Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH DÀNH CHO TỐT NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.85 KB, 20 trang )

TƯ TƯỞNG HUYỀN
Câu 1: Cơ sở khách quan hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
a) Bối cảnh lịch sử
- Tình hình thế giới:
+ Giữa thế kỉ 19 học thuyết Mác ra đời, phát triển và được truyền bá rộng rãi.
+ Cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20 chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh mẽ.
+ 1917, Cách mạng tháng Mười Nga thành công.
+ Phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới đầu thế kỉ 20 phát triển nhưng chưa nơi nào
dành thắng lợi.
- Tình hình Việt Nam
+ Thực dân Pháp xâm lược và thống trị tàn bạo đã làm cho xã hột Việt Nam biến đổi sâu
sắc toàn diện, xã hội Việt Nam trở thành một xã hội thuộc địa nủa phong kiến do đó mâu
thuẫn giữa toàn thể dân tộc với thực dân Pháp và tay sai phản động ngày càng gay gắt.
+ Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 ở Việt Nam xuất hiện nhiều phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc nhưng đều thất bại do chưa có đường lối lãnh đạo đúng đắn, chưa đáp ứng
được nguyện vọng của nhân dân và không phản ánh được xu thế phát triển của thời đại.
=> Như vậy đầu thế kỷ 20, Việt Nam lâm vào tình trạng bế tắc về con đường cứu nước và
thực tiễn đặt ra 1 yêu cầu bức thiết là tìm ra một con đường đúng đắn để đáp ứng yêu cầu
của dân tộc và thời đại.
b) Tiền đề lý luận
- Giá trị truyền thống dân tộc:
+ Chủ nghĩa yêu nước và ý chí đấu tranh bất khuất để gìn giữ nước, đây là nét chú chủ
yếu, đặc sắc nhất, rõ nét nhất trong tư tưởng HCM, nó cũng là điểm xuất phát và là nguồn
gốc sâu xa của tư tưởng HCM, là hành trang lớn nhất trong con đường tim đường cứu
nước của HCM
+ HCM còn tiếp thu giá trị truyền thống DTVN, truyền thống VHVN như truyền thống
nhân nghĩa, đoàn kết, tinh thần khoan dung thủy chung, lạc quan yêu đời, trọng trí thức,
quý hiền tài nhân dân,
- Văn Hóa phương Đông:
+ Người đã tiếp thu tư tưởng của nho giáo một cách có chọn lọc, hay nói cách khác
Người đã chắt lọc những mặt tích cực, loại bỏ tiêu cực xây dựng Xã hội mới tốt đẹp.



1

1


+ HCM đã kế thừa những mặt tích cực, hợp lý của Phật giáo như: tư tưởng về cứu khổ
cứu nạn, đề cao lao động, chống lười biếng, chủ trương thực hiện bình đẳng trong xã hội.
+ HCM cũng tìm thấy ở "chủ nghĩa Tam dân" của Tôn Trung Sơn những điều phù hợn
với điều kiện của cách mạng nước ta đó là tư tưởng dân chủ tiến bộ "đó là dân tộc được
độc lập, dân quyền được tự do, dân sinh được hạnh phúc".
- Văn hóa phương Tây
+ HCM đã nghiên cứu những tư tưởng của Croxo, Monte, Vonte... và tiếp thu tinh thần
dân chủ
+ Sau này khi nghiên cứu tuyên ngôn độc lập của Cách mang Mỹ, tuyên ngôn nhân
quyền và dân quyền của cách mạng Pháp, HCM đã nhận thức được tính tất yếu về quyền
con người, quyền dân tộc mà 2 cuộc cách mạng đó đã sáng lập.
- Chủ Nghĩa Mác Lê-nin: là nguồn gốc lý luận trực tiếp, quyết định bản chất của tư tưởng
HCM, là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng HCM. CN Mác Lê nin đã
cho HCM:
+ Thế giới quan khách quan, nhân sinh quan cách mạng
+ Phương pháp duy vật biện chứng.
Câu 2: Tư tưởng HCM về vấn đề dân tộc
1. Vấn đề dân tộc thuộc địa
a. Thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa
- Đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc
Hồ Chí Minh không bàn về vấn đề dân tộc chung, Người dành sự quan tâm đến
các thuộc địa, vạch ra thực chất của vấn đề dân tộc ở thuộc địa là vấn đề đấu tranh chống
chủ nghĩa thực dân, xóa bỏ ách thống trị, áp bức, bóc lột của nước ngoài, giải phóng dân
tộc, giành độc lập dân tộc, thực hiện quyền dân tộc tự quyết, thành lập nhà nước dân tộc

độc lập.
- Lựa chọn con đường phát triển của dân tộc
Từ thực tiễn phong trào cứu nước của ông cha và lịch sử nhân loại, Hồ Chí Minh
khẳng định phương hướng phát triển của dân tộc trong bối cảnh thời đại mới là chủ nghĩa
xã hội.
Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh viết:
"làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản". Con
đường đó kết hợp trong đó cả nội dung dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội; xét về thực
chất chính là con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.Con đường đó phù

2

2


hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể ở thuộc địa.
b. Độc lập dân tộc - nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa
- Cách tiếp cận từ quyền con người
Hồ Chí Minh hết sức trân trọng quyền con người. Người đã tìm hiểu và tiếp nhận
những nhân tố về quyền con người được nêu trong Tuyên ngôn độc lập 1776 của nước
Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1791 của cách mạng Pháp, như quyền bình
đẳng, quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Người khẳng định
"đó là những lẽ phải không ai chối cãi được".
Từ quyền con người, Hồ Chí Minh đã khái quát và nâng cao thành quyền dân tộc:
"Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đảng, dân tộc nào cũng có quyền sống,
quyền sung sướng và quyền tự do"
- Nội dung của độc lập dân tộc
Độc lập, tự do là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa.
+ Năm 1919, vận dụng nguyên tắc về quyền dân tộc tự quyết, Người đã gửi đến
hội nghị Vecxây bản yêu sách gồm 8 điểm, đòi các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân

Việt Nam.
+ Đầu năm 1930, Nguyễn Ái Quốc soạn thảo Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng, một cương lĩnh giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo, mà cốt lõi là độc lập, tự
do cho dân tộc.
+ Tháng 5-1941, Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trương
Ương Đảng, viết Kính cáo đồng bào, chỉ rõ: "trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng
cao hơn hết thảy". Người chỉ đạo thành lập Việt Nam độc lập đồng minh, ra báo Việt
Nam độc lập, thảo Mười chính sách của Việt Minh, trong đó mục tiêu đầu tiên là: "Cờ
treo độc lập, nền xây bình quyền".
+ Tháng 8-1945, Hồ Chí Minh đúc kêt ý chí đấu tranh cho độc lập, tự do của nhân
dân ta trong câu nói bất hủ: "Dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn
cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập".
+ Cách mạng tháng Tám thành công, Người thay mặt Chính phủ lâm thời đọc
Tuyên ngôn độc lập, long trọng khẳng định trước toàn thế giới: "Nước VN có quyền
hưởng tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc VN quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng,
tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy".
+ Trong các thư và điện văn gửi tới Liên hợp quốc và chính phủ các nước vào thời
gian sau cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố: "nhân dân chúng tôi

3

3


thành thật mong muốn hòa bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu
đến cùng để bỏa vệ những quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc
lập cho đất nước".
+ Không có gì quý hơn độc lập, tự do là mục tiêu chiến đấu, là nguồn sức mạnh
làm nên chiến thắng của dân tộc Việt Nam, đồng thời cũng là nguồn động viên đối với
các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Vì vậy, Người được tôn vinh là "Anh hùng giải

phóng dân tộc" của Việt Nam, là "Người khởi xướng cuộc đấu tranh giải phóng của các
dân tộc thuộc địa trong thế kỷ XX"
2. Mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
a. Vấn đề dân tộc và vấn đê giai cấp có quan hệ chặt chẽ với nhau
HCM rất coi trọng vấn đề dân tộc, đề cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước,
nhưng Người luôn đứng trên quan điểm giai cấp để nhận thức và giải quyết vấn đề dân
tộc.
Sự kết hợp nhuần nhuyễn vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc của Hồ Chí Minh thể
hiện:
- Khẳng định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân và quyền lãnh đạo duy nhất của Đảng
Cộng sản trong quá trình cách mạng Việt Nam;
- Chủ trương đại đoàn kết dân tộc rộng rãi trên nền tảng liên minh công nhân, nông dân
và tầng lớp trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng;
- Sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng để chống lại bạo lực phản cách mạng của
kẻ thù;
- Thiết lập chính quyền nhà nước của dân, do dân và vì dân;
- Gắn kết mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
b. Giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết; độc lập gắn liền với chủ nghĩa xã hội
Khác với các con đường cứu nước của ông cha, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa
phong kiến (cuối TK XIX, hoặc chủ nghĩa tư bản (đầu TK XX), con đường cứu nước của
Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Năm 1920, ngay khi quyết định phương hướng giải phóng và phát triển dân tộc
theo con đường của cách mạng vô sản, ở Hồ Chí Minh đã có sự gắn bó thống nhất giữa
dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Năm 1960, Người nói: "chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải
phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ".

4

4



Tư tưởng Hồ Chí Minh vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải
phóng dân tộc trong thời đại chủ nghĩa đế quốc, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít
giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con
người. Hồ Chí Minh nói: "nước được độc lập mà dân mà dân không được hưởng hạnh
phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì".
c. Giải phóng dân tộc tạo tiền đề để giải phóng giai cấp
Hồ Chí Minh giải quyết vấn để dân tộc theo quan điểm giai cấp, nhưng đồng thời
đặt vấn đề giai cấp trong vấn đề dân tộc. Giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của chủ
nghĩa thực dân là điều kiện để giải phóng giai cấp. Vì thế, lợi ích của giai cấp phải phục
tùng lợi ích của dân tộc.
Câu 3: CM giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường CMVS.
a. Bài học từ sự thất bại của con đường cứu nước trước đó:
- Các cuộc đ/tranh giành độc lập cuối TK XIX diễn ra theo hệ tư tưởng p/kiến đều
thất bại là do chưa có đường lối và phương pháp CM đúng đắn.
- Các cuộc đấu tranh giành độc lập đầu TK XX: con đường bạo động của Phan Bội
Châu chẳng khác gì “đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau”; con đường của Phan Chu
Trinh cũng chẳng khác nào “xin giặc rủ lòng thương”; con đường của Hoàng Hoa Thám
thực tế hơn, nhưng vẫn mang nặng cốt cách phong kiến.
- Con đường của Nguyễn Thái Học theo hệ tư tưởng tư sản, đã chứng tỏ giai cấp
tư sản VN không đảm đương được sứ mệnh dân tộc.
HCM sinh ra và lớn lên trong bối cảnh đất nước đã bị biến thành thuộc địa, nhân
dân phải chịu cảnh lầm than, HCM được chứng kiến phong trào cứu nước của ông cha
Người nhận thấy con đường ấy đều mang nặng cốt cách phong kiến. Người khâm phục
tinh thần cách mạng của cha ông, nhưng không tán thành con đường CM của họ. Người
xuất ngoại, đến nhiều quốc gia trên TG để tìm một con đường cứu nước mới.
b. Cách mạng tư sản là không triệt để:
Người đọc Tuyên ngôn độc lâp của nước Mỹ năm 1776, tìm hiểu thực tiễn cuộc
cách mạng Tư sản Mỹ, đọc tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền của CM Pháp năm

1791, tìm hiểu CMTS Pháp. Người nhận thấy: “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh
Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ,

5

5


kỳ thực trong thì tước lục c/nông, ngoài thì áp bức thuộc địa”. Bởi lẽ đó, Người không đi
theo con đường CMTS
c. Con đường giải phóng dân tộc:
- HCM thấy được CM tháng 10 Nga không chỉ là một cuộc CM vô sản, mà còn là
một cuộc CM giải phóng dân tộc. Nó nêu tấm gương sáng về sự giải phóng các dân tộc
thuộc địa và “Mở ra trước mắt họ thời đại CM chống đế quốc, thời đại giải phóng dân
tộc”.
- Người hoàn toàn tin theo Lênin và quốc tế III vì đã bênh vực cho các dân tộc bị
áp bức. Người thấy trong lý luận của Lênin một phương hướng mới để giải phóng dân
tộc: Con đường CMVS.
Ý nghĩa :Vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sỹ phu và của các nhà CM có
xu hướng tư sản đương thời, HCM đã đến với học thuyết CM của chủ nghĩa Mác – Lênin
và lựa chọn khuynh hướng chính trị vô sản. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường CMVS” chỉ có CNXH, Chủ
nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên
thế giới khỏi ách nô lệ.
Câu 4: Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có
khả năng giành thắng lợi trứơc cách mạng vô sản ở chính quốc.
a. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo
* Sức sống của chủ nghĩa tư bản chủ yếu tập trung ở các nước thuộc địa
- HCM nhận thấy sự tồn tại và phát triển của CNTB là dựa trên sự bóc lột giai cấp
vô sản ở chính quốc và nhân dân các dân tộc thuộc địa. Vì vậy, cuộc đấu tranh của giai

cấp vô sản ở chính quốc phải kết hợp chặt chẽ với các cuộc đấu tranh của các dân tộc
thuộc địa thì mới tiêu diệt được hoàn toàn CNTB.
- Hơn nữa, theo đánh giá của HCM trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa sự tồn tại,
phát triển của CNTB chủ yếu dựa vào việc bóc lột nhân dân các nước thuộc địa.Vi vậy,
cuộc cách mạng vô sản ở chính quốc trước kia chẳng khác nào đánh rắn đằng đuôi.
* Khả năng cách mạng to lớn của nhân dân các dân tộc thuộc địa.

6

6


- Trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân cách mạng
thuộc địa có tầm quan trọng đặc biệt. Trong đó, nhân dân các dân tộc thuộc địa có khả
năng cách mạng to lớn.
- Chính sách khai thác thuộc địa hết sức tàn bạo của CNĐQ là mâu thuẫn giữa
nhân dân thuộc địa với CNĐQ ngày càng gay gắt. Vì vậy, mà tiềm năng cách mạng của
các dân tộc bị áp bức là rất to lớn.
- Trong khi yêu cầu Quốc tế cộng sản và Đảng cộng sản quan tâm đến cách mạng
thuộc địa HCM vẫn khẳng định công cuộc giải phóng nhân dân thuộc địa chỉ có thể thực
hiện được bằng sự nỗ lực tự giải phóng
* Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn ở các nước đang đấu tranh giành độc
lập
- Người đánh giá cao sức mạnh của một dân tộc vùng dậy chống đế quốc thực
dân. Người chủ trương phát huy nỗ lực chủ quan của dân tộc, tránh tư tưởng bị động
trông chờ vào sự giúp đỡ bên ngoài.“Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ
dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”.
- Tinh thần yêu nước và Chủ nghĩa dân tộc của các dân tộc thuộc địa là một sức
mạnh tiềm ẩn của cách mạng giải phóng dân tộc. Sức mạnh đó nếu được Chủ nghĩa Mác
– Lênin giác ngộ và soi đường thì CMGPDT ở các nước thuộc địa sẽ có một sức bật rất

lớn và có khả năng chủ động cao so với CMVS ở chính quốc.
b. Quan hệ giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc
- Trong phong trào cộng sản quốc tế đã từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi của
cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc. Quan điểm này vô
hình dung đã làm giảm tính chủ động, sáng tạo của các phog trào cách mạng ở thuộc địa.
Hồ Chí Minh đã phê phán và chỉ ra sai lầm của quan điểm đó.
- Theo Hồ Chí Minh, giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng
vô sản ở chính quốc có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau trong
cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Đó là mối quan hệ bình đẳng chứ
không phải là quan hệ lệ thuộc hay quan hệ chính - phụ.
Năm 1925 Người viết, “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào
giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vời khác bám vào giai cấp vô sản ở các thuộc địa.

7

7


Nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ
cắt một vòi thôi thì cái vòi kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản; con vật vẫn tiếp tục
sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra”.
- Nhận thức đúng vai trò, vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa và sức mạnh dân
tộc, Nguyễn Ái Quốc cho rằng cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có thể giành
thắng lợi trước và giúp đỡ cách mạng vô sản ở chính quốc.
Bởi vì “Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp
vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở
thuộc địa”, và “Ngày mà hàng trăm nhân dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt
bỏ sự bóc lột đê tiện của bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực
lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư
bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây

trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”.
Ý nghĩa :Đây là một luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận thực tiễn và lý luận to
lớn; một cống hiến quan trọng vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, đã được
thắng lợi của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trên toàn thế giới trong gần một thế
kỷ qua chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
Câu 5: XD Nhà nước thể hiện quyền là chủ và làm chủ của Nhân dân.
HCM có quan điểm nhất quán về xây dựng 1 nhà nước mới ở VN, đó là nhà nước
do nhân dân lao động làm chủ. Đây là quan điểm cơ bản nhất của HCM về xây dựng nhà
nước VN dân chủ cộng hòa cho người sáng lập. Quan điểm đó xuyên suốt và có tính chi
phối toàn bộ quá trình hình thành và phát triển của nhà nước cách mạng ở Việt Nam.
a. Nhà nước của dân
- Quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh là xác lập tất cả mọi quyền lực trong Nhà
nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân. Quan điểm trên được thể hiện qua hai bản
Hiến pháp mà Người đã lãnh đạo soạn thảo trong suốt 24 năm làm Chủ tịch nước là Hiến
pháp 1946 và Hiến pháp 1959.
- Nhân dân làm chủ Nhà nước tức là nhân dân có quyền kiểm soát Nhà nước.
Nhân dân có bầu ra các đại biểu, ủy quyền cho các đại biểu đó bàn và quyết định những
vấn đề quan trọng của đất nước. Đồng thời, nhân dân cũng có quyền bãi miễn đại biểu

8

8


Quốc hội và Đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng
với sự tín nhiệm của nhân dân.
- Người cũng nêu lên quan điểm Dân là chủ và dân làm chủ. Dân là chủ có nghĩa
là xác định vị thế của dân, còn dân làm chủ có nghĩa là xác định quyền, nghĩa vụ của dân.
Do đó, nhân dân có vai trò quyết định mọi công việc của đất nước.
Trong nhà nước của dân, người dân được hưởng mọi quyền dân chủ, có quyền làm

bất cứ việc gì mà pháp luật không cấm và có nghĩa vụ tuân theo pháp luật. Nhà nước của
dân phải bằng nỗ lực, hình thành thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của người
dân. Những vị đại diện do dân cử ra chỉ là thừa ủy quyền của dân, chỉ là công bộc của
dân.
b. Nhà nước do dân
- Nhà nước do dân lập nên, do dân ủng hộ, dân làm chủ. Nhà nước đó do nhân dân
lựa chọn bầu ra, do dân ủng hộ, đóng thuế để hoạt động... Do đó, khi cơ quan Nhà nước
không đáp ứng lợi ích và nguyện vọng của nhân dân thì có quyền bãi miễn nó. Tuy nhiên,
quyền lợi, quyền hạn của nhân dân bao giờ cũng đi đôi với trách nhiệm, nghĩa vụ của
người công dân.
- HCM quan niệm phải xây dựng Nhà nước Việt Nam mới hợp hiến, hợp pháp.
Nhà nước do nhân dân tạo ra và quản lý ở chỗ:
+ Toàn bộ công dân bàu ra Quốc hội – cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước,
cơ quan duy nhất có quyền lập pháp.
+ Quốc hội bầu ra Chủ tịch nước, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Hội đồng Chính
phủ.
+ Hội đồng Chính phủ là cơ quan hành pháp Nhà nước cao nhất, thực hiện các
nghị quyết của Quốc hội và chấp hành p/luật.
+ Mọi công việc của bộ máy Nhà nước trong việc quản lý XH đều thực hiện ý chí
của dân
c. Nhà nước vì dân
- Nhà nước vì dân là nhà nước lấy lợi ích chính đáng của nhân dân làm mục tiêu,
tất cả đều vị lợi ích của nhân dân, ngoài ra không có bất cứ lợi ích nào khác. Đồng thời,

9

9


cán bộ nhà nước là công bộc của dân, do dân bầu cử, được nhân dân thừa ủy quyền và

cũng là người lãnh đạo, hướng dẫn của nhân dân.
- Nhà nước đó là một Nhà nước trong sạch, không có đặc quyền đặc lợi, thực sự
trong sạch, cần kiệm liêm chính. Phải làm cho dân có ăn, có mặc, có chỗ ở và được học
hành. Cán bộ nhà nước phải hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, việc gì có lợi cho dân thì
hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì hết sức tránh.
- Cán bộ thì phải trung thành, tận tụy, cần kiệm liêm chính...., là người lãnh đạo
thì phải có trí tuệ hơn người, sáng suốt, nhìn xa trông rộng, gần gũi với dân, trọng dụng
hiền tài....Cán bộ phải vừa có đức vừa có tài. Cán bộ là đầy tờ của dân chứ không phải là
làm quan phát tài.
Ý nghĩa: Tư tưởng HCM về xây dựng nhà nước của dân , do dân, vì dân có giá trị
lý luận và thực tiễn to lớn, sâu sắc định hướng cho việc xây dựng nhà nước kiểu mới ở
VN. Học tập và quán triệt tư tưởng này để xây dựng được 1 nhà nước ngang tầm với
nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng mới là vô cùng quan trọng
Câu 6: Sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam
- Đề cập các yếu tố cho sự ra đời của Đảng Cộng sản, xuất phát từ hoàn cảnh cụ
thể của nước Nga và của phong trào công nhân châu Âu, Lênin nêu hai yếu tố, đó là sự
kết hợp chủ nghĩa Mác và phong trào công nhân.
- Khi đề cập đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, bên cạnh hai yếu tố là
chủ nghĩa Mác – Lênin và phong trào công nhân, Hồ Chí Minh còn kể đến yếu tố thứ ba,
đó là phong trào yêu nước. Đây là một quan điểm quan trọng của Hồ Chí Minh về sự
hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam, là sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin
trên cơ sở thực tiễn cách mạng Việt Nam
- Hồ Chí Minh thấy rõ vai trò to lớn của chủ nghĩa Mác – Lênin đối với quá trình
hình thành của Đảng Cộng sản Việt Nam.Đồng thời Người cũng đánh giá rất cao vai trò
của giai cấp công nhân Việt Nam. Nhưng Người nêu thêm yếu tố phong trào yêu nước,
coi nó là một trong ba yếu tố kết hợp dẫn đến việc hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam
là vì:
+ Phong trào yêu nước có vị trí, vai trò cực kỳ to lớn trong quá trình phát triển
của dân tộc Việt Nam. Là giá trị văn hoá trường tồn trong văn hoá Việt Nam.


10

10


+ Phong trào công nhân kết hợp được với phong trào yêu nước bởi vì hai phong
trào đó đếu có mục tiêu chung: giải phóng dân tộc, làm cho Việt Nam được hoàn toàn
độc lập, xây dựng đất nước hùng cường. Hơn nữa, phong trào yêu nước có trước phong
trào công nhân, phong trào công nhân xét về nghĩa nào đó nó lại là phong trào yêu nước.
+ Phong trào nông dân kết hợp với phong trào công nhân. Nói đến phong trào yêu
nước Việt Nam phải kể đến phong trào nông dân. Do đó giữa phong trào công nhân và
phong trào yêu nước có mối quan hệ mật thiết với nhau.
+ Phong trào yêu nước của trí thức Việt Nam là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự kết
hợp các yếu tố cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chính những người này trở
thành những yếu nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ý nghĩa: HCM là người sáng lập ra ĐCSVN và cũng là người trực tiếp lãnh đạo,
rènluyện ĐCSVN. Sự ra đời của ĐCSVN là một sự sáng tạo to lớn của HCM phù hợp với
thực tiễn CMVN đồng thời cũng đóng góp vào kho tang lý luận của chủ nghĩa Mác
-Lênin và làm phong phú thêm chủ nghĩa Mác - Lênin.
Câu 7: Vai trò của đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp cách mạng
a) Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của cách
mạng
- Thế nào là vấn đề có ý nghĩa chiến lược?
+ Về khái niệm: Chiến lược được hiểu là phương châm và biện pháp có tính toàn
cục được vận dụng trong suốt tiến trình cách mạng.
+ Trong tư tưởng Hồ Chí Minh Đoàn kết là một chiến lược chứa đựng hệ thống
những luận điểm thể hiện những nguyên tắc, biện pháp giáo dục, tập hợp những lực
lượng cách mạng tiến bộ nhằm phát huy cao nhất sức mạnh dân tộc và quốc tế trong sự
nghiệp độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH.
+ Chiến lược là cái nhất quán, xuyên suốt tiến trình cách mạng, thể hiện cả vấn đề

lý luận lẫn vấn đề thực tiễn. (43% bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh đề cập đến vấn đề
đoàn kết).
Đại đoàn kết dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, cơ
bản, nhất quán và lâu dài, xuyên suốt tiến trình cách mạng.
- Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, trước những yêu cầu và nhiệm vụ khác
nhau, chính sách và phương pháp tập hợp lực lượng có thể và cần thiết điều chỉnh cho
phù hợp với từng đối tượng, song đại đoàn kết luôn là vấn đề sống còn, quyết định thành

11

11


bại của cách mạng
Hồ Chí Minh đã khái quát thành luận điểm có tính chân lý về vai trò của khối đại đoàn
kết:
+ Đoàn kết làm ra sức mạnh: "Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta. Đoàn kết chặt
chẽ thì chúng ta nhất định có thể khắc phục mọi khó khăn, phát triển mọi thuận lợi và làm
tròn nhiệm vụ mà nhân dân giao phó" ; "Đoàn kết là một lực lượng vô địch của chúng ta
để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng lợi" .
+ "Đoàn kết là điểm mẹ. Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt" .
+ Đoàn kết là then chốt của thành công."Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết;Thành
công, thành công, đại thành công" .
b) Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, của dân tộc
- Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết không đơn thuần là phương pháp tập hợp lực lượng
cách mạng, mà đó là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, của cách mạng. Đại đoàn
kết dân tộc là một vấn đề có tính đường lối, một chính sách nhất quán chứ không thể là
một thủ đoạn chính trị.
Cách mạng muốn thành công, đường lối đúng đắn thôi chưa đủ, mà trên cơ sở đường lối
đúng, Đảng phải cụ thể hoá thành những mục tiêu, nhiệm vụ và phương pháp cách mạng

phù hợp với từng giai đoạn lịch sử.
+ Trong lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam năm 1951, Hồ Chí
Minh nêu mục đích của Đảng Lao động Việt Nam gồm 8 chữ: "Đoàn kết toàn dân, phụng
sự tổ quốc".
+ Năm 1963, khi nói chuyện với cán bộ tuyên truyền và huấn luyện miền núi về
cách mạng XHCN, Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Trước Cách mạng tháng Tám và trong kháng
chiến, thì nhiệm vụ tuyên huấn là làm sao cho đồng bào các dân tộc hiểu được mấy việc:
Một là đoàn kết. Hai là làm cách mạng hay kháng chiến để đòi độc lập. Chỉ đơn giản thế
thôi. Bây giờ mục đích của tuyên truyền huấn luyện là: Một là đoàn kết. Hai là xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Ba là đấu tranh thống nhất nước nhà" .
- Đại đoàn kết dân tộc còn là nhiệm vụ hàng đầu của toàn dân tộc. Bởi vì cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng nhân dân. Từ trong đấu tranh mà nảy sinh nhu cầu khách quan về
đoàn kết, hợp tác. Đảng có nhiệm vụ thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn quần chúng; chuyển
những nhu cầu, đòi hỏi khách quan, tự phát đó thành nhu cầu tự giác, thành hiện thực có
tổ chức trong khối đại đoàn kết, tạo thành sức mạnh tổng hợp to lớn để hoàn thành các
mục tiêu cách mạng.

12

12


Câu 8: Lực lượng của đại đoàn kết dân tộc
Theo quan điểm Hồ Chí Minh lực lượng đại đoàn kết dân tộc gồm :
a. Đại đoàn dân tộc là đại đoàn kết toàn dân :
- Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân vì đại đoàn kết dân tộc là tập hợp đông
đảo nhân dân trong một khối thống nhất để tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng .
+ Hồ Chí Minh sử dụng một cách rõ ràng, toàn diện và đầy sức thuyết phục khái
niệm dân và nhân dân . Coi dân và nhân dân là chủ thể của đại đoàn kết dân tộc như vậy
theo quan điểm của Hồ Chí Minh thì thực chất của đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết

toàn dân .
+ Đại đoàn kết dân tộc là tâp hợp đông đảo nhân dân vào một khối bao gồm nhiều
tầng, nhiều nấc, nhiều cấp độ và quan hệ liên kết lực lượng của dân tộc từ thấp đến cao,
từ trong ra ngoài, từ nhỏ đến lớn .
+ Hồ Chí Minh chỉ rõ trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc phải
đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân và giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa
dân tộc và giai cấp .
b. Điều kiện thực hiện đại đoàn kết dân tộc :
Điều kiện để đại đoàn kết dân tộc theo Hồ Chí Minh phải :
- Kế thừa và phát huy truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, đoàn kết của dân tộc .
- Phải có lòng khoan dung độ lượng .
- Kế thừa truyền thống dân tộc là phải làm cho truyền thống của dân tộc trở thành giá trị
bền vững, thấm sâu vào tình cảm, tâm hồn của mỗi người, truyền thống đó phải trở thành
nguồn lực nội sinh để dân tộc tồn tại và phát triển .
- Phải có lòng khoan dung độ lượng, vì lợi ích chung của cách mạng mà trân trọng phần
thiện, phần tốt của mỗi con người dù là nhỏ nhất để qui tụ, tập hợp rộng rãi mọi người .
- Ở Hồ Chí Minh lòng khoan dung độ lượng không phải lả thủ đoạn chính trị, sách lược
nhất thời mà là sự nối tiếp truyền thống nhân ái, bao dung của dân tộc. Đó cũng là tư
tưởng nhất quán trong đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam .
- Để đại đoàn kết dân tộc phải có niềm tin vững chắc vào nhân dân. Tin dân là nguyên tắc
tối cao để đoàn kết, tập hợp rộng rãi dân tộc. Dân là chỗ dựa vững chắc của Đảng, là
nguồn sức mạnh của đại đoàn kết dân tộc .
- Thực hiện đại đoàn kết dân tộc phải dựa vào nền tảng, gốc rễ là khối liên minh công,
nông, trí thức .
Câu 9: Vai trò của con người và chiến lược trồng người

13

13



a) Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người
- Con người là mục tiêu giải phóng của sự nghiệp cách mạng
Mục tiêu của cách mạng là giải phóng con người, mang lại tự do, hạnh phúc cho
con người; nhưng sự nghiệp giải phóng là do chính con người thực hiện. Với tư cách là
mục tiêu của cách mạng, mọi chủ trương đường lối, chính sách của Đảng phải vì dân, vì
lợi ích của dân. Bao nhiêu lợi ích cũng vì dân. Dân trước hết là giai cấp công nhân, liên
minh với nông dân, trí thức cũng là một tầng lớp cần coi trọng.
- Con người là động lực của cách mạng
Với tư cách là động lực của cách mạng, cần phải tổ chức và thức tỉnh hàng chục
triệu nông dân, phải thức tỉnh và tổ chức toàn thể giai cấp công nhân. Có như vậy mới tạo
ra sức mạnh to lớn để có thể làm cách mạng thành công. Họ phải có trí tuệ, bản lĩnh, văn
hoá, đạo đức, được nuôi dưỡng trên nền truyền thống lịch sử và văn hoá hàng ngàn năm
của dân tộc.
Quần chúng nhân dân là lực lượng sáng tạo cơ bản, có dân là có tất cả. Xuất phát
từ sự đánh giá đúng con người và hiểu biết con người, con người là động lực chỉ có thể
thực hiện được khi hoạt động có tổ chức, có lãnh đạo. Đảng cách mạng lấy chủ nghĩa
Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng, qua phong trào cách mạng của quần chúng, Đảng sẽ
nhân sức mạnh của con người lên gấp bội lần.
b) Quan điểm của Hồ Chí Minh về chiến lược trồng người
Hồ Chí Minh có quan điểm coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực. Con
người có ý nghĩa chiến lược của sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam.
Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có con người xã hội chủ nghĩa.
Con người có hai mặt gắn bó nhau: một là, kế thừa giá trị tốt đẹp của con người truyền
thống, hai là, hình thành những phẩm chất mới như: tư tưởng xã hội chủ nghĩa, đạo đức
cách mạng, có trí tuệ, bản lĩnh để làm chủ, có lòng nhân ái, vị tha, độ lượng.
Hồ Chí Minh quan niệm: Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm
năm thì phải trồng người. Con người trong thời đại mới phải có học thức, chiếm lĩnh đỉnh
cao của khoa học kỹ thuật. Vì vậy chủ nghĩa xã hội mới đủ tiềm lực vật chất để chiến
thắng chủ nghĩa tư bản, mới làm cách mạng thắng lợi.

Xây dựng con người mới phải toàn diện: có mục đích và lối sống cao đẹp, có bản
lĩnh chính trị vững vàng, có chính kiến. Xây dựng con người có ý thức làm chủ, tự lực, tự
cường, gắn quyền lợi và nghĩa vụ. Luôn phấn đấu cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội. Con người có niềm tin và lạc quan cách mạng. Con người có trí tuệ, trình độ học vấn

14

14


cao, ngày càng tiến bộ. Con người có sức khoẻ. Con người có lòng khoan dung, độ
lượng. Để trồng người, xây dựng con người vừa có cá tính vừa có thể phát triển mọi mặt
phải có nhiều biện pháp. Theo Hồ Chí Minh, giáo dục là biện pháp quan trọng nhất. Cần
hiểu mối quan hệ giữa tính người và giáo dục.
Tính người vốn thiện và ác, và đây là phạm trù được Nho giáo quan tâm. Hồ Chí
Minh cho rằng tính người do giáo dục và nó gắn liền với hoạt động thực tiễn của con
người.
Nội dung và phương pháp giáo dục phải toàn diện, cả đức, thể, trí, mỹ, phải đặt
đạo đức, lý tưởng và tình cảm cách mạng, lối sống xã hội chủ nghĩa lên hàng đầu. Đức và
tài thống nhất nhau, trong đó đức là gốc, là nền tảng phát triển, Học để làm người.
Hồ Chí Minh coi trọng việc nâng cao dân trí cho toàn dân tộc. Người hướng mọi
hoạt động văn hoá, giáo dục, tư tưởng vào việc rèn luyện dân tộc ta thành dân tộc cách
mạng và văn minh. Hồ Chí Minh nêu khẩu hiệu : Diệt giặc đói, diệt giặc dốt. Bác đi đầu
trong việc khai dân trí. Mở các lớp xoá mù chữ, các lớp bình dân học vụ. Người nói: "một
dân tộc dốt là một dân tộc yếu".
Câu 10: Quan niệm về những chuẩn mực của đạo đức cách mạng
* Trung với nước, hiếu với dân
- "Trung" và "hiếu" vốn là những k/niệm đạo đức cũ chứa đựng nội dung hạn hẹp:
"Trung với vua, hiếu với cha mẹ", phản ánh bổn phận, t/nhiệm của dân đối với vua, con
đối với cha mẹ. HCM đưa vào khái niệm cũ một n/dung mới, mang tính c/mạng, đó là

trung với nước, hiếu với dân. Đây là chuẩn mực đạo đức có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
+Trung với nước là tuyệt đối trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước,
trung thành với con đường đi lên của đất nước; là suốt đời phấn đấu cho Đảng, cho
c/mạng. Trong mối q/hệ giữa cá nhân với cộng đồng và xã hội, phải biết đặt lợi ích của
Đảng, của Tổ quốc, của c/mạng lên trên hết, trước hết; Quyết tâm phấn đấu thực hiện
mục tiêu cách mạng; Thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
+Hiếu với dân là thương dân, tin dân, phục vụ n/dân hết lòng. Muốn vậy phải gần
dân, kính trọng và học tập n/dân, phải dựa vào dân và lấy dân làm gốc. Đối với cán bộ
lãnh đạo, Người yêu cầu phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, thường xuyên quan
tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí.

15

15


Vì vậy, Người cho rằng “trung với nước phải gắn liền hiếu với dân”, vì nước là
nước của dân, còn dân là chủ nhân của nước, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân, cán
bộ là đày tớ của dân chứ không phải là “quan c/mạng”
* Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
- Cần là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất
lao động cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại,
không dựa dẫm.
-Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của dân, của nước,
của bản thân mình, tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ; “không xa xỉ, không hoang phí, không
phô trương, hình thức…”.Tiết kiệm không phải là bủn xỉn, nhưng phải kiên quyết chống
xa xỉ
-Liêm là trong sạch, là luôn luôn tôn trọng, giữ gìn của công và của dân”, “không
xâm phạm đến một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân”…
- Chính là ngay thẳng, không tà, là đúng đắn, chính trực. Đối với mình, không tự

cao, tự đại; đối với người không nịnh trên, khinh dưới, không dối trá, lừa lọc, luôn giữ
thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, đối với việc thì việc công lên trên, lên trước việc
tư, tiệc nhà. Được giao nhiệm vụ thì quyết làm cho kỳ được, “việc thiện dù nhỏ mấy cũng
phải làm, việc ác dù nhỏ mấy cũng tránh”.
- Cần mà không kiệm giống như một chiếc thùng không đáy. Kiệm mà không cần
thì lấy gì mà kiệm. Cần, kiệm, liêm là gốc rễ của chính. Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại
cần có cành, lá, hoa, quả mới là hoàn chỉnh. Cần, kiệm, liêm, chính cần thiết đối với tất
cả mọi người.
- Cần, kiệm, liêm, chính càng cần thiết đối với cán bộ, đảng viên. Bởi vì, nếu cán
bộ, đảng viên mắc sai lầm, khuyết điểm thì sẽ ảnh hưởng đến nhiệm vụ chung của cách
mạng, ảnh hưởng đến uy tín của Đảng. Mặt khác, những người trong các công sở đều có
nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ đúng cần, kiệm, liêm, chính thì dễ trở nên hủ
bại, biến thành sâu mọt của dân.
- Cần, kiệm, liêm, chính còn là thước đo sự giàu có về vật chất, vững mạnh về tinh
thần, sự văn minh tiến bộ của một d/tộc. Cần, kiệm, liêm, chính là nền tảng của đời sống
mới, nền tảng của thi đua yêu nước; là cái cần để làm việc, làm người, làm cán bộ, để
phụng sự Đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại

16

16


- Chí công vô tư là không nghĩ đến mình trước, chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì
đồng bào; là đặt lợi ích của cách mạng, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Thực hành
chí công vô tư cũng có nghĩa là phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao
đạo đức cách mạng.///
*Thương yêu con người, sống có nghĩa tình.
- Yêu thương con người được HCM xác định là một trong những phẩm chất đạo
đức cao đẹp nhất. Người nói, người cách mạng là người giàu tình cảm, có tình cảm cách

mạng mới đi làm cách mạng. Vì yêu thương con người, yêu thương nhân dân mà chấp
nhân mọi gian khổ, hy sinh để đem lại độc lập, tự do, cơm no áo ấm cho con người.
- Tình thương yêu con người ở HCM không chung chung, trừu tượng kiểu tôn
giáo, mà luôn luôn được nhận thức và giải quyết trên lập trường của giai cấp vô sản, dành
cho các dân tộc và con người bị áp bức, đau khổ.
Hồ Chí Minh thương yêu con người với một tình cảm sâu sắc, vừa bao la rộng lớn,
vừa gần gũi thân thương đối với từng số phận con người
* Tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung
- C/nghĩa quốc tế là một trong những đặc điểm quan trọng nhất của đạo đức cộng
sản chủ nghĩa. Nó bắt nguồn từ bản chất quốc tế của giai cấp công nhân, nhằm vào mối
quan hệ rộng lớn, vượ ra khỏi quốc gia dân tộc.
- Nội dung chủ nghĩa quốc tế trong tư tưởng HCM rộng lớn và sâu sắc. Đó là sự
tôn trọng và thương yêu tất cả các dân tộc, nhân dân các nước, chống sự hằn thù, bất bình
đẳng dân tộc và sự phân biệt chủng tộc. Người khẳng định: bốn phương vô sản đều là anh
em; giúp bạn là giúp mình; thắng lợi của mình cũng là thắng lợi của nhân dân thế giới.
Người đã góp phần to lớn, có hiệu quả xây đắp tình đoàn kết quốc tế, tạo ra một kiểu
quan hệ quốc tế mới: đối thoại thay cho đối đầu, kiến tạo một nền văn hóa hòa bình trên
thế giới.
Câu 11: Học tập và làm theo tấm gương đạo đức của HCM.
1. Suốt đời phấn đấu cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
HCM khẳng định: Đạo đức cách mạng phải qua đấu tranh, rèn luyện bền bỉ mới
thành. Người viết: “Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống. Nó do đấu
tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài

17

17


càng sáng, vàng càng luyện càng trong”.Người quan niệm: đã là người thì ai cũng có chỗ

hay, chỗ dở, chỗ xấu, chỗ tốt, ai cũng có thiện, có ác trong mình. Vấn đề là dám nhìn
thẳng vào con người mình, không tự lừa dối, huyễn hoặc; thấy rõ cái hay, cái tốt, cái
thiện để phát huy và thấy rõ cái dở, cái xấu, cái ác để khắc phục.
Phải rèn luyện, tu dưỡng đạo đức suốt đời. Người dạy: “Một dân tộc, một Đảng và
mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và
ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa,
nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”
Chính tấm gương đạo đức trong sáng, suốt đời phấn đấu cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư là sự quy tụ đặc sắc nhất những giá trị của đạo đức cách mạng của Người.
Theo HCM, cần có nghĩa là cần cù, siêng năng, chăm chỉ trong học tập, trong lao
động, trong chiến đấu và trong sản xuất; cần còn có nghĩa là làm việc có phương pháp, có
khoa học và có trí tuệ. Cần mà không có trí tuệ thì đó cũng chỉ là bán thân bất toại.
Kiệm là tiết kiệm thời giam, tiền bạc của cải vật chất và tinh thân cho nhân dân,
không lãng phí, tiêu dùng hợp lý nhầm mục đích mở rộng sản xuất, và không ngừng nâng
cao đời sống cho nhân dân.
Liêm là liêm khiết, trong sáng, không tham của cải vật chất, không tham địa vị,
không tham sung sướng, không nịnh hót kẻ trên và cũng không thích kẻ khác tâng bốc
mình
Chính là luôn đấu tranh để bảo vệ lẽ phải, lên án những cái xấu, cái sai trái
Chí công vô tư là mình vì mọi người, luôn đặt lợi ích của Đảng của Tổ quốc, của
nhân dân lên hàng đầu, khi có khó khăn thì đi trước, hưởng thụ sau, không tham tiền tài,
địa vị, danh vọng, chỉ có một mục đích duy nhất là làm cho cuộc sống của nhân dân no
đủ, hạnh phúc, đất nước phồn vinh.
2. Suốt đời vì dân, vì nước, làm người công bộc tận tụy trung thành của nhân
dân
Sinh ra, lớn lên ở một vùng quê nghèo khổ nhưng giàu truyền thống yêu nước, văn
hiến, Hồ Chí Minh được nuôi dưỡng, thấm nhuần sâu sắc triết lý sống của cha ông: Muốn
dựng làng và giữ nước phải bắt đầu từ việc làm người một cách thành thật, đúng nghĩa.
Bài học đạo đức lớn nhất mà Hồ Chí Minh để lại cho mọi thế hệ người Việt Nam chính là


18

18


bài học ở đời và làm người mà nội dung và chiều sâu nhân văn của nó là yêu nước,
thương dân, thương nhân loại đau khổ bị áp bức, bóc lột.
HCM luôn tâm niệm: Độc lập cho Tổ quốc tôi, tự do cho đồng bào tôi, đó là tất cả
những gì tôi muốn, đó là tất cả những gì tôi hiểu. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và
giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.
Yêu nước, thương dân, tất cả vì dân, vì nước là suy nghĩ thường trực, nhất quán
trong con người HCM. Người đi sang Pháp, sang các nước phương Tây nhằm mục đích
học hỏi xem bên ngoài người ta làm thế nào để rồi về nước giúp đồng bào mình giải
phóng khỏi gông cùm nô lệ, áp bức. Và HCM đấu tranh không ngừng, không nghỉ, thậm
chí phải hy sinh bằng mọi giá giành được độc lập cho Tổ quốc, tự do cho đồng bào.
Sau C/mạng Tháng Tám, HCM phát biểu mục đích cuộc sống mà Người theo đuổi
là: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao nước ta được hoàn toàn tự
do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Nói chuyện với đồng
bào trước khi sang thăm Pháp (30-5-1946), HCM khẳng định: “Cả đời tôi chỉ có một
mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi
phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo- là vì m/đích
đó. Đến lúc nhờ quốc dân đoàn kết, tranh được c/quyền, ủy thác cho tôi gánh việc C/
phủ, tôi lo lắng đêm ngày, nhẫn nhục cố gắng - cũng vì mục đích đó... Bất kỳ bao giờ, bất
kỳ ở đâu, tôi cũng chỉ đeo đuổi một m/đích, làm cho ích quốc lợi dân”.
3. Đời tư trong sáng, cuộc sống riêng giản dị và khiêm tốn hết mực
Tấm gương đạo đức HCM được thể hiện trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày, đó
là đời tư trong sáng, cuộc sống riêng giản dị và đức khiêm tốn hết mực. Người coi khinh
sự xa hoa để sống một cuộc đời trong sạch, suốt đời thực hành cần, kiệm, liêm, chính một
cách cần mẫn.
HCM luôn luôn nói đi đôi với làm. Trong hành trình tìm đường cứu nước, dù ở

đâu, làm gì, HCM chấp nhận mọi công việc, miễn là việc đó có lợi cho tổ chức, cho cách
mạng. Người tâm sự khi phải giữ trọng trách Chủ tịch nước: “Tôi tuyệt nhiên không ham
muốn công danh phú quý chút nào. Bây giờ phải gánh chức Chủ tịch là vì đồng bào ủy
thác thì tôi phải gắng sức làm, cũng như một người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra
trước mặt trận.Bao giờ đông bào cho tôi lui, thì tôi rất vui lòng lui. Tôi chỉ có một sự
ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn

19

19


toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Riêng phần tôi
thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh, nước biết để câu cá, trồng hoa, sớm chiều
làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu gì với vòng danh lợi”.
Tư tưởng và tấm gương “tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút
nào” một lần nữa lại được HCM trịnh trọng tuyên bố trước kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa
I (31-10-1946): “Lần này là lần thứ hai Quốc hội giao phó cho tôi phụ trách Chính phủ
một lần nữa. Việt Nam chưa được độc lập, chưa được thống nhất thì bất kỳ Quốc hội ủy
cho tôi hay cho ai cũng phải gắng mà làm.Tôi xin nhận. Giờ tôi tuyên bố trước Quốc hội,
trước quốc dân và trước thế giới rằng: HCM không phải là kẻ tham quyền cố vị, mong
được thăng quan, phát tài”.
Người luôn khẳng định: Sự nghiệp anh hùng cách
mạng Việt Nam là của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; còn khuyết điểm thì Người
nhận về mình. Hiếm có một vị lãnh tụ nào trên thế giới đứng trước toàn dân để Tự phê
bình, nhận lấy khuyết điểm của mình và cho rằng do mình “tài hèn đức mọn, cho nên
chưa làm đầy đủ những sự mong muốn của đồng bào”.

20


20



×