Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

Vận dụng tư tưởng hồ chí minh về nguyên tắc của mặt trận dân tộc thống nhất vào việc đổi mới tổ chức và hoạt động của mặt trận tổ quốc việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (457.86 KB, 101 trang )

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi dưới sự hướng
dẫn của PGS.TS. Phạm Ngọc Anh. Các số liệu, tài liệu trích dẫn trong
luận văn là trung thực. Các tài liệu tham khảo có nguồn ngốc xuất xứ
rõ ràng. Công trình nghiên cứu của luận văn không trùng với các công
trình khác.
Tác giả

Nguyễn Thị Hải Yến


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh được thế giới tôn vinh là anh hùng giải phóng dân
tộc, nhà văn hóa kiệt xuất. Trước lúc ra đi, Người đã để lại cho Đảng ta, nhân
dân ta những di sản vô giá và một trong những di sản đó là tư tưởng của
Người - tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam.“Cách mạng là sự
nghiệp chung của quần chúng, chứ không phải của riêng cá nhân anh hùng
nào” [39, 672.]. Cách mạng muốn thành công phải đoàn kết, đoàn kết tạo nên
sức mạnh vô địch. Trong đó, nổi bật là tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết
dân tộc và Mặt trận dân tộc thống nhất. Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân
tộc không chỉ dừng lại ở quan niệm, ở tư tưởng, ở những lời kêu gọi chung
chung, mà phải trở thành một chiến lược cách mạng, thành khẩu hiệu hành
động của toàn Đảng, toàn dân ta. Nó phải trở thành sức mạnh vật chất, một
lực lượng mạnh có tổ chức. Tổ chức đó chính là Mặt trận dân tộc thống nhất.
Việc đề xướng thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất không chỉ là sáng tạo
lớn, mà còn là một cống hiến lớn lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta
đối với dân tộc ta và các dân tộc bị áp bức trên thế giới.
Kế tục vai trò lịch sử của các hình thức tổ chức Mặt trận trước đây, Mặt


trận Tổ quốc Việt Nam ngày nay là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự
nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức chính
trị - xã hội - nghề nghiệp, các tổ chức xã hội, các tổ chức xã hội - nghề
nghiệp, các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân
tộc, các tôn giáo, người Việt Nam ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
chủ trương phát huy truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự lực
tự cường, đoàn kết mọi người Việt Nam; không phân biệt quá khứ, thành
phần giai cấp, dân tộc, tôn giáo, ý thức hệ, ở trong nước hay ở nước ngoài;
miễn là tán thành mục tiêu chung là giữ vững độc lập, thống nhất, chủ quyền
1


quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ; thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước vì "dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng,
văn minh"; thực hiện Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh "xây
dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
mạnh"; góp phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội trên thế giới.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Mặt trận dân tộc thống
nhất Việt Nam đã rút ra cho mình một bài học lớn: Đó là khi nào Mặt trận
giữ vững nguyên tắc tổ chức, hoạt động của tổ chức và giương cao ngọn cờ
đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đoàn kết và phát huy được
sức mạnh của toàn dân tộc thì khó khăn mấy cách mạng cũng vượt
qua. Ngược lại, khi nào coi nhẹ yếu tố dân tộc, không quan tâm đúng mức
đến đại đoàn kết dân tộc, thậm chí phạm sai lầm trong việc thực hiện nguyên
tắc tổ chức và hoạt động của tổ chức thì cách mạng Việt Nam gặp khó khăn.
Trong tình hình hiện nay, cùng với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, hội nhập quốc tế đang đặt ra những yêu cầu bức xúc trong công
tác vận động và tập hợp quần chúng. Quá trình công nghiệp hóa đã và đang
tác động, ảnh hưởng mạnh mẽ đến toàn bộ đời sống xã hội, tạo ra sự chuyển

dịch cơ cấu kinh tế, sự biến đổi các tầng lớp nhân dân, các giai cấp xã hội, các
tệ nạn xã hội,…Đặc biệt, tác động mạnh đến khối đại đoàn kết dân tộc và Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam. Do những điều kiện khách quan của kinh tế, xã hội,
nhu cầu và lợi ích của hội viên đã thay đổi nhưng hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể chưa kịp thay đổi. Trên thực tế, một bộ phận các tổ chức
cơ sở của Mặt trận Tổ quốc tồn tại hình thức, chưa có hoạt động đủ sức thu
hút quần chúng, hội viên, sinh hoạt chiếu lệ, tham gia miễn cưỡng, không ít
cán bộ không quan tâm, không muốn gắn bó với công tác Mặt trận,... gây ảnh
hưởng đến tính tích cực và niềm tin của nhân dân, hội viên. Mặt khác, cuộc
2


đấu tranh ở trong nước và trên thế giới không mất đi mà chuyển sang những
hình thức mới, nhất là trong điều kiện toàn cầu hoá ngày nay. Chúng ta có
thêm nhiều bạn mới, nhưng cũng xuất hiện những thế lực chống đối mới.
Chúng ta phải có phương thức đấu tranh mới, gắn đấu tranh với hợp tác để
cùng tồn tại và phát triển.
Chính vì lẽ đó mà vấn đề xây dựng Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam đã và đang
đặt ra những yêu cầu mới. Thực tiễn trên đòi hỏi Đảng và Nhà nước cần giữ
vững và đẩy mạnh hơn nữa việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên
tắc tổ chức và hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất vào bối cảnh mới
hiện nay của đất nước.
Với ý nghĩa và tầm quan trọng đó, tác giả quyết định chọn đề tài: “Vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc của Mặt trận dân tộc thống nhất
vào việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiện
nay” làm đề tài luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tư tưởng xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất của Hồ Chí Minh là một
trong những tư tưởng quan trọng của Người và thể hiện tính khoa học, cách
mạng sâu sắc trong tư tưởng của Hồ Chí Minh. Vấn đề này đã thu hút sự quan

tâm nghiên cứu của rất nhiều học giả với các công trình, tác phẩm có liên
quan. Đó là tác phẩm “Một số suy nghĩ về việc nghiên cứu Mặt trận Tổ Quốc,
các đoàn thể và tổ chức xã hội”, in trong: Những vấn đề lý luận cơ bản về
Mặt trận, các đoàn thể và tổ chức xã hội trong hệ thống chính trị, Hà Nội,
1993 của tác giả Vũ Minh Giang. Tác phẩm đề cập đến tư tưởng Hồ Chí Minh
về Mặt trận; vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Việt Nam trong
lịch sử cách mạng và bối cảnh đất nước đổi mới. Tác phẩm đã đề cập đến vấn
đề xây dựng Mặt trận, tuy nhiên, chưa được nghiên cứu sâu, chưa chỉ ra

3


những yêu cầu đòi hỏi cần đổi mới nguyên tắc và hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam theo quan điểm Hồ Chí Minh.
Tô Huy Rứa – Nguyễn Cúc – Trần Khắc Việt (chủ biên): Giải pháp đổi
mới hoạt động của hệ thống chính trị ở các tỉnh miền núi nước ta hiện nay,
Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003. Tác phẩm trình bày vị trí, vai trò của
hệ thống chính trị, trong đó có nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam. Tác phẩm chỉ ra thực trạng hoạt động của các thành phần
của hệ thống chính trị và đề cập đến nội dung đổi mới về nguyên tắc tổ chức
và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Tuy nhiên tác phẩm mới chỉ
tiếp cận theo bề rộng của vấn đề mà chưa đi sâu vào giải pháp cốt lõi nhằm
nâng cao hoạt động của hệ thống chính trị trong đó có Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam là giữ vững Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Kỷ yếu của Hội thảo khoa học quốc gia “Mặt trận dân tộc thống nhất
Việt Nam – Những chặng đường vẻ vang”. Nhân kỷ niệm 80 năm ngày thành
lập Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam - nay là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
(18/11/1930 – 18/11/2010), ngày 10/11 tại Hà Nội, do Ban Thường trực Ủy
ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ban Tuyên giáo Trung ương,
Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức. Kỷ yếu của

Hội thảo có 45 bài tham luận. Các bài tham luận tập trung phân tích, làm sâu
sắc hơn các nội dung về tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của
Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc và xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất
trong các giai đoạn của cách mạng Việt Nam và hiện nay. Đồng thời nêu lên
những vấn đề lý luận và thực tiễn đang đặt ra trong giai đoạn hiện nay, nhất là
đổi mới nội dung, phương thức tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam.
Ngoài ra, còn có các bài viết được đăng trên báo, các tạp chí, tạp chí khoa
học chuyên ngành tiêu biểu như Tạp chí Mặt trận số 72(10/2009): “Từ kinh

4


nghiệm của Mặt trận dân tộc thống nhất trong lịch sử, suy nghĩ về đổi mới
Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam ngày nay” PGS.Trần Hậu.
Tạp chí Mặt trận số 77(3/2010): “ Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam tiếp tục đổi
mới nội dung và phương thức hoạt động, thực sự đóng vai trò nòng cốt xây
dựng khối Đại đoàn kết toàn dân tộc” của Ban biên tập Tạp chí Mặt trận.
Tạp chí Mặt trận số 85(11/2010): “Phát huy sức mạnh Đại đoàn kết toàn
dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc” của tác giả Huỳnh Đảm (Ủy viên
Trung ương Đảng,Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam).
Một số chuyên đề giáo dục của Tạp chí Xây dựng Đảng như Chuyên đề
“Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam
và các đoàn thể chính trị - xã hội” – Tài liệu bồi dưỡng thi nâng ngạch lên
chuyên viên cao cấp khối Đảng, Đoàn thể năm 2012.
Nhìn chung, dưới góc độ nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh, các công
trình trên đã có những đóng góp tích cực trong việc tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí
Minh về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất.
Tuy nhiên các công trình mới chỉ nhìn nhận vấn đề nguyên tắc tổ chức và
hoạt động trên khía cạnh tổng quát mà chưa đi vào chiều sâu về giá trị của tư

tưởng Hồ Chí Minh về Mặt trận dân tộc thống nhất đối với sự đổi mới tổ chức
và hoạt động của Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Nếu
có đề cập đến vấn đề xây dựng Mặt trận thì cũng mới chỉ đề cập một cách
khái quát, chưa đi sâu vào phân tích các quan điểm của Hồ Chí Minh về
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất và cũng
chưa nhấn mạnh ý nghĩa thực tiễn của tư tưởng trên trong điều kiện xã hội
hiên nay. Trong tình hình mới hiện nay nảy sinh rất nhiều yếu tố bất cập như
lợi ích chung, tính đồng thuận xã hội, hiệu quả của công tác Mặt trận, chức
năng giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam…Vậy, tư
tưởng Hồ Chí Minh cần được vận dụng như thế nào trong bối cảnh mới của
đất nước ta? Chính vì lẽ đó mảng nghiên cứu về vấn đề xây dựng Mặt trận
5


trong giai đoạn hiện nay và tính thực tiễn của quan điểm trên của Hồ Chí
Minh trong công tác xây dựng Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam rất cần sự chú ý,
quan tâm của giới nghiên cứu, đặc biệt là các nhà nghiên cứu về Hồ Chí Minh
học và Chính trị học.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài là nghiên cứu, phân tích, làm rõ nội dung quan điểm
của Hồ Chí Minh về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Mặt trận dân tộc
thống nhất; đánh giá ý nghĩa lý luận, thực tiễn của quan điểm đó đối với việc
xây dựng Mặt trận Tổ quốc hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, đề tài thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Thứ nhất: trình bày quan điểm Hồ Chí Minh về tập hợp lực lượng, đại
đoàn kết toàn dân tộc; vị trí và vai trò của Mặt trận dân tộc thống nhất trong
tiến trình cách mạng Việt Nam. Từ đó tạo cơ sở lý luận cho việc tiếp cận tư
tưởng của Hồ Chí Minh về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Mặt trận dân

tộc thống nhất.
- Thứ hai: làm rõ giá trị lý luận và thực tiễn của quan điểm của Hồ Chí
Minh về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất
- Thứ ba: phân tích thực trạng tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ Quốc
Việt Nam hiện nay và trình bày một số giải pháp chủ yếu nhằm đổi mới tổ
chức và hoạt động của Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam theo quan điểm của Hồ
Chí Minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Quan điểm của Hồ Chí Minh về nguyên tắc tổ chức và hoạt
động của Mặt trận dân tộc thống nhất; thực trạng tổ chức, hoạt động của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam hiện nay.

6


- Phạm vi nghiên cứu: đề tài giới hạn ở việc phân tích, làm rõ những
quan điểm của Hồ Chí Minh về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Mặt trận
dân tộc thống nhất và thực trạng tổ chức, hoạt động của Mặt trận Tổ Quốc
Việt Nam hiện nay (Chủ yếu là từ năm 2001 đến nay). Đề tài sử dụng các tư
liệu trong các công trình nghiên cứu của các tác giả đã được công bố trong
những năm gần đây.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài thực hiện dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng
Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam hiện nay.
5.2. Phương pháp
Đề tài sử dụng các phương pháp như: phân tích và tổng hợp, phương pháp
logic - lịch sử,..
Phương pháp tổng hợp: sử dụng phương pháp tổng hợp trong quá trình

tìm kiếm các thông tin, tài liệu liên quan; sắp xếp, phân loại chúng theo các
luận điểm liên quan đến nội dung chính của đề tài.
Phương pháp phân tích: trên cơ sở các thông tin và tài liệu liên quan đã
được tổng hợp, tiến hành nghiên cứu các vấn đề nhằm nêu bật được nội dung
chính của đề tài. Từ đó rút ra những nhận định, đánh giá cho đề tài.
Phương pháp logic – lịch sử: được sử dụng trong đề tài khi viện dẫn
những quan điểm của Hồ Chí Minh và của Đảng về nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất. Qua đó, vận dụng quan điểm trên
vào công cuộc đổi mới Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiện nay.

7


6. Đóng góp của luận văn
6.1. Điểm mới của đề tài
Đề tài trình bày và phân tích những quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn
đề nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất và vận
dụng vào công tác xây dựng Mặt trận Tổ quốc ở Việt Nam hiện nay.
Những nghiên cứu trước và hiện có chủ yếu tiếp cận tư tưởng Hồ Chí
Minh về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất trên
cơ sở là những khái quát chung, chứ ít tiếp cận vấn đề này trên cơ sở chi tiết
về quan điểm Hồ Chí Minh. Mặt khác, trong giai đoạn mới hiện nay đã và
đang đặt ra những yêu cầu và nội dung mới đòi hỏi cần nâng cao vai trò của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Do đó, đề tài trên mang tính thời sự và có ý
nghĩa lớn. Vì vậy đề tài “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc của
Mặt trận dân tộc thống nhất vào việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam hiện nay” tập trung triển khai và phân tích sâu thêm
hệ thống quan điểm của Hồ Chí Minh về Mặt trận dân tộc thống nhất, đồng
thời làm cơ sở cho việc đổi mới phương thức hoạt động Mặt trận Tổ Quốc
Việt Nam hiện nay. Đề tài góp phần làm rõ thêm vị trí và vai trò quan trọng

của tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
6.2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu,
học tập tư tưởng Hồ Chí Minh và Chính trị học.
Đồng thời, đề tài cũng góp phần làm rõ thêm cơ sở lý luận khoa học cho
việc nhận thức, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng Mặt trận
Tổ Quốc Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm
2 chương.

8


Chương 1
QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC, HOẠT
ĐỘNG CỦA MẶT TRẬN DÂN TỘC THỐNG NHẤT
Ngày 18/11/1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị
về việc thành lập “Hội Phản đế đồng minh” – hình thức đầu tiên của Mặt trận
dân tộc thống nhất, đánh dấu sự phát triển về chất của phong trào yêu nước,
của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân
tộc. Trải qua 84 năm đấu tranh cách mạng, Mặt trận dân tộc thống nhất Việt
Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, với những tên gọi và hình thức tổ chức khác
nhau phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ trong từng thời kỳ cách mạng đã không
ngừng lớn mạnh và tập hợp ngày càng đông đảo các tầng lớp nhân dân thống
nhất thành một khối, tạo thành sức mạnh to lớn cho dân tộc trong sự nghiệp
đấu tranh giành độc lập, tự do và hạnh phúc.
1.1. Quan điểm Hồ Chí Minh về tập hợp lực lượng, đại đoàn kết toàn
dân tộc
Cách mạng muốn giành được thắng lợi, thì một trong những nhân tố rất

quan trọng là phải đoàn kết toàn dân tộc. Lực lượng quần chúng là vĩ đại, là
tác giả của lịch sử song, phải biết tập hợp, tổ chức lại thì mới phát huy được
sức mạnh to lớn ấy. Muốn đại đoàn kết toàn dân tộc thì phải tổ chức để đoàn
kết tập hợp quần chúng. Tổ chức lực lượng đó chính là Mặt trận dân tộc thống
nhất. Sự hình thành Mặt trận dân tộc thống nhất ngay sau khi Đảng Cộng sản
Việt Nam được thành lập là một tất yếu lịch sử.
“Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì
mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân…Trong xã hội không có gì tốt
đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân…” [37, tr.453]. Quần
chúng nhân dân là lực lượng to lớn quyết định sự thành công của cách mạng.
Việc xác định đúng vai trò to lớn có tính quyết định của quần chúng trong sự
9


nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng xã hội là cơ sở khoa học quan
trọng, điểm xuất phát để Hồ Chí Minh xác lập quan điểm tập hợp lực lượng,
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Hồ Chí Minh luôn khẳng định nhân dân là gốc của nước, gốc của cách
mạng, là lực lượng làm cho xã hội biến đổi có tính cách mạng. Người viết
“ Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại”[29,
tr.297]. “Lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết. Không ai chiến
thắng được lực lượng đó” [31, tr.19]. Hay “Nước lấy dân làm gốc…Gốc có
vững cây mới bền, Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”. Nhân dân là gốc của
cách mạng, là nền tảng, lực lượng của Đảng. Người yêu cầu phải giữ chặt mối
liên hệ với dân chúng và luôn luôn lắng nghe ý kiến dân chúng nhờ đó Đảng
mới vững, cách mạng mới thắng lợi.
Người khẳng định, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, muốn cách
mạng giành thắng lợi thì một trong những nhân tố quan trọng là phải đoàn kết
toàn dân tộc và muốn đại đoàn kết toàn dân tộc thì phải tập hợp, tổ chức lại
trong một mặt trận. Tổ chức lực lượng đó chính là Mặt trận dân tộc thống

nhất. Mục tiêu của việc tập hợp lực lượng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc theo Hồ Chí Minh là nhằm giải phóng con người, xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta.
Hồ Chí Minh hiểu sâu sắc rằng, phải tập hợp lực lượng đông đảo của toàn
dân tộc mới có thể thực hiện thắng lợi sự nghiệp vẻ vang. Và hơn ai hết,
Người là linh hồn của khối đại đoàn kết; là nhà lãnh đạo, tổ chức, tập hợp,
xây dựng lực lượng cách mạng; sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam, các tổ
chức Mặt trận, đoàn thể cách mạng để tập hợp, đoàn kết mọi người, mọi giai
tầng cùng đồng tâm, hợp lực, đánh đổ thực dân, phong kiến, giành độc lập, tự
do cho dân tộc. Đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh, nhân dân ta đã làm Cách
mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà,
10


Nhà nước Cộng hoà Dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, nay là nước
Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đoàn kết trong Mặt trận Liên Việt,
nhân dân ta vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, làm nên chiến thắng Điện Biên
Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu, lập lại hoà bình ở Đông Dương,
đưa miền Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đoàn kết trong Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, trong Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và
Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình Việt Nam, nhân dân ta
đã “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Nguỵ nhào”, làm nên đại thắng mùa Xuân
1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, hoàn thành cách
mạng dân tộc, dân chủ, đưa cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, đại đoàn kết dân tộc vừa là mục tiêu,
vừa là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng, được xây dựng trên cơ sở lấy lợi
ích tối cao của đất nước và quyền lợi cơ bản của nhân dân lao động làm nền
tảng; kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể, lợi ích gia đình với lợi
ích xã hội, lợi ích giai cấp với lợi ích dân tộc. Lợi ích tối cao của dân tộc là
độc lập, thống nhất, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, là “dân giàu,

nước mạnh”. Đó là một mục tiêu, một nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt
Nam. Đấy là nguyên tắc “bất biến” trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Lấy cái bất
biến, cái thống nhất, cái chung, cái ổn định làm điểm tương đồng mà điều
hoà, giải quyết cái “vạn biến”, tức cái khác biệt về lợi ích, về ý kiến, về thị
hiếu, về thành phần xã hội vốn có trong nhân dân, trong xã hội.
Nguyên tắc tập hợp lực lượng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
được Hồ Chí Minh xác định “…công nông là gốc của cách mạng…”, đặt lợi
ích của dân tộc gắn liền với lợi ích của công nông và Người nhấn mạnh phải
thực hiện cho bằng được liên minh công nông, vì đó là cơ sở đảm bảo cho
thắng lợi của cách mạng. “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa
số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp
11


nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền
của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các
tầng lớp nhân dân khác. Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất,
độc lập, dân chủ thì dù những người trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng
ta cũng thật thà đoàn kết với họ” [36, tr.244]
Về phương pháp đoàn kết, tập hợp lực lượng của Hồ Chí Minh là tùy đối
tượng cần tập hợp, đoàn kết cụ thể mà có phương pháp cụ thể, không rập
khuôn, máy móc theo một mô thức, phương pháp nào. Theo Người, “Chân lý
là cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân”. Nét độc đáo của phương pháp đại
đoàn kết của Hồ Chí Minh thể hiện ở chỗ “đã hóa giải khôn ngoan những đối
kháng về quyền lợi bộ phận trong những hoàn cảnh nhất định, phục vụ tập
trung cao nhất cho quyền lợi toàn cục”. Rất nhạy cảm với những đặc thù, nét
riêng của giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, tôn giáo, các lứa tuổi, nên khi
đến với từng đối tượng cụ thể, Hồ Chí Minh đều gắn chặt lợi ích riêng với lợi
ích chung, tìm ra điểm đại đồng, tôn trọng sự khác biệt để thuyết phục, cảm
hóa, tập hợp họ vào trong khối đại đoàn kết dân tộc, phấn đấu vì lợi ích chung

của cả dân tộc, phù hợp với lợi ích của từng bộ phận. Người cũng căn dặn,
trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng có thể và cần thiết phải điều
chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp cho phù hợp với những đối tượng
khác nhau, nhưng đại đoàn kết dân tộc phải luôn luôn được nhận thức là vấn
đề sống còn của cách mạng.
Từ những luận điểm trên có thể thấy rằng điều kiện cơ bản để đảm bảo cho
sự tồn tại của Mặt trận dân tộc thống nhất là kết hợp giữa điểm tương đồng và
sự khác biệt. Không có điểm tương đồng, chúng ta không thể tập hợp được
mọi giai tầng trong xã hội. Song, do Mặt trận gồm nhiều giai tầng nên có sự
khác biệt là tất yếu. Trong quá trình cách mạng, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã
biết cách “đánh thức”, khơi dậy những điểm tương đồng nên đã tập hợp, xây
12


dựng được khối đại đoàn kết toàn dân tộc tạo sức mạnh to lớn, đưa sự nghiệp
cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác và vững bước đi lên
con đường xã hội chủ nghĩa.
1.2. Quan điểm Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của Mặt trận dân tộc
thống nhất.
1.2.1. Mặt trận dân tộc thống nhất trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Mặt trận dân tộc thống nhất là hiện thân của khối đại đoàn kết dân tộc và
có vai trò đặc biệt quan trọng trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc.
Ngược lại, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc quy định vai trò của Mặt trận
và các tổ chức chính trị - xã hội. Thực tiễn cách mạng chỉ ra rằng, không thể
phát huy cao nhất sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc nếu không xây dựng,
củng cố Mặt trận dân tộc thống nhất. Củng cố và phát huy sức mạnh của khối
đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, phương hướng, yêu cầu hoạt động của Mặt
trận. Đó là mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề đoàn kết và phương thức,
cách thức tổ chức để có được đoàn kết; là mối quan hệ giữa vấn đề đoàn kết
với vấn đề Mặt trận trong cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Theo Người, đại đoàn kết dân tộc không chỉ dừng lại ở quan niệm, ở tư
tưởng, ở những lời kêu gọi, mà phải trở thành đường lối chiến lược cách
mạng, thành khẩu hiệu hành động của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta.
Nó phải trở thành sức mạnh vật chất, một lực lượng mạnh có tổ chức. Tổ chức
đó chính là Mặt trận dân tộc thống nhất. Trên báo Thanh niên, số ra ngày
10/10/1926, Hồ Chí Minh viết: “Người không có tổ chức thì cũng như chiếc
đũa lẻ loi, ai bẻ cũng gãy. Người có đoàn thể thì cũng như nhiều chiếc đũa,
cột thành một bó, không ai bẻ gãy được”. Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt
của mọi thành công. Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo
đã chứng minh điều đó. Hồ Chí Minh cho rằng: “Việc lớn chưa thành không
phải vì đế quốc mạnh, nhưng một là vì cơ hội chưa chín, hai là vì dân ta chưa
13


hiệp lực đồng tâm” [30, tr.230]. Do đó, Người khẳng định “có đoàn kết mới
có lực lượng, có lực lượng mới giành được độc lập, tự do”.
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh có ý nghĩa chiến lược. Đó
là tư tưởng cơ bản, nhất quán và xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam.
Đó là chiến lược tập hợp mọi lực lượng có thể tập hợp được nhằm tạo thành
sức mạnh to lớn của toàn dân tộc trong cuộc đấu tranh với kẻ thù. Hồ Chí
Minh chỉ rõ: “Cái sức mạnh vô địch mà ta có thể thắng quân địch giành độc
lập thống nhất là sự đoàn kết” [32, tr.74], “Bất kỳ khó khăn gì, bất kỳ công
việc to mấy ta đoàn kết đều làm được hết cả” [37, tr.602], “Đoàn kết là sức
mạnh, là then chốt của thành công” [41, tr.186]. Vì vậy, Đảng phải trở thành
trung tâm của khối đại đoàn kết để đoàn kết dân tộc, đoàn kết giai cấp, đoàn
kết quốc tế. Đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, cũng là
mục tiêu, mục đích, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. Như vậy, đại đoàn kết
dân tộc chính là đòi hỏi khách quan của bản thân quần chúng nhân dân trong
cuộc đấu tranh để tự giải phóng mình, là sự nghiệp của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn, biến những

đòi hỏi khách quan, tự phát của nhân dân thành sức mạnh vô địch trong cuộc
đấu tranh vì độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Khẳng định vai trò động lực của khối đại đoàn kết toàn dân, Đảng ta đồng
thời khẳng định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai
trò rất quan trọng”, cụ thể là “nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp khối
đại đoàn kết toàn dân” [14, tr.123]. Vì vậy, Người thiết tha hiệu triệu toàn thể
đồng bào “đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống
nòi ra khỏi nước sôi lửa bỏng” [30, tr. 230]. Tinh thần đó đã được thể hiện
trong Chương trình hoạt động của Việt Minh: liên hiệp hết thảy các giới đồng
bào yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, gái trai, không phân biệt
tôn giáo và xu hướng chính trị đặng cùng nhau mưu cuộc giải phóng và sinh
14


tồn, nhằm mục tiêu làm cho nước nhà được độc lập, dân tộc ấm no, hạnh
phúc.
Thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất là một sáng tạo lớn, đồng thời là
một cống hiến vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng đối với dân tộc ta và
các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Trong lịch sử Đảng ta, khi nào Đảng có
chính sách Mặt trận đúng đắn, coi trọng vai trò của Mặt trận, tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận, tập hợp được ngày càng đông đảo các
tầng lớp nhân dân, thật lòng đoàn kết, thì sẽ động viên được sức mạnh to lớn
của toàn dân tộc, tranh thủ được sự ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên thế
giới…Những lúc đó, thế và lực của nhân dân ta sẽ được nhân lên gấp bội,
cách mạng sẽ vượt qua được khó khăn thử thách và ngày càng tiến lên giành
thắng lợi to lớn hơn. Trái lại, khi nào chúng ta xem nhẹ Mặt trận dân tộc
thống nhất, cường điệu đấu tranh giai cấp, phân biệt đối xử trong nội bộ nhân
dân, thì lúc đó sức mạnh của khối đoàn kết dân tộc bị suy yếu, cách mạng sẽ
gặp khó khăn. Bài học đó vẫn còn ý nghĩa thiết thực đối với công cuộc đổi
mới đất nước ngày nay. Có thể coi đó là một vấn đề có tính quy luật trong

mối quan hệ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với sự nghiệp cách mạng của
toàn dân ta, với khối đại đoàn kết dân tộc.
1.2.2. Mặt trận dân tộc thống nhất - tổ chức đại diện cho lợi ích hợp
pháp và nguyện vọng chính đáng của nhân dân
Mặt trận dân tộc thống nhất và các đoàn thể chính trị - xã hội là người đại
diện cho ý chí, tiếng nói của quần chúng nhân dân, bảo vệ lợi ích hợp pháp và
quyền lợi chính đáng của các tầng lớp nhân dân. Do vậy, tổ chức và hoạt động
của Mặt trận dân tộc thống nhất và các đoàn thể chính trị - xã hội phải dựa
trên ý chí, nguyện vọng của quần chúng, đáp ứng các yêu cầu, lợi ích của các
tầng lớp nhân dân. Để phục vụ tốt các mục tiêu chính trị, Mặt trận và các đoàn
thể chính trị - xã hội trước hết phải phục vụ tốt lợi ích của các thành viên của
15


mình, phải thật sự trở thành một tổ chức tự nguyện của nhân dân, thực hiện
chức năng tập hợp nhân dân trong khối đại đoàn kết dân tộc, tham gia xây
dựng chính quyền, thực hiện tốt chức năng giám sát hoạt động của bộ máy
cán bộ, công chức, viên chức nhà nước. Người cho rằng “các đoàn thể ấy là tổ
chức của dân, phấn đấu cho dân, liên hệ mật thiết giữa nhân dân và chính
phủ”.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xuất phát từ nguyện vọng của nhân dân, phát
huy sức mạnh của nhân dân để đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của nhân dân. Để Mặt trận dân tộc thống nhất thực sự là tổ chức
của dân, do dân và vì dân, theo Hồ Chí Minh, các tổ chức đó phải: Bảo vệ lợi
ích của dân, đó là chức năng của Mặt trận và các tổ chức chính trị xã hội. Phải
thương yêu, gắn bó với dân; lắng nghe một cách chân thành và nghiêm túc
tiếng nói của dân; đảm bảo quyền dân chủ của dân trên tất cả các lĩnh vực,
phát huy mọi nguồn lực có trong dân để phục vụ sự nghiệp cách mạng.
Lịch sử của dân tộc ta trong thế kỷ XX minh chứng sinh động lời tổng kết
của Hồ Chí Minh về Mặt trận dân tộc thống nhất “giúp Cách mạng Tháng

Tám thành công”, “giúp kháng chiến thắng lợi” và khẳng định sự đúng đắn
lời tiên đoán của Người rằng Mặt trận sẽ “giúp xây dựng một nước Việt Nam
hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giầu mạnh” [37, tr.131]
1.2.3. Mặt trận dân tộc thống nhất - hình thức tổ chức, tập hợp mọi lực
lượng cách mạng, yêu nước.
Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam trong thực tế không những đã thể
hiện tính liên hiệp giai cấp, mà còn thể hiện tính quần chúng rộng rãi. Mặt
trận tập hợp đoàn kết công nhân, nông dân, trí thức, các chính đảng, các đoàn
thể, các cá nhân yêu nước, kể cả những người thuộc tầng lớp trên, những
người còn có những ý kiến khác nhau về những vấn đề cụ thể của công cuộc
đấu tranh giành độc lập của dân tộc,…vì vậy, Mặt trận mang tính quần chúng
16


rộng rãi. Đây chính là điểm khác nhau căn bản giữa Mặt trận với các chính
đảng, các đoàn thể. Đó cũng chính là lợi thế của Mặt trận, làm cho Mặt trận
có thể tập hợp được mọi tầng lớp nhân dân, tạo nên sức mạnh của khối đại
đoàn kết dân tộc, biến lực lượng đấu tranh của nhân dân ta từ yếu thành mạnh,
đội ngũ đấu tranh từ ít thành nhiều. Nhờ vậy, Cách mạng Tháng Tám 1945 đã
giành thắng lợi, kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ đã
thành công. Qua các thời kỳ, nơi nào, lúc nào mắc sai lầm cô độc, hẹp hòi
trong công tác Mặt trận đều ảnh hưởng đến tính quần chúng rộng rãi của Mặt
trận, làm suy yếu phong trào quần chúng.
Mặt trận dân tộc thống nhất là một hình thức tập hợp quần chúng rộng rãi,
đại diện cho đại đa số quần chúng, đại diện cho quyền lợi dân tộc, không có
sự phân biệt đối xử. Người cho rằng: “Từ Nam đến Bắc, ai là người tán thành
hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì chúng ta sẵn sàng đoàn kết với họ,
thật thà hợp tác với họ, thật sự đoàn kết với họ, dù từ trước đến nay họ đã theo
phe phái nào” [37, tr.104]. Chúng ta đọc thấy tư tưởng này của Người từ
trong Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt được thông qua (1930) tại Hội

nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Mặt trận là nơi tập hợp mọi lực lượng yêu nước và tiến bộ, thực hiện thêm
bạn, bớt thù, nhằm tập trung mũi nhọn đấu tranh vào kẻ thù nguy hiểm nhất.
Xu hướng hẹp hòi, biệt phái, phân biệt đối xử là trái với tư tưởng Hồ Chí
Minh, chẳng những không tập hợp được lực lượng cách mạng rộng rãi mà còn
làm tăng thêm kẻ thù, giảm bớt bầu bạn, làm tổn hại cho sự nghiệp cách mạng
chung của cả dân tộc.
Để nâng cao vai trò của Mặt trận dân tộc thống nhất và các tổ chức, đoàn
thể nhân dân cần phải mở rộng, đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân.
Hồ Chí Minh rất quan tâm việc mở rộng, đa dạng hóa hình thức tổ chức, tập
hợp và đoàn kết nhân dân trong một Mặt trận rộng rãi. Người kêu gọi: Dân ta
17


mau mau tổ chức lại. Nông dân phải vào “Nông dân Cứu quốc hội”. Thanh
niên phải vào “Thanh niên Cứu quốc hội”. Phụ nữ vào “Phụ nữ cứu quốc
hội”. Trẻ con vào “Nhi đồng Cứu quốc hội”. Công nhân vào “Công nhân Cứu
quốc hội”. Binh lính vào “Binh lính cứu quốc hội”. Các bậc phú hào, văn sĩ
vào “Việt Nam Cứu quốc hội” [30, tr.246]. Mỗi tổ chức quần chúng mang
một tên gọi, chức năng, nhiệm vụ khác nhau nhưng đều là những hình thức cụ
thể của khối đại đoàn kết dân tộc nhằm tập hợp đông đảo quần chúng, nhân
dân tham gia cách mạng.
Đại đoàn kết phải biến thành sức mạnh, thành lực lượng vật chất có tổ
chức. Bên cạnh việc tập hợp quần chúng nhân dân trong hình thức Mặt trận
dân tộc thống nhất, Hồ Chí Minh rất coi trọng tập hợp quần chúng nhân dân
thông qua các phong trào cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Bởi vì
phong trào cách mạng của quần chúng là môi trường đoàn kết rộng lớn, có
tính chất mở đối với mọi tầng lớp nhân dân, thu hút được hầu hết cộng đồng
dân tộc, bao gồm các giai cấp, tầng lớp xã hội không phân biệt giàu nghèo,
dân tộc đa số, thiểu số; tín ngưỡng, tôn giáo, các tổ chức, đảng phái yêu nước,

các nhân sĩ dân chủ và thân sĩ yêu nước không kể khuynh hướng chính trị, xã
hội, có lợi ích giống nhau và khác nhau, thậm chí đối nghịch nhau, chỉ cần tán
thành mục tiêu chung là giành độc lập dân tộc.
1.3. Các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất.
1.3.1. Xây dựng trên nền tảng khối liên minh công - nông - trí - thức và
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Hồ Chí Minh viết: “Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc là
công nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc
thống nhất” [39, tr.417]. Người chỉ rõ rằng, sở dĩ phải lấy liên minh công –
nông làm nền tảng “Vì họ là người trực tiếp sản xuất tất cả mọi tài phú làm
cho xã hội sống. Vì họ đông hơn hết, mà cũng bị áp bức bóc lột nặng nề hơn
18


hết. Vì chí khí cách mạng của họ chắc chắn, bền bỉ hơn của mọi tầng lớp
khác” [37, tr.376]. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi liên minh công nông “là nền”,
“là gốc” của đại đoàn kết và chỉ rõ “nó cũng như cái nền của nhà, gốc của
cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân
khác” [36, tr.244]. Vai trò, vị trí, mối quan hệ giữa công nông với các tầng
lớp nhân dân khác trong mặt trận chống đế quốc cũng đã được Chỉ thị ngày
18-11-1930 xác định: “Cuộc cách mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương mà
không tổ chức được toàn dân lại thành một lực lượng thật đông, thật kín thì
cuộc cách mạng cũng khó thành công”. Giải thích khái niệm đông, Chỉ thị nêu
rõ đó là “toàn dân cùng đứng trong một mặt trận chống đế quốc và tụi phong
kiến làm tay sai phản động”; còn khái niệm kín “là đặt để công nông trong
bức thành dân tộc phản đế bao la”.
Người nhấn mạnh giai cấp công nhân muốn hoàn thiện sứ mệnh lãnh
đạo cách mạng nhất thiết phải liên minh với giai cấp nông dân và tầng lớp trí
thức cách mạng để tạo sự vững chắc cho khối đoàn kết dân tộc. Người căn
dặn trong khi chú trọng vai trò nòng cốt của liên minh công nông, cần chống

lại khuynh hướng chỉ coi trọng củng cố khối liên minh công nông mà không
thấy vai trò và sự cần thiết phải mở rộng đoàn kết với các tầng lớp khác, nhất
là với tầng lớp trí thức. Làm cách mạng phải có trí thức và tầng lớp trí thức rất
quan trọng đối với cách mạng. Người nói, “trong sự nghiệp cách mạng, trong
sự ngiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa, lao động trí óc có một vai trò quan trọng
và vẻ vang; và công, nông, trí cần đoàn kết chặt chẽ thành một khối” [37,
tr.376]. Các lực lượng trên nếu liên minh chặt chẽ với nhau sẽ tạo ra sức
mạnh to lớn và nếu tập hợp, đoàn kết được các lực lượng khác sẽ “kết thành
một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó
khăn, nhấn chìm tất cả bè lũ cướp nước và bè lũ bán nước.” Trong Chính
cương Đảng Lao động Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: “Công,
19


nông, trí phải đoàn kết thành một khối”. Trong Cương lĩnh Đại hội II của
Đảng cũng ghi: “Chính quyền dân chủ của nhân dân dựa vào Mặt trận dân tộc
thống nhất, lấy liên minh công nhân, nông dân và lao động trí thức làm nền
tảng và do giai cấp công nhân lãnh đạo”.
Trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở nước ta, lực
lượng công nhân, nông dân chiếm số đông và là quần chúng cơ bản và chỗ
dựa vững chắc của Mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt trận còn phải dựa vào
đông đảo trí thức yêu nước vì trí thức nước ta vốn giàu lòng yêu nước, cùng
chung số phận nô lệ với công nông, có truyền thống đoàn kết đấu tranh, gắn
bó với công, nông. Mặt trận còn phải liên minh với tầng lớp tư sản dân tộc
trong giai cấp tư sản vì quyền lợi của họ mâu thuẫn với đế quốc, phong kiến
và có lòng yêu nước, từng tham gia đấu tranh cho độc lập dân tộc. Mặt trận
còn phải liên minh với nhân sĩ dân chủ, thân sĩ yêu nước là những người yêu
nước xuất thân từ giai cấp địa chủ, quan lại, phong kiến, tầng lớp trên của các
dân tộc thiểu số, các tôn giáo vì họ cũng bị đế quốc, phong kiến chèn ép,…
Trên cở sở phân tích rõ những đặc điểm chỗ mạnh, chỗ yếu của từng tầng lớp

và ảnh hưởng của họ đối với cuộc đấu tranh chống đế quốc và phong kiến mà
xác định rõ quan điểm, đường lối xây dựng Mặt trận. Chỉ có đoàn kết và dựa
vững chắc vào quần chúng cơ bản là công nhân và nông dân, mới tạo được
thế mạnh cho Mặt trận và mới có tiền đề, cơ sở để liên minh với tầng lớp
trung gian và tầng lớp trên. Không có được thế mạnh đó, Mặt trận sẽ để tuột
khỏi tay những lực lượng có thể liên minh, không thể thực hiện được khẩu
hiệu “thêm bầu bạn”.
Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết là công việc của toàn dân tộc, song, nó
chỉ có thể được củng cố và phát triển vững chắc khi được Đảng lãnh đạo. Mặt
trận dân tộc thống nhất và các tổ chức chính trị - xã hội phải đặt dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản. Trong Sách lược vắn tắt của Đảng, Hồ Chí Minh chỉ
20


rõ: “Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, phải thu phục cho được đại
bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng”.
Để hiện thực hóa tư tưởng đó, làm cho nó có sức mạnh vật chất, thành lực
lượng vật chất có tổ chức – Mặt trận dân tộc thống nhất được thành lập và
Đảng Cộng sản vừa là thành viên của Mặt trận dân tộc thống nhất, vừa là lực
lượng lãnh đạo Mặt trận, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng vững
chắc. Quyền lãnh đạo Mặt trận không phải Đảng tự phong cho mình, mà là
được nhân dân tự giác thừa nhận. Điều này đã được Hồ Chí Minh phân tích
rất cặn kẽ: “Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của
mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân
thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi
thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới
giành được địa vị lãnh đạo”. [30, tr.168]
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận vừa là vấn đề mang tính nguyên
tắc, vừa là một tất yếu bảo đảm cho Mặt trận tồn tại, phát triển và có hiệu lực
trong thực tiễn. Bởi vì, chỉ có chính Đảng của giai cấp công nhân được vũ

trang bởi chủ nghĩa Mác – Lênin mới đánh giá đúng được vai trò của quần
chúng nhân dân trong lịch sử, mới vạch ra được đường lối chiến lược và sách
lược đúng đắn để lôi kéo, tập hợp quần chúng vào khối đại đoàn kết trong
Mặt trận, biến tiến trình cách mạng thành ngày hội thật sự của quần chúng.
Chính vì vậy, Hồ Chí Minh luôn xác định, mối quan hệ giữa Đảng và Mặt
trận là mối quan hệ máu thịt. Không có Mặt trận, Đảng không có lực lượng,
không thể thực hiện được những nhiệm vụ cách mạng; không có sự lãnh đạo
của Đảng, Mặt trận không thể hình thành, phát triển và không có phương
hướng hoạt động đúng.
Thực tế cho thấy Đảng đã xác định được chính sách Mặt trận đúng đắn
nên đã phát huy được truyền thống đoàn kết và yêu nước rất vẻ vang của dân
21


tộc ta và Đảng cũng đã thể hiện được năng lực lãnh đạo trong thực tế. Hồ Chí
Minh căn dặn cán bộ, đảng viên về công tác Mặt trận: “Phải thành thực lắng
nghe ý kiến của người ngoài Đảng. Cán bộ và đảng viên không được tự cao tự
đại, cho mình là tài giỏi hơn mọi người, trái lại phải học hỏi điều hay, điều tốt
ở mọi người”[40, tr.455]
Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện đường lối, chủ trương của
Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, như Văn kiện Đại hội lần thứ X
của Đảng đã chỉ rõ: “Đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của
Đảng, là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là nguồn sức mạnh,
động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền
vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”...Đại đoàn kết dân tộc là
nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, cũng là mục tiêu, mục đích, nhiệm vụ hàng đầu
của cả dân tộc. “Đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống
chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức đảng, được thực hiện bằng nhiều
biện pháp, hình thức, trong đó các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp

luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu”. Như vậy, đại đoàn kết
dân tộc chính là đòi hỏi khách quan của bản thân quần chúng nhân dân trong
cuộc đấu tranh để tự giải phóng mình, là sự nghiệp của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn, biến những
đòi hỏi khách quan, tự phát của nhân dân thành sức mạnh vô địch trong cuộc
đấu tranh vì độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
1.3.2. Nguyên tắc hiệp thương dân chủ, bảo đảm đại đoàn kết rộng
rãi và bền vững
Nếu như tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức và hoạt động cao nhất của
Đảng Cộng sản Việt Nam, thì hiệp thương dân chủ lại là nguyên tắc tổ chức
và hoạt động cao nhất của Mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt trận dân tộc thống
22


nhất là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của cả dân tộc, bao gồm nhiều giai
cấp, tầng lớp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo khác nhau, với nhiều lợi ích khác
nhau. Do vậy, hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất phải theo nguyên tắc
hiệp thương dân chủ.
Hiệp thương dân chủ theo cách hiểu thông thường là hiệp ý, thương lượng
một cách bình đẳng, dân chủ những vấn đề chính trị - xã hội trong quá trình
xây dựng tổ chức bộ máy và tiến hành các hoạt động của Mặt trận dân tộc
thống nhất. Theo Hồ Chí Minh một đường lối đoàn kết đúng đắn, chẳng
những có tác dụng khơi dậy tính tích cực của nhân tố con người, mà còn
hướng tính tích cực của con người hành động theo quy luật phát triển khách
quan của xã hội. Vậy nên, hiệp thương chính là quá trình thuyết phục để khơi
dậy tính tích cực xã hội của con người, tạo nên động lực của phát triển xã hội.
Mặt trận dân tộc thống nhất với tư cách là một liên minh chính trị xã hội rộng
rãi nhất nên Mặt trận phải thực hiện hiệp thương dân chủ và chỉ có hiệp
thương dân chủ thì mới giữ được sự tồn tại của liên minh, nhằm thực hiện cho
được mục tiêu đề ra. Hiệp thương tự thân đã nói nên tính chất dân chủ, bình

đẳng cùng tôn trọng lẫn nhau của các bên, các thành viên tham gia hiệp
thương. Về thực chất, đây là sự thảo luận chính trị dựa trên nguyên tắc dân
chủ, thuyết phục lẫn nhau để đi đến điểm tương đồng, thống nhất chung. Cơ
sở để đi đến nhất trí là sự thống nhất giữa lợi ích tối cao của dân tộc với lợi
ích của các tầng lớp nhân dân.
Việc xác định hiệp thương dân chủ là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của
Mặt trận dân tộc thống nhất xuất phát từ bản chất của mối quan hệ hữu cơ
giữa dân chủ và đoàn kết dân tộc. Dân chủ và đoàn kết là hai phạm trù có
quan hệ mật thiết, hữu cơ với nhau. Hồ Chí Minh xác định dân chủ và đoàn
kết đều là những động lực quan trọng hàng đầu cho sự phát triển của xã hội,
là nhân tố quyết định tạo nên thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Người cho
23


rằng, bao giờ dân chủ cũng phải gắn liền với đoàn kết, muốn tăng cường đoàn
kết thì phải thực hành tốt dân chủ. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc chỉ có thể
được củng cố vững chắc trên nền tảng một nền dân chủ phong phú và sinh
động.
Mối quan hệ giữa dân chủ với đoàn kết và đồng thuận xã hội là thống nhất
và biện chứng, hữu cơ. Dân chủ là mục tiêu và động lực phát triển của chủ
nghĩa xã hội, của đổi mới. Một nền dân chủ thực sự sẽ bảo đảm cho người dân
vị thế làm chủ xã hội của họ, đồng thời bảo đảm cho họ có năng lực làm chủ
trên thực tế. Vì vậy, dân chủ được hiểu là là chủ và làm chủ. Dân chủ trở
thành động lực phát triển xã hội khi nó tạo ra khả năng đoàn kết, xây dựng
đồng thuận xã hội để tập hợp mọi người dân, không phân biệt già trẻ, giai cấp,
tôn giáo…khi nó bảo đảm người dân được hưởng những quyền lợi chính đáng
do chính họ bỏ công sức của mình làm ra, do đó dân chủ bảo đảm quyền được
sống, được lao động, quyền tự do bày tỏ nguyện vọng và năng lực giám sát
phản biện đối với công việc của Nhà nước…Như vậy, giá trị đích thực của
dân chủ là ở việc đảm bảo dân sinh, dân trí, dân quyền. Theo Người, có thực

hiện được dân chủ thì mới có điều kiện và tiền đề để thực hiện đoàn kết và
mỗi bước tiến của dân chủ tương ứng với sự phát triển của đoàn kết và xây
dựng đồng thuận xã hội.
Đoàn kết các cá thể thành một tập thể trên cở sở đồng thuận xã hội sẽ nhân
lên sức mạnh của mỗi người, tạo nên sức mạnh cộng đồng, liên kết các cá
nhân với xã hội cùng phấn đấu cho lợi ích chung của xã hội, trong đó có lợi
ích của mỗi cá nhân. Dân chủ mà không có đoàn kết thì không thể tạo nên sức
mạnh của động lực. Đoàn kết và đồng thuận xã hội mà không dựa trên cơ sở
phát huy dân chủ thì chỉ mang tính hình thức, không tạo nên sức mạnh cộng
đồng để giải phóng dân tộc, giải phóng con người. Thực hành dân chủ, theo tư
tưởng Hồ Chí Minh, là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó
24


×