Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Báo cáo tiểu luận “Thương mại điện tử và thực trạng, giải pháp ở Việt Nam”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.7 KB, 29 trang )

MỤC LỤC


LỜI NÓI ĐẦU
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã và đang đem lại những chuyển biến
mạnh mẽ trên toàn thế giới. Việc áp dụng công nghệ thông tin trong hoạt động kinh
tế đem lại những lợi ích to lớn cho toàn xã hội. Thương mại điện tử là lĩnh vực hoạt
động kinh tế không còn xa lạ với nhiều quốc gia. Người ta không còn phải mất
nhiều thời gian, công sức, tiền bạc...cho những giao dịch kinh tế. Việc áp dụng
thương mại điện tử trong hoạt động kinh doanh là một xu thế tất yếu của thời đại.
Và Việt Nam – trong quá trình hội nhập không nằm ngoài xu hướng phát triển đó.
Tuy thương mại điện tử không còn là vấn đề mới mẻ ở Việt Nam, nhưng rất nhiều
người Việt Nam thậm chí còn chưa hiểu rõ bản chất, lợi ích của thương mại điện tử
chứ chưa nói đến việc áp dụng nó. Do đó, quá trình phát triển thương mại điện tử ở
Việt Nam còn gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc đòi hỏi phải có những công trình
nghiên cứu khách quan về quy luật vận động và phát triển thương mại điện tử để từ
đó xây dựng và triển khai chiến lược phát triển lĩnh vực hoạt động thương mại này.
Xuất phát từ những yêu cầu đó, với mong muốn mỗi người dân Việt Nam sẽ hiểu
biết ngày một sâu sắc tầm quan trọng của thương mại điện tử, đưa thương mại điện
tử vào trong hoạt động phát triển nền kinh tế quốc gia nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh trong điều kiện hội nhập, em đã chọn đề tài “Thương mại điện tử và thực
trạng, giải pháp ở Việt Nam” làm bài tiểu luận. Nội dung của bài luận sẽ giúp người
đọc hiểu rõ khái niệm, yêu cầu, lợi ích và tầm quan trọng của thương mại điện tử
nói chung và những định hướng, bước đi trong chặng đường phát triển thương mại
điện tử ở Việt Nam nói riêng, qua đó sẽ thấy được những vấn đề bức thiết cần làm
để nâng cao hiệu quả của thương mại điện tử.
Trong quá trình thực hiện, do trình độ và thời gian có hạn cùng với điều kiện
thực tế là thương mại điện tử ở Việt Nam mới chớm phát triển, việc lấy thông tin
chính xác còn nhiều hạn chế, do đó không thể tránh khỏi những sai sót. Vì vậy, em
rất mong nhận được sự quan tâm giúp đỡ, trao đổi, động viên của thầy giáo và
những ai quan tâm đến thương mại điện tử để bài tiểu luận “Thương mại điện tử và


thực trạng, giải pháp ở Việt Nam” ngày một hoàn thiện.
Xin trân trọng cảm ơn!


CHƯƠNG I : CỞ SỞ LÝ LUẬN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
1.1.Sự ra đời của thương mại điện tử
Thương mại điện tử ra đời trên cơ sở sự ra đời và phát triển của Internet
-mạng máy tính toàn cầu. Ý tưởng về Internet xuất hiện từ những năm 1960 khi Bộ
quốc phòng Mỹ bắt tay vào thực hiện việc nghiên cứu kết nối các máy tính thành
một mạng lưới chằng chịt để khi một mối liên kết bị phá hỏng thì các máy tính vẫn
có thể nối kết với nhau bằng các mối liên hệ khác. Trong thời gian này, Cơ quan
nghiên cứu các dự án quốc phòng cao cấp của Mỹ (ARPA) đã tìm kiếm các công
nghệ truyền thông cho phép truyền thông liên tục thậm chí cả khi các trung tâm điều
khiển không hoạt động được. Điều này dẫn tới việc nghiên cứu các công nghệ
chuyển mạch gói. Kết quả là, tới năm 1977, hai giao thức chuyển mạch gói là Giao
thức điều khiển truyền thông (TCP) và Giao thức Internet (IP) được phát minh và
trở thành hai giao thức cơ bản của Internet.
Một bước quan trọng trong cuộc cách mạng Internet là việc Trung tâm khoa
học quốc gia Hoa Kỳ (NSF) thiết lập ra một số trung tâm siêu máy tính quốc gia
vào năm 1986. NSF đã liên kết các siêu máy tính và cho phép các mạng máy tính
của khu vực và các trường đại học được kết nối vào. Hơn thế nữa, để sử dụng mạng
truy cập từ xa các siêu máy tính của NSF, người ta đã phát triển các chương trình
ứng dụng như là thư điện tử, giao thức truyền tệp và các nhóm tin để việc chia sẻ
thông tin được thuận tiện hơn. Liên kết của các trường đại học với mạng của NSF
để kết nối được với các siêu máy tính chính là nguồn gốc của Internet ngày nay.
Internet tiếp tục phát triển rộng thành mạng toàn cầu khi các nước khác cũng
xin gia nhập mạng. Đặc biệt, khi có sự phát triển của World Wide Web (www) và sự
ra đời của các trình duyệt web đồ hoạ, Internet đã nhanh chóng thu hút được sự
quan tâm chú ý của những người ở ngoài cộng đồng giáo dục và chính phủ. Với tính
chất quốc tế và những tiện ích của các dịch vụ Internet, các nhà quảng cáo và sau đó

là các doanh nghiệp đã không bỏ lỡ cơ hội làm ăn trên mạng. Từ đó, một phương
thức kinh doanh mới của thương mại toàn cầu xuất hiện và khái niệm thương mại
điện tử ra đời. Sau đó, Đạo luật mẫu về thương mại điện tử do Uỷ ban Liên Hiệp
Quốc về thương mại quốc tế (UNCITRAL: United Nations Comission on

3


International Trade Law) soạn thảo đã được Liên Hiệp Quốc chính thức thông qua,
trở thành một cơ sở pháp lý chính thức cho thương mại điện tử trên thế giới.
1.2. Khái niệm Thương mại điện tử (e-commerce)
1.2.1 Khái niệm Thương mại điện tử (TMĐT) theo nghĩa hẹp
- Theo định nghĩa tại Diễn đàn đối thoại xuyên Đại Tây Dương (1997),
TMĐT là các giao dịch thương mại về hàng hóa và dịch vụ được thực hiện thông
qua các phương tiện điện tử.
- TMĐT là việc thực hiện các giao dịch kinh doanh có dẫn đến việc chuyển
giao giá trị, thông qua các mạng viễn thông ( EITO, 1997).
- Theo sách Thương mại điện tử, nhà xuất bản Giao thông vận tải, do
Nguyễn Duy Quang và Nguyễn Văn Khoa soạn: TMĐT là việc thực hiện mua bán
hàng hóa, dịch vụ với sự trợ giúp của viễn thông và các thiết bị viễn thông.
- Theo Cục thống kê Hoa Kỳ (2000), TMĐT là việc hoàn thành bất kỳ một
giao dịch nào , thông qua một mạng máy tính làm trung gian, có bao gồm việc
chuyển giao quyền sở hữu hay quyền sử dụng hàng hóa và dịch vụ.
=> Vậy, theo nghĩa hẹp TMĐT là các giao dịch mua bán được tiến hành
bằng mạng internet.
1.2.2 Khái niệm TMĐT theo nghĩa rộng
- TMĐT, theo Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), là bao gồm việc sản
xuất, quảng cáo, bán hàng, phân phối sản phẩm và thanh toán trên mạng internet,
được giao nhận trực tiếp hay giao nhận qua internet dưới dạng số hóa.
- Liên minh châu Âu (EU) định nghĩa TMĐT là toàn bộ các giao dịch thương

mại thông qua mạng viễn thông và các phương tiện điện tử, bao gồm TMĐT trực
tiếp (trao đổi hàng hóa hữu hình) và TMĐT gián tiếp (trao đổi hàng hóa vô hình).
Ngoài ra, TMĐT còn bao gồm chuyển tiền điện tử, mua bán cổ phiếu điện tử, đấu
giá thương mại, hợp tác thiết kế và sản xuất, tìm kiếm các nguồn lực trực tuyến,
mua sắm trực tuyến, marketing trực tuyến, dịch vụ khách hàng hậu mãi.
- Theo tổ chức OECD, TMĐT bao gồm các giao dịch thương mại liên quan
đến các tổ chức và cá nhân, dựa trên việc xử lý và truyền đi các dữ kiện được số hóa
thông qua các mạng mở (như Internet) hoạc các mạng đóng thông với mạng mở
(như AOL).

4


=>Vậy theo nghĩa rộng,TMĐT là toàn bộ các giao dịch mang tính thương
mại được tiến hành bằng các phương tiện điện tử (Internet, điện thoại, máy fax...)
=>Khái niệm tổng quát: TMĐT là việc tiến hành giao dịch thương mại
thông qua mạng internet, các mạng truyền thông và phương tiện điện tử khác.
1.3.Các loại hình chủ yếu của Thương mại điện tử
Dựa vào chủ thể của thương mại điện tử, có thể phân chia thương mại điện
tử ra các loại hình phổ biến như sau:
1.3.1- B2B (Business to Business)
Là loại hình giao dịch qua các phương tiện điện tử giữa doanh nghiệp với
doanh nghiệp. Đây là loại hình thương mại điện tử gắn với mối quan hệ giữa các
công ty với nhau. Khoảng 80% thương mại điện tử theo loại hình này và phần lớn
các chuyên gia dự đoán rằng thương mại điện tử B2B sẽ tiếp tục phát triển nhanh
hơn B2C.
Phần lớn các ứng dụng B2B là trong lĩnh vực quản lý cung ứng ( Đặc biệt
chu trình đặt hàng mua hàng), quản lý kho hàng (Chu trình quản lý đặt hàng gửi
hàng-vận đơn), quản lý phân phối (đặc biệt trong việc chuyển gia các chứng từ gửi
hàng) và quản lý thanh toán (ví dụ hệ thống thanh toán điện tử)

Giao dịch giữa các doanh nghiệp thường được tiến hành thông qua phương
thức trao đổi dữ liệu điện tử EDI.
=> Trao đổi dữ liệu điện tử (EDI - Electronic Data Interchange) là việc trao
đổi các dữ liệu dưới dạng “có cấu trúc” (structured form) từ máy tính điện tử này
sang máy tính điện tử khác trong nội bộ công ty, hay giữa các công ty hoặc tổ chức
đã thoả thuận buôn bán với nhau theo cách này một cách tự động mà không cần có
sự can thiệp của con người (gọi là dữ liệu có cấu trúc vì các bên đối tác phải thoả
thuận từ trước khuôn dạng cấu trúc của các thông tin).
Uỷ ban Liên hiệp quốc về luật thương mại quốc tế đã đưa ra định nghĩa pháp
lý sau: “Trao đổi dữ liệu điện tử (EDI) là việc chuyển giao thông tin từ máy tính
điện tử này sang máy tính điện tử khác bằng phương tiện điện tử mà sử dụng một
tiêu chuẩn đã được thoả thuận về cấu trúc thông tin”. EDI ngày càng được sử dụng
rộng rãi trên bình diện toàn cầu và chủ yếu được thực hiện thông qua các mạng nội
bộ và liên mạng nội bộ. Thương mại điện tử qua biên giới (Cross-border electronic
commerce) về bản chất là trao đổi dữ liệu điện tử giữa các doanh nghiệp được thực

5


hiện giữa các đối tác ở các quốc gia khác nhau, với các nội dung: giao dịch kết nối,
đặt hàng, giao dịch gửi hàng (shipping) và thanh toán. Trên bình diện này, nhiều
khía cạnh còn phải tiếp tục xử lý, đặc biệt là buôn bán giữa các nước có quan điểm,
chính sách và luật pháp thương mại khác nhau về căn bản, đòi hỏi phải có từ trước
một dàn xếp pháp lý trên nền tảng thống nhất quan điểm về tự do hoá thương mại
và tự do hoá việc sử dụng Internet. Chỉ như vậy mới có thể đảm bảo được tính khả
thi, tính an toàn và tính hiệu quả của trao đổi dữ liệu điện tử.
1.3.2- B2C (Business to Customers)
Là thương mại trên internet giữa các doanh nghiệp và người tiêu dùng, liên
quan đến việc khách hàng thu thập thông tin, mua các hàng hoá thực (hữu hình như
là sách hoặc sản phẩm tiêu dùng) hoặc sản phẩm thông tin (hoặc hàng hoá về

nguyên liệu điện tử hoặc nội dung số hoá, như phần mềm, sách điện tử) và các hàng
hoá thông tin, nhận sản phẩm qua mạng điện tử.
Đơn giản hơn chúng ta có thể hiểu: Thương mại điện tử B2C là việc một
doanh nghiệp dựa trên mạng internet để trao đổi các hàng hóa dịch vụ do mình tạo
ra hoặc do mình phân phối.
1.3.3- C2C (Customers to Customers)
Thương mại điện tử khách hàng tới khách hàng C2C đơn giản là thương mại
giữa các cá nhân và người tiêu dùng.
Loại hình thương mại điện tử này được phân loại bởi sự tăng trưởng của thị
trường điện tử và đấu giá trên mạng, đặc biệt với các ngành theo trục dọc nơi các
công ty, doanh nghiệp có thể đấu thầu cho những cái họ muốn từ các nhà cung cấp
khác nhau. Có lẽ đây là tiềm năng lớn nhất cho việc phát triển các thị trường mới.
1.3.4- B2G (Business to Government)
Thương mại điện tử giữa doanh nghiệp với chính phủ (B2G) được định nghĩa
chung là thương mại giữa công ty và khối hành chính công. Nó bao hàm việc sử
dụng Internet cho mua bán công, thủ tục cấp phép và các hoạt động khác liên quan
tới chính phủ.
Ngoài ra, còn có loại hình giao dịch giữa cơ quan nhà nước với cá nhân
(G2C - Government to Customers). Đây chủ yếu là các giao dịch mang tính hành
chính, nhưng có thể mang những yếu tố của TMĐT. Ví dụ khi người dân đóng tiền
thuế qua mạng, trả phí khi đăng ký hồ sơ trực tuyến, v.v...

6


1.4. Lợi ích và thách thức của Thương mại điện tử
1.4.1 Lợi ích
Mặc dù hiện nay Thương mại điện tử mới chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong các
hoạt động kinh tế, nó đã và đang góp phần đẩy mạnh các quá trình thương mại
thông thường và mở ra các cách làm ăn mới, các cách tổ chức công việc mới.

Thương mại điện tử là để phát triển các loại sản phẩm, dịch vụ hỗ trợ cho các quá
trình cạnh tranh giá, đặc biệt là việc sử dụng intelligent agents. Lợi ích của Thương
mại điện tử được thể hiện ở các điểm sau:
1.4.1.1 Đối với các doanh nghiệp

- Mở rộng thị trường: Với chi phí đầu tư nhỏ hơn nhiều so với thương mại truyền
thống, các công ty có thể mở rộng thị trường, tìm kiếm, tiếp cận nhà cung cấp,
khách hàng và đối tác trên khắp thế giới. Việc mở rộng mạng lưới nhà cung cấp,
khách hàng cũng cho phép các tổ chức có thể mua với giá thấp hơn và bán được

-

nhiều sản phẩm hơn.
Cải thiện hệ thống phân phối:Giảm lượng hàng lưu kho và độ chậm trễ trong phân
phối hàng. Hệ thống cửa hàng giới thiệu sản phẩm được thay thế hoặc hỗ trợ bởi

-

các showroom trên mạng.
Vượt giới hạn về thời gian:Việc tự động hóa các giao dịch thông qua Web và
Internet giúp hoạt động kinh doanh được thực hiện 24/7/365 mà không mất thêm

-

nhiều chi phí biến đổi.
Sản xuất hàng theo yêu cầu:Còn được biết đến dưới tên gọi “Chiến lược kéo”, lôi
kéo khách hàng đến với doanh nghiệp bằng khả năng đáp ứng mọi nhu cầu của

-


khách hàng, ví dụ như hãng Dell Computer Corp.
Mô hình kinh doanh mới:Các mô hình kinh doanh mới với những lợi thế và giá trị
mới cho khách hàng. Mô hình của Amazon.com, mua hàng theo nhóm hay đấu giá
nông sản qua mạng đến các sàn giao dịch B2B là điển hình của những thành công

-

này.
Tăng tốc độ tung sản phẩm ra thị trường: Với lợi thế về thông tin và khả năng phối

-

hợp giữa các doanh nghiệp làm tăng hiệu quả sản xuất và giảm thời gian
Giảm chi phí sản xuất:Giảm chi phí giấy tờ, chi phí thông tin, chi phí in ấn, gửi văn

-

bản truyền thống.
Giảm chi phí giao dịch,mua sắm:Nhờ có Thương mại điện tử thời gian giao dịch
giảm đáng kể và chi phí giao dịch cũng giảm theo. Thời gian giao dịch qua Internet
chỉ bằng 70% so với giao dịch qua fax và bằng 5% so với giao dịch qua bưu điện .

7


Chi phí giao dịch qua Internet chỉ bằng 5% chi phí giao dịch thông qua bưu điện.

-

Chi phí thanh toán điện tử cũng giảm ngoài sức tưởng tượng.

Củng cố quan hệ khách hàng: Thông qua việc giao tiếp thuận tiện qua mạng, quan
hệ với trung gian và khách hàng được củng cố dễ dàng hơn. Đồng thời việc cá biệt
hóa sản phẩm và dịch vụ cũng góp phần thắt chặt quan hệ với khách hàng và củng

-

cố lòng trung thành.
Thông tin cập nhật: Mọi thông tin trên web như sản phẩm, dịch vụ, giá cả... đều có

-

thể được cập nhật nhanh chóng và kịp thời.
Chi phí đăng ký kinh doanh: Một số nước và khu vực khuyến khích bằng cách giảm
hoặc không thu phí đăng ký kinh doanh qua mạng và trên thực tế, do đặc thù riêng

-

biệt nên việc thu phí đăng ký kinh doanh qua mạng cũng sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
Quảng bá thông tin và tiếp thị cho thị trường toàn cầu với chi phí cực thấp: Chỉ với
từ vài chục đến vài trăm nghìn đồng mỗi tháng,doanh nghiệp có thể đưa thông tin

-

quảng bá đến với người xem trên khắp thế giới.
Dịch vụ tốt hơn cho khách hàng: Với Thương mại điện tử, doanh nghiệp có thể
cung cấp cataloges, brochure, thông tin, bảng báo giá cho đối tượng khách hàng một
cách cực kỳ nhanh chóng, doanh nghiệp có thể tạo điều kiện cho khách hàng chọn
mua hàng trực tiếp từ trên mạng v.v… Thương mại điện tử mang lại cho doanh

-


nghiệp các công cụ để làm hài lòng khách hàng,
Tăng doanh thu: Với Thương mại điện tử, đối tượng khách hàng của doanh nghiệp
giờ đây không còn bị giới hạn về mặt địa lý. Doanh nghiệp không chỉ có thể bán
hàng cho cư dân trong địa phương, mà còn có thể bán hàng trong toàn bộ Việt Nam

-

hoặc bán ra toàn cầu.
Giảm chi phí hoạt động: Với Thương mại điện tử, DN không phải chi nhiều cho

-

việc thuê mặt bằng, đông đảo nhân viên phục vụ, kho chứa...
Lợi thế cạnh tranh: Kinh doanh trên mạng là “sân chơi” cho sự sáng tạo, nơi đây,
doanh nhân tha hồ áp dụng những ý tưởng hay nhất, mới nhất về dịch vụ hỗ trợ,
chiến lược tiếp thị v.v…
- Các lợi ích khác: Nâng cao uy tín, cải thiện hình ảnh doanh nghiệp; cải
thiện chất lượng dịch vụ khách hàng; tìm kiếm các đối tác kinh doanh mới; đơn
giản hóa và chuẩn hóa các quy trình giao dịch; tăng năng suất, tăng khả năng tiếp
cận thông tin; tăng sự linh hoạt trong giao dịch và hoạt động kinh doanh.
1.4.1.2 Đối với người tiêu dùng

8


- Vượt giới hạn về không gian và thời gian: Thương mại điện tử cho phép
khách hàng mua sắm mọi nơi, mọi lúc trên khắp thế giới.
- Nhiều lựa chọn về sản phẩm và dịch vụ:Thương mại điện tử cho phép
người mua có nhiều lựa chọn hơn vì tiếp cận được nhiều nhà cung cấp hơn.


- Giá thấp hơn:Do thông tin thuận tiện, dễ dàng và phong phú hơn nên khách hàng có
thể so sánh giá cả giữa các nhà cung cấp thuận tiện hơn và từ đó tìm được mức giá

-

phù hợp nhất.
Giao hàng nhanh hơn với các hàng hóa số hóa được: Đối với các sản phẩm số hóa
được như phim, nhạc, sách, phần mềm.... việc giao hàng được thực hiện dễ dàng

-

thông qua Internet.
Thông tin phong phú, thuận tiện và chất lượng cao hơn: Khách hàng có thể dễ dàng
tìm được thông tin nhanh chóng và dễ dàng thông qua các công cụ tìm kiếm (search

-

engines); đồng thời các thông tin đa phương tiện (âm thanh, hình ảnh).
Đấu giá: Mô hình đấu giá trực tuyến ra đời cho phép mọi người đều có thể tham gia
mua và bán trên các sàn đấu giá và đồng thời có thể tìm, sưu tầm những món hàng

-

mình quan tâm tại mọi nơi trên thế giới.
“Đáp ứng mọi nhu cầu”: Khả năng tự động hóa cho phép chấp nhận các đơn hàng
khác nhau từ mọi khách hàng.
- Thuế: Trong giai đoạn đầu của Thương mại điện tử, nhiều nước khuyến
khích bằng cách miễn thuế đối với các giao dịch trên mạng.
1.4.1.3 Đối với xã hội

Mặc dù lúc đầu chỉ là một hiện tượng kinh tế, Thương mại điện tử nay đã trở
thành bộ phận của một quá trình cải biến xã hội rộng lớn hơn nhiều trên nền tảng
của xu thế toàn cầu hoá, của quá trình dịch chuyển tới nền kinh tế dựa trên cơ sở tri
thức và thông tin, với công nghệ cao (công nghệ sinh học, công nghệ thông tin...)
biến chuyển nhanh chóng, thời gian từ nghiên cứu đến ứng dụng ngày càng rút
ngắn. Có ít nhất hai yếu tố xã hội dùng để xem xét trình độ phát triển và hiệu quả
của Thương mại điện tử: khả năng liên kết bởi Thương mại điện tử, các điều kiện và
hệ quả (ví dụ, thu nhập và thời gian), niềm tin.
Các điều kiện sử dụng Internet và mạng máy tính ảnh hưởng tới mức độ chấp
nhận. Các nghiên cứu được tiến hành ở nhiều nước cho thấy sự liên hệ tích cực giữa
sử dụng công nghệ thông tin (sử dụng máy tính và Internet) và thu nhập - nói chung
người có sử dụng công nghệ thông tin có thu nhập cao hơn so với người không sử

9


dụng hoặc ít sử dụng công nghệ thông tin. Ngược lại, những người có thu nhập cao
hơn thường sử dụng máy tính và Internet thường xuyên hơn những người có thu
nhập thấp. Thương mại điện tử giúp giảm thời gian giao dịch, dẫn tới một số thay
đổi quan trọng trong hoạt động kinh tế và xã hội.

- Hoạt động trực tuyến: Thương mại điện tử tạo ra môi trường để làm việc, mua sắm,
-

giao dịch... từ xa nên giảm việc đi lại, ô nhiễm, tai nạn.
Nâng cao mức sống: Nhiều hàng hóa, nhiều nhà cung cấp tạo áp lực giảm giá do đó
khả năng mua sắm của khách hàng cao hơn, nâng cao mức sống của mọi người.
Thương mại điện tử làm tăng thêm lòng tin của người dân, tạo điều kiện cho các

-


dịch vụ khác phát triển.
Lợi ích cho các nước nghèo: Những nước nghèo có thể tiếp cận với các sản phẩm,
dịch vụ từ các nước phát triển hơn thông qua Internet và Thương mại điện tử. Đồng
thời cũng có thể học tập được kinh nghiệm, kỹ năng... được đào tạo qua mạng.
- Dịch vụ công được cung cấp thuận tiện hơn: Các dịch vụ công cộng như y
tế, giáo dục, các dịch vụ công của chính phủ... được thực hiện qua mạng với chi phí
thấp hơn, thuận tiện hơn. Cấp các loại giấy phép qua mạng, tư vấn y tế.... là các ví
dụ thành công điển hình.
1.4.2 Thách thức
Có thể chia các thách thức của Thương mại điện tử thành hai nhóm, nhóm
mang tính kỹ thuật và nhóm mang tính thương mại. Theo nghiên cứu của
CommerceNet (commerce.net), 10 rào cản lớn nhất của Thương mại điện tử theo
thứ tự là:
1. An toàn.
2. Sự tin tưởng và rủi ro.
3. Thiếu nhân lực về Thương mại điện tử.
4. Văn hóa.
5. Thiếu hạ tầng về chữ ký số hóa (hoạt động của các tổ chức chứng thực còn
hạn chế).
6. Nhận thức của các tổ chức về Thương mại điện tử.
7. Gian lận trong Thương mại điện tử (thẻ tín dụng...).
8. Các sàn giao dịch B2B chưa thực sự thân thiện với người dùng.

10


9. Các rào cản thương mại quốc tế truyền thống .
10. Thiếu các tiêu chuẩn quốc tế về Thương mại điện tử.
1.4.2.1 Cản trở về kỹ thuật

- Chưa có tiêu chuẩn quốc tế về chất lượng, an toàn và độ tin cậy.
- Tốc độ đường truyền Internet vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của người số
đông, nhất là trong Thương mại điện tử.
-Các công cụ xây dựng phần mềm vẫn trong giai đoạn đang phát triển
- Khó khăn khi kết hợp các phần mềm Thương mại điện tử với các phần mền
ứng dụng và các cơ sở dữ liệu truyền thống
-Cần có các máy chủ Thương mại điện tử đặc biệt (công suất, an toàn) đòi
hỏi thêm chi phí đầu tư.
-Chi phí truy cập Internet vẫn còn cao.
- Thực hiện các đơn đặt hàng trong Thương mại điện tử đòi hỏi hệ thống kho
hàng tự động lớn
1.4.2.2 Cản trở về thương mại
- An ninh và riêng tư là hai cản trở về tâm lý đối với người tham gia Thương
mại điện tử
- Thiếu lòng tin vào Thương mại điện tử và người bán hàng trong Thương
mại điện tử do không được gặp trực tiếp.
- Nhiều vấn đề về luật, chính sách, thuế chưa được làm rõ.
- Một số chính sách chưa thực sự hỗ trợ tạo điều kiện để Thương mại điện tử
phát triển.
- Các phương pháp đánh giá hiệu quả của Thương mại điện tử còn chưa đầy
đủ, hoàn thiện.
- Chuyển đổi thói quen tiêu dùng từ thực đến ảo cần thời gian.
- Sự tin cậy đối với môi trường kinh doanh không giấy tờ, không tiếp xúc
trực tiếp, giao dịch điện tử cần thời gian.
- Số lượng người tham gia chưa đủ lớn để đạt lợi thế về quy mô (hoà vốn và
có lãi).
- Số lượng gian lận ngày càng tăng do đặc thù của Thương mại điện tử.
1.5. Ảnh hưởng của Thương mại điện tử
1. 5.1 Tác động đến hoạt động marketing


11


- Nghiên cứu thị trường: Một mặt Thương mại điện tử hoàn thiện, nâng cao
hiệu quả các hoạt động nghiên cứu thị trường truyền thống, một mặt tạo ra các hoạt
động mới giúp nghiên cứu thị trường hiệu quả hơn. Các hoạt động như phỏng vấn
theo nhóm, phỏng vấn sâu được thực hiện trực tuyến thông qua Internet; hoạt động
điều tra bằng bảng câu hỏi được thực hiện qua công cụ web tiện lợi, nhanh và chính
xác hơn.
- Hành vi khách hàng:Hành vi khách hàng trong Thương mại điện tử thay
đổi nhiều so với trong thương mại truyền thống do đặc thù của môi trường kinh
doanh mới. Các giai đoạn xác định nhu cầu, tìm kiếm thông tin, đánh giá lựa chọn,
hành động mua và phản ứng sau khi mua hàng đều bị tác động bởi Internet và Web.
- Phân đoạn thị trường và thị trường mục tiêu: Các tiêu chí để lựa chọn thị
trường mục tiêu dựa vào tuổi tác, giới tính, giáo dục, thu nhập, vùng địa lý... được
bổ sung thêm bởi các tiêu chí đặc biệt khác của Thương mại điện tử như mức độ sử
dụng Internet, thư điện tử, các dịch vụ trên web...
- Định vị sản phẩm: Bên cạnh các tiêu chí để định vị sản phẩm như giá rẻ
nhất, chất lượng cao nhất, dịch vụ tốt nhất, phân phối nhanh nhất, việc định vị sản
phẩm ngày nay còn được bổ sung thêm những tiêu chí riêng của Thương mại điện
tử như nhiều sản phẩm nhất, đáp ứng nhu cầu của cá nhân và doanh nghiệp nhanh
nhất ...
- Các chiến lược marketing hỗn hợp: Bốn chính sách của marketing là sản
phẩm, giá, phân phối, xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh cũng bị tác động của Thương
mại điện tử. Việc thiết kế sản phẩm mới hiệu quả hơn, nhanh hơn, nhiều ý tưởng
mới hơn nhờ sự phối hợp và chia sẻ thông tin giữa nhà sản xuất, nhà phân phối, nhà
cung cấp và khách hàng.Việc định giá cũng chịu tác động của Thương mại điện tử
khi doanh nghiệp tiếp cận được thị trường toàn cầu, đồng thời đối thủ cạnh tranh và
khách hàng cũng tiếp cận được nguồn thông tin toàn cầu đòi hỏi chính sách giá toàn
cầu và nội địa cần thay đổi để có sự thống nhất và phù hợp giữa các thị trường. Việc

phân phối đối với hàng hóa hữu hình và vô hình đều chịu sự tác động của Thương
mại điện tử, đối với hàng hóa hữu hình quá trình này được hoàn thiện hơn, nâng cao
hiệu quả hơn; đối với hàng hóa vô hình, quá trình này được thực hiện nhanh hơn
hẳn so với thương mại truyền thống. Đặc biệt hoạt động xúc tiến và hỗ trợ kinh
doanh có sự tiến bộ vượt bậc nhờ tác động của Thương mại điện tử với các hoạt

12


động mới như quảng cáo trên website, quảng cáo bằng e-mail, diễn đàn cho khách
hàng trên mạng, dịch vụ hỗ trợ khách hàng 24/7...
1.5.2 Thay đổi mô hình kinh doanh
Việc xuất hiện Thương mại điện tử đã dẫn đến trào lưu hàng loạt doanh
nghiệp phát triển các mô hình kinh doanh từ truyền thống sang mô hình kinh doanh
Thương mại điện tử như các Công ty Ford Motor, Dell Computer Corp… Bên cạnh
đó cũng đã hình thành các sàn giao dịch điện tử dạng B2B.
- Với Ford, việc áp dụng Thương mại điện tử vào các hoạt động sản xuất
kinh doanh đã giúp công ty giảm lượng hàng lưu kho và độ trễ trong phân phối
hàng hoá. Hệ thống cửa hàng giới thiệu sản phẩm được thay thế hoặc hỗ trợ bởi các
showroom trên mạng, tiết kiệm được chi phí hàng tỷ USD từ giảm chi phí lưu kho.
- Với Dell Computer Corp, áp dụng Thương mại điện tử trong các chiến lược
thúc đẩy hoạt động kinh doanh của công ty như lôi kéo các khách hàng đến với
doanh nghiệp bằng khả năng đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng, sản xuất hàng
theo yêu cầu (được biết đến dưới tên gọi “chiến lược kéo”), v.v..
- Với mô hình của Amazon.com, mua hàng theo nhóm hay đấu giá nông sản
qua mạng đến các sàn giao dịch B2B là điển hình của những thành công từ việc tạo
ra các lợi thế và giá trị mới cho khách hàng bằng Thương mại điện tử.
1.5.3 Tác động đến hoạt động sản xuất, kinh doanh
Các hãng sản xuất lớn nhờ ứng dụng Thương mại điện tử có thể giảm chi phí
sản xuất đáng kể. Có thể phân tích một số mô hình để thấy rõ hiệu quả của Thương

mại điện tử trong sản xuất. Hàng loạt các dịch vụ ngân hàng điện tử được hình
thành và phát triển mở ra cơ hội mới cho cả các ngân hàng và khách hàng như
Internet banking, thanh toán thẻ tín dụng trực tuyến, thanh toán bằng thẻ thông
minh, mobile banking, ATM... hoạt động vận tải, bảo hiểm. Đặc biệt, đối với hoạt
động ngoại thương, Thương mại điện tử có những tác động hết sức mạnh mẽ do đặc
thù của Internet là rộng lớn trên toàn cầu, rất phù hợp với các giao dịch thương mại
quốc tế.Mọi hoạt động trong quy trình kinh doanh quốc tế đều chịu sự tác động của
thương mại điện tử.

13


14


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VIỆC ÁP DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở
DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
2.1. Tình hình phát triển Internet và công nghệ thông tin ở Việt Nam
Internet ở Việt Nam chính thức hoạt động từ tháng 11/1997 nhưng đang phát
triển nhanh, số người sử dụng Internet/ 100 người dân dần dần theo kịp tỷ lệ trung
bình của châu Á. Nếu cuối năm 2003 số người truy cập Internet ở Việt Nam là
khoảng 3,2 triệu người; đến cuối năm 2004 con số này đã tăng lên gần gấp đôi, tức
khoảng 6,2 triệu người tính đến giữa năm 2005, Việt Nam đã có khoảng 10 triệu
ngưươì truy cập Internet, chiếm gần 12,5% dân số cả nước. Tỷ lệ này cũng ngang
bằng với tỷ lệ chung của toàn cầu năm 2004.
BẢNG: TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN INTERNET Ở VIỆT NAM
Chỉ tiêu thống kê

12/2003


Số lượng thuê bao internet quy đổi
Số người sử dụng internet
Tỷ lệ người sử dụng so với dân số
Kết nối internet quốc tế

12/2004

12/2005

804.528

1.659.013

2.891.028

3.098.007

6.345.049

10.657.102

3,80%

7,69%

12,84%

1.036

1.892


3.505

( Nguồn : trung tâm thông tin internet việt nam)
Kế hoạch phát triển Internet của ngành Bưu chính viễn thông đã được Chính
phủ phê duyệt ngày 08/02/2002 chỉ rõ: Đến năm 2005, mật độ dân số sử dụng
Internet đạt bình quân 1,3 - 1,5% thuê bao/100 dân, tỷ lệ dân số sử dụng Internet đạt
4-5%, năm 2010, tiến tới đạt tỷ lệ này ở mức trung bình trong khu vực. Tuy nhiên,
theo kinh nghiệm đã tổng kết của các chuyên gia trong lĩnh vực TMĐT ở các nước
đi đầu về ứng dụng và phát triển TMĐT trên thế giới thì, để TMĐT ở một quốc gia
thực sự phát triển, đòi hỏi tỷ lệ dân số sử dụng Internet ở quốc gia đó phải đạt
khoảng 30%. Như vậy, nếu vào năm 2010, tỷ lệ dân số sử dụng Internet của Việt
Nam đạt 10-15% (nghĩa là gấp 2-3 lần so với tỷ lệ này của năm 2003) thì triển vọng
phát triển TMĐT ở nước ta là khá khả quan.
Về mặt công nghệ thông tin, ban đầu ban chỉ đạo công nghệ thông tin quốc
gia đã làm một cuộc khảo sát việc ứng dụng công nghệ thông tin tại 217 doanh

15


nghiệp và những con số có được đã khiến mọi người không khỏi bất ngờ. Hiện các
doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ đầu tư khoản chi phí rất nhỏ bé là

0,05- 0,08%

doanh thu cho công nghệ thông tin, trong khi ở Mỹ con số trung bình là 1,5%.
Chính sách đầu tư cho công nghệ thông tin của doanh nghiệp còn nhiều bất cập. Đa
phần doanh nghiệp chỉ đầu tư một lần cho hệ thống thông tin và nâng cấp các ứng
dụng, do đó đầu tư đã thấp và hiệu quả của nó còn thấp hơn.Cuộc khảo sát còn cho
thấy đến thời điểm này vẫn có những doanh nghiệp chưa có một ứng dụng công

nghệ thông tin nào. Khối doanh nghiệp Nhà nước còn 10%, trong khi các thành
phần doanh nghiệp khác thì có đến 60% chưa đưa công nghệ thông tin vào công
việc của mình. 40% doanh nghiệp chưa dám đầu tư mạnh vào công nghệ thông tin
vì không đủ nhân viên có trình độ để quản lý và khai thác. Các doanh nghiệp tuy đã
có nhận thức bước đầu về tầm quan trọng của công nghệ thông tin nhưng số lượng
các doanh nghiệp có thể khai thác được sâu khả năng của công nghệ thông tin mới
chỉ dừng lại ở con số ít ỏi. Khoảng 88% số doanh nghiệp áp dụng công nghệ thông
tin có sử dụng phần mềm kế toán tài chính, nhưng ngay cả đối với những doanh
nghiệp đã ứng dụng công nghệ thông tin chỉ có khoảng 20% phần mềm thỏa mãn đc
yêu cầu của họ.
Trao đổi dữ liệu điện tử (EDI) là một công cụ thiết yếu cho TMĐT, đặc biệt
là loại hình B2B, và phát triển rất mạnh mẽ trên thế giới nhưng ở Việt Nam trong
năm 2005 hầu như chưa có chính sách và ứng dụng mới nào liên quan đến EDI so
với năm 2004. Đây là dấu hiệu không lạc quan về hạ tầng hỗ trợ cho TMĐT trong
cả giai đoạn 2006-2010.
Vị trí của Việt Nam trên bản đồ CNTT thế giới vẫn còn rất khiêm tốn, Việt
Nam vẫn đứng ở mức thấp về các chỉ số kết nối của nền kinh tế và mức độ sẵn sàng
cho TMĐT.
2.2. Tình hình ứng dụng TMĐT ở các doanh nghiệp Việt Nam
Tại Việt Nam, TMĐT đã có quá trình hình thành hơn 5 năm qua và được
nhận định là đang bắt đầu bước vào giai đoạn phát triển mạnh. Thống kê mới nhất
cho biết cuối 2004 đã có trên 3.000 doanh nghiệp xây dựng website và con số này
tiếp tục tăng rất nhanh trong đầu năm 2005. Tuy nhiên, phần lớn các ứng dụng
TMĐT vẫn còn sơ khai, các website mới chỉ cung cấp thông tin khái quát nhất về
doanh nghiệp, sản phẩm mà chưa trở thành công cụ tương tác giữa khách hàng và

16


doanh nghiệp. Thời điểm này, Việt Nam có hơn 300 máy rút tự động ATM, hệ thống

thanh toán điện tử liên ngân hàng hoạt động mở ra hướng mới cho sự phát triển
TMĐT ở Việt Nam, dẫn tới làm thay đổi thói quen thương mại của người dân. Nhà
nước ban hành một số văn bản về chuyển tiền điện tử, quy chế thanh toán điện tử
liên Ngân hàng, quy chế quản lý mã khoá bảo mật trong thanh toán điện tử. Một vài
tỉnh, thành đã xây dựng mô hình Chính phủ điện tử, cung cấp dịch vụ công trên
mạng, ngành thuế và hải quan đã triển khai các dự án kê khai thuế và hải quan điện
tử.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp vừa và nhỏ quy mô và tiềm lực tài chính có hạn
nên có đến 85% doanh nghiệp không có bộ phận chuyên trách về công nghệ thông
tin. Quá nửa số doanh nghiệp chưa áp dụng hoặc áp dụng TMĐT ở mức độ thấp.
Theo số liệu hội doanh nghiệp vừa và nhỏ Hà Nội, chỉ 1% doanh nghiệp quan tâm
đến TMĐT; 7-8% doanh nghiệp mới bắt đầu triển khai TMĐT. Nhiều doanh nghiệp
trong vận tải, nông, thủy sản…chưa áp dụng công nghệ thông tin
Ban CNTT-TMĐT công bố đến năm 2003, chỉ có 3% tổng số doanh nghiệp
cả nước (khoảng 3000 doanh nghiệp) có website riêng, 7% bắt đầu nghiên cứu việc
sử dụng Internet, 90% chưa có khái niệm về TMĐT hoặc không quan tâm đến
TMĐT. Trong các doanh nghiệp tham gia giao dịch thử qua TMĐT, 33% công ty
tham gia là các doanh nghiệp vừa và nhỏ; 54,9% chưa giao dịch thành công; 58%
khó khăn về thiết bị; 37% bày tỏ sự thiếu thốn về nhân lực. Với 3000 doanh nghiệp
có trang web, không phải doanh nghiệp nào cũng nhìn nhận đúng đắn về TMĐT,
nội dung trang web sơ sài, thông tin sản phẩm ít, không cập nhật thường xuyên, chi
phí duy trì TMĐT (web) không hiệu quả do số lượng thương vụ thấp. Theo thống kê
của Vụ Thương mại điện tử thuộc Bộ Thương mại, đến cuối năm 2004, Việt Nam đã
có khoảng 17.500 website của các doanh nghiệp, trong đó số tên miền
( .com.vn, .net.vn,...) đã tăng từ 2.300 (năm 2002) lên 5.510 (năm 2003) và 9.037
(năm 2004). Năm 2003, 2004 là năm các website, sàn giao dịch B2B (marketplace),
các website rao vặt, các siêu thị trực tuyến B2C... đua nhau ra đời. Theo Báo cáo
TMĐT Việt Nam 2004, ước tính có khoảng 17.500 website doanh nghiệp vào thời
điểm cuối tháng 12-2004, trong số này phần lớn là các website hoạt động theo mô
hình B2C. Tuy nhiên, các website này vẫn còn phát triển hạn chế, chưa có website

nào thực sự phát triển đột phá vì nhiều nguyên do. Năm 2005, 46,2% trong số 504

17


doanh nghiệp được khảo sát có website, 68,7% thuộc khối thương mại và dịch vụ;
31,3 % là khối sản xuất. Mặc dù tỷ lệ doanh nghiệp có website năm 2005 đã cao
hơn năm trước, nhưng tính năng TMĐT của các website thì vẫn chưa được cải
thiện. Phần lớn các website vẫn chỉ dừng ở mức giới thiệu những thông tin chung
nhất về công ty và sản phẩm, dịch vụ, với giao diện đơn giản và các tính năng kỹ
thuật còn rất sơ khai. Kết quả điều tra những doanh nghiệp đã lập website cho thấy
99,6% số website có cung cấp thông tin giới thiệu doanh nghiệp; 93,1% đa thông tin
giới thiệu sản phẩm; trong khi chỉ 32,8% bước đầu có tính năng hỗ trợ giao dịch
TMĐT như cho phép hỏi hàng hoặc gửi yêu cẩu, một số ít cho phép đặt hàng trực
tuyến. Trong số những website có tính năng hỗ trợ giao dịch TMĐT này, 82% thuộc
về các công ty kinh doanh dịch vụ, trên các lĩnh vực du lịch, vận tải giao nhận,
quảng cáo, thương mại...Về mức độ đầu tư, kết quả khảo sát những doanh nghiệp đã
thiết lập website cho thấy đầu tử về ứng dụng TMĐT chiếm tỷ trọng tương đối thấp
trong tổng chi phí hoạt động thường niên. Trên 80% doanh nghiệp cho biết họ dành
không đến 5% chi phí hoạt động cho việc triển khai TMĐT, bao gồm cả việc mua
các phần mềm TMĐT, duy trì bảo dưỡng website và phân bổ nguồn nhân lực cho
những hoạt động này. Chỉ có khoảng 14% doanh nghiệp chọn mức đầu tư 5- 15%
và một tỷ lệ rất nhỏ (3,6%) đầu tư thực sự quy mô cho TMĐT, ở mức trên 15%.
Những mặt hàng được bán phổ biến trên mạng tại Việt Nam hiện nay gồm:
hàng điện tử, kỹ thuật số, sản phẩm thông tin (sách điện tử, CD, VCD, nhạc...),
thiệp, hoa, quà tặng, hàng thủ công mỹ nghệ. Các dịch vụ ứng dụng Thương mại
điện tử nhiều như: du lịch, tư vấn, CNTT, dịch vụ thông tin (thông tin tổng hợp,
thông tin chuyên ngành...), giáo dục và đào tạo...Nhìn vào cơ cấu hàng hoá, dịch vụ
được giới thiệu trên các website doanh nghiệp, có thể thấy nhóm hàng hoá phổ biến
nhất hiện nay vẫn là thiết bị điện tử- viễn thông và hàng tiêu dùng. Do đặc thù của

mặt hàng điện tử- viễn thông và đồ điện gia dụng là mức độ tiêu chuẩn hoá cao, với
những thông số kỹ thuật cho phép người mua đánh giá và so sánh các sản phẩm mà
không cần phải giám định trực quan, nhóm hàng này sẽ tiếp tục chiếm ưu thế khi
thâm nhập các kênh tiếp thị trực tuyến trong vòng vài năm tới. Về lĩnh vực dịch vụ,
dẫn đầu về mức độ ứng dụng TMĐT hiện nay là các công ty du lịch, điều này cũng
phù hợp với tính chất hội nhập cao và phạm vi thị trường mang tính quốc tế của
dịch vụ này. So với năm 2004, năm 2005 có một loại hình dịch vụ mới nổi lên như

18


lĩnh vực ứng dụng mạnh TMĐT là dịch vụ vận tải giao nhận, với rất nhiều website
công phu và có nhiều tính năng tương tác với khách hàng.
Kết quả điều tra 1.000 doanh nghiệp được tiến hành trong năm 2006 cho
thấy, tỷ lệ doanh nghiệp có website là 25,4%. Tuy nhiên, website thực sự có giao
dịch tương tác với thương mại điện tử (ở mức độ cho phép ngưươì tiêu dùng, đối tác
có thể đặt hàng trực tuyến) chỉ chiếm khoảng 27,4 %. Còn website tích hợp tính
năng thanh toán trực tuyến còn thấp hơn, với tỷ lệ 3,2%. Theo thống kê của Vụ
Thương mại điện tử thuộc Bộ Thương mại, hầu hết các nền kinh tế phát triển trên
thế giới có đến 90% giá trị của thương mại điện tử là từ loại hình doanh nghiệp với
doanh nghiệp (B2B). Các giao dịch này thông qua những hệ thống công nghệ thông
tin đồng bộ hóa và tự động hóa ở mức độ khá cao. Trong khi đó, giao dịch B2B ở
các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay mới chỉ dừng lại ở tìm kiếm thông tin thị
trường, bạn hàng thông qua thư điện tử và các website thương mại điện tử. Loại
hình giao dịch này được thực hiện chủ yếu thông qua các sàn thương mại điện tử
B2B tổ chức theo mô hình “cổng thông tin về cơ hội giao thương” hoặc “trung tâm
thương mại”. Số lượng ổn định trên dưới 20 sàn giao dịch. Năm 2005, số lượng sàn
TMĐT B2B ở Việt Nam vẫn ổn định ở mức trên dưới 20, với đa phần là những
website đã xây dựng và hoạt động từ những năm trước. Do tính năng hỗ trợ giao
dịch trực tuyến chưa cao, các sàn thương mại điện tử này hiện mới chỉ dừng lại ở

mức các website thông tin xúc tiến thương mại, chứ chưa thực sự là những công cụ
hiệu quả giúp doanh nghiệp triển khai thương mại điện tử B2B ở tầm chuyên
nghiệp.
Tuy vậy, không thể phủ nhận là một số doanh nghiệp Việt Nam cũng đã ứng
dụng tương đối thành công TMĐT, khẳng định vai trò quan trọng và cần thiết phải
áp dụng thương mại điện tử trong các doanh nghiệp việt nam.
Một báo cáo do Economist Intelligence Unit (EIU) trực thuộc tập đoàn "the
Economist" (Anh) thực hiện vừa công bố hồi giữa tháng 12 cho hay châu Á sẽ “qua
mặt” Bắc Mỹ để trở thành thị trường thương mại điện tử lớn nhất thế giới trong năm
nay, với doanh thu bán lẻ ước tăng trung bình 4,6%, lên 7.600 tỷ USD trong năm
2015. Tiếp theo là khu vực Bắc Mỹ với mức tăng 2,5% và châu Âu với 0,8%.
Laurel West, người chịu trách nhiệm về mặt nội dung của bản báo cáo mới công bố
tại Bắc Kinh này, cho hay phụ nữ châu Á đang ngày càng tự chủ về tài chính. Đồng

19


thời, người tiêu dùng nữ cũng đang tỏ ra thích thú hơn bao giờ hết đối với hình thức
mua sắm trực tuyến.
So với các nước trong khu vực, TMĐT ở Việt Nam mới chỉ ở giai đoạn đầu,
nhiều dự báo cho thấy TMĐT ở nước ta sẽ bùng nổ trong tương lai. Báo cáo của
eMarketer, một hãng nghiên cứu đến từ Mỹ, công bố hồi tháng 5/2014 cho thấy dịch
vụ internet ở Việt Nam đang phát triển chóng mặt, một phần lớn là nhờ sự sôi động
của thị trường điện thoại và cơ sở hạ tầng được đầu tư đúng mức. Tính đến tháng
12/2013, Việt Nam có khoảng 5,3 triệu thuê bao internet, đạt tỷ lệ thâm nhập là
35,6%; và 121,7 triệu thuê bao di động, trong đó 30% là smartphone. TMĐT tại
Việt Nam là một không gian cực kỳ đông đúc với rất nhiều người tham gia. Mặc dù
kinh tế vĩ mô đang bị ảnh hưởng, thế nhưng tăng trưởng ở thị trường di động và
internet vẫn tiếp tục diễn ra, đặc biệt là khi chi phí truy cập internet và cước thuê
bao điện thoại đang giảm dần.

Hiệp hội TMĐT Việt Nam (VECOM) cũng đưa ra con số thống kê khá khả
quan trong Báo cáo Chỉ số TMĐT Việt Nam 2013. Năm 2013 chứng kiến sự tiến bộ
của các loại hình giao dịch trực tuyến B2B (doanh nghiệp với doanh nghiệp) và
B2C (doanh nghiệp đến người tiêu dùng). Mức độ và hiệu quả sử dụng e-mail của
các doanh nghiệp đều có bước tiến so với năm 2012 với 83% doanh nghiệp đã sử
dụng e-mail để nhận đơn đặt hàng. Tỷ lệ này của năm 2012 là 70%. Nếu căn cứ vào
những số liệu trên và ước tính giá trị mua hàng trực tuyến của mỗi người vào năm
2015 tăng thêm 30 USD so với năm 2013, thì dự báo doanh số TMĐT B2C của Việt
Nam năm 2015 sẽ đạt dưới 4 tỷ USD.
Tại Việt Nam, khoảng 1/3 dân số giờ đây đã sử dụng internet và 60% trong
số họ lên mạng tìm kiếm thông tin về sản phẩm trước khi mua hàng. Tốc độ phổ cập
internet đạt mức cao nhất Châu Á, với tăng trưởng trung bình là 20%/ năm trong
giai đoạn 2000 - 2010. Các con số và sự kiện đáng chú ý này không chỉ là tín hiệu
đáng mừng cho nền công nghiệp ứng dụng công nghệ cao mà còn là cơ hội lớn cho
sự phát triển của các sản phẩm dịch vụ ngân hàng điện tử - vốn đang là một trong
những mảng kinh doanh mũi nhọn của các ngân hàng hiện nay.

20


CHƯƠNG 3: KIẾN NGHỊ,GIẢI PHÁP VÀ KẾT LUẬN.
3.1- Kiến nghị, giải pháp.
3.1.1. Về phía Chính phủ
a. Hỗ trợ về cơ sở hạ tầng, tối đa hoá phổ biến các lợi ích kinh tế - xã hội
- Thường xuyên đưa các thông tin và cách khai thác thương mại điện tử
phục vụ nhu cầu đa dạng của xã hội.
- Đảm bảo kỹ thuật và giảm cước viễn thông, phí truy cập; - Xây dựng hệ
thống phân phối với cước phí vận chuyển thấp.
- Phổ cập hoá Internet thông qua các chương trình đào tạo cấp phổ thông và
đại học và các chương trình hỗ trợ các tổ chức kinh tế - xã hội khác.

- Ban hành chính sách thuế ưu đãi đối với các doanh nghiệp tham gia các
chương trình thương mại điện tử và kinh doanh CNTT.
b. Tạo môi trường tin cậy và an toàn cho các giao dịch
- Đảm bảo việc thừa nhận tính pháp lý của các giao dịch thương mại điện tử
(hoá đơn, chứng từ, thuế...)
- Cung cấp các dịch vụ xác thực và sản phẩm mật mã với khoá mật mã theo
tiêu chuẩn quy định của pháp luật.
- Xây dựng các tiêu chuẩn đảm bảo an toàn giao dịch thương mại điện tử.
- Cung cấp các dịch vụ cơ sở hạ tầng, đảm bảo tính riêng tư của các thành
viên tham gia thương mại điện tử.
- Phổ biến các biện pháp chống truy cập bất hợp pháp và đề phòng tin tặc.
- Ban hành các quy phạm pháp luật và xây dựng các giải pháp công nghệ để
truy bắt, xử phạt các hành vi phạm nghiệp vụ, lợi dụng trong từng khâu hoặc toàn
bộ quá trình giao dịch thương mại điển tử.
c. Phát triển hơn nữa cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và viễn thông
- Cơ sở hạ tầng viễn thông và Internet
- Đảm bảo chất lượng các dịch vụ viễn thông để đáp ứng yêu cầu phát triển
CNTT với giá cước bằng hoặc thấp hơn so với các nước trong khu vực.
- Tăng cường các biện pháp nhằm phổ biến rộng rãi dịch vụ Internet trong
toàn dân, mở rộng hơn nữa mạng các nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP) và các
nhà cung cấp nội dung (ICP) cho mọi thành phần kinh tế, không hạn chế số lượng
các ISP và ICP.

21


- Cho phép sử dụng mọi dịch vụ đã có và sẽ có trên Internet để phát triển
CNTT, tăng dung lượng đường truyền và mở thêm cổng ra quốc tế.
- Chuẩn hoá thông tin
- Lựa chọn và chấp nhận những tiêu chuẩn công nghiệp hiện đại trên thế giới

phù hợp với điều kiện phát triển công nghiệp trong nước đồng thời nhanh chóng
xây dựng các tiêu chuẩn công nghệ đặc thù của Việt Nam.
- Hoàn chỉnh và sớm quy định chuẩn hoá các loại thông tin cho các hoạt
động quản lý điều hành quan trọng của Nhà nước, các bộ, ngành, địa phương và
các hoạt động kinh tế phù hợp với khu vực và quốc tế.
- Hạ tầng nhân lực và đào tạo cán bộ
- Đa dạng hoá và xã hội hoá các hình thức đào tạo về thương mại điện tử.
Chính phủ tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức quần chúng, xã hội như Hội tin
học Việt Nam và các hội thành viên, các trung tâm đào tạo... mở các lớp bồi dưỡng
thường xuyên cho các đối tượng trong xã hội về CNTT và đầu tư thêm để hoàn
chỉnh một bộ giáo trình tốt cho việc giảng dạy, phân loại trình độ học viên để soạn
giáo trình và giảng dạy cho phù hợp.
- Tăng cường gửi người đi đào tạo ở nước ngoài về thương mại điện tử. Hỗ
trợ các doanh nghiệp gửi người đi đào tạo theo các học bổng của nước ngoài.
Khuyến khích và tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế và cá nhân đi học ở nước
ngoài về thương mại điện tử bằng nguồn vốn tự có.
- Xây dựng phương án tổ chức và triển khai các hoạt động của Trung tâm
phát triển nguồn lực thương mại điện tử trình Chính phủ phê duyệt để sớm thực
hiện nhiệm vụ của trung tâm này.
d. Đầu tư nghiên cứu và ứng dụng thương mại điện tử
- Nhà nước đầu tư cho một số hướng nghiên cứu và triển khai phục vụ trực
tiếp các ứng dụng quan trọng của thương mại điện tử. Chính phủ cần đầu tư xây
dựng một trung tâm nghiên cứu và thử nghiệm quốc gia về Internet và thương mại
điện tử. Trung tâm nghiên cứu, thử nghiệm những công nghệ, đề xuất các chính
sách cho Internet, thương mại điện tử và mở rộng các dịch vụ Internet là một điều
cần thiết và cấp bách;
- Nhà nước hỗ trợ doanh nghiệp một phần kinh phí thực hiện các đề án triển
khai thương mại điện tử, nếu trong đó có những nội dung nghiên cứu khoa học hoặc

22



tiếp thu chuyển giao công nghệ nhằm tạo ra công nghệ mới do doanh nghiệp tự thực
hiện hoặc phối hợp với các cơ quan nghiên cứu khoa học thực hiện.
e. Tạo ra một môi trường vĩ mô thuận lợi cho phát triển thương mại điện tử
Tham gia thương mại điện tử là vấn đề có tầm chiến lược quốc gia, vấn đề có
tính sống còn đối với tương lai của đất nước và đang là vấn đề có tính nhạy cảm về
chính trị và kinh tế trên phạm vi quốc tế. Vì thế, nội dung các bản tuyên bố chính
thức của Việt Nam trên các diễn đàn quốc tế, việc tham gia ký kết về mặt nhà nước
các cam kết có tính ràng buộc trong các tổ chức quốc tế trên tất cả các khía cạnh có
liên quan đến vấn đề thương mại điện tử cần phải được thảo luận kỹ lưỡng, bảo đảm
tính chủ động, hiệu quả, an toàn và có tính lâu dài. Nhà nước cần sớm ban hành một
số chính sách hỗ trợ cho thương mại điện tử nhằm đẩy nhanh hoạt động thương mại
điện tử ở Việt Nam như:
- Chính sách đầu tư:
Để hình thành đồng bộ hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - kỹ thuật cho thương
mại điện tử đòi hỏi phải có nguồn vốn đầu tư rất lớn từ mọi nguồn, trong đó vốn của
Nhà nước có vai trò quan trọng. Trước hết ở khâu đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
kinh tế - kỹ thuật cho thương mại điện tử, trong đó tập trung ưu tiên đầu tư các lĩnh
vực như nghiên cứu phát triển CNTT, hệ thống thanh toán tự động, bảo mật và an
toàn, tiêu chuẩn hoá công nghiệp và thương mại. Chính phủ cân nhắc thành lập Quỹ
hỗ trợ ứng dụng thương mại điện tử
Quỹ này được hình thành từ nguồn vốn đầu tư phát triển của Nhà nước và
được giao cho cơ quan quản lý nhà nước về thương mại điện tử quản lý sử dụng vào
việc hỗ trợ, bồi thường rủi ro cho các đơn vị, doanh nghiệp thử nghiệm ứng dụng
thương mại điện tử nhằm khuyến khích các doanh nghiệp đi tiên phong thử nghiệm,
ứng dụng thương mại điện tử. Vì Việt Nam có trình độ phát triển ở mức thấp, các
doanh nghiệp chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ nên khó có khả năng doanh
nghiệp tự bỏ tiền đầu tư ứng dụng các hoạt động thương mại điện tử.
- Chính sách thuế:

Nhà nước áp dụng chính sách thuế để khuyến khích phát triển các doanh
nghiệp kinh doanh dung liệu số hoá (các nhà cung cấp dịch vụ Internet, các trung
gian Internet...) để tạo cơ sở hạ thấp giá các dịch vụ trong thương mại điện tử.

23


- Chính sách giá cả:
Các hoạt động dịch vụ của thương mại điện tử phải hướng vào kích thích
phát triển các khách hàng thuê bao, các khách hàng sử dụng các dịch vụ của thương
mại điện tử. Do đó, Nhà nước cần sử dụng công cụ giá cả để điều tiết cung - cầu
thông qua việc quy định mức giá trần các dịch vụ để kích thích tăng trưởng nhanh
nhu cầu sử dụng các dịch vụ của thương mại mua của khách hàng trên thị
trườngtrong nước.
- Về mặt tổ chức:
Chính phủ sớm hình thành một tổ chức đa ngành bao gồm ngân hàng, tài
chính, tư pháp, công an, bưu chính viễn thông... đồng thời soạn thảo cơ chế vận
hành, hành lang pháp lý cho thương mại điện tử. Nên thành lập ngay một đầu mối
quốc một tổ chức cần thành lập để có thể hội tụ được kiến thức và sự nhìn nhận từ
nhiều khía cạnh. Vì hội đồng là một tổ chức mang tính tư vấn là chủ yếu, nên theo
kinh nghiệm các nước, sẽ cần tới một Uỷ ban quốc gia (hoặc tương đương) có chức
năng và quyền hạn ra quyết định, chỉ đạo và xử lý giải quyết. Hội đồng và Uỷ ban
sẽ là đầu mối đưa ra chiến lược cũng như chương trình hành động cho thương mại
điện tử, đồng thời chỉ đạo thực hiện chiến lược và chương trình đó, tránh được các
xu hướng thiếu nhìn nhận toàn diện, hoặc cho là chưa thể làm gì với thương mại
điện tử, hoặc ngược lại, tiến hành một cách vội vã, nặng về phô diễn, không những
không thu được kết quả mong muốn gia về “kinh tế số hoá” và “thương mại điện
tử”. Một tổ chức đầu mối quốc gia về thương mại điện tử (có thể là Hội đồng) gồm
đại diện của nhiều bộ ngành và giới có liên quan một tổ chức cần thành lập để có
thể hội tụ được kiến thức và sự nhìn nhận từ nhiều khía cạnh.

3.1.2. Về phía các doanh nghiệp
3.1.2.1 Nâng cao nhận thức và chủ động tham gia vào thương mại điện tử
Các doanh nghiệp cần xác định rõ xu thế phát triển của thương mại điện tử
trong nền kinh tế nói chung và sự cần thiết phải áp dụng thương mại điện tử trong
hoạt động kinh doanh của mình do những lợi ích mà thương mại điện tử có thể đem
lại, từ đó, dựa vào điều kiện thực tế của doanh nghiệp mà xây dựng chiến lược ứng
dụng thương mại điện tử cho phù hợp. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng cần nắm
được vai trò của mình trong nền kinh tế và xác định: trong thương mại điện tử
doanh nghiệp là người trực tiếp kinh doanh nên phải đóng vai trò tiên phong, còn

24


nhà nước chỉ mang tính hỗ trợ. Do đó, các doanh nghiệp nên chủ động tham gia
thương mại điện tử và lập kế hoạch cụ thể về mức độ tham gia, chuẩn bị các bước
cần thiết để khỏi lỡ mất cơ hội kinh doanh. Điều này sẽ làm doanh nghiệp tự chủ
hơn trong kinh doanh và, hơn thế nữa, có thể đóng góp những ý kiến thiết thực cho
nhà nước để tiến hành hoạt động thương mại điện tử một cách có hiệu quả, bảo vệ
quyền lợi cho doanh nghiệp và người tiêu dùng tham gia. Các doanh nghiệp cũng
nên chủ động tham gia các hội thảo về thương mại điện tử do chính phủ hoặc các tổ
chức nước ngoài tổ chức, mặt khác, tham khảo và học hỏi kinh nghiệm.
3.1.2.2 Chuẩn bị nguồn nhân lực
Các doanh nghiệp nên tuyển dụng, đào tạo đội ngũ nhân viên có trình độ, có
thể nắm bắt nhanh các kỹ thuật thương mại điện tử, sử dụng những người có hiểu
biết sâu sắc về công nghệ thông tin để quản lý, kiểm soát các giao dịch thương mại
điện tử. Đồng thời, bản thân lãnh đạo doanh nghiệp cũng cần hiểu rõ cách thức vận
hành tổ chức thương mại điện tử để có thể đưa ra chiến lược kinh doanh phù hợp
cũng như có thể quản lý được hoạt động của doanh nghiệp khi thực hiện ứng dụng
thương mại điện tử trong sản xuất kinh doanh.
3.1.2.3 Xem xét lại quy trình kinh doanh cho phù hợp với phương thức hoạt

động của thương mại điện tử
Mỗi doanh nghiệp khi tham gia vào mạng Internet trước hết cần xác định rõ
mục tiêu và chiến lược kinh doanh bởi mục tiêu và chiến lược kinh doanh trong
thương mại điện tử có thể có nhiều điểm khác biệt so với trong phương thức kinh
doanh truyền thống. Doanh nghiệp có thể tham khảo ý kiến các chuyên gia trong
quá trình xây dựng kế hoạch kinh doanh. Doanh nghiệp cũng cần kiểm tra kỹ lưỡng
từng bước trong kế hoạch kinh doanh trước khi đưa vào triển khai để tránh những
sai sót có thể ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh.
3.1.2.4 Xây dựng website của doanh nghiệp
Khi tham gia vào thương mại điện tử, doanh nghiệp nên xây dựng cho mình
một website riêng hoặc đăng quảng cáo tại một website nào đó. Để website thực sự
là một công cụ hữu ích trong hoạt động kinh doanh thương mại của doanh nghiệp
phải đc thiết kế như sau:
- Cung cấp đầy đủ thông tin chính xác, rõ ràng chính xác liên quan tới doanh
nghiệp mà các đối tác kinh doanh cần biết như địa chỉ trụ sở làm việc, địa chỉ e-

25


×