Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Tiểu luận Đánh giá trong giáo dục đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.32 KB, 15 trang )

TIỂU LUẬN
Học phần: Đánh giá trong giáo dục Đại học
Chủ đề tiểu luận:
Đổi mới kiểm tra - đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực

1. Đặt vấn đề

Nghị quyết số 29-NQ/TƯ ngày 4/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI đã chỉ rõ những hạn chế của giáo dục đại học
hiện nay, đó là: “Đào tạo thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất, kinh
doanh và nhu cầu của thị trường lao động; chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục
đạo đức, lối sống và kỹ năng làm việc. Phương pháp giáo dục, việc thi, kiểm tra và
đánh giá kết quả còn lạc hậu, thiếu thực chất”. Có nhiều nguyên nhân dẫn tới thực
trạng này, một trong số đó bắt nguồn từ hạn chế của công tác kiểm tra, đánh giá
(KTĐG) kết quả học tập tại các trường đại học Việt Nam. Do đó, đổi mới công tác
KTĐG kết quả học tập của sinh viên cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn nghề
nghiệp là một việc làm quan trọng. Đổi mới KTĐG kết quả học tập theo hướng
tiếp cận năng lực sẽ làm thay đổi cách học của sinh viên, qua đó, nâng cao ch ất
lượng đào tạo. Trong bối cảnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục – đào tạo theo
chủ trương của Đảng và Nhà nước, các trường đại học nên lấy đổi mới. KTĐG kết
quả học tập là việc làm cần được thực hiện đầu tiên, hướng đến mục tiêu đào tạo
sinh viên tốt nghiệp có thể làm việc được ngay và làm việc có hiệu quả.


Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập là khâu quan trọng trong quá trình dạy và
học. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, kiểm tra, đánh giá tại các trường đại học chưa
mang lại hiệu quả cho việc nâng cao chất lượng dạy và học. Vì vậy, am hiểu về
kiểm tra, đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực và đưa ra một số biện pháp góp
phần đổi mới công tác này tại các trường đại học Việt Nam, hướng đến mục tiêu
đào tạo nhân lực đáp ứng chuẩn đầu ra là những vấn đề vô cùng quan trọng.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu



Chuẩn đầu ra
Đến nay, có rất nhiều khái niệm về chuẩn đầu ra: “Chuẩn đầu ra là sự khẳng
định của những điều kỳ vọng, mong muốn một người tốt nghiệp có khả năng LÀM
được nhờ kết quả của quá trình đào tạo” (Jenkins and Unwin).
“Chuẩn đầu ra là lời khẳng định của những điều mà chúng ta muốn sinh viên
của chúng ta có khả năng làm, biết, hoặc hiểu nhờ hoàn thành một khóa đào tạo”
(Univ.New South Wales, Australia).
"Chuẩn đầu ra là sự khẳng định sinh viên tốt nghiệp làm được những gì và
kiến thức, kỹ năng, thái độ hành vi cần đạt được của sinh viên" (GS. Nguyễn Thiện
Nhân).
Có thể hiểu, chuẩn đầu ra như lời cam kết của nhà trường đối với xã hội về
những kiến thức, kỹ năng, thái độ, hành vi, qua đó, khẳng định những năng lực lao
động cụ thể mà sinh viên sẽ thực hiện được sau khi được đào tạo tại nhà trường.
Vai trò, ý nghĩa và giá trị của chuẩn đầu ra
-

Đối với nhà trường:

Chuẩn đầu ra là cơ sở để nhà trường xây dựng chương trình đào tạo phù hợp,
đảm bảo sản phẩm đào tạo đáp ứng nhu cầu nhân lực của xã hội; Thông qua chuẩn


đầu ra để giới thiệu với xã hội năng lực đào tạo của nhà trường, tạo được niềm tin
trong sinh viên, phụ huynh, người sử dụng lao động; Tăng cường khả năng hợp tác
giữa nhà trường với xã hội.
Chuẩn đầu ra là cơ sở hỗ trợ công tác đảm bảo chất lượng và hình thành các
chuẩn đào tạo; gắn kết giáo dục nghề nghiệp với giáo dục đại học tạo điều kiện học
liên thông và học suốt đời…
-


Đối với giảng viên:

Chuẩn đầu ra là cơ sở để thiết kế lại nội dung giảng dạy; lựa chọn phương
pháp dạy học tích cực, lượng hóa rõ ràng về các tiêu chí đánh giá kết quả học tập
của sinh viên; cũng qua đó, thực hiện được tính tích cực trong dạy học.
Chuẩn đầu ra là cơ sở để đổi mới phương pháp học tập trung vào người học:
khắc phục một số vấn đề tồn tại gắn với cách truyền thống coi trọng đầu vào trong
phát triển chương trình đào tạo, giảng viên dạy những gì mà mình có, nhà trường
cung cấp dịch vụ giáo dục có đến đâu thì làm đến đó. Chuẩn đầu ra cũng là cơ sở
nâng cao mối quan hệ Dạy-Học-Đánh giá.
-

Đối với sinh viên:

Thông qua chuẩn đầu ra, sinh viên lượng hóa được mục đích học tập của
mình, xác định cụ thể các yêu cầu đối với bản thân, từ đó, không ngừng nỗ lực học
tập và rèn luyện theo các chuẩn đầu ra, đáp ứng yêu cầu của nhà trường và xã hộ.
Cũng nhờ vậy, sinh viên sẽ được tăng cường cơ hội học tập, cơ hội việc làm.
-

Đối với các cá nhân, tổ chức sử dụng lao động:

Chuẩn đầu ra của các trường là cơ sở để các cá nhân, tổ chức đánh giá khả
năng cung ứng nhân lực của các trường, xác định được nguồn cung cấp nhân lực
phù hợp với yêu cầu lao động. Bên cạnh đó, các cá nhân, tổ chức sử dụng lao động
cũng có thể lựa chọn chính xác nguồn nhân lực tiềm năng cho mình, từ đó, phối


hợp với các trường thực hiện đào tạo theo địa chỉ. Điều này vừa hỗ trợ hoạt động

cho các trường, vừa giảm được chi phí và thời gian đào tạo lại của nơi sử dụng
nhân lực.
-

Đối với xã hội:

Xã hội có cơ sở giám sát hoạt động đào tạo của các trường và có quyền đòi
hỏi các trường điều chỉnh hoạt động để thực hiện đúng chuẩn đầu ra đã được xác
định. Việc thực hiện chuẩn đầu ra giúp xã hội có được nguồn nhân lực chất lượng
cao.
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2010) xác định: Chuẩn đầu ra là quy định về nội
dung kiến thức chuyên môn; kỹ năng thực hành, khả năng nhận thức công nghệ và
giải quyết vấn đề; công việc mà người học có thể đảm nhận sau khi tốt nghiệp và
các yêu cầu đặc thù khác đối với từng trình độ, ngành đào tạo. Khái niệm trên có
thể hiểu rằng, chuẩn đầu ra được xem như lời cam kết của trường đại học đối với
xã hội về kiến thức, kỹ năng và thái độ mà sinh viên thu nhận được sau quá trình
đào tạo tại trường.
Năng lực
Có nhiều cách phát biểu về khái niệm năng lực, có thể kể ra một số khái
niệm khá phổ biến như sau: Weinert (2001) cho rằng: Năng lực là các khả năng và
kỹ năng nhận thức vốn có ở cá nhân hay có thể học được… để giải quyết các vấn
đề đặt ra trong cuộc sống. Năng lực cũng hàm chứa trong nó tính sẵn sàng hành
động, động cơ, ý chí và trách nhiệm xã hội để có thể sử dụng một cách thành công
và có trách nhiệm các giải pháp… trong những tình huống thay đổi. Theo OECD
(2002) thì: Năng lực là khả năng cá nhân đáp ứng các yêu cầu phức hợp và thực
hiện thành công nhiệm vụ trong một bối cảnh cụ thể. Theo Québec – Ministère de
l'Education (2004) cho rằng: Năng lực là khả năng vận dụng những kiến thức, kinh


nghiệm, kỹ năng, thái độ và hứng thú để hành động một cách phù hợp và có hiệu

quả trong các tìn biểu trên về khái niệm năng lực chính là khả năng vận dụng kiến
thức, kỹ năng và thái độ để giải quyết một tình huống có thực trong cuộc sống.
Ở Việt Nam, khái niệm năng lực cũng thu hút sự quan tâm của các nhà
nghiên cứu cũng như công luận khi giáo dục đang thực hiện công cuộc đổi mới căn
bản và toàn diện, chuyển từ giáo dục kiến thức sang giáo dục năng lực. Khái niệm
này cũng được định nghĩa khá tương đồng với các định nghĩa mà các nhà nghiên
cứu trên thếgiới đưa ra.
Chẳng hạn, các nhà tâm lí học cho rằng năng lực là tổng hợp các đặc điểm,
thuộc tính tâm lí của cá nhân phù hợp với yêu cầu đặc trưng của một hoạt động
nhất định nhằm đảm bảo cho hoạt động đó đạt hiệu quả cao. Người ta cũng chia
năng lực thành năng lực chung, cốt lõi và năng lực chuyên môn, trong đó, năng lực
chung, cốt lõi là năng lực cơ bản cần thiết làm nền tảng để phát triển năng lực
chuyên môn. Năng lực chuyên môn là năng lực đặc trưng ở những lĩnh vực nhất
định, ví dụ như năng lực toán học, năng lực ngôn ngữ. Tuy nhiên, năng lực chung
cốt lõi và năng lực chuyên môn không tách rời mà quan hệ chặt chẽ với nhau.
Trong một báo cáo nghiên cứu về năng lực và mức độ thành công trong kinh
doanh, nhóm nghiên cứu của Trường Đại học Ngoại thương đã nêu rõ năng lực là
tổ hợp các thuộc tính về khả năng, tâm lí và phẩm chất của cá nhân phù hợp với
những yêu cầu của một hoạt động nhất định, đảm bảo đạt kết quảnhư đề ra. Tương
tự như các định nghĩa về năng lực trong tâm lí hoặc kinh doanh, trong giáo dục các
nhà nghiên cứu cũng đưa ra các định nghĩa có nội hàm tương đương. Chẳng hạn,
Trần Khánh Đức, trong “Nghiên cứu nhu cầu và xây dựng mô hình đào tạo theo
năng lực trong lĩnh vực giáo dục” đã nêu rõ năng lực là “khả năng tiếp nhận và vận
dụng tổng hợp, có hiệu quả mọi tiềm năng của con người (tri thức, kĩ năng, thái độ,
thể lực, niềm tin…) để thực hiện công việc hoặc đối phó với một tình huống, trạng


thái nào đó trong cuộc sống và lao động nghền ghiệp”. Ở một nghiên cứu khác về
phương pháp dạy học tích hợp, Nguyễn Anh Tuấn (Trường Đại học Sư phạm Kỹ
thuật TP. Hồ Chí Minh) đã nêu một cách khá khái quát rằng năng lực là một thuộc

tính tâm lí phức hợp, là điểm hội tụ của nhiều yếu tố như tri thức, kỹ năng, kĩ xảo,
kinh nghiệm, sự sẵn sàng hành động và trách nhiệm. Như vậy, cho dù là khó định
nghĩa năng lực một cách chính xác nhất nhưng các nhà nghiên cứu của Việt Nam
và thế giới đã có cách hiểu tương tự nhau về khái niệm này. Tựu chung lại, năng
lực được coi là sự kết hợp của các khả năng, phẩm chất, thái độ của một cá nhân
hoặc tổ chức để thực hiện một nhiệm vụ có hiệu quả.
Kiểm tra đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực
KTĐG kết quả học tập là khâu then chốt cuối cùng của quá trình dạy học.
Đây là khâu quan trọng, tác động lớn đến quá trình nâng cao chất lượng đào tạo.
iệc kiểm tra đánh giá khách quan, nghiêm túc, đúng cách, đúng hướng sẽ là động
lực mạnh mẽ khích lệ sự vươn lên trong học tập, thúc đẩy sự tìm tòi sáng tạo
không ngừng của. Một yêu cầu tất yếu là khi chuyển mục đích dạy học sang phát
triển năng lực của người học thì việc KTĐG kết quả học tập cũng phải thực hiện
theo năng lực người học. Theo Nguyễn Công Khanh: “Đánh giá người học theo
cách tiếp cận năng lực là đánh giá theo chuẩn về sản phẩm đầu ra… nhưng sản
phẩm đó không chỉ là kiến thức, kĩ năng, mà chủ yếu là khả năng vận dụng kiến
thức, kĩ năng và thái độ cần có để thực hiện nhiệm vụ học tập đạt tới một chuẩn
nào đó”. Theo khái niệm trên đây, năng lực là một thể thống nhất bao gồm kiến
thức, kĩ năng và thái độ không tách biệt lẫn nhau. Do đó, đánh giá theo năng lực là
việc đánh giá dựa trên khả năng thực hiện một nhiệm vụ ở một mức độ phức tạp
thích hợp để tìm ra cách giải quyết một hoặc nhiều vấn đề trong thực tế cuộc sống.
Trong đó, bản chất của KTĐG theo năng lực là sử dụng nhiều phương pháp
khác nhau để tập trung đánh giá những năng lực cốt lõi được chú trọng trong nhiều


khung năng lực: Năng lực tự học, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực sáng tạo,
năng lực giao tiếp xã hội, năng lực sử dụng công nghệ…
Những đặc trưng của KTĐG theo năng lực là:
– Đánh giá khả năng vận dụng kiến thức, kỹ năng và thái độ vào việc giải
quyết tình huống thực tiễn;

– Đánh giá cả quá trình học tập của sinh viên, không đánh giá kiến thức tại
một số thời điểm;
– Đánh giá trình độ tư duy th ng qua việc thực hiện bài thi.
Sự khác nhau KTĐG truyền thống và KTĐG theo năng lực
Dựa vào đặc trưng của hình thức KTĐG truyền thống và KTĐG theo năng
lực, chúng ta có thể thấy những điểm khác biệt giữa hai cách đánh giá này như sau:
TT KTĐG theo năng lực
Sinh viên phải thực hiện một nhiệm vụ
thực tế.
Tình huống diễn ra trong đời sống nghề
nghiệp tương lai.
Trình độ tư duy ở mức độ cao (Phân
tích, Đánh giá, Sáng tạo).
Vận dụng kiến thức, kỹ năng, thái độ để
giải quyết tình huống thực.

KTĐG truyền thống
Sinh viên viết đáp án hoặc câu trả lời
Mô phỏng
Trình độ tư duy ở mức độ thấp (Biết,
Hiểu, Áp dụng).
Tái hiện kiến thức hoặc kỹ năng đã học

Giáo dục dựa trên năng lực
Giáo dục dựa trên năng lực (Competencybased education - CBE) nổi lên từ
những năm 1970s ở Mỹ. Với hình thái này, giáo dục hướng tới việc đo lường chính
xác kiến thức, kĩ năng và thái độ của người học sau khi kết thúc mỗi chương trình
học. Nếu giáo dục truyền thống được coi là giáo dục theo nội dung, kiến thức
(content-based education) tập trung vào việc tích lũy kiến thức, nhấn mạnh tới các



năng lực nhận thức và việc vận dụng kiến thức tập trung vào việc thực hành kĩnăng
chứ không hướng tới việc chứng minh khả năng đạt được, và đánh giá của giáo dục
truyền thống cũng tập trung đo lường kiến thức thông qua các bài thi viết và nói thì
giáo dục theo năng lực tập trung vào phát triển các năng lực cần thiết đểngười học
có thể thành công trong cuộc sống cũng như trong công việc. Các năng lực thường
được tập trung phát triển bao gồm năng lực xử lí thông tin, giải quyết vấn đề, phản
biện, năng lực học tập suốt đời.
Giáo dục theo năng lực không chỉ dành cho dạy nghề. Trong những thập kỉ
gần đây với sự phát triển mạnh của khoa học kĩ thuật cũng như tri thức, giáo dục
nếu chỉ hướng tới việc nắm vững kiến thức là không đủ, bởi kiến thức hôm qua còn
mới, hôm nay đã trở thành lạc hậu. Do đó nhiều hệ thống giáo dục đã hướng tới
việc giáo dục để người học có đủ khả năng làm chủ kiến thức và sử dụng kiến thức
đểgiải quyết các vấn đề trong khoa học cũng như trong thực tế. Khi mục tiêu và
hình thái giáo dục chuyển đổi thì phương pháp giảng dạy và đánh giá cũng thay đổi
theo. Các hệ thống giáo dục tiên tiến đã áp dụng phương pháp giảng dạy theo năng
lực thay vì giảng dạy theo nội dung, kiến thức.
Giảng dạy theo năng lực là hướng tiếp cận tập trung vào đầu ra của quá trình
dạy và học, trong đó nhấn mạnh người học cần đạt được các mức năng lực
nhưthếnào sau khi kết thúc một chương trình giáo dục. Nói cách khác, chất lượng
đầu ra đóng vai trò quan trọng nhất đối với giảng dạy theo năng lực. Điều này có
nghĩa là đểchương trình giảng dạy theo năng lực có hiệu quả, cần phải bắt đầu với
bức tranh rõ ràng vềnăng lực quan trọng mà người học cần phải đạt được, tiếp đến
là xây dựng và phát triển chương trình dạy và học, sau đó giảng dạy và xây dựng
các phương pháp đánh giá nhằm đảm bảo rằng mục đích của giáo dục theo năng
lực đạt được mục tiêu đề ra. Có thể thấy, yếu tố quan trọng của giáo dục năng lực
là xây dựng được các tiêu chuẩn đầu ra rõ ràng thểhiện rõ mục tiêu của giáo dục,


thiết lập được các điều kiện và cơ hội để khuyến khích người học có thể đạt được

các mục tiêu ấy. Rất nhiều nghiên cứu gần đây đã tập trung nghiên cứu mối liên
hệgiữa giáo dục năng lực và xây dựng chương trình và đánh giá theo năng lực.
Điều này cũng có nghĩa là các năng lực mà người học cần đạt được phải rõ ràng, cụ
thể.
Rõ ràng là, chuyển từ giáo dục kiến thức sang giáo dục theo năng lực là hình
thức chuyển đổi từviệc nhấn mạnh việc giáo viên tin là người học cần phải biết gì
sang việc người học phải nắm rõ mình cần biết gì và có thểlàm gì trong các tình
huống và bối cảnh khác nhau. Do đó, giảng dạy theo năng lực là lấy người học làm
trung tâm và giáo viên giữ vai trò như người hướng dẫn. Phương pháp này giúp
người học chủ động hơn trong việc đạt được năng lực cần phải có theo yêu cầu đặt
ra phù hợp với từng điểm mạnh, điểm yếu của cá nhân. Giảng dạy theo năng lực là
một hình thái giáo dục có thể áp dụng cho nhiều lĩnh vực và bối cảnh. Chính vì thế,
giáo dục theo năng lực tập trung vào đầu ra gắn liền với nhu cầu của thị trường lao
động và xã hội, hoặc cấp học trên.
3. Cơ sở của đổi mới KTĐG kết quả học tập theo năng lực

Sự cần thiết và Chủ trương đổi mới giáo dục – đào tạo của Đảng và Nhà nước
Nghị quyết 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam khóa XI đã chỉ rõ: “Đánh giá kết quả đào tạo đại học theo
hướng chú trọng năng lực phân tích, sáng tạo, tự cập nhật, đổi mới kiến thức; đạo
đức nghề nghiệp; năng lực nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ; năng
lực thực hành, năng lực tổ chức và thích nghi với môi trường làm việc”.
Nền kinh tế nước ta hiện nay có nhu cầu lớn về nguồn nhân lực chất lượng
cao. Trong đó, giáo dục đại học có vai tr quan trọng vì đây là giai đoạn đào tạo
phục vụ cho sinh viên bước vào đời sống nghề nghiệp, những thay đổi của nền


kinh tế – xã hội đòi hỏi phải có những thay đổi tương ứng trong giáo dục đại học.
Tuy nhiên, thực tế đã cho thấy, giáo dục đại học c n nhiều bất cập, chất lượng đào
tạo chưa đáp ứng được sự thay đổi của nền kinh tế, sinh viên tốt nghiệp vẫn phải

qua đào tạo lại mới có thể làm việc…Để khắc phục những yếu kém, tồn tại kể trên
cần phải có sự đổi mới trong tổ chức, quản lý hoạt động dạy và học. Trong đó, đổi
mới KTĐG theo năng lực sẽ góp phần quan trọng tạo ra sự thay đổi trong cách dạy
của giảng viên và cách học của sinh viên với mục tiêu đáp ứng được những yêu
cầu ngày càng cao của xã hội.
Việc KTĐG hiện nay ở các trường đại học chủ yếu tập trung vào mục tiêu
kiến thức, ít chú trọng mục tiêu kỹ năng và thái độ của người học. Nguyên nhân
của tình trạng này có thể do việc xác định mục đích KTĐG kh ng rõ ràng, chưa
đúng mục đích đào tạo nhân lực. Việc KTĐG kết quả học tập thường chỉ đòi hỏi
sinh viên tái hiện lại những kiến thức hoặc một vài kỹ năng đã được học, hiếm khi
yêu cầu sinh viên vận dụng những kiến thức đã học vào một tình huống thực trong
cuộc sống. Do đó, khi tốt nghiệp và đối mặt với các tình huống thực tế thì sinh viên
khó có khả năng vận dụng kiến thức đã học để giải quyết. Đây chính là nguyên
nhân chủ yếu của tình trạng đào tạo không đáp ứng yêu cầu xã hội, dẫn đến doanh
nghiệp phải đào tạo lại.
Việc KTĐG kết quả học tập của các môn học bao gồm các điểm bộ phận
như sau: Điểm chuyên cần, điểm kiểm tra giữa kỳ và điểm thi cuối kỳ. Bên cạnh
đó, phương pháp KTĐG kết quả học tập chủ yếu là làm bài trên giấy với các hình
thức phổ biến là: Tự luận, trắc nghiệm hoặc thực hành. Các hình thức này chủ yếu
là kiểm tra khả năng nắm vững kiến thức đã học để giải một số bài tập, giải thích
một số hiện tượng liên quan hay thực hiện một số thao tác đã được học. Điều này
dẫn đến một thực trạng là có nhiều sinh viên học khá, giỏi nhưng khi tốt nghiệp lại
thiếu khả năng làm việc, vì trong trường học, sinh viên chỉ cần chăm chỉ học bài là


đã có thể đạt điểm cao. Những năng lực cần thiết cho đời sống thực tế sau khi tốt
nghiệp chưa được chú trọng, như: Năng lực xử lý tình huống, trình bày một vấn đề
trước đám đ ng, làm việc hợp tác, độc lập sáng tạo…
Tiêu chí đánh giá chất lượng công cụ đánh giá theo năng lực
Để các công cụ đánh giá năng lực có thể cung cấp thông tin đáng tin cậy cho

việc đưa ra các nhận định về năng lực của người học cần phải xây dựng các tiêu
chí đánh giá chất lượng các công cụ này. Các tiêu chí được tổng hợp từ các nghiên
cứu đã xuất bản như sau:
1. Bài kiểm tra đánh giá phải phù hợp với các mục tiêu học tập và bảng
trọng số chấm điểm phải đo được các mục tiêu này. Ngoài ra, giáo viên cần có
bảng trọng số chấm điểm để đánh giá mức độ thành thạo trong việc cân hóa chất
của người học chứ không chỉ đơn giản là xác định rằng người học có biết cân hóa
chất hay không.
2. Bài kiểm tra đánh giá phải yêu cầu người học sửdụng quá trình tưduy dựa
trên chương trình đào tạo cụthể.
3. Nên sử dụng nhiều dạng câu hỏi khác nhau. Các bài kiểm tra đánh giá nên
bao gồm cả câu hỏi dạng trắc nghiệm cho sẵn phương án lựa chọn (câu hỏi đóng),
và câu hỏi mở (các câu hỏi tự luận - trả lời ngắn và tự luận theo dạng bài viết) cho
phép có nhiều lựa chọn trả lời hoặc người học tự thể hiện năng lực học tập của
mình thông qua việc tìm ra kết quả hoặc xây dựng bài viết. Nếu đánh giá của giáo
viên chỉ dựa trên một loại hình đánh giá thì khả năng học tập của người học chưa
được đánh giá đầy đủ.
4. Đối với các môn học kĩ thuật, mục tiêu đào tạo thường yêu cầu người học
biết sử dụng thiết bị và nguồn lực hơn là biết viết về việc sử dụng như thế nào. Đối


với những môn học này, bài kiểm tra thực hành được coi là công cụ đánh giá tin
cậy hơn bài kiểm tra viết.
5. Người học có thể trình bày vấn đề qua bài tập nhóm, bài tập cá nhân và
bài tập kết hợp cả nhóm và cá nhân. Với loại hình bài tập kết hợp cả nhóm và cá
nhân, ban đầu cả nhóm có thể cùng giải quyết vấn đề, sau đó một thành viên sẽ đại
diện cho nhóm trình bày lại ý kiến của cả nhóm.
Nhưvậy có thểthấy dù tên gọi tiêu chí có khác nhau, nhưng mục tiêu mà các
tiêu chí hướng tới là giống nhau, nhưcùng nhằm đểkết quả đánh giá đạt mục tiêu
đềra, kết quả đánh giá tin cậy, chính xác và khách quan.

Một số biện pháp đổi mới KTĐG kết quả học tập của sinh viên theo hướng tiếp
cận năng lực
Nhận thức đúng về KTĐG kết quả học tập
Việc nhận thức đúng về KTĐG kết quả học tập sẽ giúp cho c ng tác tổ chức
KTĐG đi đúng hướng. Nếu mục đích KTĐG chỉ là đo lường kiến thức sinh viên
thu nhận được thì sử dụng các phương pháp truyền thống như tự luận, trắc nghiệm.
Nếu mục đích KTĐG là đo lường kỹ năng thì sử dụng phương pháp thực hành.
Nếu mục đích KTĐG là đo lường năng lực của sinh viên thì cần phải sử dụng kết
hợp nhiều phương pháp khác nhau, hướng đến việc thực hiện một nhiệm vụ nghề
nghiệp cụ thể trong tương lai. Bởi vậy, KTĐG kết quả học tập của sinh viên theo
năng lực sẽ giúp thu hẹp khoảng cách giữa kiến thức sinh viên học được trong
trường với những điều đang diễn ra trong cuộc sống thực. Bên cạnh đó, mục đích
KTĐG kết quả học tập cần được xác định là nhằm nâng cao chất lượng hoạt động
học tập của sinh viên. Tức là th ng qua KTĐG kết quả học tập sẽ giúp giảng viên
điều chỉnh hoạt động giảng dạy và giúp sinh viên điều chỉnh hoạt động học tập.
Ngoài ra, c ng tác KTĐG kết quả học tập theo


năng lực cần được xác định trong tổng thể quá trình quản lý hoạt động đào tạo của
các trường đại học. Nghĩa là đổi mới KTĐG phải gắn liền với việc đổi
mới các mặt hoạt động khác như: Đổi mới chương trình đào tạo, phương pháp
giảng dạy của giảng viên, cách học của sinh viên, c ng tác chỉ đạo hoạt động
đào tạo…
Đa dạng hóa các hình thức KTĐG
Sử dụng nhiều phương pháp khác nhau trong KTĐG kết quả học tập của sinh viên,
kết hợp phương pháp KTĐG truyền thống với KTĐG theo năng lực. Trong đó, cần
chú trọng đến các phương pháp đ i hỏi sự chủ động, sáng tạo và tiếp cận thực tế
như: Quan sát, vấn đáp, trình bày dự án, chấm hồ sơ, tiểu
luận, bài tập lớn… Chuyển từ đánh giá theo từng thời điểm sang đánh giá quá
trình, tập trung vào phát triển năng lực cho người học. KTĐG trong trường

đại học cần hướng đến các mục tiêu:
– Người học được phát triển toàn diện cả về kiến thức, kỹ năng và đạo đức, tác
phong.
– Tôn trọng sự khác biệt: KTĐG phải hướng đến việc phát triển năng lực riêng biệt
của từng cá nhân, tránh việc áp đặt những tiêu chuẩn chung cho mọi sinh viên.
Ngoài ra, KTĐG cần phải đảm bảo sự phân hóa sinh viên.
– Đảm bảo công bằng, công khai, minh bạch.
– Đạt được mục đích phát triển năng lực cho người học: KTĐG cần chú trọng đến
việc vận dụng kiến thức, kỹ năng vào đời sống thực tế.
Đổi mới nội dung KTĐG kết quả học tập
Việc lựa chọn nội dung KTĐG phải đảm bảo đánh giá được năng lực của người
học th ng qua bài thi hay một nhiệm vụ cụ thể do giảng viên lựa chọn. Nội dung


KTĐG kết quả học tập cần lấy tiêu chí “năng lực” làm trọng tâm. Điều này có
nghĩa là nội dung KTĐG cần hướng đến việc đánh giá được kiến thức, kỹ năng và
thái độ của sinh viên th ng qua thực hiện một nhiệm vụ cụ thể. Một vấn đề quan
trọng nữa là khi lựa chọn nội dung KTĐG cần phải đảm bảo tính toàn diện, trọng
tâm và sát với yêu cầu của nghề nghiệp tương lai. Ngoài ra, cần lồng ghép thêm
một số phương pháp giúp hình thành kỹ năng tự học suốt đời cho sinh viên như:
Phương pháp tự học, tự nghiên cứu, vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tìm kiếm và
xử lý th ng tin…
Cải tiến chất lượng công tác tiến hành KTĐG
Để đảm bảo chất lượng KTĐG kết quả học tập của sinh viên theo năng lực thì cần
phải thường xuyên tổ chức tập huấn, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ quản lý, giảng
viên. Đảm bảo đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên đều nắm được mục đích, nội
dung, phương pháp tiến hành KTĐG theo năng lực. Ngoài ra, đề thi, kiểm tra phải
được xây dựng theo đúng quy trình, đáp ứng yêu cầu của KTĐG theo năng lực.
Ba bước xây dựng một bài KTĐG theo năng lực
B1. Xác định tiêu chuẩn

Đó chính là việc xác định các mục tiêu cần đạt được sau khi kết thúc học phần hay
khóa học.Các mục tiêu này phải phù hợp với chuẩn đầu ra đã xác định. Bên cạnh
việc xác định mục tiêu hướng đến hoàn thiện kiến thức, kỹ năng, thái độ cho người
học, KTĐG theo năng lực cần phải đánh giá được năng lực giải quyết vấn đề, tư
duy phê phán, tư duy sáng tạo, kỹ năng hợp tác…
B2. Xác định nhiệm vụ cần thực hiện
Đây là quá trình thiết kế các bài tập để đánh giá năng lực vận dụng kiến thức, kỹ
năng vào giải quyết những vấn đề trong thực tế.
B3. Xây dựng các tiêu chí đánh giá


Tiêu chí đánh giá là các chỉ số giúp cho việc xác định năng lực của sinh viên.
Giảng viên sẽ dùng các tiêu chí này để đánh giá sinh viên đã hoàn thành nhiệm vụ
ở mức nào, tức là họ đáp ứng chuẩn ở mức nào.
4. Kết luận

Trong quá trình dạy và học, KTĐG kết quả học tập của sinh viên là khâu
quan trọng. Đổi mới KTĐG kết quả học tập của sinh viên theo hướng tiếp cận năng
lực là một yêu cầu cấp thiết để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực. Tuy
nhiên, trong quá trình thực hiện cần phối hợp giữa KTĐG theo năng lực với KTĐG
truyền thống nhằm đạt được mục tiêu của học phần hay khóa học đó.
Học phần này sẽ góp phần giúp cán bộ quản lý, giảng viên tại các trường đại
học cải tiến KTĐG nhằm tạo ra tác động tích cực tới việc dạy và học, qua đó nâng
cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội,
thực hiện thành công chuẩn đầu ra đã tuyên bố với xã hội.



×