Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Bài tiểu luận triết học phép biện chứng của hegel tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.71 KB, 17 trang )

A. Lời mở đầu
Nền triết học cổ điển Đức là nền triết học được tạo nên từ cuối thế kỷ XVIII
- đầu thế kỷ XIX là thành tựu rực rỡ của nền văn minh Tây Âu và thế giới. Đây là
đỉnh cao của thời kỳ triết học Tây Âu, đồng thời có ảnh hưởng to lớn đến triết học
hiện đại triết học cổ điển Đức. Vì vậy, nó trở thành một trong ba nguồn gốc hình
thành chủnghĩa Marx - nguồn gốc triết học (cùng với kinh tế chính trị học Anh và
chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp). Nền triết học cổ điển Đức là khúc dạo đầu
cho một bản nhạc giao hưởng, bản hợp xướng của triết học Tây Âu. Một giai đoạn
lịch sửkhởi nguyên tiềm tàng của triết học nhân loại, làm tiền đềcho toàn
bộhệthống triết học sau này. Nền triết học thời cận đại là khoảng lặng của những
phách nhạc thời gian trải qua hàng ngàn năm và mới được thăng hoa lên những nốt
thăng cung bậc là thời kỳ hiện đại. Đây là giai đoạn quan trọng bừng dậy sau dấu
lặng mà khoảng trắng quá dài. Từ những âm ba của những nốt nhạc thăng trầm đó
mà ta có cả nền triết học hiện đại nhưngày nay. Trong bản giao hưởng đầy tính bác
học của triết học Tây Âu mà khúc dạo đầu lại rực rỡâm sắc trang hoàng đó là
tưtưởng biện chứng triết học cổ điển Đức, nó bức ra khỏi những nốt nhạc trời đầy
màu sắc thần linh đểkhảy lên bằng chính đôi tay người phàm tục. Những đôi tay
vàng ấy được phản ánh qua những triết gia dệt nên những trang bất hữu bởi thời
gian. Đặc biệt là tư tưởng biện chứng của triết học cổ điển Đức thể hiện thông qua
một số đại biểu tiêu biểu như: Canter, Hegel, Feurbach. Tuy đứng trên lập trường
duy tâm nhưng các nhà triết học cổ điển Đức đã xây dựng nên các hệ thống triết
học độc đáo, đề xuất được tư duy biện chứng, logic biện chứng, học thuyết vềcác
quá trình phát triển mà tìm tòi lớn nhất trong tất cảcác tìm tòi của họ đó là phép
biện chứng. Với cách nhìn tổng quát về phương pháp biện chứng, các nhà triết học
cổ điển Đức có ý đồ hệ thống hóa toàn bộ tri thức và thành tựu mà nhân loại đã đạt
được. Trong số các nhà triết học vĩ đại nhất đó không thểkhông kểtới Georg
Wilhelm Friedrich Hegel. Ông là nhà biện chứng lỗi lạc, phép biện chứng của ông


là một tiền đề lý luận quan trọng của triết học Mácxit. Triết học của Hegel có ảnh
hưởng rất mạnh đến tưtưởng của nước Đức và cả Châu Âu đương thời, triết học


của ông được gọi là "tinh thần Phổ". Phép biện chứng của Hegel là phép biện
chứng duy tâm, tức là phép biện chứng về sự vận động và phát triển của các khái
niệm được ông đồng nhất với biện chứng sự vật.
B. Nội dung bài tiểu luận.
1.

Phép biện chứng duy tâm khách quan về ý niệm tuyệt đối:
Đây là điểm khởi đầu và là nền tảng của triết học Hegel. Nó là thực thể tinh
thần sáng tạo ra giới tự nhiên và toàn thể nhân loại. Theo Hegel, mọi sự vật, hiện
tượng trong thế giới, kể cả những sản phẩm hoạt động của con người chỉ là hiện
thân của ý niệm tuyệt đối.
Ý niệm tuyệt đối là thực thể tinh thần, giống thượng đế sáng tạo ra giới tự
nhiên và toàn thể nhân loại. Theo Hegel, mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều
được sinh ra bởi một thực thể tinh thần, ý thức, tinh thần có trước vật chất nhưng
đó không phải là ý thức, tinh thần của từng cá nhân, con người cụ thể mà là một
thực thể tinh thần bên ngoài con người và ông đặt tên là ý niệm tuyệt đối. Điều đó
chứng tỏ triết học của Hegel là duy tâm khách quan. Ông coi ý niệm tuyệt đối là
cái có trước.
Trong quá trình vận động, phát triển, ý niệm tuyệt đối tha hóa thành giới tự
nhiên và xã hội, cuối cùng lại trở về với chính mình trong tinh thần tuyệt đối. Sai
lầm của phép biện chứng duy tâm khách quan của Hegel là ở chỗ ông cho rằng
biện chứng của ý niệm sản sinh ra biện chứng của sự vật. Đó là phép biện chứng
duy tâm khách quan, thiếu triệt để, thiếu khoa học. Cho dù là nhà triết học duy tâm
nhưng Hegel đặc biệt đề cao con người, không hạ thấp con người xuống, đó là
điểm sáng của triết học Hegel. Hegel cho rằng: ý niệm tuyệt đối sinh ra vạn vật,
con người là giai đoạn phát triển cao nhất của ý niệm tuyệt đối, giống như bảo
rằng: “Thượng đế sinh ra vạn vật, con người là giai đoạn phát triển cao nhất của


thượng đế”, vậy ông đề cao con người. Chính Hegel khẳng định hoạt động của con

người và nhận thức của con người là chìa khóa để ý niệm tuyệt đối nhận thức bản
thân mình trở về với chính bản thân mình. Điều này cho thấy rằng với những nhà
triết học duy tâm trước đây thường hạ thấp con ngườixuống, đề cao thực thể tinh
thần nhưng duy tâm.
2.

Phép biện chứng duy tâm về triết học:
- Theo Hegel, đối tượng nghiên cứu của triết học là ý niệm tuyệt đối, lịch sử
nhân loại là giai đoạn phát triển cao nhất. Đây là quan điểm duy tâm. Triết học
nghiên cứu lịch sử nhân loại, mà lịch sử nhân loại là giai đoạn cao nhất của ý niệm
tuyệt đối. Thật ra, triết học là ngành khoa học nghiên cứu ý niệm tuyệt đối.
- Hegel là người có công khôi phục lại quan điểm triết học là khoa học của
mọi khoa học. Hegel muốn xây dựng triết học mang tính vạn năng, đóng vai trò
nền tảng cho tất cả các ngành khoa học, nghĩa là toàn bộ khoa học cụ thể phải nằm
trong triết học. Quan điểm này là quan điểm sai lầm và sau này đã gợi mởi cho
Marx và Engels một cách hiểu mới về vai trò của triết học với khoa học cụ thể.
Trong tư tưởng của Hegel có một điểm đáng lưu ý là triết học là khoa học của tất
cả mọi khoa học. Quan niệm này ra đời trong thời buổi trình độ nhận thức con
người chưa cao nên triết học là một lý luận mang tính phổ quát, bao trùm và thậm
chí là duy nhất. Nó có tham vọng giải thích tất cả lĩnh vực khoa học cụ thể mà
trong thời kỳ đó còn mang tính chất tảng mạn và sơ khai. Thời kỳ đó, khoa học
chưa phân ngành, người ta không thể tìm thấy tri thức về khoa học tự nhiên trong
khoa học cụ thể như ngày hôm nay mà chỉ có thể tìm thấy những tư tưởng khoa
học tự nhiên trong hệ thống triết học tự nhiên của các nhà triết học. Từ đó nảy sinh
quan điểm cho rằng triết học là khoa học của tất cả mọi khoa học, còn các nhà triết
học là các nhà thông thái, không chỉ am hiểu một lĩnh vực mà am hiểu mọi lĩnh
vực khác nhau của nhận thức.


Quan điểm này bắt đầu từ Hy Lạp cổ đại, được khẳng định qua các thời đại

lịch sử và đến Hegel là toan tính cuối cùng. Đến tận nửa đầu thế kỷ XIX, Hegel
vẫn cho rằng triết học vẫn là môn học mang tính phổ quát và bao trùm. Quan điểm
đó là quan điểm sai lầm, gợi mở cho Marx cách hiểu mới về triết học và liên minh
của triết học khoa học tự nhiên. Đến giữa thế kỷ XIX, Marx và Engels mới xóa bỏ
quan điểm này, chỉ ra rằng triết học là ngành khoa học độc lập, có đối tượng
nghiên cứu riêng của mình. Chính từ đó, người ta đã biến triết học thành đặc quyền
của một số nhà thông thái, tách lý luận ra khỏi thực tiễn và biến lý luận thành nhận
thức để nhận thức, tư duy để tư duy, tức là nhận thức tự thân.
3.

Phép biện chứng duy tâm trong khoa học logic:
Để xây dựng logic học mới với tính cách là logic biện chứng, Hegel đã
nghiên cứu toàn bộ quá trình phát triển của logic hình thức cổ điển trước đây. Tuy
không phủ nhận ý nghĩa và vai trò của logic hình thức trong lịch sử nhận thức
nhưng Hegel đã chỉ ra những hạnchế của nó. Hegel phê phán logic học cũ ở các
khía cạnh:
- Đối tượng nghiên cứu.
- Tính bất động của các phạm trù quy luật của nó. Logic học là bộ môn khoa
học nghiên cứu về tư duy. Trong thời kỳ cổ đại đã có hình thức logic học của
Aristote, đến thời cận đại phát triển thành logic toán gắn liền với tên tuổi của
Leibniz. Hegel phê phán logic cũ vì logic học nghiên cứu về tư duy, còn logic
trước đây là logic học hình thức nghiên cứu về tư duy hình thức chủ quan, nghĩa là
tư duy trong trạng thái bất biến, cô lập, không sinh thành, không biến đổi và không
phát triển. Vì vậy logic học trước đây chưa đầy đủ, chưa đáp ứng được với sự
phát triển của triết học và khoa học. Trên cơ sở đó, Hegel đã sáng tạo ra một hệ
thống logic học mới - logic biện chứng nhằm đem lại cho con người một cách hiểu
mới về bản chất của tư duy và trang bị cho các ngành khoa học một phương pháp
nhận thức mới, đó chính là phương pháp biện chứng. Phép biện chứng của Hegel



là một trong những thành tựu quý giá nhất của triết học cổ điển Đức nói riêng và
lịch sử triết học trước Marx nói chung. Tuy nhiên, Hegel đã sáng tạo logic biện
chứng trên lập trường duy tâm, ông đã xuất phát từ cơ sở đồng nhất giữa tư duy và
tồn tại khi coi những quy luật của tự nhiên, của lịch sử cũng là những quy luật của
tư duy.
Phương pháp tư duy là phương thức, cách thức nhìn nhận của đối tượng để
hình thành nên hiểu biết về chúng trong đầu óc con người. Phương pháp tư duy
hình thức là phương pháp tư duy nhận thức của sự vật trong trạng thái bất biến,
trạng thái tĩnh và cô lập. Còn phương pháp tư duy biện chứng là phương pháp tư
duy khảo sát đối tượng trong sinh thành, biến đổi và phát triển. Chính Hegel là
người đã khai sinh ra phương pháp tư duy biện chứng này, trở thành phương pháp
khoa học, làm công cụ khoa học khám phá ra chân lý. Theo Hegel, tư duy ở đây
hoàn toàn không được xem xét như là sản phẩm đặc biệt của bộ óc con người như
là nét đặc thù của con người. Hegel đồng nhất tư duy với hoạt động của ý niệm
tuyệt đối với tư cách là cơ sở của mọi sự vật, hiện tượng của thế giới. Hơn nữa tư
duy đồng thời vừa là khách thể, vừa là chủ thể, nó vừa là những gì đang tư duy,
vừa là những gì được tư duy. Tuy nhiên, Hegel cũng thừa nhận cảm giác, trực giác,
biểu tượng,mong muốn là những hình thức của ý thức con người. Nhưng tất cả
chúng đối với ông chỉ là những thể hiện không đầy đủ, là những nét hoa văn bên
ngoài của tư duy, tư tưởng. Vì vậy, vật chất theo ông cũng thuộc về tư duy, tư
tưởng mà thôi. Hegel cho rằng, đối tượng đúng đắn của tư tưởng chính là bản thân
tư tưởng vì tư tưởng là chân lý của mọi sự vật, cho nên sự phát triển cũng cần phải
được tiến hành theo những quy luật của tư tưởng, theo những quy luật của logic
học. Chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối của Hegel vì vậy còn được xác định như là chủ
nghĩa duy tâm logic. Ý niệm tuyệt đối là tư duy về tư duy, đồng thời cũng có nghĩa
là tự nhận thức, là sự mở rộng những xác định logic vốn có đối với nó.phát triển.
Những phạm trù là những xác định logic này, hơn nữa chúng còn thể hiện sự phát


triển của ý niệm tuyệt đối. Theo Hegel, những phạm trù không phải là sự phản ánh

thế giới hiện thực khách quan mà là những khái niệm thuần túy. Những nguyên lý,
phạm trù của logic học trước đây là bất biến, cô lập và không thay đổi. Hegel lại
cho rằng những phạm trù của tư duy phải mang tính sống động, nó cũng nằm trong
trạng thái sinh thành, biến đổi và phát triển. Như vậy, phép biện chứng là linh hồn
của logic học, nhờ đó logic học trở thành cơ thể sống sống động, không phải bất
động như logic học trước đây. Điều này chứng tỏ rằng Hegel là người đầu tiên đã
trang bị cho khoa học một phương pháp nhận thức mới, đó chính là phương pháp
biện chứng. Theo Hegel, những phạm trù logic không phải là cái gì khác hơn là
những trừu tượng được tách ra từ bản thân hiện thực, cho nên chúng có nội dung
sinh động, phong phú, từ đó tạo nên nội dung sâu sắc của khoa học logic. Tuy
nhiên, dưới góc độ duy tâm, Hegel đã đánh giá những phạm trù cao hơn thế giới
khách quan khi ông coi chúng là những tấm vải mộc, còn mọi hiện tượng, quá trình
của thế giới chỉ là những hoa văn được trang trí trên những tấm vải này.
4.

Phép biện chứng duy tâm về nhà nước:
Theo Hegel, nhà nước là hiện thân của ý niệm tuyệt đối. Nó ra đời nhằm duy
trì, bảo tồn các gia đình, xã hội và công dân. Nhà nước ra đời từ những mâu thuẫn
trong xã hội nhằm điều hòa mâu thuẫn các giai cấp, đẳng cấp khác nhau. Bản chất
của nhà nước là tổng thể các quy chế, kỷ cương về chính trị, văn hóa, pháp luật…
Đây chính là quan niệm duy tâm của Hegel về nhà nước đã ảnh hưởng trực tiếp
đến quan điểm của Marx. Năm 1841, lúc bảo vệ luận án tiến sĩ của mình, Marx đã
chuyển đổi quan điểm này của Hegel. Hegel cho rằng nhà nước Phổ là cuối cùng
trong lịch sử và nhà nước cho mọi giai cấp.
Sai lầm đầu tiên của Hegel là quan niệm sai về bản chất của nhà nước.
Trong thời kỳ công xã nguyên thủy, nền kinh tế là săn bắt và hái lượm. Săn bắt do
đàn ông đảm đương bằng công cụ thô sơ, hái lượm do đàn bà đảm đương bằng sự


khéo léo của đôi tay mình. Lúc này xã hội chưa có của cải dư thừa. Vậy thời công

xã nguyên thủy, của cải xã hội do con người làm ra chỉ vừa đủ. Nhưng đến cuối
thời công xã nguyên thủy, nghề trồng trọt, chăn nuôi mới xuất hiện, xã hội bắt đầu
có của cải dư thừa. Khi đó người đứng đầu thị tộc, bộ lạc có điều kiện chọn lòng
son, hoán đổi của mình, người ta bắt đầu dùng quyền lực, chiếm của dư thừa đó
làm của cải riêng và chế độ tư hữu bắt đầu xuất hiện. Trong thời công xã nguyên
thủy, tất cả đều là của chung, thậm chí chồng chung, vợ chung. Khi chế độ tư hữu
xuất hiện, loài người bắt đầu phân thành giai cấp. Hai giai cấp đối lập đầu tiên
trong lịch sử là giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ. Để bảo vệ lợi ích của mình, các
giai cấp tiến hành đấu tranh với nhau. Cuộc đấu tranh có nguy cơ đưa các giai cấp
có thể tiêu diệt lẫn nhau và tiêu diệt luôn toàn xã hội. Để tránh thảm họa đó không
xảy ra, để bảo vệ lợi ích của mình, giai cấp thống trị là giai cấp chủ nô đã lập nên
bộ máy trấn áp bạo lực. Bộ máy đó chính là nhà nước và giai cấp chủ nô này đã sử
dụng bộ máy nhà nước thông qua quân đội, cảnh sát, nhà tù, trại giam, trại tập
trung… để duy trì các giai cấp tầng lớp trong vòng trật tự do mình đặt ra. Như vậy
nó thống trị bằng bạo lực.
Tuy nhiên, thống trị bằng bạo lực là chưa đủ và không thể mang tính lâu dài,
cần phải thống trị luôn về mặt tư tưởng. Vậy nhà nước ra đời từ sản phẩm mâu
thuẫn giai cấp không điều hòa được, nhưng nhà nước ra đời không phải để điều
hòa mâu thuẫn giai cấp mà trái lại làm mâu thuẫn giai cấp càng sâu sắc, không thể
điều hòa được vì nhà nước là của các giai cấp thống trị về kinh tế. Nhà nước chủ
nô, phong kiến, tư sản là của giai cấp chủ nô, phong kiến, tư sản, còn nhà nước xã
hội chủ nghĩa, nhà nước vô sản mang bản chất của giai cấp vô sản. Hegel cho rằng
nhà nước ra đời để duy trì xã hội công dân và bảo toàn các gia đình, để điều hòa
mâu thuẫn các giai cấp là sai lầm của ông. Theo Hegel, nhà nước là cho tất cả mọi
tầng lớp nhưng lịch sử đã chứng minh điều đó hoàn toàn sai lầm.


5.

Phép biện chứng duy tâm của Hegel:

Đây là một trong những cống hiến vĩ đại của Hegel trong lịch sử khoa học
của nhân loại. Phép biện chứng của Hegel bao gồm những nội dung:
- Phép biện chứng của Hegel có hạt nhân là tư tưởng về sự phát triển là
điểm sáng nhưng đó là phép biện chứng duy tâm. Phép biện chứng của Hegel là
phép biện chứng của những khái niệm mà Hegel đồng nhất với bản thân sự vật.
Đáng lẽ khái niệm phản ánh sự vật thì trong tư tưởng Hegel, ý niệm, khái niệm có
trước sự vật. Đáng lẽ phép biện chứng của sự vật sinh biện chứng của tư tưởng
nhưng theo Hegel biện chứng của tư tưởng lại sinh biện chứng của sự vật, phép
biện chứng đó là duy tâm. Ý thức của tư duy con người phản ánh sự vật trong thế
giới, nhưng nếu bản thân sự vật là liên hệ, biến đổi thì tư duy con người phản ánh
nó cũng liên hệ, biến đổi. Đó là tư tưởng biện chứng mang tính duy vật. Theo
Hegel, ý niệm tuyệt đối có trước tự nhiên và sinh ra giới tự nhiên, biện chứng của ý
niệm tuyệt đối sinh ra biện chứng của sự vật, do đó phép biện chứng của Hegel là
duy tâm.
- Luận điểm xuyên suốt toàn bộ phép biện chứng của Hegel là tất cả những
gì hiện thực đều hợp lý, tất cả những gì hợp lý đều là hiện thực. Hiện thực là sự tồn
tại trong tính tất yếu. Đây là cách đánh giá của Marx: “Luận điểm xuyên suốt toàn
bộ phép biện chứng của Hegel: hiện thực không chỉ đơn giản là sự tồn tại mà là sự
tồn tại trong tính tất yếu, nghĩa là tất cả các sự vật, hiện tượng và cả vũ trụ này vận
động và phát triển theo các quy luật vốn có”. Đây là tư tưởng tuyệt vời của Hegel.
Đằng sau vỏ duy tâm hợp lý đó, ông cho rằng tất cả sự vật trên thế giới, kể cả tư
duy của con người đều vận động, phát triển theo các quy luật, chính Hegel là người
đầu tiên khái quát nên quy luật đó. Toàn bộ ba quy luật cơ bản, sáu quy luật không
cơ bản, sáu khoa học phạm trù được khái quát lên chính là Hegel. Đây là điểm
sáng thứ hai trong phép biện chứng.
Theo Hegel, con người vừa là chủ thể, vừa là kết quả hoạt động của mình,
nhận thức và tư duy của con người được hình thành trong chừng mực con người


nhận thức và cải tạo thế giới. Ý thức của mỗi cá nhân là sự khái quát lại toàn bộ ý

thức mà nhân loại đã trải qua. Quan điểm con người là sản phẩm, là chủ thể của
chính bản thân mình là quan điểm hoàn toàn đúng đắn. Hegel đã thấy được vai trò
của lao động đối với sự hình thành và phát triển của ý thức. Lao động đã giải
phóng hai tri thức của loài người, đưa con người đi lên thẳng đứng, tách con người
ra khỏi thế giới loài vật. Cũng chính lao động, con người đã tạo thức ăn mới hoàn
thiện não bộ. Trong lao động, con người tác động vào thế giới xung quanh, bộc lộ
những đặc điểm, tính chất để con người nhận thức. Cũng chính trong quá trình lao
động, con người tự hoàn thiện chính bản thân mình.
Vậy không có quá trình lao động, con người không tách khỏi loài vật, bộ óc
con người không hoàn thiện, không nảy sinh nhu cầu nhận thức về thế giới, không
có ý thức của con người. Hegel khẳng định ý thức và tư duy của con người hình
thành trong chừng mực con người nhận thức và cải tạo thế giới, chứng tỏ rằng đã
bắt đầu thấy vai trò của lao động đối với sự hình thành và phát triển ý thức và tư
duy. Từ đó Hegel cho rằng: bằng cách đó, con người tác động vào giới tự nhiên,
tạo ra giới tự nhiên thứ hai cho mình và làm chủ giới tự nhiên. Quan điểm giới tự
nhiên thứ hai người đầu tiên đưa ra chính là Hegel. Chân lý là sự thống nhất của
tinh thần và vật chất là cả một quá trình. Chân lý là tri thức có nội dung phản ánh
phù hợp với hiện thực khách quan. Ví dụ: tổng ba góc trong một tam giác = 1800là
chân lý.
Những quan điểm về chân lý sau này của Marx cũng chính là sự kế thừa
quan điểm của Hegel. Chân lý là cả một quá trình, nghĩa là toàn bộ tri thức mà con
người có được đến thời điểm hiện tại là chân lý, có thể thực tiễn sau đó sẽ bác bỏ
nó, không là chân lý nữa. Có nhiều luận điểm cả ngàn năm là chân lý, thực tiễn sau
đó bác bỏ nó, nghĩa là thực tiễn kiểm tra chân lý.
- Hegel là người nâng phép biện chứng từ trình độ tự phát lên trình độ lý
luận và là người đầu tiên trình bày phép biện chứng ở dạng nguyên lý, quy luật,
phạm trù.


Đến nửa đầu thế kỷ XIX, phép biện chứng đã phát triển lên trình độ lý luận

trong phép biện chứng duy tâm của Hegel, chính Hegel làm sống lại tư tưởng biện
chứng. Có thể nói Hegel là người đầu tiên có công nâng phép biện chứng từ trình
độ tự phát lên trình độ lý luận và và chính ông là người đầu tiên đã khái quát được
đầy đủ phép biện chứng dưới dạng nguyên lý, quy luật, phạm trù.
Toàn bộ hai nguyên lý, ba quy luật và sáu phạm trù chính Marx kế thừa của
Hegel. Theo phép biện chứng của Hegel, các sự vật, hiện tượng trên thế giới không
cô lập, tách rời nhau mà liên hệ tác động qua lại với nhau và không ngừng chuyển
hóa cho nhau, nghĩa là vạn vật liên hệ với nhau một cách phổ biến. Điều này hiện
nay đã được khoa học chứng minh. Theo Hegel, vạn vật không những liên hệ, tác
động qua lại với nhau mà còn không ngừng vận động và phát triển từ thấp đến cao,
từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện cho đến hoàn thiện hơn. Nguồn gốc
của động lực và phát triển là sự đấu tranh của những mặt đối lập. Đây là tư tưởng
hoàn toàn bình đẳng, hợp lý. Đây cũng là quan điểm của triết học Marx về sau
này.Cách thức phát triển là chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những
thay đổi về chất và ngược lại (quy luật vật chất).
Nguyên nhân phát triển là theo con đường xoắn ốc mà mỗi vòng khâu của
nó là một mắc xích quá trình phủ định của phủ định.
Phủ định biện chứng là một sợi dây chuyền diễn ra liên tục và vô tận trong
tất cả lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy. Liên tục diễn ra cái mới hay cái cũ nhưng
nó kế thừa cái cũ những mặt tích cực, còn khả năng thúc đẩy sự phát triển. Và cũng
theo phép biện chứng của Hegel, giữa cái chung và cái riêng, nguyên nhân và kết
quả, tất nhiên và ngẫu nhiên, nội dung và hình thức, bản chất hiện tượng, khả năng
và hiện thực nó không cô lập nhau, cũng không tách rời nhau mà chuyển hóa cho
nhau.
Toàn bộ hai nguyên lý: nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, nguyên lý sự phát
triển; ba quy luật cơ bản: quy luật mâu thuẫn, quy luật lượng chất, quy luật phủ
định của phủ định và sáu quy luật phạm trù: cái chung cái riêng, nguyên nhân kết


quả, tất nhiên ngẫu nhiên, nội dung hình thức, bản chất hiện tượng, khả năng hiện

thực đã được Hegel khái quát. Nhưng vì phép biện chứng của Hegel mang tính duy
tâm nên toàn bộ những nguyên lý, quy luật phạm trù đó được Hegel trình bày trên
lập trường duy tâm, vì vậy, vai trò khám phá chân lý của nó bị giảm đi. Sau này
giữa thế kỷ XIX, chính Marx và Engels đã phải cải tạo phép biện chứng của Hegel,
đặt nó trên nền tảng của chủ nghĩa duy vật và sáng tạo ra hình thức thứ ba của phép
biện chứng, đó chính là phép biện chứng duy vật.
Phép biện chứng của Hegel là một trong những cống hiến vĩ đại của ông
trong quá trình phát triển văn hóa khoa học của nhân loại, đặc biệt là trong sự ra
đời của triết học Marx. Từ đó cho thấy rằng hạt nhân phép biện chứng của Hegel là
tư tưởng về sự phát triển. Hegel đã mang lại phong cách tư duy mới, đó là phong
cách tư duy biện chứng.
Mặc dù Hegel là một cái đầu bách khoa nhất của thời đại mình song ông vẫn
bị hạn chế.
- Một là bởi những giới hạn không thể tránh được của sự hiểu biết của bản
thân ông.
- Hai là bởi những kiến thức và những quan niệm của thời đại ông cũng có
tính chất hạn chế như thế cả về khối lượng lẫn về chiều sâu.
- Ba là Hegel là một nhà duy tâm, nghĩa là đối với Hegel, những tư tưởng
trong đầu óc của mình không phải là những phản ánh ít trừu tượng của những sự
vật và quá trình hiện thực, mà ngược lại, đối với ông, những sự vật và phát triển
của chúng chỉ là những phản ánh vốn là hiện thân của một "ý niệm" tồn tại ở một
nơi nào đó ngay trước khi có thế giới. Như vậy, tất cả đều bị đặt lộn ngược và mối
liên hệ hiện thực của thế giới đều hoàn toàn bị đảo ngược.
C. Ý nghĩa phép biện chứng của Hegel.
Những điều này là hoàn toàn hợp quy luật vì rằng nhiều vấn đề triết học hiện
đại đã được đặt ra ở các thời đại phát triển khác nhau xa xôi trước kia của triết học.


Hơn bất cứ một khoa học nào khác triết học kể cả các khuynh hướng mới về
nguyên tắc đều đòi hỏi phải dựa vào cội nguồn lịch sử kể từ khi mới hình thành và

vào toàn bộ tiến trình phát triển lịch sử của mình.
Nếu xem xét một cách cẩn thận và khoa học thì chúng ta thấy rằng các
phạm trù cơ bản của triết học vẫn giữ được ý nghĩa của chúng suốt nhiều thế kỷ
mặc dù nội dung của chúng có thể biến đổi và trở nên phong phú hơn rất nhiều.
Các tác phẩm triết học lớn đã tồn tại đã vượt qua được sự thẩm định hết sức
nghiêm khắc của các thời đại và cho đến hiện nay vẫn tiếp tục tỏ rõ vai trò của
chúng trong đời sống trí tuệ của nhân loại.
Xét một cách thật chặt chẽ thì học thuyết Hêgen hiện nay không phải
là một trào lưu tư tưởng triết học đáng kể. Mặc dù vậy sự quan tâm tới triết học
Hêgen đặc biệt là số lượng các công trình nghiên cứu về triết học không những
không hề giảm bớt mà trái lại còn tăng lên liên tục. Hơn thế nữa có một điều khá
đặc biệt là các nhà nghiên cứu về di sản triết học của Hêgen thường lại không phải
là những người theo trường phái Hêgen. Một điều nổi bật khác ở đây là cả các nhà
duy tâm lẫn các nhà duy vật, cả những người bảo vệ chủ nghĩa duy lý lẫn những
người ủng hộ chủ nghĩa phi duy lý đều tích cực nghiên cứu triết học Hêgen. Trong
số các nhà triết học duy tâm lý giải triết học Hêgen và cố gắng đồng hoá các tư
tưởng của ông thì thậm chí chúng ta lại bắt gặp những người cố gắng bảo vệ các
khuynh hướng triết học hết sức xa lạ với học thuyết Hêgen chẳng hạn chủ nghĩa
hiện sinh, chủ nghĩa nhân cách, triết học phân tích, thần học biện chứng.v.v..
Vậy thì điều gì ở trong học thuyết Hêgen đã và đang có sức cuốn hút
các nhà tư tưởng vốn theo đuổi những định hướng triết, học rất khác nhau đó đến
như vậy?
Theo tôi đặt vấn đề này ra là cần thiết để nhận thức cho đúng những
nét đặc thù của các trào lưu triết học khác nhau đồng thời cũng là để đánh giá
chính xác hơn ý nghĩa của triết học Hêgen đối với sự phát triển của tư tưởng triết


học nói chung một khi chúng ta tính đến kinh nghiệm lịch sử từ lúc xuất hiện triết
học đó cho đến hôm nay.
Đương nhiên khi xem xét các quan điểm của những nhà triết học nổi

tiếng của các thời đại trước đây tuyệt nhiên chúng ta không được tô vẽ không được
hiện đại hoá các quan điểm đó của họ.
Đồng thời chúng ta cũng không được ca ngợi, không được biện hộ
một chiều các quan điềm đã lỗi thời hoặc bị hạn chế bởi nhừng điều kiện lịch sử
hoặc những thiên kiến đương thời. Muốn vậy phải biết phận biệt những gì là giá trị
trong di sản triết học với những sự xuyên tạc hoặc lý giải tùy tiện về di sản đó. Một
mặt, khi xem xét di sản của một nhà tư tưởng thì không bỏ qua những hạn chế lịch
sử những khiếm khuyết và sai lầm của nhà tư tưởng đó: những mặt khác chúng ta
cần rút ra và nhấn mạnh những gì trong di sản đó đã vượt qua được thử thách ngặt
nghèo của thời gian đã trở thành một khâu hữu ích trong quá trình phát triển của tư
tưởng triết học.
Làm tốt được điều trên đây đối với triết học Hêgen không phải là dễ
dàng. Bởi vì triết học Hêgen không những quá đồ sộ, quá bách khoa, quá uyên bác
về nhiều mặt mà còn chứa đựng trong mình nó không ít những mâu thuẫn những
xu hướng khác nhau kể cả các xu hướng bài trừ nhau. Những cái đó một phần là
nguyên cớ một phần cũng là căn cứ cho những cách lý giải hết sức khác nhau đối
với học thuyết, Hêgen.
Cho dù có những ý kiến đánh giá khác nhau về triết học Hêgen song
không thể phủ nhận được rằng cái có giá trị nhất và có sức sống mạnh mẽ nhất
trong triết học của ông chính là phép biện chứng mà thực chất đó là học thuyết về
sự phát triển toàn diện với tư cách là sự vận động tiến tới và sự chuyển hoá về chất,
với tư cách là sự đi lên theo thang bậc lôgíc có tuần tự về tính chất mâu thuẫn của
sự phát triển bao gồm sự tương tác giữa các mặt đối lập sự phủ định tồn tại hiện có
và đồng thời là sự giữ lại cái tích cực từ quá khứ.


Do tính hạn chế của các điều kiện lịch sử và thiên hướng động hòa với trật
tự xã hội Phổ hiện tồn thời đó mà Hêgen đã có những kết luận mâu thuẫn và không
nhất quán. Trái với các nguyên tắc xuất phát của mình. Hêgen đã đặt ra một giới
hạn cho sự phát triển của nhân loại kể cả cho sự phát triển của triết học sau khi

tuyên bố rằng học thuyết của mình là sự kết thúc tuyệt đối hoàn thiện của tư tưởng
triết học.
Nhưng ngay cả những điều ấy cũng không làm mất đi ý nghĩa tiến bộ
của các nguyên tắc biện chứng xuất phát của Hêgen. Phù hợp với chúng Hêgen
quan niệm lịch sử toàn cầu là sự tiến bộ trong nhận thức về tự do. Cho dù bản chất
của tự do có được hiểu khác nhau xong việc thừa nhận nó vẫn trở thành một trong
những tiêu chuẩn quan trọng của chủ nghĩa nhân đạo và về sự công bằng xã hội.
Đó chính là lý do tại sao sự quan tâm của nhiều nhà triết học hiện đại đến học
thuyết Hêgen trở thành sự quan tâm có cơ sở sâu sắc và mang ý nghĩa thiết thực.
Nhân đây cần phải nhắc đến sự đánh giá của C. Mác đối với phép biện
chứng của Hêgen vì chính C. Mác không những đã chỉ phê phán một cách sâu sắc
phép biện chứng của Hêgen mà còn cải tạo phép biện chứng đó xây dựng nên phép
biện chứng duy vật duy nhất và thực sự khoa học với mẫu mực tuyệt vời của nó là
tác phẩm chủ yếu của ông - bộ "Tư bản". C.Mác viết: "Tính chất thần bí mà phép
biện chứng đã mắc phải ở trong tay Hêgen tuyệt nhiên không ngăn cản Hêgen trở
thành người đầu tiên trình bày một cách bao quát và có ý thức những hình thái vận
động chung của phép biện chứng ấy. Ở Hêgen phép biện chứng bị lộn ngược đầu
xuống đất. Chỉ cần dựng nó lại là sẽ phát hiện được cái hạt nhân hợp lý của nó ở
đằng sau lớp vỏ thần bí”.
Như vậy, tiềm năng cách mạng trong phép biện chứng của Hêgen đã
được Lênin vạch ra; tiềm năng đó biểu hiện nội dung cơ bản của nó: tính có quy
luật nội tại của sự phát triển sự đấu tranh giữa các mặt đối lập sự phủ định biện
chứng với tư cách một bậc thang tất yếu của sự phát triển.


Như mọi người đều biết trong những năm chiến tranh thế giới lần thứ
nhất cho dù phải bận tâm với cuộc đấu tranh chính trị trực tiếp với việc phải phân
tích quá trình diễn tiến và sự chín muồi của cách mạng Nga, Lênin vẫn tìm được
thời gian để nghiên cứu một cách có hệ thống triết học Hêgen đặc biệt là "Khoa
học lôgíc" và "Những bài giảng về lịch sử triết học" của Hêgen. Các bản tóm tắt

sâu sắc và cô đọng về những tác phẩm thiên tài này tạo thành bộ phán đáng kể và
hơn nữa là bộ phận quan trọng nhất trong "Bút ký triết học" nổi tiếng của V.I.
Lênin. Trong đó không những ông đã vạch rõ sự phong phú tuyệt vời của các tác
phẩm cơ bản của Hêgen mà còn đưa ra các kết luận triết học mới góp phần làm
phong phú thêm chủ nghĩa duy vật biện chứng. "Bút ký triết học" của V.I. Lênin
chứng tỏ đầy sức thuyết phục rằng công việc chỉnh lý một cách duy vật đối với
phép biện chứng Hêgen còn lâu mới hoàn tất; rằng trong lĩnh vực này sẽ có những
nghiên cứu khám phá và thành tựu mới.
Khi phân tích "Khoa học lôgíc" của Hêgen, Lênin thường xuyên đối
chiếu nó với "Tư bản" của Mác vì phương pháp luận của "Tư bản" là kết quả của
một việc làm đồ sộ là chỉnh lý theo cách duy vật đối với phép biện chứng duy tâm
của Hêgen. Trong tác phẩm cơ bản này của mình, Mác đã nghiên cứu:
Thứ nhất, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản;
Thứ hai, sự phát triển của nhận thức về kinh tế tư bản chủ nghĩa (lịch
sử của kinh tế học chính trị);
Thứ ba, sự phát triển của các phạm trù kinh tế học mà thông qua đó
việc nghiên cứu quan hệ sản xuất và trao đổi tư bản chủ nghĩa được thực hiện.
Vạch ra sự thống nhất của ba mặt cơ bản này (bản thể luận, nhận thức
luận và lôgíc học) trong việc nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa,
Lênin đã đi đến một kết luận vô cùng quan trọng: “Mác không để lại cho chúng ta
"lôgíc học" (với chữ L. viết hoa), nhưng đã để lại cho chúng ta lôgíc của "Tư bản"
và cần phải tận dụng đầy đủ nhất lôgíc đó để giải quyết vấn đề mà chúng ta đang
nghiên cứu. Trong "Tư bản". Mác áp dụng lôgíc phép biện chứng và lý luận nhận


thức... của chủ nghĩa duy vật vào một khoa học duy nhất: mà chủ nghĩa duy vật thì
đã lấy ở Hêgen tất cả cái gì có giá trị và phát triển thêm lên. Nhờ trí tuệ uyên bác
của Mác mà phép biện chứng duy vật đã được tạo ra và với tất cả sự đối lập với
phương pháp Hêgen nó vẫn thừa nhận và nhấn mạnh sự giống nhau của mình với
phương pháp đó. Như trên đã nói, cho đến nay sự quan tâm đối với di sản triết học

của Hêgen vẫn không ngừng tăng lên. Phải coi đây là hiện tượng tích cực vì về
thực chất sự quan tâm ngày một tăng lên này là sự quan tâm không những đối với
thứ triết học đã tổng kết về mặt lý luận lịch sử biện chứng đã có từ trước đó (triết
học Hegel) mà còn là sự quan tâm đối với toàn bộ lịch sử nhận thức nói chung.
Sẽ thật là ngây thơ nếu như không nhận thấy rằng tuỳ thuộc vào định
hướng khoa học và ý thức hệ mà các nhà triết học sẽ có các cách tiếp cận khác
nhau đối với việc nghiên cứu và đánh giá phép biện chứng của Hêgen. Một số nhà
triết học cố gắng nghiên cứu các tư tưởng biện chứng thiên tài của Hêgen trên cơ
sở các dữ liệu của khoa học hiện đại và kinh nghiệm lịch sử mới của thời đại.
Ngược lại có một số nhà triết học khác lại tiến hành nghiên cứu phép biện chứng
Hêgen cốt chỉ để bác bỏ nó, chỉ để thuyết phục người khác tin rằng về nguyên tắc
phép biện chứng không áp dụng được vào thế giới khách quan mà chỉ có quan hệ
với tư duy. Như vậy không thể không nhận thấy rằng trong số những người nghiên
cứu phép biện chứng Hêgen thì một số là các nhà biện chứng còn số khác là kẻ thù
của phép biện chứng.
Là những người ủng hộ sự phát triển sáng tạo phép biện chứng chúng
ta đánh giá cao công lao vĩ đại của Hêgen cho phép biện chứng và coi việc tiếp tục
tổng kết khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học và của thực tiễn hiện đại
để làm giàu thêm phép biện chứng duy vật của C. Mác là nhiệm vụ quan trọng và
không bao giờ kết thúc.


Tài Liệu Tham Khảo:
Luanvan.vn
Giáo trình triết học cổ điển Đức



×