cấp vô sản.
Phân tích một cách khách quan thái độ của các giai cấp gắn liền với cơ sở kinh tế và
địa vị xã hội của giai cấp ấy dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, Mác và Ănghen nói:
“Trong tất cả các loại giai cấp hiện đang đương đầu với giai cấp tư sản chỉ có giai cấp
vô sản thực sự cách mạng. Các giai cấp khác nhau đều suy tàn và tiêu vong với sự

phát triển của đại công nghiệp, trái lại giai cấp vô sản là sản phẩm chân chính của đại
công nghiệp”. Chính Mác là người đã phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô
sản là người “đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản và xây dựng xã hội mới”, xã hội cộng

3


sản chủ nghĩa không giai cấp, không có chế độ người bóc lột người. Chỉ có giai cấp
vô sản là giai cấp duy nhất có khả năng giải quyết vấn đề dân tộc kết hợp hài hòa lợi
ích của toàn dân tộc với lợi ích của chính giai cấp mình. Là giai cấp duy nhất có khả
năng gắn sự nghiệp giải phóng dân tộc với sự nghiệp giải phóng giai cấp mình.
Các Mác viết: “Đối với chúng ta, chủ nghĩa xã hội không phải là một trạng thái cần
phải sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải tuân theo. Chúng ta
gọi chủ nghĩa xã hội là một phong trào hiện thực”.
1.1.2. Đặc trưng của chủ nghĩa xã hội
Khi hai ông qua đời, chủ nghĩa xã hội chưa thành hiện thực, do vậy khi nói về đặc
trưng của xã hội ấy, Mác và Ăngghen cũng cho rằng những đặc trưng mà các ông đề
cập là cái có thể xảy ra, cái khả năng mà thôi.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là nền đại công nghiệp cơ khí
- Chủ nghĩa xã hội xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ công hữu
về tư liệu sản xuất
- Điều tiết có kế hoạch nền sản xuất
- Tạo ra cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới
- Thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động.
- Tạo điều kiện cho con người được phát triển toàn diện
- Thực hiện bình đẳng xã hội
Hai ông dự đoán rằng cách mạng xã hội chủ nghĩa sẽ nổ ra tại các nước tư bản có
trình độ phát triển cao (Anh, Pháp, Mĩ…). Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách
mạng triệt để và diễn ra trên tất cả các lĩnh vực, chia làm hai giai đoạn:
+ Giai đoạn 1: giai cấp vô sản phải tự xây dựng thành giai cấp thống trị, giành lấy dân

chủ.
+ Giai đoạn 2: dùng sự thống trị chính trị để tước đoạt lấy toàn bộ tư bản.
1.1.3. Quan điểm của V.I Lênin
Sinh ngày 22-4-1870 ở Xim biếc xcơ, mất 24-1-1924. Ông tiếp tục phát triển lí luận
của Mác và Ăngghen về chủ nghĩa xã hội:
- Nêu ra khả năng thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở một nước riêng lẻ, hoặc một số
nước.

4


- Khẳng định mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là đưa lại cuộc sống ẩm no hạnh phúc
cho mọi người dân.
- Chỉ rõ từ chủ nghĩa tư bản tiến lên chủ nghĩa xã hội có một thời kỳ đặc biệt là thời
kỳ quá độ.
- Khả năng tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa ở
một số nước sau khi giành được độc lập dân tộc.
- Thực hiện chuyên chính vô sản để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, giai cấp vô sản có sứ mệnh xóa bỏ chế độ áp bức bóc lột của chủ nghĩa tư
bản, sáng tạo ra một chế độ xã hội mới không còn nạn người bóc lột người và do đó
sẽ xóa bỏ nạn áp bức dân tộc và sự thù hằn giữa các dân tộc. mặt khác, muốn giải
phóng mình, giai cấp vô sản đồng thời phải tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng toàn
xã hội, toàn dân tộc trở thành giai cấp dân tộc. Theo quan điểm của chủ nghĩa MácLênin, giải quyết vấn đề dân tộc phải gắn với cách mạng xã hội chủ nghĩa và trên cơ
sở của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
- Khi nói về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, các nhà sáng lập ra chủ nghĩa xã hội
khoa học khẳng định: đối với các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc, sau khi hoàn thành
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân (cách mạng tư sản kiểu mới), giành được độc
lập tự do đều phải tiến lên xây dựng và sẽ xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội nếu
nước đó có các điều kiện như: có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, có sự giúp đỡ của
một nước xã hội chủ nghĩa tiên tiến.

Muốn vậy, phải thực hiện đoàn kết quốc tế “Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị
áp bức liên hiệp lại”.
1.2. Đường lối kết hợp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản
Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử
1.2.1. Quá trình Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin
- Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, đất nước ta rơi vào giai đoạn khủng hoảng về
đường lối cứu nước, yêu cầu khách quan của lịch sử là phải khắc phục được tình
trạng đó để đánh đuổi thực dân Pháp và phong kiến tay sai, thúc đẩy lịch sử phát

5


triển. Bằng tinh thần yêu nước sâu sắc, Nguyễn Ái Quốc đã hoạt động không biết mệt
mỏi nhằm tìm ra con đường cứu nước đúng đắn giải phóng dân tộc mình.
- Ngày 5-6-1911, Nguyễn Ái Quốc rời Tổ quốc bắt đầu cuộc hành trình tìm đường
cứu nước, từ 1911 đến 1917, Người đã đi qua nhiều nước tư bản, đế quốc và thuộc
địa ở khắp các châu lục. Người đã làm nhiều nghề để sinh sống như rửa bát, quét
tuyết, rửa ảnh, phụ bếp, đốt lò… Qua những chuyến đi đã giúp cho Người rút ra được
nhiều kết luận quan trọng.
- Giữa lúc hoạt động của Người đang diễn ra sôi nổi thì cuộc cách mạng tháng Mười
Nga diễn ra và thành công (10-1917). Cuộc cách mạng này đã làm rung chuyển cả thế
giới, làm thức tỉnh các dân tộc phương Đông, làm chuyển biến tư tưởng nhiều nhà
cách mạng lớn đương thời.
- Sau khi Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, tháng 6-1919 các nước đế quốc thắng
trận họp hội nghị tại Vecxai để chia nhau thành quả chiến tranh. Nguyễn Ái Quốc
thay mặt những người Việt Nam yêu nước đang sống tại Pháp gửi đến hội nghị bản
yêu sách đòi Chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do dân chủ, quyền bình
đẳng và quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam. Tất nhiên bọn đế quốc đã không thực
hiện, nhưng việc một nhà yêu nước Việt Nam tấn công kẻ thù ngay tại sào huyệt của
chúng có tác dụng rất lớn trong việc thức tỉnh nhân dân ta và nhân dân các dân tộc

thuộc địa.
- Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc bản Luận cương của Lênin về các vấn đề
dân tộc và thuộc địa, Luận cương khẳng định lập trường của Quốc tế cộng sản là ủng
hộ phong trào giải phóng dân tộc ở phương Đông, từ đó Nguyễn Ái Quốc hoàn toàn
tin theo Lênin và dứt khoát đứng về Quốc tế thứ ba. Sau này Người kể lại: “Luận
cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao, tôi
vui mừng đến phát khóc lên, ngồi trong phòng một mình mà tôi như muốn nói to lên
cùng đồng bào bị đọa đày áp bức, hỡi những người cần lao đau khổ, đây là cái cần
thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”.
- Tại đại hội Đảng Xã hội Pháp họp ở Tua tháng 12-1920, Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu
tán thành gia nhập Quốc tế thứ ba, sau đó cùng với những người mácxit ưu tú của giai
cấp công nhân Pháp sáng lập ra Đảng cộng sản Pháp, Người trở thành người cộng sản

6


Việt Nam đầu tiên, đây là sự kiện đánh dấu bước ngoặt trong đời hoạt động của
Người - từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và đi theo con đường
cách mạng vô sản, sự kiện đó cũng đánh dấu bước mở đường giải quyết cuộc khủng
hoảng về đường lối giải phóng dân tộc Việt Nam.
1.2.2. Quan điểm của Nguyễn Ái Quốc về vấn đề độc lập dân tộc
Là học trò của Lênin, luôn học tập và noi gương Lênin, suốt đời phấn đấu cho chủ
nghĩa cộng sản, nhưng khi tiếp thu những tư tưởng của Lênin, Nguyễn Ái Quốc lại
thể hiện những điểm hết sức sáng tạo về một loạt các vấn đề lý luận cách mạng:
- Về vấn đề dân tộc độc lập
+ Luôn quan tâm đến vấn đề các dân tộc bị đế quốc áp bức, từ đó cho rằng phải giành
độc lập hoàn toàn và triệt để, đồng thời phải giữ vững chủ quyền dân tộc về nội trị và
các quyền ngoại giao, phải thực hiện thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
+ Dân tộc độc lập theo Nguyễn Ái Quốc phải thực sự có 4 quyền: độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.

Cách mạng tháng Tám giành được 4 quyền trên đây (khi xem xét kháng chiến
chống Pháp giành được thắng lợi hay không ta xem xét 4 quyền đó). Hồ Chí Minh
nói: “Nếu giành được độc lập mà dân không có tự do thì độc lập đó không có nghĩa gì
hết”. Người còn nêu lên chân lý: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Trong tuyên
ngôn độc lập Người viết: “Các dân tộc trên thế giới sinh ra đều bình đẳng, dân tộc
nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
- Dân tộc tự quyết
+ Để thực hiện được 4 quyền dân tộc cơ bản, các dân tộc thuộc địa phải tự quyết định
bằng sức của mình, tức là bằng cuộc đấu tranh chống đế quốc xâm lược và can thiệp
dưới bất cứ hình thức nào. Lấy sức ta mà giải phóng cho ta (lời kêu gọi Tổng khởi
nghĩa tháng Tám năm 1945).
+ Người ủng hộ liên bang kiểu Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết ở Nga năm 1922,
nhưng phản đối kiểu liên bang Đông Dương của Pháp, vì cho rằng liên bang Đông
Dương là liên bang nô lệ, liên bang không tự nguyện…
- Dân tộc đoàn kết

7


+ Người cho rằng mỗi dân tộc đều với tư cách là một quốc gia, nhưng lại có những
dân tộc có nghĩa như một tộc người. Trong mỗi dân tộc đó đều có các giai cấp khác
nhau. Các dân tộc với tư cách là tộc người có nét riêng về lịch sử, kinh tế, phong tục
tập quán. Các giai cấp có địa vị kinh tế xã hội riêng nhưng có nghĩa vụ chung, từ đó
yêu cầu khách quan là phải thực hiện đoàn kết các giai cấp trong một mặt trận dân tộc
thống nhất (Mặt trận là một thể thống nhất các mâu thuẫn).
+ Thực hiện đoàn kết dân tộc, đoàn kết giai cấp trong một quốc gia dân tộc là cơ sở
xã hội chính trị để thực hiện đoàn kết các quốc gia dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh
giành và giữ vững độc lập tự do.
- Từ năm 1930 đến nay, ở nước ta đã từng tồn tại 10 hình thức tổ chức Mặt trận
+ Hội phản đế đồng minh Đông Dương (18-11-1930)

+ Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương (7-1936)
+ Mặt trận dân chủ Đông Dương (3-1938)
+ Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương (11-1939)
+ Mặt trận Việt Minh (19-5-1941)
+ Mặt trận Liên Việt (29-5-1946)
+ Mặt trận Liên hiệp quốc dân Việt Nam (3-3-1951)
+ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (10-9-1955)
+ Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (20-12-1960)
+ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (31-1-1977)
1.2.3. Hồ Chí Minh bàn về chủ nghĩa xã hội
Ngay từ khi đến với chủ nghĩa Lênin, Hồ Chí Minh luôn nhất quán việc kết hợp độc
lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Với Người, độc lập dân tộc là cơ sở, là tiền đề, là
điều kiện tiên quyết để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nếu nước độc lập mà dân không
được hưởng ấm no hạnh phúc thì độc lập chẳng có nghĩa lý gì. Quan niệm về chủ
nghĩa xã hội đã được người trình bày hết sức ngắn gọn, xúc tích:
1. Chủ nghĩa xã hội là lấy nhà máy, xe lửa, ngân hàng… làm của chung. Ai làm
nhiều thì ăn nhiều, ai làm ít thì ăn ít, tất nhiên là trừ những người già cả, đau
yếu và trẻ con. Thế ta đã đến đấy chưa? Chưa đến. Chủ nghĩa xã hội không thể
làm mau được, mà phải làm dần dần.

8


2. Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh. Ở nông thôn, nông dân
được ruộng rồi mà cứ làm ăn theo cách cũ thì sản xuất không gia tăng được, xã
hội không tiến lên được mà thụt lùi. Cho nên lúc đầu là cải cách ruộng đất, sau
tiến lên một bước là tổ đổi công sao cho tốt, cho khắp, lại tiến lên hình thức
hợp tác xã cao hơn, lúc bây giờ mới có chủ nghĩa xã hội.
3. Chủ nghĩa xã hội là cái gì? Là mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự
do. Nhưng nếu muốn tách riêng một mình mà ngồi ăn no mặc ấm, người khác

mặc kệ, thế là không tốt. Mình muốn ăn no mặc ấm, cũng cần làm sao cho tất
cả mọi người được ăn no mặc ấm, như thế mới đúng. Muốn như vậy, phải ra
sức công tác, ra sức lao động sản xuất.
4. Chủ nghĩa xã hội là công bằng hợp lý: làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít,
không làm thì không hưởng. Những người già yếu, tàn tật sẽ được nhà nước
giúp đỡ, chăm nom.
5. Nói một cách vắn tắt, mộc mạc, chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân
dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công việc làm, được
ấm no và sống một cuộc đời hạnh phúc.
6. Chủ nghĩa xã hội là mọi người dân được áo ấm, cơm no, nhà ở tử tế, được học
hành.
7. Chủ nghĩa xã hội là tất cả mọi người, các dân tộc ngày càng ấm no, con cháu
chúng ta ngày càng sung sướng.
8. Chủ nghĩa xã hội là mọi người cùng ra sức lao động sản xuất để được ăn no
mặc ấm, nhà ở sạch sẽ.
9. Chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa cho nhân dân
và do nhân dân tự xây dựng lấy.
10. Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung
sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ,
những phong tục tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ (ví dụ: lấy vợ lấy
chồng quá sớm, cúng bái, liên hoan lu bù, lười biếng…), tóm lại xã hội ngày
càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt.

9


- Hồ Chí Minh luôn khẳng định rằng chủ nghĩa xã hội là một xã hội nhân đạo nhất,
nhân văn nhất, văn hóa nhất và có bốn tiêu chuẩn sau:
+ Về kinh tế: xóa bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, thiết lập quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa, lấy chế độ công hữu về tư liệu sản xuất làm nền tảng.

+ Về chính trị: xây dựng chế độ mới, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng; Đảng phải thực
sự vững mạnh, là người đầy tớ của nhân dân, chịu sự kiểm soát của dân.
+ Về văn hóa: xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa, kết tinh và kế thừa những tinh
hoa văn hóa của nhân loại. Không có văn hóa, thiếu tri thức dân tộc sẽ mất đi độc lập
tự cường, tự chủ, vì vậy văn hóa không chỉ là động lực mà còn là mục tiêu lớn của
cách mạng.
+ Về con người: xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư
tưởng, về “đức, trí, thể, mĩ”. Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người mới
xã hội chủ nghĩa.
1.2.4. Cương lĩnh giải phóng dân tộc đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam (1930)
Tại hội nghị thống nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam diễn ra ở Cửu Long,
Hương Cảng, Trung Quốc (1-1930), Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thành lập, đó
là một sự kiện lịch sử trọng đại đối với dân tộc ta. Cũng tại hội nghị này đã thảo luận
và thông qua bản “Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt” do Nguyễn Ái Quốc soạn
thảo. Cương lĩnh chỉ rõ:
- Cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: cách mạng tư sản dân quyền (sau
gọi là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân) và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai giai
đoạn cách mạng đó kế tiếp nhau và không có bức tường nào ngăn cách.
Như vậy là ngay từ đầu, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thấu suốt con đường phát
triển tất yếu của cách mạng nước ta là con đường kết hợp và giương cao ngọn cờ độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là đánh đổ đế quốc Pháp, bọn phong kiến và
giai cấp tư sản phản động, làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, dựng nên chính
phủ công nông binh, tịch thu ruộng đất của bọn địa chủ việt gian làm của công và
chia cho dân cày nghèo, quốc hữu hóa các xí nghiệp của đế quốc...

10


Các nhiệm vụ mà bản Cương lĩnh nêu ra cho cách mạng Việt Nam bao hàm cả nội

dung dân tộc và dân chủ, chống đế quốc và chống phong kiến, nhưng nổi bật lên là
nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai phản động, giành độc lập tự do cho toàn thể dân
tộc.
- Lực lượng để đánh đổ đế quốc và tay sai phản động là công nhân, nông dân, đồng
thời phải hết sức lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nông đi với cách mạng, phải lợi
dụng hoặc ít ra cũng trung lập phú nông, trung tiểu địa chủ và tư sản An Nam chưa ra
mặt phản bội cách mạng.
- Bảo đảm quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp
công nhân Việt Nam, là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng
phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng. Muốn vậy phải có uy tín, khả
năng tập hợp lực lượng và tổ chức đấu tranh.
- Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Đảng phải liên kết với
các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản toàn thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp.
Mặc dù còn sơ lược, nhưng “Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt” đã vạch ra
cho cách mạng Việt Nam một đường lối cơ bản và đúng đắn, đó là sự kết hợp sáng
tạo giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
1.2.5. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (2-1951) và đường lối kháng
chiến kiến quốc
- Chiến thắng Biên giới đã đưa cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta bước
sang giai đoạn mới - giai đoạn ta nắm quyền chủ động trên chiến trường chính Bắc
Bộ. Nhưng cũng từ cuối năm 1950, được sự giúp sức của Mĩ, Pháp có nhiều âm mưu
và hành động chiến tranh nhằm giành lại quyền chủ động đã mất, cuộc kháng chiến
của nhân dân ta trở nên hết sức gay go quyết liệt.
- Trong tình hình đó, việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh kháng chiến là
nhiệm vụ hết sức quan trọng. Để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp kháng chiến, Đảng
Cộng sản Đông Dương đã tiến hành họp Đại hội lần thứ II tại Chiêm Hóa, Tuyên
Quang từ 11-2 đến 19-2-1951.
Đại hội đã thảo luận và thông qua Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương
Đảng do Chủ Tịch Hồ Chí Minh trình bày, báo cáo “Bàn về cách mạng Việt Nam” do


11


Trường Chinh trình bày, thông qua Tuyên ngôn, Chính cương và Điều lệ mới của
Đảng.
+ Báo cáo chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ nhiệm vụ chủ yếu của cách
mạng Việt Nam là đánh đuổi thực dân Pháp và can thiệp Mĩ, giành độc lập cho dân
tộc, góp phần bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và trên thế giới.
+ Báo cáo của Tổng bí thư Trường Chinh trình bày có hệ thống và sâu sắc toàn bộ
đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam,
về Đảng lao động Việt Nam. Báo cáo chỉ rõ đối tượng của cách mạng Việt Nam là
bọn đế quốc và tay sai phản dân hại nước, lực lượng cách mạng gồm 4 giai cấp công
nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và các nhân sĩ, thân sĩ yêu nước, trong đó
công nhân là giai cấp lãnh đạo. Trong khi tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân phải chuẩn bị mọi điều kiện cần thiết để tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội sau
khi chiến tranh kết thúc.
- Đại hội II là sự kiện đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình lãnh đạo và
trưởng thành của Đảng ta. Đường lối kháng chiến kiến quốc do Đại hội đề ra đã đáp
ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài của sự nghiệp cách mạng.
Như vậy, đến năm 1951, nhận thức về sự kết hợp giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội đã có sự phát triển: kháng chiến để kiến quốc, kiến quốc để kháng chiến, để
tạo tiền đề xây dựng đất nước sau khi chiến tranh kết thúc, để tiến lên xây dựng chủ
nghĩa xã hội…
1.2.6. Đại hội III của Đảng (9-1960) và đường lối tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ
chiến lược: CMXHCN ở miền Bắc và CMDTDCND ở miền Nam
- Đến cuối năm 1960, sự nghiệp cách mạng ở hai miền nước ta có những bước tiến
quan trọng. Ở miền Bắc công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần
kinh tế đã đạt được những thành tựu to lớn. Ở miền Nam, cuộc đấu tranh chống Mĩ Diệm đã giành được những thắng lợi có ý nghĩa chiến lược. Phong trào “Đồng khởi”
1959-1960 đã đưa cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng cách mạng sang thế
tiến công liên tục mạnh mẽ.

- Sự phát triển của cách mạng hai miền Nam - Bắc đòi hỏi Đảng phải khẳng định
đường lối chiến lược, có những bước đi phù hợp với tình hình mới. Lần đầu tiên sau

12


30 năm, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng được tiến hành tại thủ đô Hà
Nội từ ngày 5 đến 12-9-1960.
Đại hội đã nghe diễn văn khai mạc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đã nghe và thảo
luận Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương, Báo cáo sửa đổi điều lệ Đảng,
ra Nghị quyết về đường lối nhiệm vụ của Đảng trong giai đoạn mới. Báo cáo về
phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ của kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất (19611965).
+ Trong diễn văn khai mạc Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ Đại hội lần này là
“Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà”.
+ Trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương, sau khi phân tích đặc
điểm tình hình đất nước ta đang tạm thời chia làm hai miền dưới hai chế độ chính trị xã hội khác nhau, đã nêu rõ nhiệm vụ chung của cách mạng nước ta trong giai đoạn
hiện nay là: “Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình,
đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà, xây dựng một
nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập và dân chủ, thiết thực góp phần bảo vệ
hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới”.
- Xác định nhiệm vụ cụ thể của cách mạng từng miền Nam - Bắc: nhiệm vụ của cách
mạng miền Bắc thuộc chiến lược cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhiệm vụ của cách
mạng miền Nam thuộc chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, song cách
mạng hai miền Nam - Bắc đều có chung một mục tiêu là hoàn thành cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, nhằm giải quyết mâu thuẫn tồn tại trong cả nước
ta là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta, nhân dân ta với đế quốc Mĩ và bè lũ tay sai.
- Nêu rõ vị trí, vai trò của cách mạng mỗi miền: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc có nhiệm vụ quyết định đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam,
đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà. Còn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở

miền Nam có tác dụng quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam
khỏi ách thống trị của đế quốc Mĩ và bè lũ tay sai.
+ Đối với cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, trên cơ sở phân tích tình hình thế
giới và những đặc điểm của xã hội miền Bắc, mà đặc điểm lớn nhất là từ một nền sản

13


xuất nhỏ, kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã hội không qua tư bản chủ
nghĩa, Đại hội đề ra đường lối chung của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và
đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.
+ Đối với miền Nam, Đảng khẳng định đưa cách mạng sang giai đoạn mới - giai đoạn
chiến tranh cách mạng, giữ vững thế tấn công địch trên cả ba mặt trận, bằng 3 mũi
giáp công, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân thế giới để giải phóng miền
Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới thống nhất Tổ quốc.
- Đường lối thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng trong một nước, dưới sự
lãnh đạo của một đảng là sự đóng góp to lớn của Đảng và nhân dân ta vào kho tàng lý
luận cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin và cách mạng thế giới, làm phong phú
thêm lý luận về cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong thời đại mới.
Chương 2
Việc kết hợp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của cách mạng Việt Nam trong 9
năm kháng chiến chống Pháp (1945-1954)
2.1. Bối cảnh quốc tế và trong nước sau năm 1945
2.1.1. Tình hình quốc tế
- Cuối năm 1945 Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, thắng lợi thuộc về Hồng
quân Liên Xô và các lực lượng dân chủ, các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu ra đời
hợp với Liên Xô hình thành hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới. Tuy nhiên do bị
chiến tranh tàn phá nặng nề, cả Liên Xô và Đông Âu đều cần thời gian để khôi phục
kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, ổn định đời sống nhân dân. Chiến tranh thế
giới thứ hai kết thúc, phong trào giải phóng dân tộc lên cao, nhất là ở châu Á, châu

Phi và châu Mĩlatinh. Phong trào đấu tranh vì quyền sống, vì tự do dân chủ của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động các nước tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh.
- Mĩ mạnh lên sau chiến tranh, muốn làm bá chủ thế giới. Do có tiềm lực kinh tế nên
đưa ra “kế hoạch Macsan” nhằm cột chặt các nước phụ thuộc vào Mĩ
- Pháp là nước thắng trận, là đồng minh của Mĩ. Theo quy định của Hội nghị Ianta,
Pháp quay trở lại thuộc địa cũ của mình là Đông Dương.

14


- Thế giới chưa biết nhiều đến Việt Nam.
2.1.2. Tình hình trong nước
- Thuận lợi
+ Cách mạng Việt Nam có Đảng lãnh đạo, một Đảng dày dạn kinh nghiệm, mới 15
tuổi đã lãnh đạo nhân dân làm nên cách mạng tháng Tám, có lãnh tụ thiên tài Hồ Chí
Minh - một lãnh tụ được nhân dân yêu mến và tin tưởng. Nước ta có chính quyền một công cụ bạo lực để trán áp bọn phản cách mạng, để đấu tranh chống thù trong
giặc ngoài, để tổ chức và xây dựng chế độ mới, chế độ dân chủ nhân dân. Nhân dân ta
rất phấn khởi vì sau hơn 80 năm phải làm nô lệ, giờ đây mới được hưởng không khí
độc lập tự do và những quyền lợi do cách mạng mang lại vì thế nhân dân ta cũng
không từ chối một sự hy sinh nào kể cả “tinh thần và lực lượng tính mạng và của cải”
để giữ vững độc lập tự do của Tổ quốc.
- Những khó khăn: (chế độ cũ để lại, chính quyền ta non trẻ, ngoại xâm)
+ Sau Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Việt Nam là mảnh đất thuộc địa đầu tiên
trên thế giới giành được độc lập, điều đó làm cho bọn đế quốc căm tức và điên cuồng,
chúng sợ từ đốm lửa nhỏ của cách mạng Việt Nam sẽ làm bùng cháy lây lan tới các
nước thuộc địa khác. Vì thế chúng hùa nhau lại để chống phá.
+ Về kinh tế và tài chính: chúng ta phải tiếp thu một gia tài mục nát, lạc hậu do hậu
quả hơn 80 năm cai trị của Pháp, 5 năm của phát xít Nhật và hàng ngàn năm của chế
độ phong kiến để lại. Nạn đói cuối năm 1944, đầu năm 1945 đã cướp đi hơn 2 triệu
người giờ đây vẫn còn đang tiếp diễn. Phần lớn ruộng đất bị bỏ hoang, nhà máy đóng

cửa, công nghiệp hầu như không có gì. Nạn đói cuối năm 1944, đầu năm 1945 đã
cướp đi sinh mạng hơn 2 triệu người giờ đây vẫn còn đang tiếp diễn. Gạo ở Nam Bộ
không chở ra được vì Pháp đã gây chiến từ 23-9-1945 làm cho giao thông tắc nghẽn.
Tháng 8-1945 miền Bắc lại ngập lụt lớn, làm vỡ đê ở 9 tỉnh Bắc Bộ khiến mùa màng
bị thất thu, tiếp đó là hạn hán kéo dài làm 50% diện tích đất đai không sản xuất được.
Sản xuất công nghiệp đình đốn, hàng hoá khan hiếm, giá cả tăng vọt. Nạn đói mới
đang đe doạ nghiêm trọng đến đời sống nhân dân.
+ Nguồn tài chính của đất nước ta cạn kiệt. Ngân sách trung ương chỉ còn 1,2 triệu
đồng, trong đó gần một nửa là rách nát không thể lưu hành được. Nhà nước cách

15


mạng chưa kiểm soát được ngân hàng Đông Dương. Thêm vào quân Trung Hoa Dân
quốc tung ra trên thị trường tiền “quan kim” và “quốc tệ” mất giá càng làm rối loạn
thị trường tài chính.
+ Về văn hóa xã hội: hơn 90% dân ta mù chữ, các di sản văn hoá lạc hậu của chế độ
thực dân phong kiến hoành hành như mê tín dị đoan, cờ bạc, rượu chè, nghiện hút...
còn rất phổ biến.
+ Lực lượng vũ trang của ta vừa mới xây dựng, trang bị kém cỏi, vũ khí thô sơ, kinh
nghiệm chiến đấu còn ít.
Trong khi đó cùng một lúc trên đất nước ta có nhiều kẻ thù:
+ Từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc, 20 vạn quân Trung Hoa Dân quốc với danh nghĩa Đồng
minh kéo vào giải giáp quân đội Nhật, chúng nuôi dã tâm tiêu diệt Đảng Cộng sản
Đông Dương, phá tan Việt Minh, lật đổ chính quyền cách mạng, thành lập một chính
quyền tay sai cho chúng. Vì vậy khi kéo vào nước ta chúng kéo theo bọn tay chân
nằm trong các tổ chức phản động như Việt Quốc, Việt Cách. Dựa vào quân Trung
Hoa Dân quốc bọn này dựng chính quyền phản động ở Yên Bái, Móng Cái, Vĩnh
Yên, đồng thời còn kích động quần chúng chống lại cách mạng, chúng gây ra nhiều
vụ cướp bóc, giết người.

+ Từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam, hơn 1 vạn quân Anh, quân Ấn Độ đã đổ bộ xuống.
Bọn này thực hiện việc dọn đường cho quân Pháp quay lại xâm lược Đông Dương.
+ Lợi dụng tình hình trên, tất cả các lực lượng phản cách mạng ở miền Nam như Đại
Việt, Tờrốtxkit, bọn phản động trong các giáo phái ngóc đầu dậy làm tay sai cho
Pháp, ra sức chống phá cách mạng. Trên đất nước ta lúc đó còn 6 vạn quân Nhật, bọn
này thực hiện lệnh của đế quốc Anh chống lại lực lượng vũ trang ta, tạo điều kiện cho
Pháp mở rộng phạm vi đánh chiếm. Tất cả tình hình trên đây đã đặt nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”.
2.2. Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp
2.2.1. Hoàn cảnh ra đời
- Cách mạng tháng Tám năm 1945 thắng lợi, nước ta giành được độc lập, chính
quyền đã về tay nhân dân. Nhưng ngày 23-9-1945 thực dân Pháp quay trở lại xâm

16


lược. Mở đầu thực dân Pháp đánh chiếm Sài Gòn, Nam Bộ, Nam Trung Bộ, sau đó
mở rộng đánh chiếm cả nước ta ngày 19-12-1946.
- Thực dân Pháp gây chiến tranh xâm lược đã đe dọa nền độc lập và chính quyền cách
mạng. Nhiệm vụ đặt ra cho nhân dân ta là kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược, bảo vệ độc lập dân tộc và chính quyền. Kháng chiến chống Pháp của nhân dân
ta tiến hành trong điều kiện mới: ta đã có chính quyền, có độc lập dân tộc, có căn cứ
địa cách mạng, có vị thế trên thế giới… Một nhiệm vụ khác đặt ra cho nhân dân ta là
đất nước độc lập và chính quyền giành được đó phải được xây dựng, củng cố và phát
triển không ngừng. Nói cách khác, độc lập dân tộc là mục tiêu của cách mạng, là điều
kiện, là tiền đề để xây dựng chủ nghĩa xã hội
- Kháng chiến và kiến quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta trong
kháng chiến chống Pháp. Đường lối đó được Ban Chấp hành Trung ương Đảng nêu
trong “Chỉ thị kháng chiến kiến quốc” ngày 25-11-1945 và trong nhiều văn kiện sau
đó của Đảng.

2.2.2. Nội dung của đường lối kháng chiến chống Pháp
- Nội dung, phương châm kháng chiến của nhân dân ta được nêu rõ là kháng chiến
toàn dân, kháng chiến toàn diện, trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh và tranh thủ
sự ủng hộ của quốc tế. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (từ năm
1950 chống cả bọn can thiệp Mĩ) là nhằm mục đích bảo vệ chính quyền, bảo vệ độc
lập dân tộc, giải phóng dân tộc.
- Nội dung, yêu cầu của nhiệm vụ kiến quốc trong kháng chiến chống Pháp (19451954) cần được nhận thức rõ là xây dựng chính quyền, xây dựng chế độ, xây dựng
đất nước, phục vụ kháng chiến, tức là làm nghĩa vụ hậu phương phục vụ dân sinh,
đem lại quyền lợi cho nhân dân (bồi dưỡng sức dân), tạo mầm mống chuẩn bị tiền đề
tiến lên chủ nghĩa xã hội sau khi chiến tranh kết thúc.
- Để chống lại kẻ thù lớn mạnh hơn nhiều (hơn ta cả mấy phương thức sản xuất),
ngay từ đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng, Chính phủ và Hồ Chí
Minh đã đề ra đường lối kháng chiến để lãnh đạo nhân dân, đó là đường lối “Toàn
dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh”. Đường lối chiến tranh nhân dân Việt
Nam nhằm phát huy sức mạnh của dân tộc, nhằm khắc phục những nhược điểm trước

17


mắt, để càng đánh càng mạnh, càng đánh càng trưởng thành và cuối cùng đánh bại
hoàn toàn kẻ thù.
- Đường lối chiến tranh nhân dân Việt Nam là sự tiếp tục sự nghiệp Cách mạng tháng
Tám, tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân bằng hình thức chiến tranh
cách mạng, chiến tranh nhân dân, nhằm đánh bại bọn thực dân xâm lược Pháp, giành
độc lập tự do.
2.2.2.1. Kháng chiến toàn dân
- Tại sao phải kháng chiến toàn dân
+ Thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, xâm phạm nền độc lập của dân tộc Việt Nam,
Pháp muốn biến Việt Nam thành thuộc địa của chúng, vơ vét tài nguyên, bóc lột, áp
bức, nô dịch nhân dân Việt Nam. Pháp là kẻ thù của cả dân tộc Việt Nam.

+ Kháng chiến toàn dân mới có điều kiện tổ chức, động viên mọi người dân tham gia
kháng chiến, tạo thành sức mạnh to lớn để đánh bại kẻ thù.
+ Thực tế lịch sử Việt Nam đã chứng minh rằng, chỉ khi nào huy động được toàn dân
kháng chiến thì mới phát huy được hết sức mạnh của chiến tranh nhân dân, sức mạnh
của cả dân tộc.
- Thế nào là kháng chiến toàn dân
+ Kháng chiến toàn dân là mọi người dân đều trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia đánh
giặc, diệt giặc, tùy theo khả năng và sức lực của mình.
+ Kháng chiến toàn dân theo như Chủ tịch Hồ Chí Minh là: “Bất kể đàn ông, đàn bà,
bất kể người già, người trẻ, không phân biệt tôn giáo, đảng phái, hễ ai là người Việt
Nam yêu nước thì phải đứng lên chống giặc cứu nước”.
+ Kháng chiến toàn dân là toàn dân đánh giặc, nhà nhà đánh giặc theo khẩu hiệu
“Mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xã là một pháo đài”.
2.2.2.2. Kháng chiến toàn diện
- Tại sao phải kháng chiến toàn diện
+ Thực dân Pháp xâm lược Việt Nam không chỉ về mặt quân sự, mà còn tìm cách phá
hoại về kinh tế, chính trị, văn hóa giáo dục... cho nên muốn thắng Pháp, Việt Nam
phải kháng chiến trên tất cả các mặt trận quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa giáo dục
và ngoại giao.

18


+ Kháng chiến toàn diện mới phát huy được sức mạnh tổng hợp của các mặt trận, sức
mạnh to lớn của chiến tranh nhân dân.
- Thế nào là kháng chiến toàn diện
+ Kháng chiến toàn diện là kháng chiến trên tất cả các mặt trận chính trị, quân sự,
kinh tế, văn hóa giáo dục, ngoại giao.
+ Kháng chiến toàn diện còn có nghĩa là: “Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng
gươm, không có gươm thì dùng cuốc thuổng, gậy gộc”.

Ngay sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, cùng một lúc giặc đói, giặc
dốt và giặc ngoại xâm đe dọa sự sinh tồn của dân tộc. Trong tình thế “ngàn cân treo
sợi tóc” đó, cuộc kháng chiến của Việt Nam diễn ra trên cả ba mặt trận quan trọng là
kinh tế (chống đói và xây dựng nền tài chính cách mạng), văn hóa (chống dốt và xóa
bỏ ảnh hưởng của văn hóa nô dịch) quân sự, chính trị (chống Pháp ở miền Nam và
chống Tưởng Giới Thạch ở miền Bắc).
Trong 9 năm kháng chiến, tính chất toàn diện còn được thể hiện rất rõ qua từng lĩnh
vực, từng giai đoạn. Tuy nhiên, để quyết định thắng lợi của chiến tranh thì kháng
chiến trên mặt trận quân sự đóng vai trò quan trọng nhất. Thực tế, các chiến thắng
Việt Bắc, Biên giới... trong những năm chống Pháp đã từng bước tạo nên sự chuyển
biến trong cục diện chiến tranh, cuối cùng với trận quyết chiến chiến lược Điện Biên
Phủ năm 1954 Việt Nam đã đánh bại Pháp.
2.2.2.3. Kháng chiến trường kỳ
- Tại sao phải kháng chiến trường kỳ
+ Xuất phát từ tương quan so sánh lực lượng ban đầu giữa Việt Nam và Pháp: quân
đội Pháp là đội quân xâm lược nhà nghề, có số lượng đông và trang bị hiện đại. Quân
đội Việt Nam khi bước vào chiến tranh còn non trẻ, vũ khí hết sức thô sơ lại chưa có
kinh nghiệm trong chiến đấu.
+ Xuất phát từ sách lược của Việt Nam trong giai đoạn đầu của chiến tranh chủ
trương vừa đánh tiêu hao lực lượng của Pháp, vừa xây dựng từng bước lực lượng của
mình và chống lại kế hoạch “đánh nhanh thắng nhanh” của Pháp.
+ Kháng chiến trường kỳ sẽ khoét sâu thêm những mâu thuẫn vốn có của quân đội
Pháp (do không quen thời tiết, khí hậu), do phải tác chiến xa hậu phương.

19


- Kháng chiến trường kỳ là thế nào
+ Đây là phương châm chiến lược chiến tranh, còn trong phương châm tác chiến,
trong từng trận đánh, từng chiến dịch phải đánh dứt điểm, đánh tiêu diệt nhanh từng

đơn vị, từng cứ điểm của địch, từng bước làm thay đổi cán cân so sánh lực lượng.
+ Trong mỗi chiến dịch đánh nhanh, giành thắng lợi nhanh còn nhằm giảm bớt hy
sinh xương máu của nhân dân và bộ đội.
2.2.2.4. Kháng chiến tự lực cánh sinh
- Tại sao phải kháng chiến tự lực cánh sinh
+ Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là để bảo vệ độc lập tự do, cho nên phải do
chính nhân dân Việt Nam tiến hành, không thể trông chờ, ỷ lại vào bên ngoài.
+ Kháng chiến tự lực cánh sinh là cách tiến hành chiến tranh tốt nhất, nhằm không lệ
thuộc vào bên ngoài, nhằm chủ động trong từng chiến dịch và trong toàn bộ chiến
tranh về trang bị, chiến thuật, chiến dịch.
- Thế nào là kháng chiến tự lực cánh sinh
+ Kháng chiến tự lực cánh sinh là kháng chiến phải do nhân dân ta tiến hành, nhân
dân ta quyết định.
+ Tuy nhiên, kháng chiến tự lực cánh sinh không có nghĩa là từ chối sự giúp đỡ của
bên ngoài (về vật chất và tinh thần) mà sẵn sàng đón nhận mọi sự giúp đỡ quốc tế
nhưng không kèm theo bất cứ điều kiện nào.
2.3. Kháng chiến chống Pháp trên lĩnh vực quân sự
2.3.1. Lực lượng vũ trang nhân dân ta từng bước trưởng thành
- Về số lượng, tổ chức: ngày 22-12-1944, trung đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng
quân được thành lập chỉ với 34 chiến sĩ; đến năm 1946, trung đoàn thủ đô ra đời
trong khói lửa chiến tranh với hàng ngàn chiến sĩ; đến năm 1948, Đại đoàn Quân
Tiên phong được thành lập với hàng chục ngàn cán bộ chiến sĩ, đây là tổ chức biên
chế lớn nhất của quân đội ta; đến năm 1954, quân đội ta đã xây dựng được 5 đại đoàn
bộ binh, nhiều trung đoàn pháo binh, công binh… với hàng trăm ngàn quân.
- Về trang bị: những năm đầu chiến tranh, quân đội ta chỉ có súng khai hậu, súng
trường cũ kĩ, mã tấu, lựu đạn, bom ba càng… đến 1948-1950, đã tự sản xuất và trang

20



bị súng cối, súng SKZ, DKZ, nhiều loại mìn; đến cuối chiến tranh chống Pháp 19531954 quân đội đã được trang bị đầy đủ và tương đối hiện đại, bao gồm súng liên
thanh, pháo mặt đất 105 ly, pháo cao xạ 37 ly…
- Về phương thức tác chiến: từ đánh du kích trong những ngày đầu chiến tranh, trong
chiến dịch Việt Bắc (1947), tiến lên bộ đội ta đánh vận động chiến (1950-1953), rồi
đánh trận địa chiến trong chiến dịch Điện Biên Phủ
2.3.2. Thắng lợi quân sự của ta và sự thụt lùi từng bước của Pháp

VẼ SƠ ĐỒ TRANG 18
2.3.2.1. Cuộc kháng chiến của nhân dân Nam Bộ, kế hoạch “đánh nhanh thắng
nhanh” của Pháp bị phá sản một bước
- Với dã tâm quay lại xâm lược nước ta, ngay khi Nhật đầu hàng Đồng minh (8-1945)
Pháp thành lập một đội quân do tướng Lơcléc chỉ huy, chuẩn bị kế hoạch xâm lược.
Ngày 2-9-1945, trong khi nhân dân Sài Gòn đang mít tinh mừng ngày độc lập thì
Pháp dùng súng bắn vào đoàn người làm 47 người chết.
- Ngày 6-9-1945, thực dân Anh đến Sài Gòn, chúng không thực hiện nhiệm vụ của
quân Đồng minh là “giải giáp” phát xít Nhật, trái lại quân Anh đã thả hết tù binh
Pháp ở khám lớn Sài Gòn, sau đó trang bị vũ khí và tạo điều kiện cho quân Pháp
(khoảng 1.400 tên) chiếm giữ nhiều vị trí quan trọng trong thành phố.
- Ngày 23-9-1945, được sự giúp sức của quân Anh, Pháp đánh úp trụ sở Ủy ban nhân
dân Nam Bộ và cơ quan tự vệ thành phố Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược
Việt Nam lần thứ hai.
- Trước hành động xâm lược trắng trợn của thực dân Pháp, Xứ ủy Nam Bộ đã họp và
quyết định phát động nhân dân đứng lên chống Pháp.
+ Ngay từ ngày đầu tiên khi Pháp tấn công, giữ vững lời thề độc lập, quân và dân Sài
Gòn - Chợ Lớn bằng gậy tầm vông vót nhọn và vũ khí thô sơ đã anh dũng đứng lên
kháng chiến. Ta đã tấn công vào kho tàng, sân bay Tân Sơn Nhất, đốt cháy tàu Pháp

21



trên sông Sài Gòn. Các lực lượng quần chúng đã phối hợp tổng bãi công, bãi thị hoặc
làm chướng ngại vật, dựng chiến lũy trên đường phố. Quân Pháp bị bao vây, phải
sống trong cảnh không điện nước, lại thường xuyên bị ta tập kích, tiêu hao, tiêu diệt.
+ Đầu tháng 10-1945, sau khi được tăng viện, lại được hỗ trợ của quân Anh, quân
Nhật, Pháp mở rộng đánh chiếm ra nhiều nơi ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Lợi dụng
những khó khăn của ta, Pháp nhanh chóng mở rộng vùng chiếm đóng, đi đến đâu
chúng đóng đồn bốt và lập tề ngụy đến đó, cuộc chiến đấu của nhân dân Nam Bộ gặp
nhiều khó khăn.
+ Cuối tháng 10-1945, Xứ ủy Nam Bộ đã họp rút kinh nghiệm để chỉ đạo kháng
chiến, nhằm bảo tồn lực lượng chiến đấu lâu dài, chúng ta chủ trương rút dần vào bí
mật để xây dựng cơ sở chính trị và vũ trang. Do tương quan so sánh lực lượng quá
chênh lệch, đến cuối tháng 12-1945, về cơ bản Pháp đã chiếm được miền Nam nước
ta bao gồm các thành phố, thị xã, đường giao thông quan trọng, chúng mở rộng việc
đánh chiếm ra Tây Nguyên, Trung Trung Bộ và chuẩn bị kế hoạch tấn công ra miền
Bắc nhằm thôn tính toàn bộ nước ta.
Cuộc kháng chiến của quân dân Nam Bộ đã khẳng định ý chí quyết tâm chiến đấu
bảo vệ độc lập tự do của nhân dân ta, làm phá sản một bước kế hoạch “đánh nhanh
thắng nhanh” của Pháp.
2.3.2.2. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ 19-12-1946. Cuộc chiến đấu ở các đô thị Bắc
vĩ tuyến 16
- Vì sao Chính phủ ta phát động toàn quốc kháng chiến
+ Sau khi ký Hiệp định sơ bộ 6-3-1946 và Tạm ước 14-9-1946, chấp hành chủ trương
của Chính phủ, nhân dân ta kiên quyết đấu tranh để giữ vững hòa bình, xây dựng đất
nước, đồng thời tích cực chuẩn bị lực lượng về mọi mặt đề phòng tình thế bất trắc do
thực dân Pháp gây ra.
+ Tháng 10-1946, Quốc hội họp phiên thứ hai, sau đó tháng 11-1946 đã thông qua
bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, khẳng định ý chí và
quyết tâm của nhân dân ta quyết đoàn kết xung quanh Trung ương Đảng và Hồ Chủ
Tịch để bảo vệ nền độc lập của dân tộc. Nó cũng là cơ sở pháp lý cho chính quyền
cách mạng điều hành và lãnh đạo đất nước.


22


+ Nhân dân ta tăng cường việc xây dựng lực lượng vũ trang, tiến hành thành lập các
đoàn thể quần chúng như Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam (29-5-1946), Hội liên hiệp
phụ nữ (20-10-1946), Tổng liên đoàn lao động Việt Nam.
+ Trái lại, thực dân Pháp tăng cường các hoạt động khiêu khích, trắng trợn vi phạm
Hiệp định sơ bộ 6-3 và Tạm ước 14-9, quyết cướp nước ta một lần nữa. Sau khi được
tăng cường viện binh, thực dân Pháp càng đẩy mạnh các hành động khiêu khích. Từ
hạ tuần tháng 11 trở đi, tình hình trở nên hết sức căng thẳng.
+ Ngày 20-11-1946 Pháp giành quyền thu thuế với ta ở Hải Phòng, rồi gây xung đột
với lực lượng vũ trang ta. Ngày 24-11-1946 Pháp dùng đại bác bắn vào Hải Phòng.
Ngày 27-11-1946 Pháp đánh chiếm toàn bộ thành phố Hải Phòng.
+ Tại Hà Nội, nhân dân ta đã nhân nhượng và bình tĩnh chịu đựng, nhưng mọi cố
gắng của Việt Nam đều vô hiệu. Từ đầu tháng 12-1946 tình hình trở nên hết sức căng
thẳng bởi Pháp liên tiếp gây ra các vụ xung đột với tự vệ, công an và lực lượng vũ
trang của ta. Ngày 18-12-1946, Moóclie gửi tối hậu thư đòi ta giải tán lực lượng tự vệ
chiến đấu và giao quyền kiểm soát thủ đô cho chúng.
+ Tình thế khẩn cấp đòi hỏi Đảng và Chính phủ ta đứng đầu là Hồ Chủ Tịch phải có
một sự lựa chọn lịch sử, phải kịp thời có một quyết định chiến lược để chuyển xoay
vận nước đang lâm nguy. Sẽ là tội ác với lịch sử nếu chần chừ, do dự. Trong 2 ngày
18 và 19-12-1946, Thường vụ Trung ương Đảng đã họp tại Vạn Phúc (Hà Đông)
quyết định phát động kháng chiến. Ngày 19-12-1946 Hồ Chủ Tịch đã ra lời kêu gọi
toàn quốc kháng chiến.
+ Tối 19-12-1946, công nhân nhà máy điện Yên Phụ phá máy, cả thành phố tắt điện,
tiếng súng chống Pháp từ thủ đô Hà Nội bắt đầu nổ. Cuộc kháng chiến thần thánh của
nhân dân ta chống thực dân Pháp bắt đầu.
Cuộc chiến đấu ở các đô thị bắc vĩ tuyến 16
Nghe theo lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ Tịch và mệnh lệnh chiến

đấu của Bộ tổng tư lệnh, quân và dân ở các thành phố, thị xã bắc vĩ tuyến 16, ở tất cả
những nơi có quân Pháp chiếm đóng như Hải Dương, Hải Phòng, Bắc Giang, Bắc
Ninh, Nam Định, Vinh, Huế, Đà Nẵng… đã đồng loạt nổ súng, đánh đòn phủ đầu vào
quân Pháp.

23


- Tại Hà Nội: cuộc chiến đấu diễn ra oanh liệt trong 60 ngày đêm nhằm bảo vệ các cơ
quan đầu não của Đảng và Chính phủ.
+ Mặc dù lực lượng của Pháp ở Hà Nội rất đông, bao gồm 6.500 tên, đó là chưa kể
đến 13.000 Pháp kiều phần lớn được trang bị vũ khí. Đúng 20 giờ ngày 19-12-1946,
đèn điện ở Hà Nội vụt tắt làm tín hiệu tấn công, pháo binh của ta ở Nhổn, Cổ Nhuế
đồng loạt nổ súng. Các lực lượng vũ trang của ta bao gồm các các chiến sĩ Vệ quốc
quân, công an xung phong, tự vệ đã chiến đấu dũng cảm. Nêu cao tinh thần “Quyết tử
cho Tổ quốc quyết sinh”, ta với địch giành nhau với địch từng ngôi nhà, góc phố.
Nhiều trận đánh ác liệt đã diễn ra ở Bắc Bộ phủ, chợ Đồng Xuân, nhà bưu điện.
+ Quần chúng nhân dân thủ đô đã làm chướng ngại vật, họ mang bàn ghế, giường
tủ... chặn quân Pháp. Công nhân thì đẩy toa xe điện, xô đổ cột điện, chặn các ngã tư,
ngã năm. Lực lượng quần chúng vừa chiến đấu, vừa phục vụ chiến đấu. Đến ngày 172-1947, theo kế hoạch ta rút khỏi thành phố.
Cuộc chiến đấu trong các thành phố, thị xã đã tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận quân
xâm lược Pháp, giam chân chúng tại các thành phố, tạo điều kiện cho cả nước chuẩn
bị cuộc kháng chiến lâu dài.
2.3.2.3. Chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947
- Tại sao Pháp tấn công lên Việt Bắc
+ Sau gần một năm kể từ khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, phải tốn nhiều
người, nhiều của Pháp mới chiếm được một số thành phố, thị xã và đường giao thông
quan trọng, nhưng kế hoạch nhanh chóng tiêu diệt lực lượng vũ trang của ta không
thực hiện được. Trong khi đó tình hình nước Pháp gặp nhiều khó khăn về kinh tế,
chính trị, xã hội.

+ Từ đầu năm 1947 Việt Bắc trở thành căn cứ thần thánh của cuộc kháng chiến, nơi
tập trung cơ quan đầu não và bộ đội chủ lực của Việt Minh.
+ Mặc dù gặp rất nhiều khó khăn cả ở Đông Dương và ngay tại chính quốc, nhưng
giới hiếu chiến Pháp vẫn nuôi ảo tưởng khuất phục nhân dân ta bằng vũ lực. Tháng 31947, Pháp cử Bôlaéc sang thay Đácgiăngliơ làm Cao ủy Đông Dương. Vốn là một
tên thực dân cáo già, Bôlaéc một mặt tập hợp bọn việt gian âm mưu thành lập chính
phủ bù nhìn, mặt khác chuẩn bị kế hoạch tấn công quy mô lớn lên Việt Bắc.

24


- Mục đích của Pháp khi tấn công lên Việt Bắc
+ Về quân sự: đánh phá căn cứ địa của ta, tiêu diệt cơ quan đầu não của kháng chiến,
tiêu diệt phần lớn quân chủ lực.
+ Về chính trị: giành một thắng lợi quân sự để thống nhất các lực lượng phản động,
tiến tới thành lập chính phủ bù nhìn toàn quốc, nhanh chóng kết thúc chiến tranh.
+ Về kinh tế: phá hoại các cơ sở kinh tế hòng làm giảm khả năng chiến đấu của ta.
Khoá chặt biên giới Việt - Trung, ngăn chặn liên lạc giữa nước ta với quốc tế.
- Diễn biến của chiến dịch
+ Ngày 7-10-1947, Pháp huy động 12.000 quân, chia làm 3 cánh: quân bộ, quân thủy
và quân nhảy dù tấn công lên Việt Bắc. Quân dù nhảy xuống Bắc Cạn, Chợ Mới.
Quân bộ từ Lạng Sơn tiến lên Cao Bằng, theo đường số 3 đánh xuống Bắc Cạn, hình
thành 1 gọng kìm bao vây lấy Việt Bắc. Quân thủy từ Hà Nội ngược sông Hồng, sông
Lô, tiến lên Tuyên Quang hình thành gọng kìm thứ hai, 2 gọng kìm này sẽ khép lại ở
Đài Thị (Chiêm Hóa).
+ Về phía ta: ngày 15-10-1947, Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Phải phá tan
cuộc tấn công mùa đông của Pháp”, đồng thời có kế hoạch cụ thể phá vỡ kế hoạch
các gọng kìm của Pháp, không cho chúng triển khai theo đúng kế hoạch.
Ở Bắc Cạn, địch vừa nhảy dù xuống đã bị ta bao vây, tập kích.
Trên sông Lô, ta bắn chìm nhiều tàu và ca nô địch ở Khe Lau, Đoan Hùng.
Trên mặt trận đường số 4, diễn ra nhiều trận phục kích, ở đèo Bông Lau (30-10) ta

phá 27 xe, diệt một đại đội địch. Kế hoạch hội quân của Pháp không thực hiện được,
đường tiếp tế bị cắt đứt, đường số 4 trở thành “con đường chết” đối với Pháp.
+ Ở các chiến trường khác trên toàn quốc, quân và dân ta đã chiến đấu anh dũng,
ngay cả ở các thành phố lớn như Hà Nội, Sài Gòn những tên việt gian đầu sỏ như
Trương Đình Tri, Nguyễn Văn Sâm đã bị bắn chết ngay giữa thành phố. Pháp lâm
vào tình thế nguy khốn. Chúng buộc phải rút chạy khỏi Việt Bắc, nhưng trên đường
tháo chạy bị quân và dân ta chặn đánh khắp nơi.
- Kết quả và ý nghĩa
+ Ngày 19-12-1947, đại bộ phận quân Pháp đã rút khỏi Việt Bắc đánh dấu thất bại
đầu tiên của Pháp về chiến lược trong cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương. 6.000

25


×