Tải bản đầy đủ (.docx) (71 trang)

Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp tại phường Đề Thám, Thành phố Cao Bằng, Tỉnh Cao Bằng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (690.04 KB, 71 trang )

MỤC LỤC

1


DANH MỤC BẢNG

2


DANH MỤC HÌNH ẢNH

3


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá đối với mỗi quốc gia, là
điều kiện tồn tại và phát triển của con người và các sinh vật khác trên Trái
đất. Đất đai là nguồn tài nguyên, nguồn lực và là yếu tố đầu vào không thể
thiếu của mọi nghành, mọi lĩnh vực.
Trong tiến trình của lịch sử xã hội loài người, con người và đất đai ngày
càng gắn liền chặt chẽ với nhau. Đất đai trở thành của cải vô tận của loài
người, con người dựa vào đó để tạo ra sản phẩm nuôi sống mình. Đất đai luôn
là thành phần hàng đầu của thành phần sống .Không có đất đai thì không có
bất kỳ nghành sản xuất nào, không có một quá trình lao động nào diễn ra và
cũng không có sự tồn tại của loài người.
Đối với nghành nông nghiệp thì đất đai có vai trò đặc biệt quan trọng
đây là nơi sản xuất ra hầu hết các sản phẩm nuôi sống loài người. Hầu hết các
nước trên thế giới đều phải xây dựng một nền kinh tế trên cơ sở nông nghiệp
dựa vào khai thác tiềm năng của đất, lấy đó làm bàn đạp cho việc phát triển


của nghành khác. Vì vậy tổ chức sử dụng nguồn tài nguyên đất đai hợp lý, có
hiệu quả là nhiệm vụ quan trọng đảm bảo cho nông nghiệp phát triển bền
vững.
Tuy nhiên một thực tế hiện nay đó là diện tích đất nông nghiệp ngày
càng bị thu hẹp do chuyển sang các loại hình sử dụng đất khác như đất ở, đất
sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp... Mặt khác dân số không ngừng tăng,
nhu cầu của con người về các sản phẩm từ nông nghiệp ngày càng đòi hỏi cao
về cả số lượng và chất lượng. Đây thực sự là một áp lực lớn đối với nghành
nông nghiệp.

4


Phường Đề Thám nằm ở phía Tây của thành phố Cao Bằng, Tỉnh Cao
Bằng. Tổng diện tích tự nhiên là 1102,51 ha. Trong đó diện tích đất nông
nghiệp có 657,51 ha, chiếm 59,63% diện tích tự nhiên toàn phường. Diện tích
đất sản xuất nông nghiệp có 410,08 ha, chiếm 37,19% tổng diện tích tự nhiên.
Tỉnh Cao Bằng có diện tích đất nông nghiệp tương đối lớn. Tuy nhiên trong
những năm gần đây diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp do nhu
cầu chuyển đổi mục đích sử dụng đất sang đất ở, đất phi nông nghiệp... là do
phường Đề Thám đang trong quá trình đô thị hóa mạnh mẽ, cùng với sự phát
triển của hệ thống các cơ sở hạ tầng giao thông, khu công nghiệp, trường học
và cơ sở dịch vụ... phát triển , nhu cầu sử dụng các loại đất ngày càng tăng, do
vậy đất đai biến động rất lớn. Do đó, đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông
nghiệp và đề ra hướng sử dụng đất tiết kiệm và có hiệu quả là vấn đề cần thực
hiện trước mắt.
Vì vậy xuất phát từ tình hình thực tiễn và nhu cầu sử dụng đất trên địa
bàn phường, được sự đồng ý của khoa Quản Lý Đất Đai và sự hướng dẫn của
Giáo viên Th.s Võ Ngọc Hải tôi tiến hành nghiên cứu đề tài : “ Đánh giá
hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp tại phường Đề Thám, Thành phố Cao

Bằng, Tỉnh Cao Bằng”
2. Mục đích và yêu cầu nghiên cứu
2.1. Mục đích
- Đánh giá các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã họi ảnh hưởng đến nông
nghiệp
- Xác định được các loại hình sử dụng đất chính của Phường Đề Thám từ
đó đánh giá được hiệu quả kinh tế - xã hội, môi trường của các loại hình sử
dụng đất
- Lựa chọn các loại hình sử dụng đất có hiệu quả cao hơn để đưa ra để áp
dụng đại trà
- Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp tại
Phường Đề Thám
5


2.2. yêu cầu
- Số liệu, tài liệu phải đầy đủ, kịp thời, chính xác
- Quá trình đánh giá phải đúng, trung thực, khách quan về hiệu quả của
mỗi loại hình sử dụng đất
- Đề xuất ra hướng giải quyết phải mang tính khả thi cao nhằm nâng cao
hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn phường

6


CHƯƠNG I:
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CÚU
1.1. Khái niệm đất nông nghiệp và sử dụng đất nông nghiệp.
1.1.1.Khái niệm đất và đất nông nghiệp
a.Khái niệm về đất

Đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến những khái niệm, định
nghĩa về đất. Trong đó có các khái niệm sau:
Theo nguồn gốc phát sinh của học giả người Nga Docutraiep năm 1987
cho rằng : “ đất là một vật thể thiên nhiên cấu tạo độc lập lâu đời do kết quả
quá trình hoạt động tổng hợp của 5 yếu tố hình thành đất đó là : sinh vật, đá
mẹ, khí hậu, địa hình và thời gian”. Đất xem như một thể sống nó luôn vận
động và phát triển”.
Theo C.Mac: “ Đất là tư liệu sản xuất cơ bản và phổ biến quý báu nhất
của sản xuất nông nghiệp, là điều kiện không thể thiếu được của sự tồn tại và
tái sinh của hàng loạt thế hệ loài người kế tiếp nhau”.
Theo quan niệm của các nhà thổ nhưỡng và quy hoạch Việt Nam cho
rằng “ Đất là phần trên mặt của vỏ trái đất mà ở đó cât cối có thể mọc được”
và đất đai được hiểu theo nghĩa rộng: “Đất đai là một phần diện tích cụ thể
của bề mặt trái đất, bao gồm tất cả các yếu tố cấu thành của môi trường sinh
thái ngay trên và dưới bề mặt bao gồm: khí hậu, thời tiết, thổ nhưỡng, địa
hình, mặt nước, các lớp trầm tích sát bề mặt cùng với nước ngầm và khoáng
sản trong lũng đất, động thực vật, trạng thái định cư của con người, những kết
quả của con người trong quá khứ và hiện tại để lại”.
Như vậy có rất nhiều khái niệm và định nghĩa khác nhau về đất nhưng
khái niệm chung nhất có thể hiểu: Đất đailà khoảng không gian có giới hạn
theo chiều thẳng đứng gồm khí hậu của bầu khí quyển, lớp phủ thổ nhưỡng,
thảm thực vật, động vật, diện tích mặt nước, tài nguyên nước ngầm và khoáng
7


sản trong lòng đất. Theo chiều ngang đất đai là sự kết hợp giữa thổ nhưỡng,
địa hình, thủy văn, thảm thực vật với các thành phần khác, nó tác động giữ vai
trò quan trọng và có ý nghĩa to lớn đối với hoạt động sản xuất cũng như cuộc
sống của xã hội loài người.
b. Khái niệm về đất nông nghiệp

Đất nông nghiệp là đất sẽ dùng vào mục đích sản xuất, nghiên cứu, thí
nghiệm về nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối và mục
đích bảo vệ phát triển rừng: bao gồm đất sản xuất nông nghiệp, đất lâm
nghiệp, đất nuôi trồng thủy sản và đất nông nghiệp khác.
c. Phân loại đất nông nghiệp
Theo Luật đất đai 2003, nhóm đất nông nghiệp được phân thành các loại
sau:
- Đất trồng cây hàng năm ( đất canh tác ) là loại đất dùng trồng các loại
cây ngắn ngày, có chu kỳ sinh trưởng không quá 1 năm.
Ngoài ra đất trồng cây hàng năm còn phân theo các tiêu thức khác và
được chia thành các nhóm đất chuyên trồng lúa, đất chuyên trồng màu....
- Đất trồng cây lâu năm gồm đất dùng để trồng các loại cây có chu kỳ
sinh trưởng kéo dài trong nhiều năm, phải trải qua thời kỳ kiến thiết cơ bản
mới đưa vào kinh doanh, trồng 1 lần nhưng thu hoạch trong nhiều năm.
- Đất rừng sản xuất là diện tích đất được dùng để chuyên trồng các loại
cây rừng với mục đích sản xuất.
- Đất rừng phòng hộ: là diện tích đất để trồng rừng với mục đích phòng hộ.
- Đất rừng đặc dụng: là diện tích đất được Nhà nước quy hoạch, đưa vào
sử dụng với mục đích riêng.
- Đất nuôi trồng thủy sản là diện tích đất dùng để nuôi trồng thủy sản
như: tôm, cá...
- Đất làm muối: là diện tích đất được dùng để phục vụ cho quá trình sản
xuất muối.

8


d. Vai trò của sản xuất nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân
- Cung cấp lương thực, thực phẩm cho toàn xã hội
Lương thực, thực phẩm là yếu tố đầu tiên có tính chất quyết định sự tồn

tại phát triển của con người và phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Những
hàng hóa có tính chất nuôi sống con người này chỉ có thể có được thông qua
hoạt động sống của cây trồng và vật nuôi, hay nói cách khác là thông qua quá
trình sản xuất nông nghiệp.
- Nông nghiệp là một trong những nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy
sản xuất công nghiệp và khu vực thành thị phát triển
Nông nghiệp cung cấp nguồn nguyên liệu cho công nghiệp, đặc biệt là
công nghiệp chế biến.
Nông nghiệp đặc biệt là nông nghiệp của các nước đang phát triển là khu
vực dự trữ và cung cấp lao động cho phát triển công nghiệp, các nghành kinh
tế quốc dân khác và đô thị.
Nông thôn là thị trường tiêu thụ rộng lớn cho hàng hóa công nghiệp và
các nghành kinh tế khác.
- Nông nghiệp là nguồn thu ngân sách quan trọng của Nhà nước
Nông nghiệp là nghành kinh tế sản xuất có quy mô lớn nhất của nước ta.
Tỷ trọng giá trị sản lượng và thu nhập quốc dân trong khoảng 25% tổng thu
ngân sách trong nước. Việc huy động một phần thu nhập từ nông nghiệp được
thực hiện dưới nhiều hình thức: thuế nông nghiệp, các loại thuế kinh doanh
khác... Hiện nay xu hướng tăng tỷ trọng GDP của nông nghiệp sẽ giảm dần
trong quá trình tăng trưởng kinh tế.
- Nông nghiệp là hoạt động sinh kế chủ yếu của đại bộ phận dân nghèo
nông thôn.
Nước ta với hơn 80% dân cư tập trung ở nông thôn họ sống chủ yếu dựa
vào sản xuất nông nghiệp, với hình thức sản xuất tự cấp tự túc đã đáp ứng

9


được nhu cầu cần thiết hàng ngày của người dân.
1.2. Quan điểm sử dụng đất nông nghiệp

1.2.1. Quan điểm về hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
Sử dụng các nguồn tài nguyên có hiệu quả cao trong sản xuất để phát
triển một nền nông nghiệp bền vững là xu thế tất yếu đối với các nước trên
thế giới.
Nói một cách chung nhất thi hiệu quả chính là kết quả như yêu cầu của
việc làm mang lại.
Làm rõ bản chất của hiệu quả cần phân định làm rõ sự khác nhau và mối
liên hệ giữa kết quả và hiệu quả. Kết quả, là kết quả hữu ích, là một đại lượng
vật chất tạo ra do mục đích của con người, được biểu hiện bằng những chỉ
tiêu do tính chất mâu thuẫn giữa nguồn tài nguyên hữu hạn với nhu cầu tăng
lên của con người mà ta phải xem xét kết quả đó được tạo ra như thế nào? Chi
phí bỏ ra là bao nhiêu? Có đem lại kết quả hữu ích hay không? Chính vì vậy,
khi đánh giá kết quả của hoạt động sản xuất không chỉ dừng lại ở việc đánh
giá kết quả mà còn phải đánh giá chất lượng công tác họa động sản xuất kinh
doanh tạo ra sản phẩm đó.
Trên phạm vi toàn xã hội, các chi phí bỏ ra dể thu được kết quả phải là
chi phí lao động xã hội. Vì thế, bản chất của hiệu quả chính là hiệu quả lao
động xã hội và được xác định bằng tương quan so sánh giữa kết quả hữu ích
thu được với lượng hao phí lao động xã hội. Tiêu chuẩn của hiệu quả là sự tối
đa hóa kết quả và tối thiểu hóa chi phí trong điều kiện tài nguyên thiên nhiên
hữu hạn.
Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt quan trọng trong sản xuất nông nghiệp
sử dụng đất sản xuất nông nghiệp có hiệu quả cao thông qua việc bố trí cơ cấu
cây trồng là một trong những vấn đề bức xúc hiện nay của hầu hết các nước
trên thế giới. Nó không chỉ thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học, các nhà

10


hoạch định chính sách, các nhà kinh doanh nông nghiệp mà còn là sự mong

muốn của nông dân, những người trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất
nông nghiệp.
Sử dụng đất đai có hiệu quả là các hệ thống, các biện pháp nhằm điều
hòa mối quan hệ người - đất trong tổ hợp với các nguồn tài nguyên khác và
môi trường.
Căn cứ vào nhu cầu của thị trường, thực hiện đa dạng hóa cây trồng trên
cở sở lựa chọn các sản phẩm có ưu thế ở từng địa phương, từ đó nghiên cứu
áp dụng công nghệ mới nhằm làm cho sản phẩm có tính cạnh tranh cao, đó là
một trong những điều kiện tiên quyết để phát triển được nền nông nghiệp có
tính ổn định, bền vững đồng thời phát huy tối đa công dụng của đất nhằm đạt
tới hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trường cao nhất.
1.2.2. Quan điểm sử dụng đất nông nghiệp bền vững
a. Khái niệm
Sử dụng đất bền vững là khái niệm động và tổng hợp, liên quan đến các
lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, môi trường, hiện tại và tương lai.
Sử dụng đất bền vững là làm giảm suy thoái đất và nước đến mức tối
thiểu, giảm phí sản xuất bằng cách sử dụng thông qua các nguồn tài nguyên
bên trong và áp dụng hệ thống quản lý phù hợp.
Sử dụng đất nông nghiệp bề vững là bảo vệ môi trường, tạo dựng một
môi trường trong lành và sử dụng một cách hợp lý tài nguyên thiên nhiên.
Khái niệm “Hệ thống nông nghiệp bền vững” bao hàm sự quản lý thành
công các tài nguyên cho nông nghiệp để thỏa mãn các nhu cầu đa dạng và
thay đổi của con người trong khi vẫn suy trì hay tăng cường chất lượng của
môi trường và bảo tồn tài nguyên thiên nhiên (TAC, 1989, CGIAR, 1990b).
b. Quan điểm
Đất đai đối với mỗi quốc gia là có hạn, đặc biệt trong quá trình công

11



nghiệp hóa hiện đại hóa như hiện nay vốn đất nông nghiệp của nước ta đang
dần bị thu hẹp. Cùng với đó việc sử dụng đất hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả
là mối quan tâm đặc biệt đối vơi sự tồn tài và phát triển của nước ta.
Theo Fetry, :Sự phát triển bền vững trong lĩnh vực nông nghiệp chính là
sự bảo tồn đất, nước, các nguồn động và thực vật, không bị suy thoái môi
trường, kỹ thuật thích hợp, sinh lợi kinh tế và chấp nhận được về mặt xã hội”
( FAO, 1994). FAO đã đưa ra các chỉ tiêu cụ thể cho nông nghiệp bền vững là:
- Thỏa mãn nhu cầu dinh dướng cơ bản của các thế hệ hiện tại và tương
lai về số lượng, chất lượng và các sản phẩm nông nghiệp khác.
- Cung cấp lâu dài việc làm, đủ thu nhậ và các điều kiện sống, làm việc
tốt cho mọi người trực tiếp sản xuất nông nghiệp.
- Duy trì và có thể tăng cường khả năng sản xuất của các cơ sở tài
nguyên thiên nhiên và khả năng tái sản xuất của các nguồn tài nguyên thiên
nhiên tái tạo được mà không phá vỡ chức năng của các chu trình sinh thái cơ
sở và cân bằng tự nhiên, không phá vỡ bản sắc văn hóa - xã hội của các cộng
đồng sống ở nông thôn hoặc không gây ô nhiễm môi trường.
- Giảm thiếu khả năng bị tổn thương trong nông nghiệp, củng cố lòng tin
trong dân.
Tại hội thảo năm 1991 ở Nairobi đã đề ra 05 nguyên tắc chính, là nền
tảng cho việc sử dụng đất bền vững là:
- Duy trì và nâng cao sản lượng
- Giảm tối thiểu mức rủi ro trong sản xuất
- Bảo vệ tiềm năng tài nguyên tự nhiên và ngăn chặn sự thái hóa đất
- Đất có khả năng sử dụng lâu bền
- Được xã hội chấp nhận
Vận dụng các nguyên tắc trên, ở Việt Nam một loại hình sử dụng đất
được xem là bền vững phải đạt được 03 yêu cầu sau:
- Bền vững về kinh tế: Cây trồng có hiệu quả kinh tế cao, được thị
12



trường chấp nhận.
Hệ thống sử dụng đất phải có mức năng suất sinh học cao trên mức bình
quân vùng có cùng điều kiện đất đai, nếu không sẽ không cạnh tranh được
trong cơ chế thị trường. Năng suất sinh học bao gồm các sản phẩm chính và
phụ phẩm ( đối với cây trồng là gỗ, hạt, củ, quả... và tàn dư để lại ).
Về chất lượng, sản phẩm phải đạt tiêu chuẩn tiêu thụ tại địa phương,
trong nước và xuất khẩu, tùy vào mục tiêu của từng vùng.
Tổng giá trị sản phẩm trên đơn vị diện tích là thước đo quan trọng nhất
của hiệu quả kinh tế đối với một hệ thống sử dụng đất. Tổng giá trị trong một
giai đoạn hay cả chu kỳ phải trên mức bình quân của vùng, nếu dưới mức đó
thì nguy cơ người sản xuất sẽ không có lãi lãi xuất phải lớn hơn lãi suất tiền
vay vốn ngân hàng.
- Bền vững về mặt xã hội: Thu hút được lao động, đảm bảo đời sống xã
hội phát triển. Đáp ứng các nhu cầu cần thiết yếu của nông hộ là việc được ưu
tiên hàng đầu, nếu họ muốn quan tâm đến lợi ích lâu dài ( bảo vệ đất, môi
trường...). Sản phẩm thu được cần thỏa mãn nhu cầu ăn, mặc, ở của người
nông dân. Nội lực và nguốn lực địa phương phải phát huy. Về đất đai, hệ số
sử dụng đất phải được tổ chức trên đất mà nông dân có thể hưởng thụ lâu dài,
đất đã được giao và rừng đá được khoán với lợi ích các bên cụ thể.
Sử dụng đất sẽ bền vững nếu phù hợp với nền văn hóa dân tộc và tập
quán địa phương, nếu ngược lại sẽ không được cộng đồng ủng hộ.
- Bền vững về môi trường: Các loại hình sử dụng đất phải bảo vệ được
độ màu mỡ của đất, ngăn chặn sự thoái hóa đất và bảo vệ môi trường hệ sinh
thái đất.
1.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc sử dụng đất nông nghiệp
a. Nhân tố về điều kiện tự nhiên
Việc sử dụng đất đai luôn chịu sự ảnh hưởng của nhân tố tự nhiên, do

13



khi sử dụng đất đai ngoài bề mặt không gian cần chú ý đến việc thích ứng
điều kiện tự nhiên và quy luật sinh thái tự nhiên của đất cũng như yếu tố
quanh mặt đất như nhiệt độ, ánh sáng, lượng mưa, không khí và các khoáng
trong lòng đất...
Điều kiện tự nhiên (đất, nước, khí hậu, thời tiết...) có ảnh hưởng trực tiếp
đến sản xuất nông nghiệp. Bởi vì, các yếu tố của điều kiện tự nhiên là yếu tố
để sinh vật tạo nên sinh khối. Do vậy, cần đánh giá đúng điều kiện tự nhiên để
trên cơ sở đó xác định cây trồng vật nuôi chủ lực phù hợp và định hướng đầu
tư thâm canh hợp lý.
Theo Mác, điều kiện tự nhiên là cơ sở hình thành địa tô chênh lệch I.
Theo N.Borlang - người được giải Noben về giải quyết lương thực cho các
nước phát triển cho rằng: yếu tố duy nhất quan trọng hạn chế năng suất cây
trồng ở tầm cỡ thế giới của các nước đang phát triển, đặc biệt đối với nông
dân thiếu vốn là độ phì của đất.
Điều kiện về đất đai, khí hậu thời tiết có ý nghĩa quan trọng đối với sản
xuất nông nghiệp. Nếu điều kiện tự nhiên thuận lợi, các hộ nông dân có thể
lợi dụng những yếu tố đầu vào không kinh tế thuận lợi để tạo ra nông sản
hàng hóa với giá rẻ.
Sản xuất nông nghiệp là nghành kinh doanh năng lượng ánh sáng mặt
trời dựa trên các điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội khác.
- Yếu tố khí hậu
Thực vật nói chung và cây trồng nói riêng muốn sống, sinh trưởng và
phát triển đòi hỏi phải có đầy đủ các yếu tố sinh trưởng là ánh sáng, nhiệt độ,
không khí, nước và dinh dưỡng. Trong đó, ánh sáng, nhiệt độ, lượng mưa, độ
ẩm và không khí chính là các yếu tố khí hậu. Chính vì thế, khí hậu là một
trong những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến sinh trưởng, năng suất và sản
lượng cây trồng, ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.


14


Việt Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa. Tuy nhiên, vì sự khác biệt về vĩ
độ địa lý và địa hình nên khí hậu có khuynh hướng khác biệt nhau khá rõ nét
theo từng vùng. Miền bắc có nhiệt độ trung bình 22,2 - 23,5 độ, lượng mưa
trung bình từ 1.500 - 2.400 mm, tổng số giờ giờ nắng từ 1.650 - 1.750
giờ/năm.
Trong khi đó, ở Miền Nam khí hậu mang tính chất xích đạo, nhiệt độ
trung bình 22,6 - 27,5 độ C, lượng mưa trung bình 1.400 - 2.400mm, nắng
trên 2.000 giờ/năm.
Nước ta còn tồn tại 7 tiểu vùng khí hậu khác nhau nên chúng ta có thể đa
dạng hóa các loại cây trồng, vật nuôi. Chính vì thế, sử dụng đất cũng đa dạng
và giảm được rủi ro vì có thể trồng các loại cây trồng có nguồn gốc nhiệt đới,
á nhiệt đới và cả ôn đới.
Khí hậu là yếu tố quan trọng, ảnh hưởng rất lớn đến việc phân bố các
loại cây trồng, cũng như thời vụ cây trồng trong sản xuất nông nghiệp. Nếu
như ở trung du và miền núi phía Bắc có thể trồng mận, hồng, đào, chuối, đậu
côve ,súp lơ xanh... ở đồng bằng sông Hồng có thể trồng các loại rau vụ đông
có nguồn gốc ôn đới thì đồng bằng sông Cửu Long có thể trồng sầu riêng,
măng cụt... hay miền Đông Nam Bộ và Tây Nguyên có thể trồng chôm chôm,
trái bơ, thanh long... là những cây nhiệt đới điển hình.
Yếu tố khí hậu nhiều khi ảnh hưởng rõ nét đến hiệu quả sử dụng đất
nông nghiệp với các mức độ khác nhau. Ở đồng bằng sông Hồng và Bắc
Trung Bộ, nhiệt độ thấp vụ đông và thời kỳ đầu vụ xuân kèm theo ẩm ướt,
mưa phùn, thiếu ánh sáng làm hạn chế sinh trưởng và phát triển của cây trồng
ưa nắng, ưa nhiệt nhưng lại phù hợp cho cây trồng ưa lạnh có nguồn gốc ôn
đới. Trời âm u thiếu ánh sáng cũng là điều kiện cho sâu bệnh phát triển phá
hại mừa màng.


15


- Yếu tố đất trồng
Cùng với khí hậu, đất tạo nên môi trường sống của cây trồng. Đất trồng
với các đặc tính như loại đất, thành phần cơ giới, chế độ nước, độ phì... có vai
trò quan trọng đối với sự sinh trưởng, phát triển và năng suất của cây trồng,
ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
Đất giữ cây đứng vững trong không gian, cung cấp cho cây các yếu tố
sinh trưởng như nước, dinh dưỡng và không khí. Độ phì là một trong những
yếu tố quan trọng nhất của đất. Vị trí từng mảnh đất có ảnh hưởng đến quá
trình hình thành độ phì của đất. Độ phì nhiêu của đất liên quan trực tiếp đến
năng suất cây trồng thích hợp trên từng loại đất mới cho năng suất, hiệu quả
sử dụng đất cao.
- Yếu tố cây trồng
Trong sử dụng đất nông nghiệp, cây trồng là yếu tố trung tâm. Con
người hưởng lợi trực tiếp từ những sản phẩm của cây trồng. Những sản phẩm
này cung caaos lương thực, thực phẩm cho các nhu cầu thiết yếu cho con
người và cho xuất khẩu.
Việc bố trí cây trồng và kiểu sử dụng đất hợp lý trên đất đem lại những
giá trị cao về mặt hiệu quả cho cả người sản xuất và môi trường đất. Ngược
lại, nếu cây trồng được bố trí bất hợp lý, sử dụng đất bừa bãi không những
gây thất thu cho người nông dân mà còn ảnh hưởng xấu đến đất.
Ngày nay, với sự phát triển nhanh chóng của những tiến bộ khoa học, kỹ
thuật, các giống cây trồng mới với chất lượng và năng suất cao, thời gian sinh
trưởng ngắn xuất hiện ngày càng nhiều. Sản xuất nông nghiệp hàng hóa phát
triển gắn với việc tăng hệ số sử dụng đất. Vì vậy, những tiến bộ trong công
tác giống cây trồng đã tạo cơ hội cho việc phát triển nong nghiệp hàng hóa.

16



b. Nhân tố về điều kiện kinh tế - xã hội
Nhân tố kinh tế xã hội bao gồm các yếu tố như độ xã hội, dân số và lao
động, mức độ phát triển của khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý, sử dụng lao
động, khả năng áp dụng tiến bô khoa học trong sản xuất. Trong đó có một số
yếu tố sau:
- Yếu tố con người
Con người là nhân tố tác động trực tiếp tới đất và hưởng lợi từ đất. Khi
dân số thấp, trình độ và nhu cầu thấp, việc khai thác quỹ đất nông nghiệp còn
ở mức hạn chế, không tận dụng được hết tiềm năng vốn có của đất, hiệu quả
sử dụng đất không cao nhưng sự bền vững trong sử dụng đất nông nghiệp
được đảm bảo. Ngược lại, ngày nay khi dân số tăng nhanh kéo theo sự gia
tăng các nhu cầu thì tài nguyên nông nghiệp bị khai thác nhiều, triệt để hơn
nhằm đạt năng suất và hiệu quả cao hơn. Vì vậy, quy luật sinh thái và tự nhiên
bị xâm phạm, tính bền vững tài nguyên đất kém hơn. Việc đảm bảo cân bằng
giữa sử dụng và bảo vệ đất trở thành vấn đề cấp thiết.
Đối với các hoạt động kinh tế nói chung, sản xuất nông nghiệp nói riêng,
dân số vừa là thị trường cầu của sản phẩm hàng hóa và dịch vụ, vừa là nguồn
cùng về lao động cho sản xuất. Các hoạt động kinh tế sẽ không thể phát triển
nếu không có thị trường tiêu thụ các sản phẩm do chúng tạo ra.
Đặc biệt, đối với một nền sản xuất nông nghiệp hàng hóa thì điều này lại
càng trở nên quan trọng.
Chất lượng nguồn lao động cũng đóng vai trò quan trọng trong các hoạt
động sản xuất nông nghiệp. Nếu người nông dân có kinh nghiệm, kỹ thuật, có
ý thức trong sản xuất thì việc sử dụng đất nông nghiệp sẽ đạt hiệu quả cao.
- Yếu tố kinh tế
Đối với mỗi quốc gia, mức độ phát triển của nền kinh tế quốc dân có ảnh

17



hưởng lớn đến các hoạt động sản xuất nói chung và sử dụng đất nông nghiệp
nói riêng và ngược lại. Nếu sử dụng đất có hiệu quả sẽ góp phần thúc đẩy nền
kinh tế phát triển. Khi kinh tế phát triển, nó sẽ làm tiền đề cho quá trình sử
dụng đất đạt được hiệu quả cao hơn, thông qua việc đâu tư, áp dụng tiến bộ
kỹ thuật, công nghệ cao sẽ nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm cây
trồng.
- Cơ chế chính sách
Trong sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp hàng hóa,
người nông dân thường chịu thiệt thòi do hạn ché về kiến thức thị trường,
thông tin thị trường, sức mua... Hơn nữa, các hiệu ứng tràn ra ngoài trong sản
xuất nông nghiệp cũng làm cho sản xuất không hiệu quả, việc sử dụng bừa bãi
phân hóa học, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ... có tác động tiêu cực đến môi
trường, nguồn nước, không khí và đất. Do vậy, việc Nhà nước can thiệp bằng
các chính sahs và pháp luật thích hợp đã tạo điều kiện, khuyến khích, hướng
dẫn sản xuất nông nghiệp và đảm bảo tính bền vững của các yếu tố nguồn lực
trong sản xuất nông nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông
nghiệp.
Cũng bằng chính sách thích hợp, sử dụng đất nông nghiệp được đảm bảo
ổn định và lâu dài. Trong những năm qua, Chính phú đã không ngừng ban
hành sửa đổi và bổ sung những chủ trương, chính sách về đất đai nhằm mục
đích thúc đẩy sự phát triển sản xuất nông nghiệp nông thôn. Luật đất đai sửa
đổi ( chính thức có hiệu lực vào ngày 1/7/2003 ) và đặc biệt là chính sách
“Đồn điền đổi thửa” đã và đang được thực hiện rất tích cực đã thể chế hóa và
nới rộng quyền của người sử dụng đất. Đây là một chính sách khuyến khích
người nông dân đầu tư vào sản xuất dài hạn, thay đổi cơ cấu cây trồng nhằm
phát triển sản xuất hàng hóa một cách có hiệu quả. Mặc dù đất đai thuộc sở
hữu toàn dân nhưng pháp luật công nhận quyền sử dụng lâu dài đối với đất.


18


Người sử dụng đất không chỉ được quyền sử dụng đất lâu dài mà còn được
quyền thừa kế những đầu tư trên đất. Điều đó đã trở thành động lực quan
trọng trong phát triển nông nghiệp. Nó làm cho người nông dân yên tâm đầu
tư trên đất, sử dụng đất nông nghiệp một cách chủ động và hiệu quả, phát huy
được lợi thế so sánh của từng vùng, từng miền. Thực tế cho thấy, chính sách
về đất đai thông thoáng, sẽ là cơ sở để hình thành các phương thức sản xuất
mới như thâm canh, tăng vụ, nâng cao hiệu quả sử dụng đất canh tác, đặc biệt
là sử dụng để sản xuất cây trồng có giá trị hàng hóa cao. Các quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất nông nghiệp cũng là cơ sở để phát triển hệ thống cây trồng,
vật nuôi và khai thác đất một cách đầy đủ hợp lý, đồng thời tạo điều kiện
thuận lợi để đầu tư thâm canh và tiến hành tập trung hóa, chuyên môn hóa,
hiện đại hóa nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
c. Nhóm yếu tố các biện pháp canh tác
Biện pháp kỹ thuật canh tác là tác động của con người vào đất đai, cây
trồng, vật nuôi, nhằm tạo nên sự hài hòa giữa các yếu tố của quá trình sản
xuất để hình thành, phân bố và tích lũy năng suất kinh tế. Đây là những vấn
đề thể hiện sự hiểu biết về đối tượng sản xuất, về thời tiết, về điều kiện môi
trường và thể hiện những dự báo thông minh của người sản xuất. Lựa chọn
các tác động kỹ thuật, lựa chọn chủng loại và cách sử dụng các đầu vào phù
hợp với các quy luật tự nhiên của sinh vật nhằm đạt được các mục tiêu đề ra
là cơ sở để phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa. theo Frank Ellí và
Douglass C.North, ở các nước phát triển, khi có tác động tích cực của kỹ
thuật, giống mới, thủy lợi, phân bón tới hiệu quả thì cũng đặt ra yêu cầu mới
đối với tổ chức sử dụng đất. Có nghĩa là ứng dụng công nghệ sản xuất tiến bộ
là một đảm bảo vật chất cho kinh tế nông nghiệp tăng trưởng nhanh dựa trên
việc chuyển đổi sử dụng đất.
Cho đến giữa thế kỷ 20, trong nông nghiệp nước ta, quy trình kỹ thuật có

thể góp phần đến 30% của năng suất kinh tế. Như vậy, nhóm các biện pháp kỹ
19


thuật đặc biệt có ý nghĩa quan trọng tron quá trình khai thác đất theo chiều
sâu và nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
Khoa học kỹ thuật đóng vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Cải tiến kỹ thuật trước hết làm tăng
cung về hàng hóa nông sản, cũng tức là làm phát triển kinh tế. Áp dụng khoa
học (kiến thức), kỹ thuật (công cụ), công nghệ (kỹ năng) để tăng năng suất,
hiệu quả sản xuất, kinh doanh, phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn
một cách bền vững. thông qua việc áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật
vào sản xuất nông nghiệp như giống cây trồng vật nuôi mới, các quy trình kỹ
thuật trong canh tác, trong chế biến bảo quản... làm tăng năng suất, chất lượng
cây trồng vật nuôi, tăng hiệu quả sử dụng nguồn lực như đất đai, lao động,
vốn.
1.3. Cơ sở thực tiễn
1.3.1. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp
Với tính cách là một nghành sản xuất đặc thù, nông nghiệp có những đặc
điểm chung như sau:
- Sản xuất nông nghiệp có tính vùng rõ rệt: Sản xuất nông nghiệp tiến
hành trên không gian rộng lớn, mỗi vùng lại chịu tác động từ những điều kiện
tự nhiên, kinh tế, xã hội, truyền thống văn hóa, tập quán,... rất khác nhau. Đặc
điểm này đòi hỏi nhà quản lý phải hiểu rõ tính chất vùng, quy hoạch nông
nghiệp, lựa chọn và bố trí cây trồng, vật nuôi, ứng dụng kỹ thuật canh tác phù
hợp với điều kiện từng vùng, nhằm tránh rủi ro và khai thác lợi thế so sánh
nông sản của mỗi vùng.
- Ruộng đất: là tư liệu sản xuất trong nông nghiệp và ngày càng khan
hiếm. Dù cố định về vị trí, tuy nhiên do không bị đào thải trong quá trình sản
xuất, và nếu được sử dụng hợp lý thì độ phì nhiêu của đất không ngừng tăng

lên, và ruộng đất là tư liệu sản xuất không thể thay thế được trong sản xuất

20


nông nghiệp. Do đó, việc bảo tồn quỹ đất và không ngừng nâng cao độ phì
nhiêu của đất là vấn đề sống còn của sản xuất nông nghiệp.
- Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là những ơ thể sống, phát sinh,
phát triển theo những quy luật sinh học nhất định. Quá trình sản xuất kinh tế
trong nông nghiệp gắn với quá trình sinh học. Vì vậy muốn hoàn thành quá
trình sản xuất phải hiểu biết sâu sắc chu trình sinh trưởng của sinh vật.
- Sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ cao. Đặc điểm này xuất phát từ
hai lý do cơ bản. Một là quá trình sản xuất nông nghiệp gắn với quá trình tái
sản xuất tự nhiên, thời gian lao động gắn với thời gian sản xuất nhưng không
hoàn toàn trùng khớp với thời gian sản xuất. Thứ hai, mỗi loại cây trồng, vật
nuôi chỉ phù hợp với một điều kiện thời tiết nhất định. Để khai thác tốt nhất
ánh sáng, ôn độ, độ ẩm, lượng mưa cho cây trồng thì các khâu gieo trồng, bón
phân, làm cỏ, tưới tiêu... phải đúng thời vụ. Vì vậy, việc nghiên cứu các
phương pháp canh tác nhằm hạn chế những tác động của thời tiết khí hậu sẽ
giúp cho nông nghiệp phát triển bền vững và ổn định.
1.3.2. Các vấn đề liên quan tới hiệu quảsử dụng đất nông nghiệp
a. Hiệu quả kinh tế
Hiệu quả kinh tế là một phạm trù phản ánh chất lượng của các hoạt động
kinh tế. Theo nghành thống kê định nghĩa thì hiệu quả kinh tế là một phạm trù
kinh tế, biều hiện của sự tập trung phát triển theo chiều sâu, phản ánh trình độ
khai thác các nguồn lực và sự chi phí các nguồn lực trong quá trình sản xuất.
Nâng cao hiệu quả kinh tế là một tất yếu của mọi nền sản xuất xã hội, yêu cầu
của công tác quản lý kinh tế buộc phải nâng cao chất lượng các hoạt động
kinh tế làm xuất hiện hiệu quả kinh
Nền kinh tế của mỗi quốc gia đều phát triển theo hai chiều: chiều rộng và

chiều sâu, phát triển theo chiều rộng là huy động mọi nguồn lực vào sản xuất,
tăng đầu tư chi phí vật chất, lao động, kỹ thuật, mở mang thêm nhiều nghành

21


nghề, xây dựng thêm nhiều nhà máy, xí nghiệp... pháttriển theo chiều sâu là đẩy
mạnh việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ sản xuất, tiến
hành hiện đại hóa, tăng cường chuyên môn hóa và hợp tác hóa, nâng cao
trình độ sử dụng các nguồn lực, chú trọng chất lượng sản phẩm và dịch vụ.
Phát triển theo chiều sâu nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế. Hiệu quả kinh tế là
tiêu chuẩn cao nhất của mọi sự lựa chọn kinh tế của các tổ chức kinh tế trong
nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Hiệu quả kinh tế được hiểu là mối tương quan so sánh giữa lượng kết
quả đạt được với lượng chi phí bỏ trong các hoạt động sản xuất. Kết quả đạt
được là phần giá trị thu được của sản phẩm đầu ra, lượng chi phí bỏ ra là phần
giá trị của các nguồn lực đầu vào. Mối tương quan đó cần xét cả về phần so
sánh tuyệt đối với tương đối cũng như xem xét mối quan hệ chặt chẽ giữa hai
đại lượng đó. Hiệu quả kinh tế còn là phạm trù mà trong đó sản xuất đạt hiệu
quả kinh tế và hiệu quả phân bổ. Điều đó có nghĩa là cả hai yếu tố hiện vật và
giá trị đều tính đến khi xem xét sử dụng các nguồn lực trong nông nghiệp.
Nếu đạt được một trong 2 yếu tố hiệu quả kỹ thuật và phân bổ thì khi đó hiệu
quả sản xuất mới đạt được hiệu quả kinh tế.
Qua những vấn đề trên ta có thể kết luận rằng: bản chất của hiệu quả
kinh tế sử dụng đất là: Trên một diện tích đất nhất định sản xuất ra một khối
lượng của cải vật chất nhiều nhất, với một lượng đầu tư chi phí về vật chất và
lao động thấp nhất nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng về vật chất của xã
hội. Xuất phát từ vấn đề này mà trong quá trình đánh giá đất nông nghiệp cần
phải chỉ ra được loại hình sử dụng đất hiệu quả kinh tế cao.
*Chỉ tiêu về kinh tế

- Giá trị sản xuất (GTSX): là toàn bộ giá trị sản phẩm vật chất, dịch vụ
được tạo gia trong một thời kì nhất định (thường là 1 năm).
GTSX = Sản lượng sản phẩm x giá bán sản phẩm
- Chi phí trung gian (CPTG): là toàn bộ chi phí vật chất được sử dụng
22


trong quá trình sản xuất, như chi phí nguyên vật liệu, giống, phân bón, chi phí
dịch vụ phục vụ cho sản xuất.
- Giá trị gia tăng (GTGT): là chỉ tiêu hiệu quả phản ánh tổng giá trị sản
phẩm vật chất và dịch vụ xã hội được tạo ra thêm trong một thời gian nhất
định (thường tính theo 1 năm).
GTGT = GTSX – CPTG
- Thu nhập hỗn hợp (TNHH): là chỉ tiêu hiệu quả phản ánh thu nhập
thuần tuý của người sản xuất bao gồm cả lao động và lợi nhuận sản xuất.
TNHH = GTGT – T – K – L
Trong đó:

T: Thuế;

K: Khấu hao tài sản cố định;
L: Lao động thuê ngoài.
- Hiệu quả kinh tế tính trên 1 đồng chi phí trung gian (GTSX/CPTG,
GTGT/CPTG): đây là chỉ tiêu tương đối của hiệu quả, nó chỉ ra hiệu quả sử
dụng các chi phí biến đổi và thu dịch vụ.
- Hiệu quả kinh tế trên ngày công lao động quy đổi, gồm có
(GTSX/LĐ, GTGT/LĐ). Thực chất là đánh giá kết quả đầu tư lao động
sống cho từng kiểu sử dụng đất và từng cây trồng làm cơ sở để so sánh
với chi phí cơ hội của người lao động.
b. Hiệu quả xã hội

Hiệu quả xã hội là mối tương quan so sánh giữa kết quả xét về mặt xã
hội và tổng chi phí bỏ ra. Hiệu quả về mặt xã hội trong sử dụng đất nông
nghiệp chủ yếu được xác định bằng khả năng tạo việc làm trên một dơn vị
diện tích đất nông nghiệp.
Từ những quan niệm trên cho thấy giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã
hội có mối quan hệ mật thiết với nhau, chúng là tiền đề của nhau và là một
phạm trù thống nhất, phản ánh mối quan hệ giữa kết quả sản xuất với các lợi
ích xã hội mà nó mang lại. Trong giai đoạn hiên nay, việc đánh giá hiệu quả
23


xã hội của các loại hình sử dụng đất nông nghiệp là nội dung được nhiều nhà
khoa học quan tâm.
*Chỉ tiêu về xã hội
Khi phân tích hiệu quả xã hội với mõi loại hình sử dụng đất phải đạt
được những chỉ tiêu cơ bản sau:
- Khả năng đảm bảo đời sống của nông dân cũng như của toàn xã hội
(như vấn đề về an ninh lương thực, khả năng cung cấp chất đốt cho sinh
hoạt,...)
- Loại hình sử dụng đất có phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội
của địa phương và phong tục tập quán canh tác của người dân địa phương hay
không.
- Khả năng thu hút lao động, giải quyết công ăn, việc làm cho người dân.
- Tính ổn định, bền vững của những loại hình sử dụng đất bố trí ở các
vùng định canh định cư, vùng kinh tế mới.
- Chỉ tiêu về số lượng sản phẩm sử dụng làm hàng hóa nông sản.
Với các chỉ tiêu về mặt xã hội như trên, mỗi loại hình sử dụng đất sẽ đạt
được tất cả những chỉ tiêu riêng. Có những loại hình sử dụng đất sẽ đạt được
chỉ tiêu đó nhưng cũng có loại hình sử dụng đất chỉ đạt được một trong những
chỉ tiêu đó.

c. Hiệu quả môi trường
Hiệu quả môi trường là xem xét sự phản ứng của môi trường đối với
hoạt động sản xuất. Từ các hoạt động sản xuất, đặc biệt là sản xuất nông
nghiệp đều ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường. Đó có thể là ảnh hưởng
tích cực đồng thời có thể là ảnh hưởng tiêu cực. Thông thường, hiệu quả kinh
tế thường mâu thuẫn với hiệu quả môi trường. Chính vì vậy khi xem xét cần
phải đảm bảo tính cân bằng với phát triển kinh tế, nếu không thường sẽ bị
thiên lệch và có những kết luận không tích cực.

24


Xét về khía cạnh hiệu quả môi trường, đó là việc đảm bảo chất lượng đất
không bị thoái hóa, bạc màu và nhiễm các chất hóa học trong canh tác. Bên
cạnh đó còn có các yếu tố như độ che phủ, hệ số sử dụng đất, mối quan hệ
giửa các hệ thống phụ trợ trong sản xuất nông nghiệp như chế độ thủy văn,
bảo quản chế biến, tiêu thụ hàng hóa.
* Chỉ tiêu về hiệu quả môi trường
Chỉ tiêu đánh giá chất lượng môi trường trong quản lý sử dụng đất bền
vững ở vùng nông nghiệp được tính là (Đỗ Nguyên Hải 1999) [5]:
- Quản lý đối với đất đai rừng đầu nguồn;
- Đánh giá các tài nguyên nước bền vững;
- Đánh giá quản lý đất đai;
- Đánh giá hệ thống cây trồng;
- Đánh giá về tính bền vững đối với việc duy trì độ phì nhiêu của đất và
bảo vệ cây trồng;
- Đánh giá về quản lý và bảo vệ tự nhiên;
- Sự thích nghi của môi trường đất khi thay đổi kiểu sử dụng đất.
1.4. Thực trạng vấn đề sử dụng đất nông nghiệp Việt nam
Hiện nay Việt Nam có khoảng 9.345,3 nghìn ha đất nông nghiệp chiếm

28,4 % diện tích tự nhiên. Bình quân đất nông nghiệp tính theo đầu người là
1.224m2/ người. Trong đó:
- Đất trồng cây hàng năm: 6.129,5 nghìn ha chiếm 65,6 % diện tích đất
nông nghiệp.
- Đất trồng cây lâu năm: 2.181,9 nghìn ha chiếm 23,3 % diện tích đất
nông nghiệp.
- Đất vườn tạp: 628,5 nghìn ha chiếm 6,7 % diện tích đất nông nghiệp.
- Đất mặt nước nuôi trồng thuỷ sản: 367,8 % diện tích đất nông nghiệp.

25


×