Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Lý luận giá trị thặng dư của các mác trong thời đại hiện nay sự vận dụng lý luận này trong phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa của đảng ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (329.99 KB, 15 trang )

MỞ BÀI

Kể từ khi học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác ra đời đến nay, thế giới
đã trải qua những biến đổi sâu sắc. Rất nhiều sự kiện đã khẳng định tính đúng
đắn của những kết luận rút ra từ học thuyết giá trị thặng dư như: những cuộc
“khủng hoảng giẫy chết” của Chủ nghĩa tư bản thế giới đầu thế kỷ XX; sự ra
đời của hệ thống Xã hội chủ nghĩa hiện thực; phong trào đấu tranh của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động ở các nước Tư bản chủ nghĩa; sự tan rã
của hệ thống dân tộc thuộc địa…
Ngày nay, dưới sự tác động như vũ bão của cách mạng khoa học –
công nghệ và sự phát triển của kinh tế thị trường hiện đại, bức tranh thế giới
đã và đang diễn ra nhiều đổi mới trên hầu hết các lĩnh vực kinh tế, chính trị,
văn hoá, xã hội, tư tưởng... Nước ta đang trong thời kỳ chuyển đổi sang nền
kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, để phù hợp với những
vấn đề mà thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải nhận thức lại, bổ sung và phát triển
các học thuyết đặc biệt là học thuyết giá trị thặng dư.
Đó là lý do tôi chọn đề tài : “Lý luận giá trị thặng dư của Các Mác
trong thời đại hiện nay. Sự vận dụng lý luận này trong phát triển nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, có sự quản lý của nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng ta” để chúng ta có thể vận dụng những lý
thuyết của Mác vào sự nghiệp đổi mới của đất nước hiện nay.

1


NỘI DUNG
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ

1. Giá trị thặng dư
Học thuyết về giá trị thặng dư là một trong hai phát kiến lớn nhất mà
Mác đã đóng góp cho nhân loại. Cho đến nay học thuyết giá trị thặng dư của


Mác vẫn giữ nguyên giá trị. Tuy nhiên nó cần được phát triển phù hợp với
thực tiễn ngày nay.
Trước Mác, ngay cả những nhà kinh tế tư bản lỗi lạc như D.Ricardo
cũng không giải thích được vì sao trao đổi hàng hoá theo đúng quy luật giá trị
mà nhà tư bản vẫn thu được lợi nhuận. Nhờ phân biệt được phạm trù lao động
và tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá C.Mác đã chứng minh
một cách khoa học rằng trong quá trình sản xuất hàng hoá lao động cụ thể của
công nhân chuyển giá trị của tư liệu sản xuất đã được tiêu dùng sang sản
phẩm, đồng thời lao động trừu tượng của người đó thêm vào sản phẩm một
giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động của mình. Khoản lớn hơn đó, tức là số
dư ra ngoài khoản bù lại giá trị sức lao động, C.Mác gọi là giá trị thặng dư mà
nhà tư bản chiếm đoạt. Công nhân chỉ được tiếp tục làm thuê chừng nào còn
tạo ra được khối lượng giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động mà nhà tư bản
đã trả cho người đó dưới hình thức tiền công, nếu không sẽ bị sa thải.
Theo đó Giá trị thặng dư là giá trị rơi ra ngoài sức lao động do công
nhân sáng tạo ra và nhà tư bản chiếm không.
Nhà tư bản giành một phần giá trị thặng dư này cho sự hưởng thụ của
mình và gia đình mình, phần còn lại được tích luỹ để tái sản xuất mở rộng.
Khoản tích luỹ này lại trở thành điều kiện vật chất để thu hút thêm nhiều gái
trị thặng dư hơn nữa. Chính lòng ham mê giá trị thặng dư là động lực thúc đẩy
nhà tư bản dám mạo hiểm bỏ vốn đầu tư vào kinh doanh.

2


2. Hai phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư:
Hai phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tuyệt đối và tương đối do Mác
phát hiện không phải chỉ là đặc điểm của thời kỳ đầu của CNTB, thời kỳ công
nghiệp cơ khí, mà ngày nay chúng vẫn còn được CNTB sử dụng. Tuỳ điều
kiện cụ thể mà phương pháp bóc lột nào được coi là chủ yếu.

Thuở bình minh của CNTB khi năng suất lao động còn thấp, giá trị
thặng dư thu được chủ yếu dựa vào tăng độ dài ngày lao động và cường độ
lao động, Mác gọi là phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư tuyệt đối.
Nhưng phương pháp này bị giới hạn bởi độ dài của ngày trời và sinh lực của
người lao động. Nhờ ứng dụng tiến bộ khoa học – kỹ thuật và trước sức đấu
tranh của GCCN đòi giảm giờ làm việc, các nhà tư bản đã tăng thu giá trị
thặng dư chủ yếu bằng cách tăng năng suất lao động để rút ngắn thời gian
lao động tất yếu, tức là thời gian người công nhân bù lại giá trị sức lao động,
nhờ đó mà tăng thời gian lao động thặng dư, Mác gọi là phương pháp sản
xuất ra giá trị thặng dư tương đối.
3. Tính khoa học của học thuyết giá trị thặng dư:
Việc ứng dụng những thành tựu khoa học – kỹ thuật hiện đại đã thúc
đẩy LLSX ở những nước TBCN phát triển tăng lên trình độ cao hơn trước.
Nhờ đó không những các tập đoàn tư bản độc quyền thu được lợi nhuận siêu
cao mà đời sống của những người lao động tại xí nghiệp cũng được cải thiện,
khác xa đời sống của những công nhân dưới CNTB đầu thế kỷ XVIII.
Trước thực tế đó, cộng với sự sụp đổ của mô hình CNXH tập trung
quan liêu ở Đông Âu và Liên Xô, nhiều người cho rằng khoa học kinh tế
chính trị Mác – Lê nin, mà đặc biệt là học thuyết giá trị thặng dư – “Hòn đá
tảng” trong các học thuyết kinh tế của C. Mác, không còn đúng nữa. Bởi vậy,
việc luận giải tính khoa học của học thuyết giá trị thặng dư trong nền kinh tế
hiện đại trở thành một nhiệm vụ cấp bách. Học thuyết này không chỉ là cơ sở

3


để hiểu rõ bản chất và xu hướng vận động của CNTB mà còn chỉ cho chúng
ta con đường tạo ra LLSX của CNXH. Bởi vì CNXH, xét về mặt LLSX,
chính là bước tiến tiếp liền ngay sau chế độ độc quyền Nhà nước TBCN.
CNXH muốn tồn tại và phát triển cũng phải sản xuất ra nhiều sản phẩm thặng

dư, và trong điều kiện còn kinh tế hàng hoá, thì giá trị của những sản phẩm
thặng dư đó cũng biểu hiện ra là giá trị thặng dư. Chỉ khác là giá trị thặng dư
này không rơi vào túi một nhóm nhỏ những người chủ sở hữu tư bản mà được
sử dụng vì phúc lợi chung của chính những người lao động trí óc và chân tay
đã tạo ra giá trị thặng dư ấy.
Trong bộ “Tư bản”, Mác đã luận chứng toàn diện quy luật vận động
của CNTB là quy luật giá trị thặng dư; sản xuất giá trị thặng dư là quy luật
tuyệt đối của phương thức sản xuất TBCN. Công lao vĩ đại nhất của Mác là từ
phát hiện giá trị mà đi sâu nghiên cứu bản chất, tác dụng của nó trong sự phát
triển CNTB và cũng từ đó Mác đã có một cống hiến mới-theo Lênin – cực kỳ
quan trọng là sự phân tích tích luỹ tư bản tức là quá trình biến giá trị thặng dư
thành tư bản, quá trình làm cho giá trị tăng thêm giá trị thặng dư với khối
lượng ngày càng tăng. Từ cái vòng tuần hoàn và chu chuyển của giá trị thặng
dư mà vang dội kết luận cách mạng của Mác trong bộ “Tư bản” rằng: các quy
luật kinh tế của CNTB tất yếu dẫn đến, một mặt, sự giảm bớt thường xuyên số
trùm tư bản chiếm đoạt và lũng đoạn tất cả mọi nguồn lợi của nền sản xuất xã
hội, mặt khác, làm tăng thêm số quần chúng bị bần cùng, bị áp bức, bị nô
dịch, bị đồi truỵ, bị bóc lột, đồng thời làm tăng sự phẫn nộ của giai cấp này
được cơ cấu của chính quá trình sản xuất TBCN rèn luyện, liên kết và tổ chức
lại; sự độc quyền của tư bản trở thành xiềng xích của thứ phương thức sản
xuất lớn lên cùng với nó. Sự tập trung TLSX và sự xã hội hoá lao động đã đạt
tới mức không còn phù hợp với cái vỏ TBCN của nó nữa. Cái vỏ TBCN ấy
phải nổ tung bằng một cuộc cách mạng xã hội do chính giai cấp mà CNTB đã
rèn luyện, đã liên kết và tổ chức lại thực hiện – GCCN.

4


Mác khi phát hiện phạm trù giá trị thặng dư đã gắn liền với việc tư bản
đặc quyền chi phối giá trị thặng dư – chạy theo lợi nhuận và công nhân đấu

tranh giành lại, tạo thành mâu thuẫn như động lực phát triển kinh tế.
Từ sau đại chiến thứ hai, CNTB đã đi vào xu hướng vận dụng tư tưởng
của Mác về giá trị thặng dư, nhưng là để tìm con đường phân phối sao cho
vừa tạo động lực mạnh, nhưng tránh mâu thuẫn đối kháng trong nội bộ mỗi
quốc gia, tránh chiến tranh đế quốc, chĩa mũi nhọn vào đối thủ là hệ thống
XHCN. Còn hệ thống XHCN với mô hình cũ coi mâu thuẫn và động lực phát
triển gắn liền với sự tạo ra và phân phối giá trị thặng dư là riêng có của kinh
tế thị trường tư bản, đã từ bỏ kinh tế thị trường. Với thiết chế đó, kinh tế
CNXH trở thành nền kinh tế không cần tìm động lực, do đó cũng không thể
có tai hoạ liên quan đến sự phân phối giá trị thặng dư.
Từ hai hiện tượng đối chứng lịch sử đó, có thể nói học thuyết giá trị
thặng dư của Mác với sự phát hiện mâu thuẫn và động lực phát triển kinh tế,
có ý nghĩa phổ quát và lâu dài gắn liền với quá trình phát triển còn lâu dài của
kinh tế thị truờng. Và chỉ có trong nền kinh tế thị trường, mâu thuẫn và động
lực ấy mới bộc lộ hết sức mạnh thúc đẩy của nó.

5


CHƯƠNG II: GIÁ TRỊ THỰC TIỄN CỦA LÝ LUẬN GIÁ TRỊ THẶNG
DƯ TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY.

1. Sự cần thiết phải nhận thức lại, bổ sung và phát triển học thuyết
GTTD:
Mặc dù những tư tưởng, nội dung và phương pháp nghiên cứu lý luận
giá trị thặng dư của Mác, về cơ bản, còn giá trị trong thời đại ngày nay, tuy
nhiên vẫn cần được nhận thức lại, bổ sung và phát triển. Ngày nay điều kiện
lịch sử đã có nhiều thay đổi khác xa so với điều kiện lịch sử của những năm
sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, chứ chưa nói đến thế kỷ 19 mà Mác đã
nghiên cứu. Do vậy, để tránh mắc sai lầm mang tính giáo điều, rập khuôn,

duy ý trí, một số kết luận của Mác trong điều kiện lịch sử cũ lại dựa trên
phương pháp giả định gắn với mục đích nghiên cứu CNTB cổ điển không nên
hiểu và vận dụng nguyên si. Hơn nữa, đọc và hiểu đúng nội dung lý luận giá
trị thặng dư trong bộ “Tư bản” là việc không phải ai cũng làm được. Vì vậy
mà phải có sự nghiên cứu cụ thể để rút ra những kết luận mới cho những
trường hợp cụ thể.
Ngày nay mục đích nghiên cứu kinh tế chính trị nói chung và lý luận
giá trị thặng dư nói riêng đã có sự thay đổi. Nếu trước đây mục đích nghiên
cứu của kinh tế chính trị là để phê phán phương thức sản xuất TBCN, tìm ra
bản chất bóc lột giá trị thặng dư của CNTB cổ điển và xu hướng thay thế
CNTB bằng một xã hội tốt đẹp hơn, thì giờ đây, bên cạnh mục đích như
trước, chúng ta còn có mục đích nghiên cứu, khai thác bộ “Tư bản” với tư
cách một sách phong phú và sâu sắc về kinh tế thị trường để xây dựng và phát
triển nền kinh tế – xã hội ở nước ta. Do đó cần phải thay đổi một số yếu tố và
phạm trù kinh tế phù hợp với hoàn cảnh hiện tại.

6


2. Tính thực tiễn của hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư:
Trong thời đại ngày nay, do sự tiến bộ của khoa học công nghệ; GCTS
chủ yếu thực hiện việc bóc lột những người lao động bằng hình thức bóc lột
giá trị thặng dư tương đối. Những người lao động làm thuê bị bóc lột ngày
càng nhiều. Cái gọi là “trung lưu hoá” một số bộ phận lao động làm thuê, về
thực chất, cũng chỉ là một biểu hiện mới của sự bóc lột TBCN.
Trong xu hướng toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế. Thị trường lao động
cũng có sự biến đổi sâu sắc, sự di chuyển lao động từ nước này sang nước
khác ngày càng tăng. Tác động quy luật giá trị đối với thị trường này sẽ càng
tăng lên mạnh mẽ và tác động đến GTTD. Sự chuyển dịch mâu thuẫn giữa các
quốc gia diễn ra mạnh mẽ, sự phân cực xã hội cũng biến đổi, do đó điều kiện

chín muồi về mâu thuẫn cũng sẽ không đều giữa các quốc gia. Mặt khác trong
điều kiện bành trướng thị trường của các công ty xuyên quốc gia thì GTTD có
những nét đặc thù và đặc biệt mang tính quốc tế cao. Sự phân phối GTTD
trong điều kiện quốc tế hoá đời sống kinh tế diễn ra không chỉ ở trong điều
kiện quốc gia mà cả trong phạm vi quốc tế. Sự phân chia GTTD của Mác chủ
yếu giới hạn trong các tập đoàn tư bản của một quốc gia, bởi vì nhà nước hồi
đó còn đứng ngoài quá trình kinh tế. Nhà nước mới sử dụng quyền lực để
“canh gác” cho các tư bản hoạt động, còn về cơ bản vẫn tuân thủ sự can thiệp
của bàn tay vô hình và thực hiện khẩu hiệu “để mặc cho người ta làm”. Do
vậy Mác cho rằng người công nhân làm thuê chỉ được hưởng phần tư bản khả
biến chứ không tham gia vào phần phân chia giá trị thặng dư.
Ngày nay với sự điều tiết của nhà nước, “chế độ tham dự” đã có sự thay
đổi. Người công nhân đã được tham dự dù là một lượng rất nhỏ so với nhà tư
bản về phần GTTD thông qua quỹ phúc lợi xã hội và lợi tức cổ phần. Tuy
nhiên với tỷ lệ nhỏ chưa làm thay đổi về bản chất của GTTD phân chia.
Trong quá trình phát triển của CNTB, sản xuất ra GTTD được tiến
hành thông qua nhiều phương pháp thích ứng với từng giai đoạn và trình độ
7


phát triển của LLSX, NSLĐ, tương quan lực lượng giữa các giai cấp, trong đó
“sự sản xuất ra GTTD tuyệt đối tạo thành cái cơ sở chung của chế độ TBCN
và là điểm xuất phát của sự sản xuất ra GTTD tương đối”. Điều đó có nghĩa là
sự xuất hiện của CNTB và của GTTD tương đối phải dựa trên cơ sở NSLĐ xã
hội đạt tới một trình độ nhất định, cho phép ngày lao động của người công
nhân đã có thể chia làm hai phần: lao động tất yếu tạo ra giá trị ngang bằng
với giá trị nhà tư bản trả cho anh ta dưới hình thức tiền công – tiền lương hay
giá cả lao động và lao động thặng dư, tạo ra GTTD cho nhà tư bản để được
nhà tư bản thuê. Khi năng suất lao động còn thấp, thời gian lao động còn
chiếm phần khá lớn, muốn có nhiều GTTD CNTB phải kéo dài ngày lao động

và tăng cường độ lao động để bòn rút được nhiều lao động không công của
công nhân làm thuê. Nhưng phương thức bóc lột GTTD tuyệt đối, do bị hạn
chế cả về mặt tự nhiên – sinh lý, xã hội, GCTS không thể đáp ứng nhu cầu thu
GTTD tối đa của GCCN. Cho nên khi luật công xưởng được ban hành, CNTB
không còn sử dụng phương pháp bóc lột GTTD tuyệt đối như là phương pháp
chủ yếu nữa. Khi đó, nhằm mục đích kéo dài lao động thặng dư, người ta rút
ngắn lao động cần thiết bằng những phương pháp cho phép sản xuất ra vật
ngang giá với tiền công, trong một thời gian ít hơn, tức là sản xuất GTTD
tương đối. Vì thế, nếu việc sản xuất ra GTTD tuyệt đối chỉ gắn với độ dài
ngày lao động hay tăng cường độ lao động, thì việc sản xuất ra GTTD tuyệt
đối, cách mạng hoá đến tận gốc các quá trình kỹ thuật của lao động cũng như
những tập quán xã hội… Cho nên để hiểu rõ sự sản xuất ra GTTD bằng cách
biến lao động cần thiết thành lao động thặng dư thì phải gạt bỏ quan niệm
giản đơn cho rằng: tư bản vẫn nắm quá trình lao động dưới hình thức do lịch
sử để lại hay hiện có.
Dưới tác động của quy luật GTTD, CNTB đã vận động, phát triển qua
ba giai đoạn, từng bước thực hiện cuộc đảo lộn… có tác dụng đẩy nhanh tăng

8


NSLĐ xã hội để giảm thời gian lao động tất yếu xuống mức tối thiểu cần
thiết, tăng tối đa thời gian cho việc sản xuất GTTD.
Bước khởi đầu của quá trình đó diễn ra trong buổi “Bình minh” của
CNTB (vào cuối thế kỷ XV và nhiều thập niên đầu của thế kỷ XVI). Khi đó,
các nhà tư bản chỉ mới có vốn liếng ít ỏi và công cụ lao động thủ công lạc
hậu, nhưng có khát vọng thu được nhiều GTTD, CNTB đã khắc phục mâu
thuẫn này bằng quá trình cách mạng hoá tổ chức lao động – biến lao động cá
thể, manh mún thành lao động hiệp tác phù hợp với yêu cầu tất yếu kinh tế,
tạo ra sức lao động của một số lao động cá thể tương đương. Ưu thế đó của

lao động hiệp tác, một mặt, làm cho NSLĐ xã hội được nâng cao, cho phép
giảm lao động tất yếu, tăng lao động thặng dư, do đó mà tạo được nhiều
GTTD cho nhà tư bản, mặt khác, tạo tiền đề cho CNTB tiến lên giai đoạn cao
hơn bằng quá trình cách mạng hoá sức lao động – phân chia người lao động
có chức năng sản xuất sản phẩm hàng hoá hoàn chỉnh thành người lao động
chuyên môn hoá vào khâu công việc mà họ có sở trường nhất trong quy trình
sản xuất ra sản phẩm hoàn chỉnh.
GTTD nhiều – lợi nhuận lớn, lại kích thích lòng thèm khát của các nhà
tư bản làm sao thu được nhiều hơn nữa. Bản thân các nhà tư bản khác cũng
đua tranh áp dụng máy móc để thu được nhiều GTTTD. Kết quả tất yếu là
việc sử dụng máy móc trở thành phổ biến trong các công xưởng và nền sản
xuất TBCN. Với đại công nghiệp cơ khí, ưu thế của hiệp tác và phân công lao
động đã được vật hoá bằng hệ thống máy móc và hệ thống máy móc là sự
“nối dài” của các giác quan và “khuyếch đại” năng lực của con người lên gấp
bội, tạo nên bước phát triển nhảy vọt về NSLĐ xã hội. Sự phát triển của máy
móc như vậy đã làm phát sinh GTTD tương đối bằng cách trực tiếp làm cho
sức lao động giảm giá, gián tiếp làm cho sức lao động rẻ đi nhờ tăng NSLĐ
xã hội, làm cho những hàng hoá cấu thành giá trị sức lao động giảm xuống.
Do đó, người ta chỉ cần dùng một phần ít hơn của ngày lao động để bù đắp lại

9


giá trị sức lao động; làm cho việc sản xuất GTTD tương đối trở thành phương
pháp chủ yếu trong việc tăng GTTD cho nhà tư bản.
Bằng những thành tựu của cách mạng khoa học – kỹ thuật và công
nghệ hiện đại nắm giữ được, CNTB đã thực hiện sự bóc lột tinh vi gắn quyện
và rất hiệu nghiệm ở cả 3 phương pháp. Nhưng chủ yếu là bóc lột GTTD
tương đối và bóc lột GTTD siêu ngạch. Ở các nước tư bản phát triển, nhờ áp
dụng khoa học và phương tiện kỹ thuật hiện đại một cách phổ biến trong tất

cả các ngành sản xuất và dịch vụ mà NSLĐ xã hội tăng cao. Do đó, làm cho
giá trị các hành hoá đều giảm xuống và giá trị hàng hoá sức lao động cũng
giảm xuống, vì nó do giá trị các hàng hoá liên quan đến tái sản xuất sức lao
động quyết định. Cho nên, trong các nước này động lực trực tiếp, thường
xuyên thúc đẩy các nhà tư bản chăm lo cải tiến tổ chức sản xuất và áp dụng
tiến bộ khoa học – kỹ thuật mới là GTTD siêu ngạch..
Trong điều kiện của cách mạng khoa học – kỹ thuật và công nghệ hiện
đại, các nước tư bản phát triển, nhất là các công ty độc quyền xuyên quốc gia
và đa quốc gia, có ưu thế hơn hẳn trong việc áp dụng những thành tựu mới
nhất của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ vào sản xuất, kinh doanh. Do
đó các nước tư bản phát triển và các công ty độc quyền đó có nhiều khả năng
sản xuất GTTD siêu ngạch. Đây là nguồn rất to lớn và khá ổn định của lợi
nhuận siêu ngạch khổng lồ mà các nước tư bản phát triển và các công ty độc
quyền thu được trong quan hệ kinh tế với các nước kém phát triển. Hậu quả
của quá trình này là các nước tư bản phát triển thu được lợi nhuận siêu ngạch
kếch xù và giầu lên nhanh chóng. Trái lại các nước kém phát triển thì tài
nguyên ngày một cạn kiệt, sức người mòn mỏi, nợ nần chồng chất và nạn đói
kinh niên…

10


CHƯƠNG III: Ý NGHĨA VÀ SỰ VẬN DỤNG HỌC THUYẾT GTTD
TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH Ở VIỆT NAM

Là một nước tiến lên XHCN chưa và không kinh qua giai đoạn phát
triển TBCN hay đúng hơn là không qua giai đoạn thống trị của GCTS. Vì
vậy, chúng ta không được kế thừa tất cả những tiền đề nảy sinh một cách tự
phát như những sáng tạo của người đi trước cho dù chúng chỉ là những nhân
tố vô cớ. Điểm xuất phát để nhận thức tầm quan trọng của học thuyết giá trị

thặng dư chính là luận điểm sản phẩm của lao động thừa vượt quá những chi
phí để duy trì lao động và việc xây dựng, tích luỹ quĩ sản xuất xã hội và dự
trữ “Tất cả những cái đó đã và mãi mãi vẫn là cơ sở cho mọi sự tiến bộ về xã
hội, về chính trị và về tinh thần. Nó sẽ là điều kiện và động cơ kích thích sự
tiến bộ hơn nữa…”
Chúng ta lựa chọn con đường đi lên CNXH từ điểm xuất phát là nước
tiểu nông cũng có nghĩa từ một nước chưa có nền kinh tế hàng hoá mặc dù có
sản xuất hàng hoá. Cái thiếu của đất nước ta – theo cách nói của Mác – không
phải là và chủ yếu là cái đó, mà cái chính là chưa trải qua sự ngự trị của cách
tổ chức của kinh tế xã hội theo kiểu TBCN.
Đất nước ta đang đứng trước nhiệm vụ cháy bỏng là tạo ra tiền đề thực
tiễn tuyệt đối cần thiết, đó là sự phát triển của sức sản xuất, phát triển kinh tế
hàng hoá sẽ tạo ra ngày càng nhiều GTTD dù là chúng biểu hiện những quan
hệ xã hội khác nhau. Chúng ta không thể đạt được mục tiêu kinh tế ấy ngay
trong thời gian ngắn mà phải biết rút ngắn những quá trình tất yếu mà CNTB
đã phải trải qua và đang thực hiện để có một nền kinh tế thị trường cực thịnh
như ngày nay. Đó là một quá trình phát triển trải qua nhiều giai đoạn phân
công lao động xã hội. Nền kinh tế hàng hoá TBCN hình thành và GTTD
cũng được sản xuất ra với khối lượng lớn lao trong sự phân công lao động,
đặc biệt khi khoa học công nghệ phát triển và vận dụng có ý thức, rộng rãi
11


vào sản xuất với quy mô chưa từng có. Các giai đoạn phát triển sản xuất và
chiếm đoạt giá trị thặng dư của CNTB đã diễn ra một cách tự phát và tuần tự.
Nhưng đó cũng là những giai đoạn của một quá trình lịch sử – tự nhiên mà
chúng ta chỉ có thể rút ngắn chứ không thể bỏ qua. Đó cũng là ý nghĩa thực
tiễn rút ra từ học thuyết GTTD của Mác.
Trong hoàn cảnh đất nước ta hiện nay cần có phương hướng khai thác
và vận dụng những tư tưởng và các nguyên lý của học thuyết giá trị thặng dư

một cách hiệu quả để đạt được những thành tựu mới đưa nền kinh tế đất nước
phát triển theo định hướng XHCN.
Cần phải nhận thức lại hàng hoá sức lao động không phải là phạm trù
riêng có của CNTB và phạm trù giá trị thặng dư xét về mặt định lượng cũng
vậy. Nó tồn tại như là một bước tiến của các xã hội mà ở đó năng suất lao
động vượt khỏi lao động tất yếu của họ. Nó là nguồn gốc của tích luỹ để mở
rộng và hiện đại hoá sản xuất kinh doanh; là nguồn gốc của sự giàu có văn
minh. Chính nó đòi hỏi xã hội cần phải:
- Tìm mọi cách để tăng thời gian lao động thặng dư và nhất là tăng
năng suất của lao động thặng dư.
- Tuân thủ hai nguyên tắc cơ bản của vốn khi đầu tư và sử dụng nó. Đó
là nguyên tắc bảo tồn vốn và nguyên tắc sinh lợi, nhất là nguyên tắc sinh lợi,
để cho một đồng vốn đầu tư sử dụng được tăng thêm giá trị.
- Xây dựng đồng bộ các loại thị trường, kể cả thị trường sức lao động.
Vấn đề thu hồi giá trị thặng dư và định hướng XHCN trong điều kiện
cho phép bóc lột giá trị thặng dư đã được Lênin trình bày lý luận và kinh
nghiệm chỉ đạo thực tiễn ở nước Nga trước đây. Vấn đề đặt ra cho chúng ta
là:
- Điều tiết một cách đúng đắn, đầy đủ, không để thất thoát phần giá trị
thặng dư vào ngân sách nhà nước.
12


- Nhà nước sử dụng giá trị thặng dư được điều tiết sao cho có lợi đối
với việc thực hiện mục tiêu “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ
văn minh”.
- Nhà nước phải đủ mạnh về thực lực kinh tế, năng lực quản lý và uy
tín đối với xã hội.
- Ngăn chặn được những “ma lực” hút sự vận động của nền kinh tế đi
chệch khỏi quỹ đạo XHCN.

Về khái niệm giai cấp công nhân được hiểu ở thế kỷ trước cũng khác
nhiều so với cách hiểu của thế kỷ này. Có thể nhận thức lại khái niệm giai cấp
công nhân về nhiều phương diện, song chúng ta không thể bỏ qua hai khía
cạnh:
- Xã hội mới – XHCN muốn giải phóng người công nhân từ người làm
thuê thành người làm chủ, song không thể làm chủ, nếu họ không có sở hữu
về tài sản, vốn. Do vậy, giai cấp công nhân ngày nay không còn là giai cấp vô
sản mà phải là giai cấp hữu sản. Thực tiễn đã diễn ra như vậy.
- Giai cấp công nhân muốn giữ vai trò lãnh đạo cách mạng, nếu cơ cấu
của nó được quan niệm như là một lực lượng lao động vận động theo hướng
lao động có trí tuệ cao, chiếm tỷ trọng ngày càng nhiều và trở thành đặc trưng
của lao động sống. Do vậy, có nên tách trí thức ra ngoài giai cấp công nhân và
nông dân hay không? Điều này cần phải được chúng ta xem xét.

13


KẾT LUẬN
Nhìn chung, chúng ta thấy rằng học thuyết GTTD rất quan trọng và
phức tạp. Sự cần thiết về thời gian thặng dư và cùng với nó là sản phẩm thặng
dư. Nó là nguồn gốc của sự giầu có của mọi xã hội, đó là điều dễ hiểu. Song
điều cần thiết là những biện pháp kinh tế tổ chức, đặc biệt về mặt xã hội để
kéo dài thời gian thặng dư cũng như việc sử lý đúng đắn mối quan hệ giữa
kéo dài ngày lao động, tăng cường độ và tăng năng suất lao động ở những
ngành sản xuất tư liệu tiêu dùng để rút ngắn thời gian cần thiết đối với một xã
hội ở trình độ phát triển thấp như nước ta. Vấn đề đặt ra với chúng ta là:
- Cần phải có những chính sách kinh tế phù hợp để điều hành các hoạt
động xã hội theo mục tiêu đã xác định.
- Ngăn chặn được những ma lực hút nền kinh tế chệch khỏi quỹ đạo
XHCN.

Và vấn đề quan trọng nhất về nhà nước là phải có một nhà nước vững
mạnh. Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế quá độ lên CNXH. Do vậy, cách tổ
chức của kinh tế xã hội theo kiểu sản xuất hàng hoá cũng phải mang tính chất
quá độ. Sự phát triển nền kinh tế hàng hoá phải gắn với lợi ích của nhân dân
và lợi ích của tư nhân. Nền kinh tế hàng hoá nào cũng xuất hiện những mâu
thuẫn và những mối quan hệ trong xu hướng vận động của nó. Sự thành công
trong chính sách quản lý của nhà nước ta trước hết và chủ yếu là khai thác,
duy trì sự thống nhất theo xu hướng vận động của GTTD. Coi đó là vấn đề có
tầm chíên lược; đồng thời giảm đến mức tối thiểu mâu thuẫn trong việc sử
dụng và phân phối GTTD trong các cơ sở kinh tế tư nhân TBCN hướng chúng
vào các hình thức kinh tế CNTB nhà nước, khắc phục khả năng đối kháng của
mâu thuẫn vốn là một khả năng hiện thực. Chúng ta cần phải thừa kế và phát
triển các học thuyết mà thế hệ đi trước để lại và vận dụng nó cho phù hợp với
hoàn cảnh đất nước. Từ đó xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.

14


MỤC LỤC

15



×