Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Tư duy đối lập tương phản trong thơ chế lan viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (489.39 KB, 19 trang )

Tư duy đối lập tương phản trong thơ
Chế Lan Viên
Vũ Thị Thu Hoài
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Luận văn ThS. ngành: Lý luận văn học; Mã số: 60 22 32
Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Văn Nam
Năm bảo vệ: 2012
Abstract. Tìm hiểu về tư duy thơ và hành trình sáng tạo của nhà thơ Chế Lan Viên.
Nghiên cứu sự đối lập tương phản trong các chi tiết hình ảnh và hình tượng thơ.
Trình bày sự tương phản đối lập trong nghệ thuật xây dựng thời gian và không gian.
Keywords. Chế Lan Viên; Lý luận văn học; Thơ; Văn học Việt Nam
Content
A.

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Nhắc đến Chế Lan Viên, người đọc thường nhớ đến những vần thơ độc đáo, đậm chất
triết lí. Những vần thơ đó được người đọc ưu ái gọi là “những vần thơ trí tuệ”. Nhà nghiên
cứu Trần Thanh Đạm từng nhận xét: “ Trong các nhà thơ của thế kỉ chúng ta, Chế Lan Viên
vẫn là nhà thơ giàu chất triết lí hơn cả” [ 13, tr 389]. Không ai có thể phủ nhận một điều:
Chế Lan Viên là một nhà thơ lớn và ông đã để lại nhiều bài thơ có giá trị cho nền văn học
hiện đại nước nhà. Thơ ông không phải thứ thơ đọc vội, chỉ cần vần nhịp âm điệu trầm bổng
là thấy hay. Đọc thơ ông, người đọc phải ngẫm nghĩ mới thấy hết được cái hay, cái đẹp chứa
đựng trong đó. Và kì lạ thay, càng đọc ta lại càng thấy một vẻ đẹp lung linh sắc màu có sức
lan toả rộng lớn. Phải chăng, chính tính triết lí gắn liền với tư duy theo lối đối lập của thơ
ông đã tạo nên vẻ đẹp ấy?
Khi tiếp xúc với các tác phẩm thơ Chế Lan Viên, chúng tôi nhận thấy rằng: Đối lập tương
phản xuất hiện đậm đặc dưới nhiều cấp độ: từ vựng, câu thơ, khổ thơ, bài thơ …ngay cả ở
những tiêu đề bài thơ, tập thơ, Chế Lan Viên cũng khai thác triệt để đối lập tương phản. Có
thể nói, việc khai thác các tương quan đối lập không chỉ là một thủ pháp nghệ thuật mà đã trở


thành một nét đặc trưng của tư duy thơ, chi phối cái nhìn nghệ thuật của Chế Lan Viên.
Nh­ vËy, ®ối lập tương phản không chỉ là một thủ pháp nghệ thuật đơn thuần, nó gắn bó
chặt chẽ với cái tôi trữ tình, với lối tư duy của nhà thơ và tạo nên một phong cách rất Chế Lan
Viên. Tuy vậy, chưa có công trình nghiên cứu nào đi sâu vào vấn đề này. Chính vì thế, người
viết đã chọn đề tài: “ Tư duy đối lập tương phản trong thơ Chế Lan Viên” với cách tiếp cận
theo hướng thi pháp học không nằm ngoài mong muốn góp phần khám phá vẻ đẹp phong
cách thơ Chế Lan Viên ở một khía cạnh mới đồng thời có thể lí giải phần nào về cái gọi là “
mâu thuẫn” trong con người và thơ Chế Lan Viên. Bên cạnh đó, người viết cũng hi vọng qua
bản luận văn này sẽ làm nổi bật được những đóng góp lớn lao của Chế Lan Viên về mặt thi
pháp thể loại trong nền thơ Việt Nam hiện đại.


2. Lịch sử vấn đề
Từ trước đến nay, có không ít các bài báo, các bài nghiên cứu về thơ Chế Lan Viên.
Thậm chí đã có hai luận án khá công phu đi sâu nghiên cứu về đặc sắc nghệ thuật thơ Chế
Lan Viên : Một là luận án tiến sĩ Ngữ Văn của Hồ Thế Hà “ Thế giới nghệ thuật thơ Chế
Lan Viên” và bản kia là luận án phó tiến sĩ “ Những nét đặc sắc cơ bản của hình thức
nghệ thuật thơ Chế Lan Viên từ sau 1945” của Đoàn Trọng Huy. Trong các bài viết, các tác
giả đã nhận thấy và khẳng định biện pháp đối lập như một nét đặc sắc trong tư duy thơ Chế
Lan Viên . Hồ Thế Hà từng nhận xét: “ Chế Lan Viên vận dụng và sáng tạo nhiều phương
thức tư duy nghệ thuật, trong đó nổi lên phương pháp đối lập và so sánh, mang dấu ấn thẩm
mỹ và nămg lực sở trường độc đáo của riêng ông” [ 17, tr 24]. Đoàn Trọng Huy cũng cho
rằng: “Đối lập có trong liên tưởng như đã nêu. Tuy nhiên nó trở thành một phương thức tư
duy lớn bao trùm hơn , mang dấu ấn cá tính sáng tạo rất rõ trong thơ Chế Lan Viên” [19, tr
39]. Ngoài hai tác giả trên, có không ít các nhà nghiên cứu khác đề cập đến vấn đề này dưới
nhiều góc độ và mức độ khác nhau. Nguyễn Văn Hạnh trong một bài viết của mình đã đưa ra
ý kiến: “ Hình thức cơ bản, phổ biến trong tư duy nghệ thuật của Chế Lan Viên là sự đối lập.
Tính đa diện và sức biến hoá của câu thơ Chế Lan Viên một phần quan trọng là dựa trên sự
đối lập…”. Ý kiến này nhận được sự ủng hộ đồng tình của PGS. TS Đoàn Trọng Huy trong
cuốn “ Nghệ thuật thơ Chế Lan Viên”. GS Trần Đình Sử cũng cho rằng: “ Thơ Chế Lan Viên

khai thác triệt để phạm trù đối lập để tạo thành hình tượng thơ” [37, tr 45] .
Tuy nhiên, hầu hết các tác giả chỉ mới dừng lại ở những nhận xét khái quát như trên
mà chưa đi sâu nghiên cứu đề tài một cách có hệ thống và toàn vẹn. Có chăng một số công
trình nghiên cứu về nghệ thuật thơ Chế Lan Viên đề cập đến vấn đề này với tư cách là một
khía cạnh nhỏ của hình thức nghệ thuật mà thôi . Bản thân người viết trong một khóa luận đã
từng đề cập đến đối lập tương phản như một thủ pháp nghệ thuật làm nên tính hấp dẫn độc
đáo của thơ Chế Lan Viên. Tuy nhiên, cùng với thời gian, chúng tôi nhận thấy: đối lập tương
phản không đơn thuần chỉ là một thủ pháp nghệ thuật, cao hơn nó là lối tư duy mang
phong cách của riêng Chế Lan Viên. Lối tư duy ấy gắn bó với nhà thơ không thể tách rời,
nó giải thích và cắt nghĩa một cách rành mạch cái gọi là mâu thuẫn trong thơ của thi sĩ họ
Chế.
3. Mục đích và đối tượng nghiên cứu
Nhắc đến tư duy - một vấn đề khá trừu tượng - quả là vấn đề không dễ và bàn về tư duy
thơ của một nhà thơ như Chế Lan Viên càng khó hơn.. Chế Lan Viên luôn tạo cho thơ mình
nhiều tầng nhiều vẻ nhờ vào sức liên tưởng, tưởng tượng phong phú và ngay trong liên
tưởng, với lối tư duy quen nhìn sự vật từ hai phía tương phản, nhà thơ đã tạo nên những hình
ảnh thơ bất ngờ, mới lạ. Có thể nói, nét đặc trưng tư duy này của Chế Lan Viên được vận
dụng hiệu quả trong cảm xúc và suy tư, đều có ý nghĩa thi pháp. Thông qua bản luận văn
này, người viết mong muốn tiếp cận tác phẩm thơ Chế Lan Viên dưới một góc độ mới và một
cách khiêm tốn, góp thêm một cách lí giải sức sống lâu bền của những vần thơ triết lí , lí giải
sự gắn bó giữa tư duy và sáng tác nghệ thuật, chức năng của văn học…vốn là những vấn đề
lí luận muôn thuở.
Để đạt được những mục tiêu trên, trong bản luận văn này, chúng tôi sẽ làm nổi bật vấn đề
trên các phương diện sau:
- Nghiên cứu biện pháp đối lập như một hình thức nghệ thuật chứa đựng nội dung.
- Biện pháp nghệ thuật này được bắt nguồn từ lối tư duy đối lập tương phản quen thuộc của
nhà thơ.
- Những hiệu quả nghệ thuật đạt được: tính triết lí, suy tưởng, trí tuệ…
Vì sự nghiệp thơ Chế Lan Viên quá đồ sộ và không phải bài thơ nào của ông cũng sử
dụng biện pháp đối lập, chúng tôi chỉ dừng lại ở những bài thơ phục vụ cho mục đích nghiên

cứu, đặc biệt là những bài thơ tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của nhà thơ trong các tập


Điêu tàn, Ánh sáng và phù sa, Di cảo thơ. Các tập thơ khác cũng được nghiên cứu nhưng với
mức độ kém sâu hơn.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thống kê, khảo sát.
- Phương pháp so sánh đối chiếu.
- Phương pháp phân tích, chứng minh, tổng hợp.
5. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm 3 phần. Ngoài phần mở đầu được nhắc tới ở trên và phần kết luận, trong
phần nội dung chính chúng tôi chia làm các chương sau:
Chương 1: Tư duy thơ và hành trình sáng tạo của nhà thơ Chế Lan Viên
1.1.Tư duy đối lập làm nên một Chế Lan Viên ưa triết lí…
1.2.….và hành trình sáng tạo của nhà thơ Chế Lan Viên
1.3.Chế Lan Viên - sự vận động của một cái tôi nhiều đối cực
1.3.1. Giai đoạn trước cách mạng tháng Tám 1945
1.3.2. Giai đoạn kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ
1.3.3. Giai đoạn những năm 80 trở về sau
Chương 2: Đối lập tương phản trong các chi tiết hình ảnh, hình tượng thơ
2.1. Đối lập tương phản trong các chi tiết hình ảnh.
2.1.1. Kiểu 1: Tạo sự đối lập nhờ việc đặt hai sự vật hết sức khác biệt kề bên nhau.
2.1.2. Kiểu 2: Liên tưởng nghịch chiều theo một cặp song trùng
2.1.3. Kiểu 3: Đối lập tương phản thuận chiều
2.2. Đối lập tương phản trong các hình tượng thơ .
2.2.1. Hình tượng Chiêm quốc
2.2.2. Hình tượng Tổ quốc
2.2.3. Hình tượng Bác Hồ
2.2.4. Hình tượng Ánh sáng
2.2.5. Hình tượng Cái chết

Chương 3: Đối lập tương phản trong nghệ thuật xây dựng thời gian và không gian.
3.1 Đối lập trong không gian
3.1.1 Cặp 1: Không gian thực của cõi trần gian – Không gian tưởng tượng của Chiêm
quốc
3.1.2 Cặp 2: Không gian cái tôi nhỏ bé– Không gian cái ta cộng đồng
3.1.3 Cặp 3: Cặp không gian lịch sử hào hùng – Không gian đời thường
3.2. Đối lập trong thời gian
Và cuối cùng là danh mục các tài liệu tham khảo.
B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Tư duy thơ
và hành trình sáng tạo của nhà thơ Chế Lan Viên
1. 1. Tư duy đối lập làm nên một Chế Lan Viên ưa triết lí...
Là một nghệ sĩ luôn trăn trở với nghề, Chế Lan Viên cũng có những suy nghĩ sâu sắc
về thơ. Ông nhấn mạnh yêu cầu súc tích, đột phá của thơ: “ Thơ là cô đúc, là thể “đóng”.
Thơ đòi cô đúc để rồi trong một phút nổ ra như tiếng sét. Đây không phải là chuyện dài hay
ngắn, đây là cuộc chạy đua một trăm mét cơ mà…Thơ ngắn nhưng đây là cái nhỏ bé của
nguyên tử”. Trong quan niệm của Chế Lan Viên chúng ta thấy ông nhấn mạnh tính trí tuệ
của tư duy thơ, tính đột xuất của sáng tạo thơ.
Chế Lan Viên là nhà thơ mạnh cả về tư duy hình tượng lẫn tư duy lôgic. Tư duy thơ
Chế Lan Viên mang dấu ấn cá nhân rất rõ. Nhà thơ đã vận dụng được sức mạnh của tư duy


khoa học biện chứng và phép đối, đặc biệt là đối nghịch của thơ truyền thống để tạo nên
những vần thơ gợi được những cảm nhận kỳ thú và suy tư sâu xa.
Có thể nói, lối tư duy theo hướng đối lập tương phản đã tạo nên một Chế Lan Viên ưa
triết lí trong thơ. Ông hay tận dụng tối đa các kiểu so sánh và đối lập để tạo hiệu quả “ chân lí
loé lên từ khoảng giữa hai đối cực”.
Đối lập trong thơ Chế Lan Viên cũng được sử dụng nhiều kiểu, nhiều cấp độ, đặt
trong nhiều không gian, thời gian khác nhau, lối tư duy ấy đã nâng tính triết lí trong thơ ông
lên mức độ đậm đặc, tạo thành phong cách riêng: “Trong các nhà thơ của thế kỷ chúng ta,

Chế Lan Viên vẫn là nhà thơ giàu chất triết lí hơn cả” ( Trần Thanh Đạm, Những vần thơ
triết lí của Chế Lan Viên qua những trang Di cảo) [ 13, tr 389].
Ngoài việc đi vào khai thác các quy luật thông thường có tính phổ biến, Chế Lan Viên
còn đi sâu khám phá các mặt cá biệt, phía đối lập nhằm phát hiện ra các vấn đề khái quát một
cách thông minh và hiệu quả, tạo những triết lí mới.
Bài “ Ngọc” là một bài thơ điển hình dày đặc các khái quát có tính triết lí ở dạng đối
lập. Một loạt các triết lí về sự hình thành của ngọc được trực tiếp nảy sinh từ các mệnh đề
tương phản đặt kề bên nhau: thô bạo của thuỷ triều – yên tĩnh; lăng nhục của bùn, tàn bạo của
sóng - phẩm giá ngọc; bể sâu - ngọc dữ;…
Tất cả, một cách tự nhiên được bộc lộ thông qua đối lập, tạo nên sự hài hoà về nội
dung cũng như hình thức. Tính triết lí trong thơ Chế Lan Viên vì vậy mà thêm phần sắc sảo,
có sức khơi gợi suy nghĩ từ phía người đọc.
Đương nhiên, tính triết lí trong thơ thi sĩ họ Chế không chỉ được tạo ra và được biểu
hiện bởi biện pháp đối lập. Sâu thẳm hơn, đó là nhờ một vốn văn hoá, triết học vô cùng sâu
rộng mà bản thân nhà thơ không ngừng tích luỹ, trau dồi. Chế Lan Viên từng nhấn mạnh: “
Làm thơ với trái tim, với chất sống, không đủ. Phải có văn hoá nữa. Quang năng không làm
hại gì đến các trang thơ và dù trang thơ viết về bóng đêm cũng nên viết nó dưới nguồn điện
sáng”. Nếu nói như Hồ Thế Hà: “ Nhà thơ nào có vốn văn hoá, vốn triết học càng cao và
biết vận dụng nó trong sáng tạo để hình thành kiểu tư duy độc đáo, đậm đặc mang cá tính
riêng thì được xem như nhà thơ trí tuệ, nhà thơ triết lí” thì Chế Lan Viên quả đúng là một
nhà thơ triết lí lớn.
1.2. …và hành trình sáng tạo của nhà thơ Chế Lan Viên
Chế Lan Viên tên thật là Phan Ngọc Hoan, sinh ngày 14/1/1920. Ngay từ khi xuất
hiện trên thi đàn lúc mới 16, 17 tuổi, ông đã làm kinh ngạc đông đảo người đọc. Và trong
suốt những năm sống, làm việc, sáng tác hầu như không ngừng, không nghỉ của mình, cả sau
lúc đi xa vào ngày 24/6/1989, Chế Lan Viên vẫn tiếp tục làm ngỡ ngàng, kinh ngạc bạn đọc
hôm nay. Chế Lan Viên có một khối lượng tác phẩm đồ sộ. Với tác phẩm đầu tay là tập Điêu
tàn, Chế Lan Viên đã trở thành một hiện tượng của phong trào thơ Mới - cuộc cách mạng lớn
trong thơ ca Việt Nam thế kỷ XX. Sau năm 1945, Chế Lan Viên viết Ánh sáng và phù sa,
Hoa ngày thường - Chim báo bão, Hoa trước Lăng Người, Hoa trên đá. Với những tập thơ

này, Chế Lan Viên đã chuyển ngòi bút sầu đau mang đậm chất hư vô, siêu hình trong Điêu
tàn sang những vần thơ giàu tính tư tưởng, triết lý sâu sắc, mới mẻ. Tập thơ “Ánh sáng và
phù sa” là một thành công của tác giả trên nhiều phương diện, đánh dấu bước đổi mới của
thơ ca Việt Nam lúc bấy giờ: “ Sau hai mươi lăm năm, kể từ Thơ Mới ra đời đến lúc “Ánh
sáng và phù sa”, thơ Việt Nam đã xuất hiện một thi pháp mới, một giọng điệu mới, một cách
nghĩ, cách cảm mới” [ 25, tr 112]
Suốt cả cuộc đời, Chế Lan Viên đã viết đến hơn 10 tập thơ, làm nên một đời thơ mạnh
mẽ, bề thế. Đó là chưa kể hơn 600 bài thơ trong các tập Di cảo xuất bản sau khi Chế Lan
Viên mất mà theo các nhà nghiên cứu văn học, chỉ riêng Di cảo cũng đủ làm nên một tầm
vóc thơ ca lớn.
Chế Lan Viên cũng là người phong phú trong hình thức biểu hiện. Ông là người tích
cực bậc nhất trong việc tìm tòi đổi mới dáng vẻ câu thơ và bài thơ thế kỷ XX. Ông viết rất


hàm súc (đặc biệt là các bài thơ tứ tuyệt) nhưng nếu cần, ông có thể mở rộng biên độ để tạo
nên những câu thơ dài có khả năng ôm trùm hiện thực:
Xanh biếc màu xanh, bể như hàng nghìn mùa thu qua còn để tâm hồn nằm đọng lại
Sóng như hàng nghìn trưa xanh trời đã tan xanh ra thành bể và thôi không trở lại làm trời.
(Cành phong lan bể, Ánh sáng và phù sa )
Chế Lan Viên sáng tạo nhiều cách ngắt nhịp, nhiều kiểu qua hàng, nhiều lối buông
vần cho phù hợp với cảm xúc nội tâm ( Bài Đời thường )
Chế Lan Viên là một tài năng chín sớm. Ông kế thừa tinh hoa của thi ca phương Đông
như thơ Đường, thơ Tống rồi thi ca phương Tây như thơ lãng mạn, thơ hiện thực, thơ siêu
thực. Ông có ý thức sâu sắc về vai trò nhà thơ trong đời sống hiện thực.
Hành trình sáng tạo của Chế Lan Viên gắn liền với sự biến đổi của cái tôi nhà thơ. Đó
là một quá trình phát triển liên tục trên cơ sở biến đổi, có kế thừa và sáng tạo.
1.3. Chế Lan Viên - sự vận động của một cái tôi nhiều đối cực
Đặc điểm quan trọng nhất của tư duy thơ là sự thể hiện của cái tôi trữ tình, cái tôi cảm
xúc, cái tôi đang tư duy. Phương thức tư duy của mỗi nhà thơ là không giống nhau. Nó còn
phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như: đặc điểm tâm hồn, cá tính sáng tạo của nhà thơ đó. Nếu

Huy Cận thường tư duy theo hướng “nhìn nhận con người, cuộc đời và thiên nhiên qua sự
sống cỏ cây hoá sinh vô tận” thì Chế Lan Viên có khuynh hướng nhìn sự vật từ hai bề đối
lập. Nếu “ ví von trở thành phương thức tư duy nghệ thuật cơ bản của Tố Hữu” thì với Chế
Lan Viên phương thức đó là đối lập. Khác với phong cách của những nhà thơ thường chỉ chú
ý đến hoà âm và muốn tìm đến sự hài hoà, Chế Lan Viên thích sử dụng những nghịch âm và
muốn chân lí loé lên từ khoảng giữa hai cực đối lập. Chính điều này đã tạo nên một mạch thơ
hết sức độc đáo không lẫn với bất cứ ai.
Khác với tư duy lôgic, thơ vốn tư duy bằng hình tượng nên nó có khả năng rộng rãi
cho sự tưởng tượng, liên tưởng (tương đồng và nghịch chiều). Lối liên tưởng nghịch chiều
trong thơ Chế Lan Viên xuất hiện khá đậm đặc và đây cũng chính là cơ sở cho biện pháp đối
lập tương phản. Nhờ đó, thơ mở ra nhiều chiều hướng suy tưởng, chấp nhận cả những điều
phi thực tế nhất.
Bản thân thi sĩ họ Chế là một cái tôi đầy phức tạp. Hãy nghe giây phút tự bạch của
nhà thơ:
“ Anh là tháp Bayon bốn mặt
Giấu đi ba, còn lại chính là anh”
Có thể nói, hình tượng cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên không phải là nhất
thành bất biến mà luôn có sự vận động giữa nhiều đối cực. Một hồn thơ vừa đi về thế giới hư
ảo tưởng tượng nơi Chiêm quốc xa xôi trong Điêu tàn lại vừa vận động đi về phía cuộc sống
thực của nhân dân trong Ánh sáng và phù sa. Một con người luôn đan xen nhiều tâm trạng:
thoắt vui, thoắt buồn, khi đau khổ lúc hạnh phúc, vừa thất vọng lại vừa hi vọng.
Nhìn tổng quát, chúng ta có thể thấy sự vận động biến đổi của cái tôi trữ tình trong
thơ Chế Lan Viên phát triển, biến đổi song hành cùng các chặng đường tư tưởng và sáng tác
của ông. Nếu xét theo chiều lịch đại, có thể chia làm 3 giai đoạn: Giai đoạn trước cách mạng
tháng Tám năm 1945, giai đoạn kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ và giai đoạn những
năm 80 trở về sau. Mỗi giai đoạn, c¸i t«i tr÷ t×nh có sắc thái riêng, có sự khác nhau thậm chí
phủ định nhau. Chính sự vận động của cái tôi đã dẫn đến sự thay đổi về quan điểm nghệ
thuật, quan niệm thẩm mỹ và hình tượng thơ.
1.3.1.Giai đoạn trước cách mạng tháng Tám 1945
Trước cách mạng, cùng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên là chủ tướng của nhóm thơ

Bình Định với cái tên Trường thơ loạn. Trước hiện thực bế tắc lúc bấy giờ, khi các thi sĩ khác
thoát li trong mộng tưởng, đắm mình trong thế giới tình yêu cá nhân, hay trốn mình vào cái
tôi rợn ngợp thì Chế Lan Viên lại chọn cho mình một khách thể thẩm mỹ mang tính hư cấusiêu hình – kinh dị: Thế giới của xương khô, sọ người, sự diệt vong của Chiêm Quốc.


Xa lánh nỗi buồn, Chế Lan Viên thoát ly triệt để thực tại để tìm giải thoát ở cõi siêu hình
bất tận: Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh
Một vì sao trơ trọi cuối trời xa
Đối với ông, cảm xúc thẩm mỹ lẫn đối tượng thẩm mỹ của thơ chính là nỗi đau khổ khôn
cùng của thi nhân trên cõi trần gian.
Trời hỡi trời hôm nay ta chán hết
Những sắc màu hình ảnh của trần gian
(Tạo lập)
Đọc “Điêu tàn”, ta thấy những đối cực luôn tồn tại trong con người Chế Lan Viên như một
phần máu thịt, không sao dứt bỏ được. Cái tôi trong Điêu tàn luôn phân cực: Mùa xuân về,
đất trời khởi sắc nhưng Chế Lan Viên vẫn còn loay hoay giữa hai tâm trạng buồn và vui:
“ Ta những muốn vui cười ta những muốn
Dẹp sầu tư, ca hát đón xuân tươi
Nhưng than ôi, xuân về trong nắng sớm
Mà lòng ta đông lạnh giá băng thôi
( Xuân về - Điêu tàn)
Tác giả Điêu tàn còn vẽ lên một cõi ta cho riêng mình. Cõi ta của Chế Lan Viên là
một thế giới vừa rộng lớn vô cùng nhưng dường như cũng hết sức bé nhỏ ( Cõi ta, Điêu tàn)
Cái tôi trong Điêu tàn nhiều mâu thuẫn dằn vặt trong nội tâm. Nó luôn được đặt trong
mối liên hệ với ngoại cảnh, do đó, tạo ra nhiều tương phản, đối lập. Cảnh vật càng rực rỡ tươi
sáng bao nhiêu thì lòng người lại càng chán nản u buồn bấy nhiêu .
Như vậy, đối lập đã được sử dụng triệt để trong Điêu tàn để biểu hiện một cái tôi
nhiều mâu thuẫn, một quan niệm nghệ thuật mang tính chất siêu hình và quan niệm thẩm mỹ
cái đẹp nằm ở cái buồn. Khảo sát thủ pháp đối lập được sử dụng trong tập “Điêu tàn”, chúng
tôi nhận thấy trong 36 bài thơ có đến 12 bài ( chiếm 33,3% ) sử dụng tương phản đối lập ở

nhiều cấp độ (Đó là những bài: Những sợi tơ lòng, Điệu nhạc điên cuồng, Ngủ trong sao,
Xuân, Cõi ta, Đừng quên lãng, Trên đường về, Tạo lập, Nắng mai, Những nấm mồ, Xuân về,
Chiến tượng ). Trong đó, có những bài sử dụng đối lập một cách dày đặc như: Trên đường về,
Những sợi tơ lòng, Chiến tượng,…
1.3.2.Giai đoạn kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ
Trong lúc Chế Lan Viên đang lạc vào cõi hư vô, siêu hình và ngày càng bi quan, bế
tắc vì chưa tìm được hướng đi cho đời, cho thơ mình, thì cách mạng Tháng Tám bùng nổ.
Chính cách mạng đã làm “Thay đổi đời tôi, thay đổi thơ tôi” như sau này ông từng khẳng
định. Từ một người trốn thoát thực tại, suy tưởng về thế giới huyền ảo, ông trở thành một
người hành động. Tập thơ Ánh sáng và phù sa ra đời vào năm 1960 đã đánh dấu một bước
ngoặt trong sự nghiệp thơ của Chế Lan Viên. Ánh sáng của Đảng và phù sa của cuộc đời đã
giúp ông chiến thắng được nỗi đau riêng để vươn tới niềm vui chung của dân tộc. Và từ đây,
những bài thơ hay nhất của ông lần lượt xuất hiện.
Có thể nói, chính sự đổi thay trong tư tưởng trong nhận thức của Chế Lan Viên dẫn
đến những thay đổi trong thơ. Ánh sáng và phù sa là một tập thơ gần như đối lập với Điêu tàn
dưới nhiều góc độ. Nếu Điêu tàn là một cực âm : chuộng gam màu u tối, dựng lên một thế
giới ma quái đầy xương khô sọ người, thế giới của nỗi buồn- sự mất mát thì Ánh sáng và phù
sa là một cực dương với gam màu tươi tắn, là hành trình về với sự sống, niềm vui, về với thế
giới rộng lớn của con người. Đọc Ánh sáng và phù sa ta thấy một thái độ phủ nhận quyết liệt
cái tôi cũ trong sự đối chiếu với cái tôi mới xuất hiện .
Có thể nói, Ánh sáng và phù sa là cột mốc đánh dấu sự chín muồi về tư tưởng và phong
cách của nhà thơ Chế Lan Viên, thể hiện bước chuyển biến bất ngờ với một quan niệm về thơ
mới mẻ, đánh dấu sự cách tân quan trọng. Khách thể thẩm mỹ của thơ ông giờ đây là Tổ
Quốc – Nhân dân - Cuộc sống. Từ cực đoan, thần bí, siêu hình, Chế Lan Viên chuyển sang
phạm trù thơ ca hiện đại, cách mạng.


Từ bỏ thế giới hư vô siêu hình cũ: “Ta là ai?” để đến gần với duy vật “ ta vì ai?”, Chế Lan
Viên cho ta thấy mục đích của thơ ông giờ đây đã khác xưa: thơ phải vì cách mạng, vì nhân
dân mà phục vụ, mà hướng tới.

Phủ định cái cũ nhưng đó không phải là sự phủ định sạch trơn, Chế Lan Viên vừa
quyết liệt đổi thay nhưng lại vừa nuối tiếc quá khứ và đôi khi cái cũ vẫn hiện về chập chờn
trong tâm tưởng.
Không chỉ quan tâm và bộc lộ quan niệm của mình về các vấn đề cốt lõi của nội dung thơ,
Chế Lan Viên là người sớm nhận ra một điều rất quan trọng của thơ: cần phải có giọng điệu
thơ thích hợp với thời đại mới:
Xưa tôi hát mà bây giờ tôi tập nói
Chỉ nói thôi mới nói hết được đời
(Sổ tay thơ)
Đó không chỉ giản đơn là các biện pháp nghệ thuật, mà sâu xa hơn, đó là bản chất của sự
thống nhất giữa nội dung và hình thức để tạo nên một bài thơ hay. Đó cũng chính là một đóng
góp của Chế Lan Viên vào lý thuyết thi pháp học hiện đại.
Sự thay đổi về quan niệm nghệ thuật, quan niệm thẩm mỹ như đã nói ở trên dẫn đến sự
thay đổi trong hình ảnh thơ Chế Lan Viên. Giờ đây, thơ ông nói nhiều đến niềm vui, đến nụ
cười: “ Khi trong lòng đã đúc triệu đồng vui”. Cùng với nó là một lòng yêu đời đến “ ngất
ngư”: Tôi yêu quá, cuộc đời như con đẻ
Nói Chế Lan Viên luôn tồn tại trong mình nhiều đối cực cũng là vì vậy: Một mặt ông
muốn quên đi con người xưa nhưng mặt khác, nó vẫn tồn tại trong ông và có dịp lại thể hiện
qua những câu thơ, những tứ thơ.
Tuy đối lập tương phản vẫn được sử dụng nhiều trong Ánh sáng và phù sa nhưng nó đã
nhường vị trí số một cho biện pháp so sánh.
Khảo sát tập thơ Ánh sáng và phù sa ta thấy các bài thơ có sử dụng đối lập: 13/69 bài (
chiếm khoảng 19%) còn biện pháp so sánh là 31/69 ( chiếm khoảng 45%).Rõ ràng, Chế Lan
Viên rất biết lựa chọn các phương tiện nghệ thuật để chuyển tải nội dung một cách thích hợp
nhất. Đó chỉ là thống kê trong một tập thơ. Trên thực tế, có những hình ảnh thơ trong Ánh
sáng và phù sa đối lập gay gắt với những hình ảnh thơ thuở Điêu tàn. Chúng tôi sẽ trở lại vấn
đề này ở phần sau để phân tích cụ thể hơn.
1.3.3. Giai đoạn những năm 80 trở về sau
Khi những trận đánh hào hùng lịch sử đã qua đi, Chế Lan Viên quay trở lại những suy
nghĩ về cái tôi của mình. Do vậy, trong Di cảo chúng ta bắt gặp một Chế Lan Viên trầm lắng

hơn, ông đã chuyển giọng:
“ Giọng cao bao nhiêu năm giờ anh hát giọng trầm”
Trầm giọng hơn nhưng cũng sâu sắc hơn, Chế Lan Viên lùi lại phía sau để suy tư về
cuộc đời và sự nghiệp, cái tôi lúc này hướng nội để chiêm nghiệm, triết lí những vấn đề có
liên quan đến con người.
Giờ đây, cái tôi trong Di cảo thơ không còn hướng tới cuộc sống tràn đầy tươi vui với
khát vọng cống hiến như trong Ánh sáng và phù sa nữa. Nó đã chọn cho mình một khách thể
thẩm mỹ khác đúng như nhận xét của Hồ Thế Hà: “Nếu ở thời Điêu tàn đó là một chủ thể
Cực đoan - Thần bí – Quái đản, tự dựng lên một khách thể Hư cấu- Siêu hình – Kinh dị, đến
thời 1945 – 1975 đó là một chủ thể Tái sinh- Tích cực – Giao hoà trước hiện thực mới của Tổ
quốc – nhân dân thì đến thời này, đó là một chủ thể Sống qua - Dự cảm - Triết lí với một
khách thể Đa diện – Đa chiều – Vi diệu” [16, tr 43-44].
Chọn chủ thể Sống qua - Dự cảm - Triết lí (đi sâu vào cái tôi cá nhân), trong Di cảo thơ,
Chế Lan Viên hay làm những cuộc giải phẫu trong thơ để tự mổ xẻ tâm hồn mình. Có khi,
ông còn muốn lộn trái mình ra như “đào lộn hột”: “Vỏ tâm hồn lộn tuốt
Cho thân thể phô bày”
( Lộn trái- Di cảo thơ I)


Con mắt ông nghiêm khắc đánh giá lại sự nghiệp thơ mình: Xưa, ông viết những câu thơ
tràn đầy khí thế, cổ vũ người ra trận thì nay chính ông lật lại mọi thứ. Ông trăn trở, đau xót
khi cho rằng người chịu trách nhiệm trước cái chết của những người lính là mình:
“Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2000 người đó?
Tôi! Tôi - người viết những câu thơ cổ võ
Ca tụng người không tiếc mạng mình trong mọi cuộc xung phong”.
Ông trăn trở day dứt vì bây giờ không có câu thơ nào:
“ Giúp người ấy nuôi đàn con nhỏ
Giữa buồn tủi chua cay vẫn có thể cười”
( Ai? Tôi?- Di cảo I)
Trong Di cảo thơ, ta thấy nỗi buồn được nhà thơ nhắc đến nhiều hơn là niềm vui. Nhưng

đó không phải là “nỗi buồn thế hệ” từng xuất hiện trong “Điêu tàn” mà là một nỗi buồn thấm
đượm vị chua chát. Nỗi buồn được khơi gợi từ cơ sở hiện thực: buồn vì cuộc đời với nhiều
đảo điên, buồn vì nghề: “ Vị trí nhà thơ như rác đổ thùng” và hơn hết là nỗi buồn vì biết
cuộc đời hữu hạn, biết mình đang trong hành trình đến lò thiêu:
“Ta trên đường đi đến lò thiêu
Cuộc hành trình nhẩn nha mà rất gấp”
( Lò thiêu – Di cảo thơ III)
Sự vận động của cái tôi trữ tình kéo theo sự thay đổi cả về nội dung và hình thức nghệ
thuật. Đặc biệt, nó có ảnh hưởng chặt chẽ đến phương thức tư duy của nhà thơ. Thời kỳ này,
qua những bài thơ, bài tiểu luận phê bình của ông, ta thấy những quan niệm nghệ thuật mới,
thoạt nhìn tưởng như trái ngược với trước đó. Những câu hỏi có tính chất triết học: “ ta là
ai?”, “ ta vì ai?” tưởng chừng đã được giải đáp trọn vẹn ở giai đoạn trước giờ đây được đào
xới lại. Nhà thơ tự vấn:
“ Ta vì ai? Về đâu? Hạt móc
Là ta chăng? Dòng sông là ta chăng? Tiếng khóc
Là ta chăng? Vì sao lạc phương trời
Là ta chăng? Ta chưa kịp trả lời
Thì sông đã cuốn ta vào bóng tối”
( Hỏi – Đáp)
Nếu nhìn khái quát cả ba tập Di cảo thơ, chúng ta có thể nhận ra khá rõ điều này: quan
niệm nghệ thuật, quan niệm thẩm mỹ của ông có nhiều thay đổi, thậm chí đối lập với các thời
kỳ trước. Chẳng hạn, nếu ở giai đoạn thơ chống Mỹ, Chế Lan Viên sung sướng tự hào biết
bao khi nhà thơ có sứ mạng vinh quang của một nhà thơ – chiến sĩ: “Vóc nhà thơ đứng ngang
tầm chiến luỹ / Bên những chiến sĩ ngoài đồng và hạ trực thăng rơi”, thì nay trở lại đời
thường, vị trí của nhà thơ trở nên thật khiêm tốn:
“Tôi chỉ là một nhà thơ cưỡi trâu
Đánh giặc cờ lau...”
(Cờ lau Đinh Bộ Lĩnh)
Và trong một hoàn cảnh xã hội đầy biến động phức tạp, các thang giá trị thay đổi đến bất
ngờ, có lúc ông đã phẫn uất thốt lên:

“Giờ là thế giới của xe cúp, tivi, phim màu ngũ sắc
Của quyền lực tuổi tên đốp chát
Vị trí nhà thơ như rác đổ thùng”
(Thời Thượng)
Nếu trước đây, ông đề cao, khẳng định và ước mong thơ mình thành “Tiếng sáo thổi
lòng thời đại/ Thành giao liên dẫn dắt đưa đường”, thì nay ở những năm tháng cuối đời, ông
thật sự xót xa, cay đắng nhận ra:
“Tôi chưa có câu thơ nào
Giúp người ấy nuôi đàn con nhỏ


Giữa buồn tủi chua cay vẫn có thể cười”
Để tiếp tục sáng tạo ở tâm thế mới của đời thường, Chế Lan Viên đã chủ động thay đổi
giọng điệu trang nghiêm xen vào giọng điệu cười cợt, giọng xót xa phẫn uất, xen lẫn giọng tự
trào hóm hỉnh, giọng độc thoại đan vào giọng đối thoại, giọng trữ tình thấm đẫm cảm xúc bên
cạnh giọng tự sự khách quan lạnh lùng, v.v...Nhưng nổi bật hơn cả vẫn là cái giọng trầm
buồn của một thi nhân đang trầm tư, chiêm nghiệm, triết luận về thế sự và con người.
Tổng kết lại cuộc đời thơ của Chế Lan Viên, chúng ta thấy : cái tôi trữ tình trong thơ
ông có lúc hướng ngoại, có lúc hướng nội nhưng ở khía cạnh nào nó cũng được đẩy lên đến
cực điểm.
Tóm lại, ở Chế Lan Viên cái tôi trữ tình rất phong phú và đa dạng nhưng chúng không
mâu thuẫn mà thống nhất với nhau và có sự chuyển hoá giữa các đối cực, có sự vận động,
sinh thành và phát triển. Những quan niệm nghệ thuật của Chế Lan Viên phản ánh một tư duy
triết học biện chứng, có phủ định, kế thừa và phát triển, bổ sung cho phù hợp tinh thần thời
đại và quy luật thơ ca. Sự phức tạp trong quan niệm và tư duy thơ của Chế Lan Viên là một
nghịch lý hợp lí kiểu triết học biện chứng chứng tỏ ông là nhà thơ lớn, chưa bao giờ tự bằng
lòng, thoả mãn với những gì đã có, trái lại luôn tìm tòi thể nghiệm để khẳng định cái mới.
Chương 2: Đối lập tương phản trong các chi tiết hình ảnh,
hình tượng thơ
2.1. Tương phản đối lập trong các chi tiết, hình ảnh thơ

Chế Lan Viên quan niệm: “Thơ nghĩ bằng hình ảnh”. Thế giới hình ảnh trong thơ
Chế Lan Viên vô cùng đặc sắc. Nó vận động và biến đổi cùng với sự vận động và biến đổi
của cái tôi trữ tình.
Để tạo nên các hình ảnh thơ độc đáo, Chế Lan Viên đã tận dụng tối đa thủ pháp tương
phản đối lập. Trong thơ Chế Lan Viên, chúng tôi nhận thấy có ba kiểu đối lập chính:
2.1.1. Kiểu 1: Tạo sự đối lập nhờ việc đặt hai sự vật hết sức khác biệt kề bên nhau.
Chế Lan Viên luôn biết vận dụng điểm khác biệt, thậm chí trái ngược nhau của sự vật để
tạo tương phản trong thơ, mang đến hiệu quả thẩm mỹ cao. Để tránh sự sáo mòn vốn là điều
tối kị trong nghệ thuật, đôi khi nhà thơ khá táo bạo đặt những sự vật hoàn toàn khác lạ kề bên
nhau :
“ Thức dậy vì tiếng bom
Bỗng gặp đêm trăng sáng”
Trăng và bom vốn là hai sự vật “xung khắc” nhau: trăng tượng trưng cho hoà bình, sự sống
còn bom vốn là biểu tượng của chết chóc huỷ diệt, chiến tranh. Vậy mà, nhà thơ đã đặt chúng
lại gần nhau để ý nghĩa triết lí loé sáng:
“ Chỉ màu trăng là có
Còn chiến tranh là không”
Câu thơ như lời khẳng định một niềm tin chắc chắn vào cái đẹp, cái thiện sẽ xua tan cái ác,
cái xấu.
Chế Lan Viên có khả năng nối kết những sự vật khác biệt lại gần nhau và tìm ra mối liên
hệ giữa chúng: gà rừng và bom là hai sự vật chỉ có duy nhất một điểm chung: “ Gà rừng đẻ
vào buổi trưa và bom cũng ném cùng thời điểm” nhưng từ đó tác giả lại liên tưởng đến một
hình ảnh thú vị:
“ Nó thì giết, ta thì cục tác
Giữa bom gầm, trứng cứ đẻ ra”
( Gà rừng đẻ - Di cảo I )
Với con mắt tinh tường của mình, Chế Lan Viên thường phát hiện ra những nghịch lí:
người dệt thảm thì mặc áo rách nhưng lại thêu thảm hoa:
“ Người dệt thảm mặc áo rách và cuộc đời xám xịt



Ấy thế nhưng cái nghề dệt mà, ta cứ dệt thảm hoa”
Áo rách - thảm hoa gợi sự liên tưởng sâu xa. Áo rách là của cuộc đời khó khăn vất vả
còn thảm hoa là kết tinh của sự khéo léo và trí tuệ của bàn tay người thợ. Phải chăng tác giả
muốn mang đến cho người đọc thông điệp: Cuộc sống dù thiếu thốn nhưng vẫn cần những
giá trị vật chất và tinh thần, vẫn luôn vươn tới cái đẹp, sự lạc quan vào tương lai.
Trong kiểu đối lập này, Chế Lan Viên cũng hay đặt cái đã có bên cái sẽ có, đặt cái
chưa có và cái cần có bên nhau. Ông cũng không khuôn mình trong những đối lập có sẵn mà
luôn hướng tới những đối lập mới, thú vị hơn, sâu sắc hơn:
“ Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn”
( Tiếng hát con tàu)
Nhà thơ cũng sử dụng đối nghịch để chỉ ra sự xảo quyệt của kẻ thù, đằng sau bộ mặt
giả dối đó, bản chất phi nghĩa của chúng hiện ra:
“ Khi chúng nói hoà bình là chúng đang ngắm bắn”
Không cần nói nhiều, chỉ bằng cách “nói ngược” tất cả bản chất của kẻ thù đã bộc lộ
một cách rõ ràng nhất.
Một điều đặc biệt là trong thơ Chế Lan Viên, hiện thực và lãng mạn, trí tuệ và cảm xúc
cứ đan chéo, trộn lẫn vào nhau bởi hình ảnh giàu sức tưởng tượng và vô cùng kì thú: “ triệu
tấn bom” đi với “ mặt trời hồng”:
“ Tên Tổ quốc vang ra ngoài bờ cõi
Ta đội triệu tấn bom mà hái mặt trời hồng”
Cách viết vừa táo bạo vừa tài hoa: Con người trong tư thế kỳ vĩ, vượt qua bom đạn
chinh phục mặt trời. Hình tượng thơ thật khoẻ khoắn và mạnh mẽ biết bao.
Đôi khi dùng những đối lập ngược nhau theo kiểu này, tác giả đã tạo sự đối chọi đa
dạng trong cái bình thường đơn điệu, tăng cường ý nghĩa và đào sâu năng lực suy nghĩ:
“ Cân những Thái Sơn lại là chiếc hôn nhẹ tựa lông hồng”
Hay: “ Một cái hôn cân vạn ngày lửa đạn”
Đặt Thái Sơn bên cạnh chiếc hôn, nặng bên cạnh nhẹ, Chế Lan Viên không triết lí về
sự nặng nhẹ đơn thuần. Ông đã thực hiện một phép “ cân” kì diệu và mở ra cho người đọc

nhiều hướng hiểu, hướng cảm nhận khác nhau về một hình ảnh thơ đa nghĩa.
Cũng rất phổ biến trong thơ Chế Lan Viên là những hình ảnh đối lập, chuyển hóa :
- "Xưa phù du mà nay đã phù sa"
- "Xưa bay đi mà nay không trôi mất."
- "Người dưới vực sâu vẫn cứu kẻ trên bờ"
- "Nếu dưới vực sâu còn dũng khí"
- "Ta nấu xích xiềng ta làm súng đạn"
Có thể nói, kiểu đối lập này được tác giả sử dụng khá thành công trong những tìm tòi sáng
tạo mới. Nó tránh được sự khô khan tẻ nhạt nhờ những hình ảnh thơ bổ sung lẫn nhau.
2.1.2. Kiểu 2: Liên tưởng nghịch chiều theo một cặp song trùng
Trong kiểu này, tác giả thường đi sâu khai thác những cặp đôi đối nghịch thường đi liền
với nhau. Ví như: Vui - Buồn, May - Rủi, Ánh sáng – Bóng tối, Hạnh phúc – Tai ương, Hi
vọng - Thất vọng, Hữu hạn – Vô hạn, Trước – Sau, Cay đắng - Ngọt ngào…
Bắt nguồn từ lối tư duy quen nhìn sự vật từ hai chiều đối lập, Chế Lan Viên luôn đặt các
đối cực lại gần nhau để triết lí, để ý thơ bay lên từ đó. Trong thơ ông, ánh sáng không bao
giờ đi riêng lẻ mà nó luôn gắn với bóng tối như một cặp bài trùng. Chế Lan Viên viết nhiều
về cặp đôi này. Có khi ông dùng để diễn tả quy luật thời gian như là sự luân phiên của hai
khái niệm đối lập: ngày – đêm:
“Đừng buồn đêm phù du
Đã có ngày bất tử”
(Đêm và ngày – Di cảo III)


Đôi khi tác giả còn sử dụng cặp phạm trù ánh sáng - bóng tối để ý thức về sự mong
manh ngắn ngủi của đời người ( Số phận – Di cảo III)
Trong“Ánh sáng và phù sa”, đúng như tên gọi của tập thơ, ánh sáng xuất hiện gần như là
chủ âm trong sự đối chiếu với bóng tối của quá khứ. Nếu ở tập Điêu tàn, ta thấy bóng đêm
xuất hiện tràn ngập trong tập thơ, với 20 trên tổng số 36 bài – chiếm hơn 55,5% thì thơ Chế
Lan Viên thời kì này nói nhiều đến sự lấn chiếm của ánh sáng đối với bóng tối:
“ Nếp rêu con cũng chói loà ánh sáng

Khi mặt trời tư tưởng rọi hang sâu”
( Khi đã có hướng rồi – Ánh sáng và phù sa )
Tác giả cũng thường dùng Ánh sáng và bóng tối để nói về con người cũ và con người
hiện tại của mình, khẳng định sự vận động là từ bóng tối đến ánh sáng :
“Đừng đuổi thơ tôi vì một chút chiều tà nào ngả bóng
Hãy kiên lòng, sẽ thấy nắng mai lên”
( Nhật kí một người chữa bệnh, Ánh sáng và phù sa )
Bóng đêm từng được biết đến như là xứ sở của Đất chết, của Lãng Quên. Đến “ Di cảo
thơ”, bóng tối được nhắc đến như một hiện thân của cái chết đang ngày càng gần kề:“ Anh
chỉ là ngọn đèn con con/Bỗng dưng phụt tắt / Thế là tối om”
Nét tư duy sáng - tối của Chế Lan Viên thật sự đa dạng. Qua thơ ông, ta thấy sáng và tối
giao tranh nhau, khi thì phần thắng thuộc về bên này khi thì phần thắng thuộc về bên kia. Từ
cặp đôi đối nghịch này, tác giả đã rút ra được nhiều quy luật về nhân sinh và thế sự.
Một trong những cặp đối lập xuất hiện nhiều trong thơ Chế Lan Viên là vui - buồn. Là
một nhà thơ ưa triết lí, Chế Lan Viên rất hay chiêm nghiệm về những sướng- khổ đời người:
“ Hạnh phúc đến thình lình và ở thế đơn côi
Còn tai ương thì dồn dập đánh vu hồi”
( Hai chiều- Di cảo I )
Điều đáng chú ý là những câu thơ chiêm nghiệm về vui - buồn, hạnh phúc - nỗi đau, đắng
cay - ngọt ngào xuất hiện nhiều và với mật độ rất lớn trong tập “Ánh sáng và phù sa”. Theo
đây, nỗi buồn, đắng cay thường gắn với “hôm qua” và đặt trong thế tương phản với “ hôm
nay”:
“ Bỗng sau đau thương. Lại oà hạnh phúc
Hôm qua đắng miệng. Mà nay ngọt ngào”
Có khi tác giả triết lí nỗi đau và hạnh phúc của con người thông qua hình ảnh con trai ngọc.
Con trai chỉ có một viên ngọc nhưng con người thì luôn có hai hạt ngọc: một là nỗi đau và
một là hạnh phúc. Cuộc sống của con người là sự luân chuyển giữa hai thái cực đó: đi đến
viên ngọc sau cùng rồi quay trở lại viên đầu tiên. Nỗi đau và hạnh phúc làm nên cuộc sống và
đó cũng là quy luật tất yếu đời người: “ Hết cơn bĩ cực đến hồi thái lai”.
Thơ Chế Lan Viên là vậy, ông luôn bám vào một cặp đối lập để liên tưởng nghịch chiều

tạo nên một ý thơ kì thú, hợp lí trong sự phi lí. Những câu thơ kiểu như: “ Che nỗi đau trong
bóng nụ hoa cười”, “ Trút tiếng thở dài vào câu thơ ngắn”, “ Lửa hoan lạc một giây, tro cay
đắng một mùa”, “ Cuộc hành trình nhẩn nha mà rất gấp”,…ta thấy xuất hiện hàng loạt trong
thơ Chế Lan Viên , không thể kể hết.
Tóm lại, những liên tưởng nghịch chiều này tuy không tạo nên sự bất ngờ với những hình
ảnh thơ mới mẻ như kiểu trên nhưng cách đặt vấn đề của tác giả tác động thẳng vào nhận
thức của người đọc và do đó tác dụng của kiểu này là trực diện. Hơn nữa, qua những cặp
song trùng, triết lí thơ Chế Lan Viên được đúc kết dưới dạng chiêm nghiệm có sức khái quát
cao.
2.1.3. Kiểu 3: Đối lập tương phản thuận chiều
Không phải tất cả những cực đối lập đều tương phản với nhau quyết liệt. Đôi khi Chế Lan
Viên đi tìm sự tương đồng giữa chúng. Từ hai sự vật trái ngược nhau: Sóng luân hồi biến
động và muối tĩnh tại tác giả tìm ra điểm chung giữa chúng:


“ Sóng luân hồi biến động buồn hơn hay muối tĩnh tại buồn hơn

Ôi muối hay sóng đều vui, chớ còn gì buồn hơn Vạn Pháp đã Qui Tôn”
( Qui Tôn – Di cảo III)
Đôi khi nhà thơ còn muốn đi tìm mẫu số chung giữa sương trên hoa - lửa trong lò và nhận
ra:
“ Có thể cả hai thứ đều là tro, đều là thơ, là tình ái nữa
Có lúc sương cho anh một tâm hồn cháy lửa
Và lửa khi tàn vẫn để lại những màu hoa”
( Mẫu số - Di cảo II)
Cách nói của tác giả thể hiện những suy nghĩ rất độc đáo, giàu chất suy tưởng. Kiểu đối
lập này đôi khi rất khó nhận ra vì hình ảnh thơ kín đáo:
“ Giữa chiều náo nhiệt phố phường
Bỗng nhớ ngàn cao Yên Tử”
Sự tương phản về không gian ở đây ( phố phường – ngàn cao) thực chất là sự tương phản

giữa cõi trần và cõi Phật, giữa cái náo nhiệt đời thường và cái tĩnh lặng mênh mông của ngàn
cao, làm nổi bật bầu không khí tĩnh lặng của nơi vốn được coi là cõi siêu thoát, cõi Phật: Yên
Tử.
Những thi nhân xưa thường sử dụng đối lập để tạo tương đồng , kiểu như:“ Ai bảo ta say,
say vẫn tỉnh/ Ta cười người thức, thức mà mê”
Nhưng đến Chế Lan Viên, sự vật, sự việc đã được mở rộng biên độ với những mối quan
hệ chồng chéo ( tro mềm >< đá rắn; tro mềm + đá rắn >< lửa cười ) trong câu:
“ Tro mềm và đá rắn
Đều xa với lửa cười”
( Tiếng thở dài – Di cảo III )
Như vậy, trong kiểu này, ta có thể rút ra công thức sau:
A tương phản với B và cả hai ( có điểm chung là ) đối lập với C.
Chế Lan Viên không chỉ sử dụng đối lập để tạo sự tương phản mà ông còn tìm thấy cái
tương đồng giữa các mặt đối lập. Với kiểu đối lập này, Chế Lan Viên tỏ ra là một nghệ nhân
cao tay, khiến cho nghệ thuật sử dụng phép đối lập của ông trở nên đa dạng, phong phú, lung
linh sắc màu. Kiểu ba tuy chiếm một số lượng nhỏ nhưng chúng đã góp phần thể hiện một
cách sâu sắc những ý tưởng đan lồng, phức tạp của nhà thơ. Đây cũng là một sáng tạo mới
của Chế Lan Viên, giúp ông dễ dàng thâu tóm tất cả trong một ý thơ.
2.2. Tương phản đối lập trong các hình tượng thơ
Tư duy thơ còn là sự khôi phục và sáng tạo ra các biểu tượng trực quan. Những quan
niệm về thơ, về nhân sinh, thời đại sẽ khiến nhà thơ chú ý hơn đến loại biểu tượng này hay
biểu tượng khác. Có thể nói, tìm hiểu tư duy thơ cũng chính là tìm hiểu sự vận động của hình
tượng thơ.
2.2.1. Hình tượng Chiêm quốc
Theo từ điển Bách khoa tiếng Việt wikipedia, hình tượng có nghĩa là: “Sự phản ánh hiện
thực một cách khái quát bằng nghệ thuật, dưới hình thức những hiện tượng cụ thể, sinh
động, điển hình, được nhận thức trực tiếp bằng cảm tính”. Tuy nhiên, hình tượng Chiêm
quốc trong Điêu tàn chủ yếu là sản phẩm của trí tưởng tượng. Thống kê cho thấy trong
tập Điêu tàn, Chế Lan Viên nhắc lại, hoài nhớ về đất nước Chiêm Thành trong 12 trên tổng
số 36 bài thơ, chiếm khoảng 33,3%.

Ngay trong hình tượng Chiêm Quốc tác giả cũng xây dựng nó ở nhiều khía cạnh khác
nhau: thái bình - chiến tranh, thịnh trị - hủy diệt. Khi thì Chiêm quốc hiện lên với những
hình ảnh kì dị , rùng rợn của cõi âm khi thì nó hiện lên qua những hình ảnh thơ hư ảo, lúc này
là cảnh u buồn ảm đạm nhưng ở trang khác cảnh vật lại tươi tắn sáng trong
2.2.2. Hình tượng Tổ quốc


Tổ quốc là hình ảnh bao trùm trong toàn bộ thơ Chế Lan Viên sau cách mạng. Nó
hiện lên dưới nhiều tên gọi khác nhau: Việt Nam, sông núi, đất nước, non sông…Và qua mỗi
tập thơ, hình ảnh Tổ quốc cũng có sự vận động, phát triển, hoàn thiện.
Những ngày kháng chiến chống Pháp, Tổ quốc hiện lên với một dáng vẻ bất khuất
kiên cường, tràn ngập một vẻ anh hùng, dũng cảm:
Việt Nam chôn rau cắt rốn giữa rừng
Việt Nam những ngày nguyên tử vẫn xông lên hàng đầu với gậy tầm vông
Việt Nam ngày nay đã ra đứng trước thế giới, trước mọi người
( Chào mừng- Gửi các anh )
Khi kháng chiến thắng lợi, Tổ quốc như thay da đổi thịt, hồi sinh với sức sống mới,
tươi đẹp và lộng lẫy:
Tâm hồn tôi khi Tổ quốc soi vào
Thấy ngàn núi trăm sông diễm lệ
( Chim lượn trăm vòng – Ánh sáng và phù sa )
Bên cạnh những vần thơ với cảm hứng tự hào, ca ngợi Tổ quốc, Chế Lan Viên cũng
có những vần thơ nói về sự hi sinh mất mát và bao giờ cũng vậy, cái cảm giác đau thương
đến nhức nhối luôn được tạo ra bằng hình ảnh đối lập gay gắt : Nửa nước hòa bình/ Nửa
nước chiến tranh/Cứ trong hai câu thơ Việt Nam/Một còn đang rách xé/Cứ trong hai dòng
sông dãy núi Việt Nam/Một đang cày lên vì bom đạn Mỹ (Đừng quên- Hoa ngày thường,
chim báo bão)
Khác với nhà thơ Tố Hữu thường đi sâu miêu tả tâm hồn Việt Nam, tính cách Việt Nam
qua một số nhân vật cụ thể: Lượm, mẹ Tơm, mẹ Suốt, chị Lý,…Viết về Tổ quốc, Chế Lan
Viên hay sử dụng yếu tố chính luận, nhìn sự vật trong quá trình phát triển và chuyển hóa. Tác

giả làm ta mê say vì tính chất kì vĩ của dân tộc ta, thời đại ta. Cách nhìn, cách nói và cách
dùng những đối lập táo bạo, những hình ảnh màu sắc chói lọi làm gợn lên trong lòng người
đọc những ý nghĩa tiềm ẩn trong sự vật hiện tượng:“ Bến phà kia ta qua lại bao lần /Đêm nay
ngỡ có gì không hiểu nổi./Dòng sông ấy không phải sông ấy nữa,/Từng ngọn sóng, đầu lau
chất chứa/Những bão bùng và những chiến công »
Có thể thấy rằng, khi nói về Tổ quốc, dân tộc, cảm hứng thơ Chế Lan Viên luôn phong phú,
tươi mới đồng thời trí tuệ ông luôn thể hiện rõ sức phát hiện đào sâu.
2.2.3. Hình tượng Bác Hồ
Hình tượng Tổ quốc luôn là sự gắn bó không tách rời với hình tượng Bác Hồ. Chính Bác
đã tìm đường cứu nước, cứu dân tộc thoát khỏi vòng nô lệ, làm đất nước hồi sinh. Trong thơ
Tố Hữu, hình ảnh Bác bao giờ cũng gắn bó gần gũi với hình ảnh non sông đất nước và bước
tiến của dân tộc, gần gũi với số phận của mỗi người dân Việt Nam.Còn Chế Lan Viên, qua sự
nghiệp của Bác, ông thấy “Người thay đổi hồn tôi, Người thay đổi thơ tôi”.Ông nhấn mạnh
sự hồi sinh của cá nhân mình dưới ánh sáng của Đảng, của lãnh tụ.
Chế Lan Viên hiểu rõ mối quan hệ biện chứng giữa Tổ quốc và cá nhân, giữa lãnh tụ và
dân tộc. Nhiều người nói lên công ơn Bác qua một sự việc cụ thể ( một bữa cơm, một bát
muối trắng ngần,…) còn Chế Lan Viên lại kể về một quá trình. Có thể nói, “Người đi tìm
hình của nước” không nhằm xây dựng hình tượng Bác Hồ mà là nói về Bác, nghĩ về Bác.
Có thể nói, khi xây dựng hình tượng lãnh tụ, nhà thơ thường đối chiếu cái lớn lao , cái cao
cả vị tha của Người với cái tầm thường nhỏ bé vị kỉ của cá nhân mỗi người để từ đó làm nổi
bật sự vĩ đại của hình tượng.
2.2.4. Hình tượng Ánh sáng
Ánh sáng trong thơ Chế Lan Viên luôn được đặt trong mối quan hệ với bóng tối nên nó
càng rực rỡ, chói lòa. Ánh sáng ở đây chính là ánh sáng của cách mạng của cuộc đời mới xuất
hiện dày đặc trong hai tập thơ “ Ánh sáng và phù sa” và “ Hoa ngày thường, chim báo bão”.
Trong tập “ Ánh sáng và phù sa”, Chế Lan Viên nhắc nhiều đến ánh sáng dưới nhiều
hình thức khác nhau. Đó là ánh sao vàng trong bài “ Cờ đỏ mọc trên quê mẹ”, đó là ánh nắng
trong “ Cái vui bây giờ”, là ánh dương trong bài “ Chim lượn trăm vòng”...



Ánh sáng còn là ánh trăng tròn dịp “ Tết trung thu”, là “ Điện và trăng”, “ trăng”,…là
vầng trăng trong “ Tiếng hát con tàu”….
Đặt ánh sáng bên cạnh bóng tối, nhà thơ cũng muốn nói về cuộc đấu tranh giữa hai mặt
của tâm hồn mình. Đôi khi Chế Lan Viên còn dùng hình tượng ánh sáng để nói về cuộc đời
mới. Tóm lại, bên cạnh hình tượng cái chết, hình tượng ánh sáng thường được lặp đi lặp lại
và thường mang những ý nghĩa biểu tượng khác nhau.
2.2.5. Hình tượng Cái chết
Thơ Chế Lan Viên nói nhiều đến cái chết. Đây là một hình tượng xuyên suốt nhiều
tập thơ của ông. Ngay từ thời Điêu tàn, cõi chết đã ám ảnh ông và cho đến khi cuối đời, Chế
Lan Viên đã thể hiện nhiều suy tư triết học Tồn tại – hư vô, sống - chết.
Ở mỗi giai đoạn, cái chết được nhìn nhận ở những góc độ khác nhau lúc thì thống
nhất nhưng cũng có lúc đối lập với các giai đoạn khác. Và hình tượng cái chết luôn được đặt
trong mối quan hệ so sánh đối chiếu với sự sống.
Trước hết, hình tượng cái chết được cảm nhận trong sự đối lập với tình yêu và sự
sống. Chế Lan Viên ví nó như dòng suối đen, là sự lãng quên trong im lặng, là “ cuộc chiến
tranh màu trắng của tâm hồn”, có khi ông ví cái chết như “cuộc hành trình của bầy voi đi về
phía vầng trăng”
Thuở Điêu tàn, Chế Lan Viên tìm đến với cõi âm, với cái chết như một phương thức
để thể hiện niềm mong muốn được sống giữa thế giới Chiêm quốc. Trong “Điêu tàn”, tuy tác
giả nhắc nhiều đến cái chết nhưng nó không bi luỵ mà mang một vẻ đẹp tràn trề sinh khí. Có
thể nói, tác giả dựng lên cái chết để khẳng định sự bất diệt của nước non Chiêm.
Thuở Ánh sáng và phù sa, Chế Lan Viên lạc quan khẳng định: Cái sống vinh
quang đang giết dần cái chết ( Nay đã phù sa ). Cảm hứng ca ngợi sự sống đã khiến tác giả có
cái nhìn khác trước. Hình tượng cái chết trong kháng chiến đó là một cái chết vẻ vang, cái
chết có thật nhưng trở thành bất tử. Trong “ Di cảo”, cái chết hiện lên âm thầm, có khả năng
tàn phá con người. Đó là cái chết mang màu sắc buồn thỉu, cái chết buồn, cái chết tủi. Sự ám
ảnh về cái chết, cõi hư vô thể hiện rất đậm đặc trong “ Di cảo”. Có thể nói, cảm xúc của Chế
Lan Viên về thời gian sống là định hướng lớn nhất cuốn hút tư duy thơ của ông những năm
cuối đời. Nhà thơ „ lên dây đồng hồ”, “ nghe tiếng gà gáy”… đều bị mặc cảm là cái quỹ thời
gian sống đang vơi đi một cách đáng sợ.

Cũng như trong “Điêu tàn”, hình ảnh thiên đường, địa ngục, vạc dầu,…xuất hiện rất
nhiều lần. Hình ảnh cái chết, cảm giác về sự huỷ diệt, sự tiêu tan, cảm giác về ngày tận số
làm nhiều bài thơ ở trong “ Di cảo” trở nên buồn thảm. Có điều, so với “Điêu tàn” thì buồn
đau trong “ Di cảo” có cơ sở hiện thực hơn.
Chương 3: Tương phản đối lập trong nghệ thuật xây dựng thời gian và không gian
3.1 Đối lập trong không gian
Mỗi nhà thơ có một cách cảm nhận về không gian khác nhau. Nếu thơ Huy Cận là nỗi ám
ảnh về một không gian vũ trụ, không gian trời rộng sông dài xuyên suốt và nhất quán thì
không gian trong thơ Chế Lan Viên đa dạng hơn.
3.1.1 Cặp 1: Không gian thực của cõi trần gian – Không gian tưởng tượng của Chiêm
quốc
Nhìn chung, các nhà thơ trước cách mạng thường dựng lên sự đối lập giữa hai thế giới
như là trạng thái phổ biến của thời đại: Một thế giới thực tại đầy đau khổ, ưu phiền với những
bế tắc không sao giải quyết nổi và một thế giới khác trong mộng tưởng tràn ngập niềm vui và
hạnh phúc. Với Chế Lan Viên, thế giới tưởng tượng ấy là thế giới Chiêm quốc với xương khô
và sọ người.
Đọc Điêu tàn, niềm ám ảnh về không gian dường như bao bọc lấy người đọc. Cảm xúc về
sự khác biệt giữa hai thế giới thực tại và mộng tưởng đã hướng tác giả xây dựng hai hình


tượng không gian hoàn toàn trái ngược nhau: một không gian thực và một không gian ảo, một
không gian chính là những cảnh- vật - việc đang diễn ra trước mắt tác giả và một không gian
do trí tưởng tượng của tác giả tạo ra. Một không gian Người yêu đến tha thiết còn không gian
kia Người muốn trốn lánh, chối bỏ.
Trong con mắt của tác giả, đến với thế giới Chiêm Quốc chính là “ trên đường về”, về với
cội nguồn đang vẫy gọi. Đối lập hiện lên giữa cảnh huy hoàng trong quá khứ và cảnh tượng
điêu tàn thời hiện tại càng làm cho tâm trạng buồn thương nhớ tiếc của tác giả tăng lên, tạo sự
ám ảnh khôn nguôi về sự diệt vong của một nền văn minh rực rỡ.
Không gian Chiêm quốc luôn được đặt trong thế đối lập với cõi trần gian. Nếu Tháp
Chàm vận động theo chiều suy tàn, bị thời gian huỷ diệt dần dần thì cõi trần gian hiện lên với

những cảnh vui tươi, tràn đầy sức sống.
Có thể nói, trên từng trang giấy nhỏ trong Điêu tàn, Chế Lan Viên đã dựng lên thế giới hư
ảo của “những chiếc sọ người”, “mồ không”, “xương khô”, “đám ma”, “hồn trôi”, “bóng tối”,
“đêm tàn”…Tất cả được đặt trong mối quan hệ đối lập cực đoan với cảnh vui tươi rộn rã, tràn
đầy hương sắc, ríu rít tiếng chim của cuộc đời thực
3.1.2 Cặp 2: Không gian cái tôi nhỏ bé– Không gian cái ta cộng đồng
Nếu không gian trong thơ Tố Hữu phần lớn là không gian của cái Ta chung, không
gian cộng đồng thì Chế Lan Viên đi sâu vào thế giới của cái Tôi .Với tư cách là một nhà thơ
đầy quyết liệt trong sự phủ nhận cái tôi cá nhân cũ, khẳng định cái tôi mới – cái tôi hoà hợp
với cộng đồng, có thể nói, trong thơ Chế Lan Viên, cái tôi cũng là một phạm trù không gian
chiếm giữ một vị trí riêng. Ta thấy nhà thơ thường đối lập không gian nhỏ bé, chật hẹp của cá
nhân mình với cái mênh mang rộng lớn của dân tộc, đất nước:
Đất nước mênh mông, đời anh nhỏ hẹp
Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi?”
( Tiếng hát con tàu- Ánh sáng và phù sa )
Chế Lan Viên cảm nhận một cách thấm thía sự nhỏ hẹp của cái tôi trong sự đối sánh với
những người đang sống vì người khác. Và nhận ra rằng : Cuộc sống cá nhân gò bó và tầm
thường của một lớp người với quan niệm: “Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp / Một mái
nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn” tương phản với cuộc sống của Bác- Người đi tìm hình của
nước, người đấu tranh không biết mệt mỏi cho nhân dân, người “đánh thức tâm hồn dân tộc”.
Trong khi đó, không gian cái ta không chỉ là những trận tuyến đánh quân thù đó còn
là những vùng đất mến yêu của Tổ quốc đang kêu gọi dựng xây: Những địa danh Hồng
Quảng, Hồng Gai, Cẩm Phả, Cửa Ông,… được trìu mến nhắc tên trong bài thơ “ Cành phong
lan bể”
Tóm lại, không gian cái tôi trong thơ Chế Lan Viên có sự đối nghịch với không gian
cộng đồng, không gian cái ta với nhiều cấp độ. Khi nghiên cứu về cặp không gian này, chúng
ta cũng thấy hướng vận động của cái tôi nhà thơ, đó là “ từ chân trời của một người đến với
chân trời tất cả”.
3.1.3 Cặp 3: Cặp không gian lịch sử hào hùng – Không gian đời thường
Khi những trận đánh đã qua đi cùng với lịch sử, không gian chiến luỹ cũng dần dần

biến mất để nhường chỗ cho không gian đời thường cùng với nó là sự trở về của cái tôi tác
giả.
Di cảo thơ đã mở ra sự thay đổi lớn trong mạch thơ Chế Lan Viên : Từ khai thác lịch
sử dân tộc, Chế Lan Viên có xu hướng đi về phía thế sự - đạo đức. Từ sự chú ý “ khía cạnh
anh hùng” chuyển sang “khía cạnh đời thường”. Thơ ông mở ra một không gian mới: cái
không gian công cộng- không gian xã hội thiêng liêng cao quý nhất là không gian chiến
trường đã nhường chỗ cho không gian đời thường, từ không khí thời chiến, thơ đã tìm về
không khí thời bình. Không gian lúc này chuyển từ rộng sang hẹp: không gian những trận
tuyến chuyển sang một góc sân, một khoảnh vườn( Cảnh điền viên).Có khi là một ngọn đèn,
một trang giấy ( Bộ ba)


Đọc Di cảo thơ, độc giả thấy Chế Lan Viên không ít lúng túng trong những mối quan
hệ về nhân tình thế thái của đời thường. Chính nhà thơ cũng phải đối mặt với cuộc sống đời
thường khó khăn vất vả với gánh nặng cơm áo đè lên vai. Không gian thu hẹp lại trong
những chuyện vụn vặt tầm thường, những lo toan, may rủi thăng trầm trong cuộc sống khiến
đôi cánh thơ không thể cất lên được.
Tâm hồn thi nhân vốn nhạy cảm với sự thay đổi của thời cuộc và vì vậy, ông cảm thấy
vị trí của nhà thơ từ chỗ đứng “ngang tầm chiến luỹ” thành ra “ như rác đổ thùng”. Cuộc
sống thiên về vật chất còn tâm hồn bỗng dưng trở thành món hàng bị ế, không ai mua, nhà
thơ phải “Đổi nghề”
Tóm lại, qua ba tập Di cảo thơ , ta thấy không gian đời thường xuất hiện dày đặc, đan xen
với nó hay nói đúng hơn, đối sánh với nó là một không gian lịch sử bi hùng. Sự đối sánh đó
đã tạo nên những đối lập gay gắt giữa cái cao cả và cái thấp hèn, cái trác việt và cái thô kệch,
cái vĩnh hằng và cái nhất thời, cái giá trị thật sự và cái hư danh.
3.2. Đối lập trong thời gian
Là một nghệ sĩ vốn trăn trở rất nhiều về thời gian, Chế Lan Viên đã dành một lượng thơ
không nhỏ để viết về đề tài này. Thời kì đầu làm thơ, Chế Lan Viên hay quay về với không
gian Chiêm quốc và gắn liền với thế giới ấy là một thời gian quá khứ xa xôi được đặt trong
mối liên hệ với thực tại.

Trong thơ Chế Lan Viên, quá khứ, hiện tại và tương lai luôn luôn được đối chiếu cặp đôi
cặp ba với nhau, có khi được xen kẽ, đan lồng vào nhau và cùng có chung một nội hàm, cùng
biểu thị một nội dung: Thời gian là sự huỷ diệt: “Cả Dĩ Vãng là chuỗi mồ vô tận/Cả Tương
Lai là chuỗi huyệt chưa thành/Và Hiện Tại, biết cùng chăng bạn hỡi/Cũng đương chôn lặng
lẽ chuỗi ngày xanh!” ( Những nấm mồ - Điêu tàn)
Chế Lan Viên rất chú trọng khắc hoạ cái ngày hôm nay như một tiêu điểm ngời sáng quy
tụ được hình bóng quá khứ và viễn cảnh tương lai:
“ Bóng ngày nay che lên đầu ngày mai hạnh phúc”
( Giữa tết trồng cây – Ánh sáng và phù sa )
Cảm nhận về thời gian của Chế Lan Viên luôn hiện lên trong thơ như một hệ thống vừa
nhất quán vừa phong phú đa dạng với những biểu hiện khác biệt qua các thời kì sáng tác khác
nhau. Nhưng thường nó nằm trong dạng cấu tứ cơ bản là xưa – nay ( trục liên tưởng đi về quá
khứ) và cũng có khi là nay – mai ( trục liên tưởng hướng tới tương lai ) hoặc đi về linh hoạt
ngược xuôi từ thời điểm hiện tại.
Chế Lan Viên có cách nghĩ về thời gian bằng cái nhìn so sánh đối lập. Nói cách khác,
chính tư duy đối lập đã chi phối đến cảm quan thời gian trong thơ ông : thời gian là tác nhân
xui nhớ mà cũng có thể làm quên, thời gian vô nghĩa khi xuôi chảy vô tư nhưng lại rất có ý
nghĩa khi đọng lại ở sự nghiệp, thời gian tàn phá nhưng cũng kiến thiết.
Để tạo sự tương phản, Chế Lan Viên thường đặt hiện tại và quá khứ kề bên nhau (
chúng tôi nhận thấy cặp hôm nay- ngày mai được đặt trong thế tương đồng nhiều hơn ).
Tương phản về thời gian lớn nhất trong thơ Chế Lan Viên là giữa hôm qua – hôm nay, xưa
kia - bây giờ.
Quan niệm thời gian mang bản chất tiêu cực là đặc trưng cơ bản của thơ Chế Lan Viên
thời Điêu tàn. Xưa, thời gian là “ tên phá hoại độc ác” của cuộc đời còn giờ đây, thời gian là
nhân tố tích cực. Đó là thời gian hiện thực - lịch sử - sự kiện mang kích thước vĩ mô. Thời
gian đi những bước cực lớn của nó: mười lăm năm, vạn năm, thế kỉ, bốn nghìn năm.
Trong Di cảo thơ, lấy thời gian làm thước đo, Chế Lan Viên dễ dàng phát huy sở trường
của mình trong cách nhìn nhận đối lập. Tác giả nghĩ về tồn tại / không tồn tại, sống / chết,
còn / mất, khoảnh khắc / vĩnh hằng, có / không, còn / hết. Nhờ biện pháp đối lập, thời gian
trong thơ Chế Lan Viên trở nên vô cùng đa dạng: “ thời gian nước siết”, “ thời gian xuôi

chảy”, “ thời gian khắc nghiệt”…bất cứ lúc nào có cơ hội, Chế Lan Viên cũng muốn định
nghĩa về thời gian. Thời kì này, thời gian trong thơ ông mang đậm tính suy tưởng triết luận.


Chế Lan Viên đặc biệt có tài trong nghệ thuật xây dựng hình tượng thời gian bằng biện
pháp đối lập. Ông hay lấy cái vi mô để chứa cái vĩ mô: “ Mỗi một phút đợi chờ sâu một bể
thời gian”. Cũng vậy, tác giả chọn cái cụ thể để nói cái trừu tượng: “Đôi cánh đã liệng cả
một vòng năm tháng”. Đôi khi nhà thơ còn lấy cái vĩnh cửu để đo khoảnh khắc ngắn ngủi:
“ Ta lặng đếm thử bao nhiêu thế kỉ
Đã trôi trong một phút vội vàng qua”
( Ngủ trong sao – Điêu tàn )
Ông cũng thường vĩnh viễn hoá những khoảnh khắc ( Lòng anh làm bến thu - Đối thoại mới
).
Thời gian trong thơ Chế Lan Viên không đơn thuần chỉ là một cái nền để sự vật vận động,
sinh sôi và phát triển. Cao hơn, Chế Lan Viên đã biến thời gian thành những hình tượng nghệ
thuật độc đáo, nâng những triết lí về thời gian thành những chân lí đúng đắn. Không ở đâu và
ở nhà thơ nào, thời gian lại phong phú đa dạng muôn hình muôn vẻ như trong thơ Chế Lan
Viên.
C. PHẦN KẾT LUẬN
1. Tư duy thơ của Chế Lan Viên có cách tiếp cận riêng với đời sống. Không dừng lại ở
xúc cảm, ở bề ngoài của sự vật hiện tượng cái nhìn nghệ thuật của nhà thơ muốn khám phá
sự vật "ở cái bề sâu, ở cái bề sau, ở cái bề xa". Trí tuệ của nhà thơ hướng tới nắm bắt cái ý
nghĩa triết lí hàm ẩn trong mỗi hiện tượng, và bằng tưởng tượng, liên tưởng, đối lập mà liên
kết các sự vật, hiện tượng trong nhiều mối tương quan từ đó làm nảy lên những ý nghĩa sâu
sắc.
2. Nhà thơ đã huy động vào trong công việc sáng tạo nghệ thuật nhiều năng lực và thao
tác tư duy như phân tích, so sánh, khái quát hóa, triết lý và một vốn văn hóa, tri thức phong
phú, nhiều mặt. Do cách nhìn ấy, thơ Chế Lan Viên không thiên về cảm xúc, cảm giác mà
thâm nhập vào bề sâu, bề xa.
3. Năng lực khái quát đi liền với thiên hướng triết lý là một phương diện cơ bản làm nên

sức hấp dẫn trí tuệ của thơ Chế Lan Viên. Triết lý ở thơ Chế Lan Viên vừa dựa vào kinh
nghiệm, trải nghiệm, vừa dựa vào trí tuệ sắc sảo, thông minh, và vốn tri thức văn hóa phong
phú. Cố nhiên, những triết lý trong thơ chỉ có thể đạt được hiệu quả tối đa khi nó là kết quả
tổng hợp của cả trí tuệ và trải nghiệm cả suy nghĩ và cảm xúc.
4. Tiếp nhận ảnh hưởng của nhiều trường phái thơ phương Tây, nhất là thơ trí tuệ của
Valêri, thơ Chế Lan Viên thiên về xu hướng hiện đại, nhưng không ít trường hợp, đặc biệt là
trong thể tứ tuyệt lại có được cái hàm súc và phong vị man mác cổ thi. Về thể thơ cũng rất đa
dạng. Chế Lan Viên thành thạo, nhuần nhuyễn trong thể bảy tiếng, tám tiếng ngay từ tập thơ
đầu, ông cũng là người có nhiều thành tựu nổi bật nhất trong thể thơ tự do thơ văn xuôi, thúc
đẩy xu hướng tự do hóa hình thức trong thơ hiện đại Việt Nam.
5. Chế Lan Viên là nhà thơ luôn có sự tìm tòi, khám phá và sáng tạo. Ông luôn biết kế
thừa, phát huy những tinh hoa của nền văn chương và nhân loại để mang lại cho tác phẩm
của mình một vẻ đẹp riêng. Ông có sự nhận thức sâu sắc về chức năng của văn chương và sứ
mệnh thiêng liêng của người nghệ sĩ đối với cuộc sống.

References
Sách tác phẩm
1. Chế Lan Viên, Điêu tàn, NXB HNV, TPHCM, 1992.
2. Chế Lan Viên, Ánh sáng và phù sa, Nxb Văn học, Hà Nội, 1960.
3. Chế Lan Viên, Hoa ngày thường, Chim báo bão, Nxb Văn học, Hà Nội, 1967.
4. Chế Lan Viên, Những bài thơ đánh giặc, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 1972.


5. Chế Lan Viên, Đối thoại mới, Nxb Văn học, Hà Nội, 1973.
6. Chế Lan Viên, Hoa trước lăng Người, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 1977.
7. Chế Lan Viên, Hái theo mùa, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội, 1977
8. Chế Lan Viên, Hoa trên đá, Nxb Văn học, Hà Nội, 1984.
9. Chế Lan Viên, Di cảo thơ ( Tập I), Nxb Thuận Hóa, Huế, 1992.
10. Chế Lan Viên, Di cảo thơ (Tập II), Nxb Thuận Hóa, Huế, 1993.
11. Chế Lan Viên, Di cảo thơ (Tập III), Nxb Thuận Hóa, Huế, 1996.

12. Vũ Thị Thường tuyển chọn, Chế Lan Viên - Thơ văn chọn lọc, Sở Văn hoá thông tin
Nghĩa Bình, 1988
Sánh lí luận phê bình
13. Vũ Tuấn Anh tuyển chọn và giới thiệu (2001), Chế Lan Viên - Về tác gia và tác phẩm,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
14. Lại Nguyên Ân (1998), Sống với văn học cùng thời : Tiểu luận - Phê bình, NxbVăn
học, Hà Nội.
15.Nguyễn Lâm Điền (2010) , Đặc trưng nghệ thuật thơ Chế Lan Viên, NXB VH, Hà Nội.
16. Hồ Thế Hà (2004), Thế giới nghệ thuật thơ Chế Lan Viên: Chuyên luận, Nxb Văn học,
Hà Nội.
17. Hồ Thế Hà (1998), Tìm trong trang viết, Nxb Thuận Hoá, Huế.
18.Nguyễn Viết Hùng, Nguyễn Thị Thao, Vũ Tiến Quỳnh(1999), Thơ Chế Lan Viên / Tìm
chọn và bình giải, Nxb Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.
19. Đoàn Trọng Huy (2006), Nghệ thuật thơ Chế Lan Viên, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
20. Mai Hương, Thanh Việt tuyển chọn và b.s (2003), Thơ Chế Lan Viên & những lời
bình, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
21. Phong Lan sưu tầm, tuyển chọn, b.s (2001), Chế Lan Viên người làm vườn vĩnh
cửu,Nxb. Hội nhà văn, Hà Nội.
22. Mã Giang Lân ( 2000), Tìm hiểu thơ, Nxb VHTT, Hà Nội.
23. Nguyễn Văn Long tuyển chọn (2001), Chế Lan Viên , NXB Giáo dục, Hà Nội.
24. Nguyễn Văn Long tuyển chọn và b.s(2003), Nhà văn trong nhà trường : Chế Lan Viên,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
25. Vân Long tuyển chọn (2008), Nét độc đáo trong thơ Chế Lan Viên, Nxb Văn hoá
Thông tin, Hà Nội.
26. Nguyễn Xuân Nam tuyển chọn và biên soạn (1999), Chế Lan Viên - Huy Cận, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
27. Nguyễn Xuân Nam (2003), Chế Lan Viên trí tuệ và tài hoa,
Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
28. Nguyễn Xuân Nam giới thiệu, tuyển chọn (1993), Thơ Chế Lan Viên, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.

29. Nguyễn Xuân Nam, Lê Đình Kủ, Chế Lan Viên (1991), Chế Lan Viên-Hàn Mặc Tử :
Những bài phê bình, bình luận văn học của các nhà văn và nghiên cứu Việt Nam và thế giới ,
Nxb Tổng hợp Khánh Hoà, Khánh Hoà.
30. Phạm Thị Ngọc, Nguyễn Anh Vũ tuyển chọn (2002), Điêu tàn -Tác phẩm và dư luận,
NXB Văn học Công ty Văn hoá Phương Nam, Hà Nội.
31. Lâm Quế Phong sưu tập, biên soạn (1998), Chế Lan Viên - Hàn Mặc Tử , NXB Văn
nghệ Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.
32. Đào Xuân Quý (1998), Nhà thơ và cuộc sống : Tiểu luận, phê bình, giới thiệu thơ,
Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
33. Vũ Tiến Quỳnh (1999), Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Quách Tấn : Tuyển chọn và trích
dẫn những bài phê bình - bình luận văn học của các nhà văn và các nhà nghiên cứu Việt


Nam, Nxb Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh. 29. Trần Đình Sử (2001),Thi pháp
thơ Tố Hữu, Nxb VHTT, Hà Nội.
34. Nguyễn Bá Thành (1999), Thơ Chế Lan Viên với phong cách suy tưởng, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
35. Lưu Khánh Thơ (2007), Chế Lan Viên - nhà thơ song hành cùng thời đại, Nxb Trẻ, Tp.
Hồ Chí Minh.
36. Nguyễn Bích Thuận b.s (2002), Chế Lan Viên - Hàn Mặc Tử : Tác giả, Tác phẩm,
Nxb Đồng Nai, Đồng Nai.
37. Lê Quang Trang, La Yên b.s, tuyển chọn (2000) ,Chế Lan Viên giữa chúng ta, Nxb
Giáo dục Trung tâm nghiên cứu quốc học, Hà Nội.
38. Phạm Quang Trung (1995), Tiếp cận giá trị văn chương : tiểu luận, Nxb Thanh niên,
Hà Nội.



×