Tải bản đầy đủ (.docx) (57 trang)

Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp tại xã Thanh Luông, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (321.15 KB, 57 trang )

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và rèn luyện tại Trường Đại Học Tài Nguyên và Môi
Trường Hà Nội được sự nhiệt tình, quan tâm và tạo điều kiện giúp đỡ của các Thầy,
Cô giáo, Giảng Viên Trường Đại Học Tài Nguyên và Môi Trường Hà Nội nói chung
và khoa quản lý đất đai nói riêng đã trang bị cho chúng em hành trang vức chắc và
những lời góp ý, ý kiến đáng giá để em có thể hoàn thành báo cáo tốt nghiệp này.
Xuất phát từ lòng biết ơn sâu sắc em xin được gửi lời cảm ơn chân thành
nhất tới Cô giáo - Th.S Nguyễn Thị Nga đã giúp đỡ tận tình và trực tiếp hướng dẫn
em hoàn thành báo cáo tốt nghiệp theo đúng nội dung, kế hoạch được giao trong
suốt thời gian em thực hiện báo cáo.
Em xin cảm ơn sự dạy dỗ, chỉ bảo ân cần của các Thầy, Cô giáo trong khoa
Quản lý đất đai - Trường Đại Học Tài Nguyên và Môi Trường Hà Nội trong suốt
thời gian em học tập.
Thân gửi lời cảm ơn sâu sắc ban lãnh đạo, Ban Địa Chính - UBND xã Thanh
Luông, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên và các hộ nông dân trên địa bàn xã đã trực
tiếp giúp đỡ em trong thời gian nghiên cứu làm đề tài trên địa bàn.
Do thời gian và trình độ có hạn nên trong báo cáo không tránh khỏi sự thiếu
sót, em rất mong nhận được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của Thầy, Cô giáo để báo
cáo được hoàn thiện hơn. Đây cũng là bài học kiến thức bổ ích cho em sau này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Điện Biên, ngày 12 tháng 09 năm 2015
Sinh viên

Khúc văn Vũ

1


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CPSX



: Chi phí sản xuất

CPTG

: Chi phí trung gian

FAO

: Tổ chức nông lâm thế giới

GTSX

: Giá trị sản xuất

GTGT

: Giá trị gia tăng

LUT

: Loại hình sử dụng đất

LX-LM

: Lúa xuân-lúa mùa

LX-LM-CVĐ

: Lúa xuân-lúa mùa-cây vụ đông




: Lao động

NCLĐ
NTS

: Nuôi trồng thủy sản

TNHH

: Thu nhập hỗn hợp

VAC

: Vườn-ao-chuồng

UBND

: Ủy ban nhân dân

TP

: Thành phố

HQĐV

: Hiệu quả đồng vốn


TD-MNPB

: Trung du, miền núi phía bắc

SXNN
CHDCND

2

: Nhân công lao động

: Sản xuất nông nghiệp
: Cộng hòa dân chủ nhân dân


MỤC LỤC

3


DANH MỤC BẢNG

4


PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá mà thiên nhiên đã ban tặng cho
con người. Đất đai là nền tảng để con người định cư và tổ chức các hoạt động kinh
tế xã hội, nó không chỉ là đối tượng lao động mà còn là tư liệu sản xuất không thể

thay thế được, đặc biệt là đối với ngành sản xuất nông nghiệp, đất là yếu tố đầu vào
có tác động mạnh mẽ đến hiệu quả sản xuất đất nông nghiệp, đồng thời cũng là môi
trường duy nhất sản xuất ra những lương thực thực phẩm nuôi sống con người. Việc
sử dụng đất có hiệu quả và bền vững đang trở thành vấn đề cấp thiết với mỗi quốc
gia, nhằm duy trì sức sản xuất của đất đai cho hiện tại và cho tương lai.
Xã hội phát triển, dân số tăng nhanh kéo theo những đòi hỏi ngày càng tăng
về lương thực và thực phẩm, chỗ ở cũng như các nhu cầu về văn hóa, xã hội. Con
người đã tìm mọi cách để khai thác đất đai nhằm thảo mãn những nhu cầu ngày
càng tăng đó. Như vậy đất đai, đặc biệt là đất nông nghiệp có hạn về diện tích
nhưng lại có nguy cơ bị suy thoái dưới tác động của thiên nhiên và sự thiếu ý thức
của con người trong quá trình sản xuất. Đó còn chưa kể đến sự suy giảm về diện
tích đất nông nghiệp do quá trình đô thị hóa đang diễn ra mạnh mẽ, trong khi khả
năng khai hoang đất mới lại rất hạn chế. Do vậy, việc đánh giá hiệu quả để sử dụng
hợp lý theo quan điểm sinh thái và phát triển bền vững đang trở thành vấn đề mang
tính chất toàn cầu đang được các nhà khoa học trên thế giới quan tâm. Đối với một
nước có nền kinh tế nông nghiệp chủ yếu như ở Việt Nam, nghiên cứu, đánh giá
hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp càng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết.
Tuy nhiên một thực tế hiện nay đó là diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị
thu hẹp do chuyển sang các loại hình sử dụng đất khác như: đất ở, đất sản xuất kinh
doanh, đất phi nông nghiệp... Mặt khác dân số không ngừng tăng, nhu cầu của con
người về các sản phẩm từ nông nghiệp ngày càng đòi hỏi cao về cả số lượng và chất
lượng. Đây thực sự là một áp lực lớn đối với nghành nông nghiệp.
Xã Thanh Luông là một xã thuộc vùng miền núi Tây Bắc có tổng diện tích tự
nhiên là 3615,94 ha, với diện tích đất nông nghiệp 3122,97 ha, chiếm 86,37% tổng
diện tích tự nhiên toàn xã. Vì vậy, việc định hướng cho người dân trong huyện khai

5


thác và sử dụng hợp lý, có hiệu quả đất nông nghiệp là một trong những vấn đề hết sức

cần thiết để nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Để giải quyết vấn đề này thì việc đánh giá
hiệu quả sử dụng đất. Để giải quyết vấn đề này thì việc đánh giá hiệu quả sử dụng đất
nông nghiệp nhằm đề xuất hướng sử dụng đất và loại hình sử dụng rất thích hợp là việc
rất quan trọng.
Xuất phát từ tình hình thực tiễn và nhu cầu sử dụng đất trên địa bàn xã, được sự
đồng ý của Khoa Quản Lý Đất Đai và sự hướng dẫn của Giáo Viên Th.S Nguyễn Thị
Nga em tiến hành nghiên cứu đề tài : “Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp tại
xã Thanh Luông, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên”
2. Mục đích và yêu cầu nghiên cứu
2.1. Mục đích
- Đánh giá hiệu quả về kinh tế - xã hội, môi trường của các loại hình sử dụng đất
tại địa phương.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp tại xã
Thanh Luông trong thời gian tới.
2.2. Yêu cầu
- Số liệu, tài liệu phải đầy đủ, kịp thời, chính xác
- Quá trình đánh giá phải đúng, trung thực, khách quan về hiệu quả của mỗi loại
hình sử dụng đất.
- Các chỉ tiêu áp dụng để xác định hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trường của
các loại hình sử dụng đất phải cụ thể, tính toán được và dễ hiểu.
- Các đề xuất phải mang tính khả thi và phù hợp với địa phương.

6


CHƯƠNG I
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1.Khái niệm đất nông nghiệp và sử dụng đất nông nghiệp
1.1.1Khái niệm đất và đất nông nghiệp
*Khái niệm về đất

Đất là một phần của vỏ trái đất, nó là lớp phủ lục địa mà bên dưới nó là đá và
khoáng sinh ra nó, bên trên là thảm thực bì và khí quyển. Đất là lớp mặt tươi xốp
của lục địa có khả năng sản sinh ra sản phẩm của cây trồng. Đất là lớp phủ thổ
nhưỡng là thổ quyển, là một vật thể tự nhiên, mà nguồn gốc của thể tự nhiên đó là
do hợp điểm của 4 thể tự nhiên khác của hành tinh là thạch quyển, khí quyển, thủy
quyển và sinh quyển. Sự tác động qua lại của bốn quyển trên và thổ quyển có tính
thường xuyên và cơ bản.
Theo C.Mac: “ Đất là tư liệu sản xuất cơ bản và phổ biến quý báu nhất của
sản xuất nông nghiệp, là điều kiện không thể thiếu được của sự tồn tại và tái sinh
của hàng loạt thế hệ loài người kế tiếp nhau”
Theo các nhà kinh tế, thổ nhưỡng và quy hoạch Việt Nam cho rằng:
“ Đất đai là phần trên mặt của vỏ trái đất mà ở đó cây cối có thể mọc được”
Và đất đai được hiểu theo nghĩa rộng: “Đất đai là một phần diện tích cụ thể
của bề mặt trái đất, bao gồm tất cả các yếu tố cấu thành của môi trường sinh thái
ngay trên và dưới bề mặt bao gồm: khí hậu, thời tiết, thổ nhưỡng, địa hình, mặt
nước, các lớp trầm tích sát bề mặt cùng với nước ngầm và khoáng sản trong lũng
đất, động thực vật, trạng thái định cư của con người, những kết quả của con người
trong quá khứ và hiện tại để lại”.
Vì thế đã có rất nhiều khái niệm và định nghĩa khác nhau về đất nhưng khái
niệm chung nhất có thể hiểu: Đất đai là khoảng không gian có giới hạn, theo chiều
thẳng đứng bao gồm: Khí hậu của bầu khí quyển, lớp phủ thổ nhưỡng, thảm thực
vật, động vật, diện tích mặt nước, tài nguyên nước ngầm và khoáng sản trong lòng
đất; Theo chiều ngang, trên mặt đất là sự kết hợp giữa thổ nhưỡng, địa hình, thủy

7


văn, thảm thực vật với các thành phần khác, nó tác động giữ vai trò quan trọng và
có ý nghĩa to lớn đối với hoạt động sản xuất cũng như cuộc sống xã hội của loài
người.

*Khái niệm về đất nông nghiệp
Nông nghiệp là ngành sản xuất ra vật chất cơ bản của xã hội, sử dụng đất
đai để trồng trọt và chăn nuôi, khai thác cây trồng và vật nuôi làm tư liệu và nguyên
liệu lao động chủ yếu để tạo ra lương thực thực phẩm và một số nguyên
liệu cho công nghiệp. Nông nghiệp là một ngành sản xuất lớn, bao gồm 5 tiểu
ngành: trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, lâm nghiệp và diêm nghiệp.
Theo Luật đất đai 2013, đất nông nghiệp được hiểu là nhóm đất bao gồm các
loại đất: đất trồng cây hàng năm gồm đất trồng lúa và đất trồng cây hàng năm khác;
đất trồng cây lâu năm; đất rừng sản xuất; đất rừng phòng hộ; đất rừng đặc dụng; đất
nuôi trồng thủy sản; đất làm muối và đất nông nghiệp khác.
1.1.2. Vai trò của sản xuất nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân
* Cung cấp lương thực, thực phẩm cho toàn xã hội
Lương thực, thực phẩm là yếu tố đầu tiên có tính chất quyết định sự tồn tại
phát triển của con người và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Những hàng
hoá có chứa chất dinh dưỡng nuôi sống con người này chỉ có thể có được thông qua
hoạt động sống của cây trồng và vật nuôi, hay nói cách khác là thông qua quá trình
sản xuất nông nghiệp
*Nông nghiệp là một trong những nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy sản
xuất công nghiệp và khu vực thành thị phát triển
- Nông nghiệp cung cấp nguồn nguyên liệu cho công nghiệp, đặc biệt là công
nghiệp chế biến.
- Nông nghiệp đặc biệt là nông nghiệp của các nước đang phát triển là khu
vực dự trữ và cung cấp lao động cho phát triển công nghiệp, các ngành kinh tế quốc
dân khác và đô thị.
- Nông thôn là thị trường tiêu thụ rộng lớn cho hàng hoá công nghiệp và các
ngành kinh tế khác.

8



*Nông nghiệp là nguồn thu ngân sách quan trọng của Nhà nước
Nông nghiệp là ngành kinh tế sản xuất có quy mô lớn nhất của nước ta. Tỷ
trọng giá trị tổng sản lượng và thu nhập quốc dân trong khoảng 25% tổng thu ngân
sách trong nước. Việc huy động một phần thu nhập từ nông nghiệp được thực hiện
dưới nhiều hình thức: thuế nông nghiệp, các loại thuế kinh doanh khác…Hiện nay xu
hướng chung tỷ trọng GDP của nông nghiệp sẽ giảm dần trong quá trình tăng trưởng
kinh tế.
*Nông nghiệp là hoạt động sinh kế chủ yếu của đại bộ phận dân nghèo nông
thôn
Nước ta với hơn 80% dân cư tập trung ở nông thôn họ sống chủ yếu dựa vào
sản xuất nông nghiệp, với hình thức sản xuất tự cấp tự túc đã đáp ứng được nhu cầu
cấp thiết hàng ngày của người dân.
1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng sử dụng đất nông nghiệp.
1.1.3.1. Yếu tố tự nhiên
* Khí hậu
Thực vật nói chung và cây trồng nói riêng muốn sống, sinh trưởng và phát
triển đòi hỏi phải có đầy đủ các yếu tố sinh trưởng là ánh sáng, nhiệt độ, không khí,
nước và dinh dưỡng. Trong đó, ánh sáng, nhiệt độ, lượng mưa và độ ẩm không khí
chính là các yếu tố tiêu biểu cho khí hậu. Chính vì thế, khí hậu là một trong những
yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến sinh trưởng, năng suất và sản lượng cây trồng, ảnh
hưởng đến hiệu quả sử dụng đất trong sản xuất nông nghiệp.
Việt Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa. Tuy nhiên, vì sự khác biệt về vĩ độ
địa lý và địa hình nên khí hậu có khuynh hướng khác biệt nhau khá rõ nét theo từng
vùng. Trải dài trên 15 vĩ độ, Việt Nam có 7 tiểu vùng khí hậu khác nhau nên chúng
ta có thể đa dạng hoá các loại cây trồng, vật nuôi. Chính vì thế, sử dụng đất cũng đa
dạng và giảm được rủi ro vì có thể trồng các loại cây trồng có nguồn gốc nhiệt đới,
á nhiệt đới và cả ôn đới.

9



Khí hậu là yếu tố quan trọng, ảnh hưởng rất lớn đến việc phân bố các loại
cây trồng, cũng như thời vụ cây trồng trong sản xuất nông nghiệp theo điều kiện của
từng vùng, miền.
Yếu tố khí hậu nhiều khi ảnh hưởng rõ nét đến hiệu quả sử dụng đất nông
nghiệp với các mức độ khác nhau. Chẳng hạn, ở đồng bằng sông Hồng và Bắc
Trung Bộ, nhiệt độ thấp vụ đông và thời kỳ đầu vụ xuân kèm theo ẩm ướt, mưa
phùn, thiếu ánh sáng làm hạn chế sinh trưởng và phát triển của cây trồng ưa nắng,
ưa nhiệt nhưng lại phù hợp cho cây trồng ưa lạnh có nguồn gốc ôn đới. Trời âm u
thiếu ánh sáng cũng là điều kiện cho sâu bệnh phát triển phá hại mùa màng.
* Thổ nhưỡng
Cùng với khí hậu, đất tạo nên môi trường sống của cây trồng. Đất trồng với
các đặc tính như loại đất, thành phần cơ giới, chế độ nước, độ phì...có vai trò quan
trọng đối với sự sinh trưởng, phát triển và năng suất của cây trồng, ảnh hưởng trực
tiếp đến hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
Đất giữ cây đứng vững trong không gian, cung cấp cho cây các yếu tố sinh
trưởng như nước, dinh dưỡng và không khí. Độ phì là một trong những yếu tố quan
trọng nhất của đất. Vị trí từng mảnh đất có ảnh hưởng đến quá trình hình thành độ
phì của đất. Độ phì nhiêu của đất liên quan trực tiếp đến năng suất cây trồng. Do
vậy, tuỳ theo vị trí địa hình, chất đất mà lựa chọn, bố trí cây trồng thích hợp trên
từng loại đất mới có thể đạt được năng suất, hiệu quả sử dụng đất cao.
* Cây trồng, vật nuôi
Trong sử dụng đất nông nghiệp, cây trồng, vật nuôi là yếu tố trung tâm. Con
người hưởng lợi trực tiếp từ những sản phẩm của chúng. Những sản phẩm này cung
cấp lương thực, thực phẩm cho các nhu cầu thiết yếu cho con người và cho xuất
khẩu.
Việc bố trí cây trồng, vật nuôi và các kiểu sử dụng đất hợp lý trên đất đem lại
những giá trị cao về mặt hiệu quả cho cả người sản xuất và môi trường đất.
Ngược lại, nếu cây trồng, vật nuôi được bố trí bất hợp lý, sử dụng đất bừa bãi không
những gây thất thu cho người nông dân mà còn ảnh hưởng xấu đến đất.


10


Ngày nay, với sự phát triển nhanh chóng của những tiến bộ khoa học kỹ
thuật, các giống cây trồng, vật nuôi mới với chất lượng và năng suất cao, thời gian
sinh trưởng ngắn xuất hiện ngày càng nhiều. Sản xuất nông nghiệp hàng hoá bắt
đầu hình thành và phát triển, gắn trực tiếp với việc tăng hệ số sử dụng đất trong sản
xuất. Vì vậy, những tiến bộ trong công tác giống cây trồng, vật nuôi đã tạo ra nhiều
cơ hội cho việc phát triển nông nghiệp hàng hoá trong thời điểm kinh tế như hiện
nay.
1.1.3.2. Yếu tố kinh tế, xã hội
* Con người
Con người là nhân tố tác động trực tiếp tới đất và hưởng lợi từ đất. Khi dân
số còn thấp, trình độ và nhu cầu thấp, việc khai thác quỹ đất nông nghiệp còn ở mức
hạn chế, hiệu quả không cao nhưng sự bền vững trong sử dụng đất nông nghiệp
được đảm bảo. Ngược lại, ngày nay, khi dân số tăng nhanh kéo theo sự gia tăng các
nhu cầu thì tài nguyên đất nông nghiệp bị khai thác nhiều, triệt để hơn nhằm đạt
năng suất và hiệu quả cao hơn. Vì vậy, quy luật sinh thái tự nhiên bị xâm phạm, tính
bền vững của tài nguyên đất ngày càng trở nên kém hơn. Làm thế nào để đảm bảo
sự cân bằng giữa việc sử dụng và việc bảo vệ tài nguyên đất trở thành vấn đề cấp
thiết và cần phải được quan tâm hơn nữa trong thời điểm hiện nay.
Đối với các hoạt động kinh tế nói chung, sản xuất nông nghiệp nói riêng, dân
số vừa là thị trường cầu của sản phẩm hàng hoá và dịch vụ, vừa là nguồn cung về
lao động cho sản xuất. Các hoạt động kinh tế sẽ không thể phát triển nếu không có
thị trường tiêu thụ các sản phẩm do chúng tạo ra. Đặc biệt, đối với một nền sản xuất
nông nghiệp hàng hoá thì điều này lại càng trở nên quan trọng.
Chất lượng nguồn lao động cũng đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động
sản xuất nông nghiệp. Nếu người nông dân có kinh nghiệm, kỹ thuật, có ý thức
trong sản xuất thì việc sử dụng đất nông nghiệp sẽ đạt hiệu quả cao.

* Kinh tế
Đối với mỗi quốc gia, mức độ phát triển của nền kinh tế quốc dân có ảnh
hưởng lớn đến các hoạt động sản xuất nói chung và sử dụng đất nông nghiệp nói

11


riêng và ngược lại. Nếu sử dụng đất có hiệu quả sẽ góp phần thúc đẩy nền kinh tế
phát triển. Khi kinh tế phát triển, nó sẽ có tác dụng phản hồi làm tiền đề cho quá
trình sử dụng đất đạt được hiệu quả cao hơn, thông qua việc đầu tư, áp dụng tiến bộ
kỹ thuật, công nghệ cao làm nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm cây trồng.
* Cơ chế chính sách
Do có tầm quan trọng đặc biệt nên nông nghiệp, nông thôn luôn giành được
những ưu tiên trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Trong mỗi nền kinh tế,
người nông dân tiến hành sản xuất, kinh doanh ở những điều kiện khác nhau, đặc
biệt là các điều kiện về tự nhiên và kinh tế, gây ra bất bình đẳng về thu nhập. Mặt
khác, thị trường luôn hàm chứa các hoạt động cạnh tranh không lành mạnh dẫn đến
một số người giàu lên do có những việc làm bất chính. Vì vậy, Nhà nước cần can
thiệp vào thị trường thông qua những chính sách có tính chất trợ giúp và phân phối
lại thu nhập nhằm đảm bảo sự công bằng xã hội. Các chính sách đầu tư cho nông
nghiệp và nông thôn, chính sách tín dụng nông thôn, chính sách về giải quyết việc
làm và xoá đói giảm nghèo, khuyến nông...thực sự đã giúp ích rất nhiều trong quá
trình sử dụng đất nông nghiệp của những người nông dân.
Trong sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp hàng hoá,
người nông dân thường chịu thiệt thòi do hạn chế về kiến thức thị trường, thông tin
thị trường, sức mua...Hơn nữa, các hiệu ứng tràn ra ngoài trong sản xuất nông
nghiệp cũng làm cho sản xuất không hiệu quả: việc sử dụng bừa bãi phân hoá học,
thuốc trừ sâu, thuốc trừ cỏ...có tác động tiêu cực đến môi trường, nguồn nước,
không khí và đất. Do vậy, việc Nhà nước can thiệp bằng các chính sách và pháp luật
thích hợp đã tạo điều kiện, khuyến khích, hướng dẫn sản xuất nông nghiệp và đảm

bảo tính bền vững của các yếu tố nguồn lực trong sản xuất nông nghiệp, góp phần
nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp. Cũng bằng các chính sách thích hợp, sử
dụng đất nông nghiệp được đảm bảo ổn định và lâu dài.
* Khoa học kỹ thuật
Khoa học kỹ thuật đóng vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Cải tiến kỹ thuật trước hết làm tăng cung về

12


hàng hoá nông sản, cũng tức là làm phát triển kinh tế. Mục tiêu đặt ra là cách thức
áp dụng khoa học (kiến thức), kỹ thuật (công cụ), công nghệ (kỹ năng) để tăng năng
suất, hiệu quả sản xuất, kinh doanh, phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn
một cách bền vững. Thông qua việc áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào
sản xuất nông nghiệp như giống cây trồng vật nuôi mới, các quy trình kỹ thuật trong
canh tác, trong chế biến bảo quản… làm tăng năng suất, chất lượng cây trồng vật
nuôi, tăng hiệu quả sử dụng nguồn lực như đất đai, lao động, vốn.
1.2. Quan điểm sử dụng đất nông nghiệp bền vững:
Sản phẩm Trong quá trình sản xuất, các tác động của con người nhiều khi đã
làm cho hệ sinh thái biến đổi vượt quá khả năng tự điều chỉnh của nó, đặc biệt là đối
với đất. Ngày nay, nhiều vùng đất đai màu mỡ đã bị thoái hóa nghiêm trọng, kéo
theo sự xói mòn đất và suy giảm nguồn nước đi kèm với hạn hán, lũ lụt… Vì vậy,
để đảm bảo cho cuộc sống con người trong hiện tại và tương lai cần phải có những
chiến lược về sử dụng đất không những để duy trì khả năng hiện có của đất mà còn
có thể phục hồi những khả năng cơ bản đã mất. Thuật ngữ “sử dụng đất nông
nghiệp bền vững” ra đời trên cơ sở của những mong muốn trên.
Năm 1992, Hội nghị thượng đỉnh về môi trường và phát triển đã họp tại Rio
De Janerio – Braxin đã định hướng cho các quốc gia, các tổ chức quốc tế chiến lược
về môi trường và phát triển bền vững để bước vào thế kỷ 21. Hội nghị đã đưa ra
cách thức sử dụng đất bền vững được xác định theo 5 nguyên tắc cơ bản:

- Duy trì hoặc nâng cao các hoạt động sản xuất (năng suất).
- Giảm mức rủi ro đối với sản xuất (an toàn).
- Bảo vệ tiềm năng các nguồn tài nguyên chống lại được sự thoái hoá đối với
chất lượng đất và nước (bảo vệ).
- Khả thi về mặt kinh tế (tính khả thi).
- Được sự chấp nhận của xã hội (sự chấp nhận).
Năm nguyên tắc nêu trên được coi là những trụ cột của sử dụng đất bền vững
và là những mục tiêu cần đạt được. Thực tế nếu các nguyên tắc trên diễn ra đồng bộ
so với các mục tiêu đặt ra thì khả năng bền vững sẽ đạt được, nếu chỉ đạt một hay

13


một vài mục tiêu đặt ra mà không phải tất cả thì khả năng bền vững chỉ mang tính
bộ phận hay chỉ bền vững có điều kiện.
Như vậy, sử dụng đất bền vững không chỉ thuần tuý về mặt tự nhiên mà còn
cả về mặt môi trường, lợi ích kinh tế và xã hội.
Theo quan điểm và nguyên tắc FAO thì sử dụng đất bền vững áp dụng vào
điều kiện ở Việt Nam cần phải thể hiện ở ba nguyên tắc sau:
+ Bền vững về mặt kinh tế: nghĩa là cây trồng, vật nuôi cho hiệu quả kinh tế
cao và được thị trường chấp nhận trong nhiều năm liên tiếp. Hệ thống sử dụng đất
phải có mức năng suất sinh học cao trên mức bình quân vùng có cùng điều kiện đất
đai nếu không sẽ không cạnh tranh được trong cơ chế thị trường. Năng suất sinh
học bao gồm các sản phẩm chính và các sản phẩm phụ.
Về chất lượng: sản phẩm phải đạt tiêu chuẩn tiêu thụ tại địa phương, trong
nước và xuất khẩu, tùy mục tiêu của từng vùng.
Tổng giá trị sản phẩm trên đơn vị diện tích là thước đo quan trọng nhất của
hiệu quả kinh tế đối với một hệ thống sử dụng đất. Tổng giá trị trong một giai đoạn
hay cả chu kỳ phải trên mức bình quân của vùng, nếu dưới mức đó thì nguy cơ
người sử dụng đất sẽ không có lãi, hiệu quả vốn đầu tư phải lớn hơn lãi suất tiền

vay vốn ngân hàng.
+ Bền vững về mặt xã hội: Thu hút được nhiều lao động, đảm bảo đời sống
người dân, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển. Đáp ứng nhu cầu của nông hộ là
điều cần quan tâm trước nếu muốn họ quan tâm đến lợi ích lâu dài (bảo vệ đất, môi
trường,..). thu được cần thỏa mãn cái ăn, cái mặc, và nhu cầu sống hàng ngày của
người nông dân.
Để đạt được điều đó, nguồn nội lực và nguồn lực địa phương cần phải được
phát huy tối đa. Hệ thống sử dụng đất phải được tổ chức trên đất mà nông dân có
quyền hưởng thụ lâu dài, đất đã được giao và rừng đã được khoán với lợi ích các
bên cụ thể. Sử dụng đất sẽ bền vững nếu phù hợp với nền văn hóa dân tộc và tập
quán địa phương, nếu ngược lại sẽ không được cộng đồng ủng hộ.

14


+ Bền vững về mặt môi trường: Loại hình sử dụng đất đang áp dụng phải bảo
vệ được độ màu mỡ của đất, ngăn chặn sự thoái hóa đất và bảo vệ môi trường sinh
thái. Khả năng giữ đất của loại hình sử dụng đất đang được áp dụng được thể hiện
bằng việc giảm thiểu lượng đất mất hàng năm dưới mức cho phép.
+ Độ phì nhiêu đất tăng dần là yêu hàng năm…)
Ba yêu cầu bền vững trên là tiêu chuẩn để xem xét và đánh giá các loại hình
sử dụng đất đang được áp dụng ở hiện tại. Thông qua việc xem xét và đánh giá các
yêu cầu trên để giúp cho việc đinh hướng phát triển nông nghiệp bề vững trong
tương lai.
cầu bắt buộc đối với quản lý sự bền vững.
+ Độ che phủ tối thiếu phải đạt ngưỡng an toàn sinh thái (>35%).
+ Đa dạng sinh học biểu hiện qua thành phần loài (đa canh bền vững hơn độc
canh, cây lâu năm có khả năng bảo vệ đất tốt hơn cây.
1.2.1. Hiệu quảsử dụng đất nông nghiệp
Sử dụng các nguồn tài nguyên có hiệu quả cao trong sản xuất để phát triển

một nền nông nghiệp bền vững là xu thế tất yếu đối với các nước trên thế giới.
Hiểu một cách khái quát thì hiệu quả chính là kết quả như yêu cầu mà việc
làm mang lại. Nó là kết quả mong muốn, cái sinh ra kết quả mà con người mong đợi
và hướng tới. Nó có nội dung khác nhau ở những lĩnh vực khác nhau. Trong sản
xuất hiệu quả có nghĩa là hiệu suất, năng suất. Trong kinh doanh hiệu quả là lãi suất,
lợi nhuận, trong lao động hiệu quả là năng suất lao động được đánh giá bằng số
lượng thời gian hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm hoặc bằng số lượng sản
phẩm được sản xuất ra trong một đơn vị thời gian. Trong xã hội, hiệu quả xã hội là
có tác dụng tích cực đối với một lĩnh vực xã hội nào đó.
Ta có thể thấy bản chất của hiệu quả xuất phát từ mục đích của sản xuất và
phát triển kinh tế xã hội là đáp ứng ngày càng cao về nhu cầu đời sống vật chất và
tinh thần của mọi thành viên trong xã hội. Cho nên mỗi cá nhân và tổ chức đều phải
có bổn phận nâng cao hiệu quả hoạt động của mình.

15


Hiện nay, khi nói đến hiệu quả sử dụng đất nói chung và sử dụng đất nông
nghiệp nói riêng, chúng ta thường đề cập đến 3 khía cạnh là kinh tế, xã hội và môi
trường. Sử dụng đất đai có hiệu quả là các hệ thống, các biện pháp nhằm điều hòa
mối quan hệ người – đất trong tổ hợp với các nguồn tài nguyên khác và môi trường
để đảm bảo được cả 3 yếu tố nói trên.
* Hiệu quả kinh tế: Là hiệu quả do tổ chức và bố trí sản xuất hợp lý để đạt
được lợi nhuận cao với chi phí thấp hơn. Như vậy, hiệu quả kinh tế của một hiện
tượng hay một quá trình kinh tế là một phạm trù kinh tế, phản ánh trình độ khai thác
các yếu tố đầu tư, các nguồn lực tự nhiên và phương thức quản lý. Nó được thể hiện
bằng hệ thống các chỉ tiêu nhằm phản ánh các mục tiêu cụ thể của các cơ sở sản
xuất phù hợp với yêu cầu của xã hội và được xác định bằng cách so sánh kết quả
thu được với chi phí bỏ ra. Hiệu quả kinh tế là chỉ tiêu phản ánh trình độ và chất
lượng sử dụng các yếu tố của sản xuất - kinh doanh nhằm đạt được kết quả kinh tế

tối đa với chi phí tối thiểu.
Hiệu quả kinh tế là tiêu chí được quan tâm hàng đầu, là khâu trung tâm để
đạt được các loại hiệu quả khác. Hiệu quả kinh tế có khả năng lượng hóa bằng các
chỉ tiêu kinh tế, tài chính.
* Hiệu quả xã hội: là hiệu quả phản ánh mối quan hệ lợi ích giữa con người
với con người, có tác động tới mục tiêu kinh tế. Hiệu quả xã hội được thể hiện bằng
các chỉ tiêu định tính hoặc định lượng.
Trong sử dụng đất nông nghiệp, hiệu quả về mặt xã hội chủ yếu được xác
định bằng khả năng tạo việc làm trên một diện tích đất sản xuất nông nghiệp. Hiện
nay, việc đánh giá hiệu quả xã hội của các loại hình sử dụng đất nông nghiệp là vấn
đề đang được nhiều nhà khoa học quan tâm. Việc lượng hóa các chỉ tiêu của hiệu
quả xã hội còn gặp nhiều khó khăn mà chủ yếu phản ánh bằng các chỉ tiêu mang
tính định tính như tạo công ăn việc làm cho lao động, xóa đói giảm nghèo, định
canh, định cư, công bằng xã hội, nâng cao mức sống của toàn dân,...

16


* Hiệu quả môi trường: là hiệu quả đảm bảo tính bền vững cho môi trường
trong sản xuất và xã hội. Hiệu quả môi trường là vấn đề đang được nhân loại quan
tâm, được phản ánh bằng các chỉ tiêu kinh tế và kỹ thuật.
Một hoạt động sản xuất được coi là có hiệu quả khi hoạt động đó không gây
tổn hại hay có những tác động xấu đến môi trường đất, nước, không khí, không gây
ảnh hưởng xấu đến môi trường sinh thái và vấn đề đa dạng sinh học.
Như vậy, quan niệm về hiệu quả trong điều kiện hiện nay là phải thỏa mãn
vấn đề tiết kiệm thời gian, tiết kiệm tài nguyên trong sản xuất, mang lại lợi ích xã
hội và bảo vệ được môi trường.
1.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp:
1.3.1. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế
Để đánh giá hiệu quả về mặt kinh tế, các chỉ tiêu được tính toán trên một đơn

vị diện tích thống nhất (thường là 1ha) bao gồm các chỉ tiêu sau:
* Giá trị sản xuất (GTSX)
Giá trị sản xuất là toàn bộ giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ được tạo ra
trong một thời kỳ nhất định, thường là 1 năm trên một đơn vị diện tích xác định. Giá
trị sản xuất trong sản xuất nông nghiệp chính là giá trị sản lượng trên một đơn vị diện
tích đất nông nghiệp.
GTSX = SL x GB
Trong đó: SL là sản lượng; GB là giá bán sản phẩm.
* Chi phí trung gian (CPTG)
Bao gồm toàn bộ chi phí vật chất thường xuyên bằng tiền mà chủ thể bỏ ra
để thuê và mua các yếu tố đầu vào (trừ khấu hao tài sản cố định) và dịch vụ sử dụng
trong quá trình sản xuất. Chi phí trung gian trong sản xuất nông nghiệp thường là
chi phí cho giống, công lao động, các loại thuốc bảo vệ thực vật, máy móc, và các
chi khác (nếu có).
CPTG = Pb + Go + BVTV + CPk

17


Trong đó: Pb là chi phí về phân bón, Go là chi phí về giống, BVTV là chi
phí về thuốc bảo vệ thực vật, CPk là các chi phí khác (công lao động, máy móc, chi
phí cho các phát sinh khác)
* Giá trị gia tăng (GTGT)
Là giá trị sản phẩm vật chất mới tạo ra trong quá trình sản xuất. Giá trị gia
tăng được tính theo công thức:
GTGT = GTSX - CPTG
Trong nền kinh tế thị trường, người sản xuất rất quan tâm đến GTGT, đặc
biệt trong các quyết định ngắn hạn. Nó là kết quả của việc đầu tư các chi phí vật
chất và lao động sống của từng hộ và khả năng quản lý của người chủ hộ.
* Thu nhập hỗn hợp: Là thu nhập sau khi đã trừ đi các khoản chi phí trung

gian, thuế và tiền thuê đất, khấu hao tài sản cố định, chi phí lao động thuê ngoài, có
thể tính theo công lao động hoặc tính theo đơn vị diện tích canh tác.
* Hiệu quả kinh tế trên một ngày công lao động:
Hiệu quả kinh tế trên một ngày lao động thực chất là đánh giá kết quả đầu tư
lao động sống cho từng kiểu sử dụng đất hoặc từng cây trồng, làm cơ sở để so sánh
với chi phí cơ hội của từng lao động, bao gồm các chỉ tiêu: GTSX/công LĐ và
GTGT/công LĐ.
Các chỉ tiêu được phân tích, đánh giá định lượng bằng tiền theo thời giá hiện
hành và định tính được tính bằng mức độ cao, thấp. Các chỉ tiêu đạt mức càng cao
thì hiệu quả kinh tế càng lớn.
* Hiệu suất đồng vốn: Được tính bằng tổng giá trị sản xuất chia cho tổng chi
phí trung gian. Hiệu suất đồng vốn thể hiện hiệu quả sử dụng của khoản đầu tư cho
sản xuất.
HQĐV = GTSX / CPTG
1.3.2. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả xã hội
Hiệu quả xã hội là một phạm trù có liên quan mật thiết với hiệu quả kinh tế và
thể hiện mục tiêu hoạt động kinh tế của con người. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả xã
hội bao gồm:

18


+ Đảm bảo an ninh lương thực, gia tăng lợi ích của người nông dân
+ Phải được sự chấp nhận và ủng hộ của người dân.
+ Thu hút được nhiều lao động, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động địa
phương.
+ Phải đảm bảo đời sống, tăng thu nhập cho người lao động (xét trên cơ sở:
số công lao động, giá trị ngày công lao động).
+ Trình độ dân trí, trình độ hiểu biết khoa học kỹ thuật: khả năng ứng dụng
tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất

+ Góp phần định canh, định cư
+ Đáp ứng được mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế của vùng.
1.3.3. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả môi trường
Trong sử dụng đất luôn có sự mâu thuẫn giữa những lợi ích vật chất, cá nhân
trước mắt với những lợi ích xã hội, lâu dài. Việc người dân khai thác từ đất nhiều
hơn, trong khi cung cấp cho đất lượng phân hữu cơ ít và tăng các dạng phân hoá
học, thuốc bảo vệ thực vật... đều là những nguyên nhân làm tổn hại môi trường. Sử
dụng đất thực sự đạt hiệu quả khi nó không có mâu thuẫn trên. Vì vậy, một số tiêu
chí được đưa ra khi đánh giá đến hiệu quả môi trường trong sử dụng đất là:
+ Tăng độ che phủ rừng, giảm thiểu thiên tai
+ Tăng độ phì nhiêu của đất
+ Lượng phân bón tồn dư trong đất phải nằm trong khoảng cho phép
+ Cải tạo, bảo tồn thiên nhiên
+ Sự thích hợp với môi trường đất khi thay đổi kiểu sử dụng đất
1.4. Thực trạng sử dụng đất nông nghiệp ở Việt Nam
1.4.1. Thực trạng vấn đề sử dụng đất nông nghiệp ở Việt Nam
Đến 01/01/2007 tổng diện tích đất nông nghiệp của cả nước là 24.696 hecta
và đến 01/01/2008 vẫn là 24.696 hecta, nhưng với số dân cả nước lên tới
86.210.800 người (tính đến hết 2008), trong đó dân số thành thị là 24.233.300
người, chiếm 28,11%; nông thôn là 61.977.500 người, (71,89%). Do nhu cầu sử
dụng đất cho các mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội, trong những năm gần đây, diện

19


tích đất này ngày càng giảm mạnh. Phân theo địa phương, khu vực TD - MNPB
đứng thứ 2 trong cả nước về tổng diện tích, khu vực này đứng đầu trong cả nước về
diện tích đất lâm nghiệp, nhưng diện tích sản xuất nông nghiệp thì chỉ đứng thứ tư
trong 6 khu vực của cả nước với 1.423,2 nghìn hecta. Khu vực TD - MNPB có diện
tích đất lâm nghiệp chiếm tới hơn 50% tổng diện tích, chỉ đứng sau khu vực Tây

Nguyên về cơ cấu đất lâm nghiệp. Song, đất nông nghiệp của khu vực TD - MNPB
lại chỉ chiếm hơn 14,9% tổng diện tích. Con số này cho thấy, đây là khu vực có diện
tích đất nông nghiệp so với tổng diện tích tự nhiên thấp nhất trong cả nước. Tính
đến hết năm 2000 là như vậy, nhưng xét trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến
2007, diện tích đất nông nghiệp đã có sự biến động đáng kể. Xét xu hướng biến
động của đất nông nghiệp cùng với sự biến động của dân số trong giai đoạn này có
thể thấy, dân số không ngừng tăng lên theo thời gian, trong khi đó đất SXNN, bao
gồm cả đất trồng cây hàng năm liên tục giảm, khiến cho diện tích đất SXNN bình
quân đầu người cũng giảm.
Tính đến 2010, tăng trưởng giá trị sản xuất của nông nghiệp bình quân đạt
gần 5,5%/năm. Trong giai đoạn gần đây, mặc dù trung bình mỗi năm giảm đi
khoảng 70.000 ha đất nông nghiệp, trên 100 nghìn lao động, tỷ trọng trong đầu tư
xã hội giảm, thiên tai, dịch bệnh diễn biến phức tạp nhưng nông, lâm, thủy sản vẫn
duy trì tốc độ tăng trưởng GDP 3,8%/năm.
Cơ cấu sản xuất nông, lâm, thuỷ sản chuyển dịch tích cực theo hướng nâng
cao năng suất, chất lượng, hiệu quả gắn với nhu cầu thị trường. Tỷ trọng nông
nghiệp (bao gồm cả nông, lâm, diêm nghiệp và thuỷ sản) trong tổng GDP cả nước
giảm từ 24,5% năm 2000 xuống còn 20,3% năm 2007 và tăng trở lại 22,1% năm
2008. Trong nội bộ ngành đang có xu hướng tăng nhanh tỷ trọng thuỷ sản, giảm tỷ
trọng trồng trọt trong giá trị sản lượng. Trong giai đoạn 2000 - 2008, tỷ trọng thuỷ
sản tăng từ 16% lên 23% trong khi trồng trọt giảm từ 65% xuống còn 57%.
Trong nội bộ các ngành cũng diễn ra các chuyển biến cơ cấu tích cực. Trong
trồng trọt, giai đoạn 2000 - 2008 diện tích gieo trồng lúa giảm hơn 250.000 ha,
trong khi diện tích các cây công nghiệp, rau màu và cây ăn quả tiếp tục mở rộng.

20


Trong chăn nuôi, hình thức chăn nuôi trang trại, gia trại đang thay thế dần mô hình
chăn nuôi tận dụng nhỏ lẻ ở gia đình. Trong thủy sản, nghề khai thác xa bờ phát

triển nhanh. Đến nay, tổng số tầu thuyền có 130.963 chiếc với tổng công suất
5.400.000 CV. Trong đó tầu thuyền có công suất 90 CV trở lên có 14.500 chiếc,
chiếm tỷ trọng 11%. Hoạt động khai thác đang có xu hướng chuyển dần ra xa bờ, sử
dụng các phương tiện, máy móc hiện đại như máy tầm ngư, định vị nhằm tăng hiệu
quả sản xuất. Diện tích nuôi trồng thủy sản tăng rất nhanh, từ năm 2000 đến 2008
tăng 408.100 ha. Nuôi trồng Thủy sản tiếp tục đa loài, đa loại hình, đa phương thức
hướng thân thiện với môi trường. Sản phẩm nuôi trồng, khai thác thủy sản ngày
càng gia tăng không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn cung cấp
nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu. Trong lâm nghiệp, việc trồng rừng sản xuất
được đẩy mạnh với chương trình trồng mới 5 triệu ha. Tỷ lệ che phủ rừng năm 2008
đạt 38,7%. Nhiều nơi đã tiến hành khai thác kinh doanh tổng hợp, phát triển chế
biến lâm sản. Đồ gỗ sau chế biến đã trở thành một mặt hàng xuất khẩu quan trọng.
Cơ cấu kinh tế nông thôn cũng chuyển biến tích cực. Từ một nền kinh tế
thuần nông, đến năm 2007, trong khu vực nông thôn, công nghiệp và dịch vụ đã
chiếm khoảng 60% cơ cấu kinh tế. Tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp ở nông
thôn đã tăng từ 17,3% năm 2001 lên 19,3% năm 2007. Nhiều khu công nghiệp, cụm
công nghiệp, các làng nghề đang phát triển nhanh ở nông thôn. Ngành công nghiệp
chế biến nông, lâm, thủy sản tăng trưởng giai đoạn 2001 đến 2006 ở mức
14,8%/năm, nâng giá trị chế biến nông, lâm sản năm 2007 lên 28% cơ cấu giá trị
sản xuất và 14% giá trị xuất khẩu của ngành công nghiệp .(11)
Hiện nay tính đến ngày 1/1/2014, Việt Nam có khoảng 26.822.953 ha đất
nông nghiệp chiếm 81,04% diện tích tự nhiên[5].
Bình quân đất nông nghiệp tính theo đầu người là 1224m2/người. Trong đó:
+ Đất trồng cây hàng năm: 6.409.475 ha chiếm 23,90% diện tích đất nông
nghiệp.
+ Đất trồng cây lâu năm: 3.822.241 ha chiếm 14,25% diện tích đất nông
nghiệp.

21



+ Đất lâm nghiệp: 15.845.333 ha chiếm 59,07% diện tích đất nông nghiệp.
+ Đất mặt nước nuôi trồng thủy sản: 707.827 ha chiếm 2,64% diện tích đất
nông nghiệp.
+ Đất làm muối:17.887 ha chiếm 0,07% diện tích đất nông nghiệp.
+ Đất nông nghiệp khác:20.190 ha chiếm 0,08% diện tích đất nông nghiệp

22


CHƯƠNG II
ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng
Đất nông nghiệp và các loại hình sử dụng đất nông nghiệp tại xã Thanh
Luông, Huyện Điện Biên, Tỉnh Điện Biên
2.1.2. Phạm vi
Phạm vi không gian: xã Thanh Luông, Huyện Điện Biên, Tỉnh Điện Biên.
2.2. Nội dung nghiên cứu
2.2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tại khu vực nghiên cứu
2.2.2. Hiện trạng sử dụng đất tại khu vực nghiên cứu
2.2.3. Xác định và mô tả các loại hình sử dụng đất chính của xã.
2.2.4. Đánh giá hiệu quả vềkinh tế - xã hội, môi trường.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp thu thập số liệu, tài liệu sơ cấp, thứ cấp
2.3.1.1. Phương pháp thu thập số liệu, tài liệu sơ cấp
- Khảo sát thực địa nhằm kiểm chứng các thông tin, số liệu đã thu thập được
qua điều tra.
2.3.1.2. Phương pháp thu thập số liệu, tài liệu thứ cấp

Thu thập tài liệu có sẵn, tài liệu thu nhập từ các cơ quan quản lý chuyên môn
như: Phòng Tài nguyên môi trường, phòng nông nghiệp, phòng thống kê... của
huyện. Tiến hành điều tra bổ sung ngoài thực địa để điều chỉnh cho phù hợp với
thực tế và chuẩn hóa các số liệu.
2.3.2. Phương pháp kế thừa
Đây là phương pháp mà trong quá trình thực hiện nghiên cứu đã kế thừa các
phương pháp, các số liệu sẵn có của địa phương để làm tài liệu tham khảo và nghiên
cứu.
2.3.3. Phương pháp phân tích, tính toán và xử lý số liệu

23


Đây là phương pháp phân tích và xử lý các số liệu thô đã được thu nhập để
thiết lập các bảng biểu để so sánh được sự biến động và tìm ra nguyên nhân của nó.
Trên cơ sở đó đưa ra các biện pháp cần thực hiện. Số liệu thu thập được xử lý bằng
phần mềm Excel.
2.3.4. Phương pháp chuyên gia:
Tham khảo các ý kiến của cán bộ địa chính, cán bộ tài nguyên, các chủ hộ
sản xuất, các chuyên gia trong lĩnh vực đánh giá đất đai.

24


CHƯƠNG III
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tại khu vực nghiên cứu
3.1.1. Điều kiện tự nhiên
* Vị trí địa lý
Thanh Luông là một xã biên giới Việt - Lào có đường biên giới dài khoảng

8km, đồng thời cũng là một xã lòng chảo phía Tây huyện Điện Biên, có vị trí tiếp
giáp như sau:
- Phía Đông giáp TP. Điện Biên Phủ
- Phía Tây giáp nước CHDCND Lào
- Phía Bắc giáp xã Thanh Nưa
- Phía Nam giáp xã Thanh Hưng
Xã Thanh Luông có tổng diện tích tự nhiên là 3615,94 ha có vị trí địa lý
thuận lợi giáp với TP. Điện Biên Phủ nên có nhiều điều kiện để phát triển kinh tế, xã
hội.
3.1.2. Địa hình, địa mạo
3.1.2.1. Địa hình
Xã Thanh Luông là xã nằm trong khu vực lòng chảo bồn địa Điện Biên, địa
hình của xã được chia thành 2 vùng rõ rệt:
- Vùng Đồng bằng có độ cao khoảng 480 - 495m, địa hình tương đối bằng
phẳng.
- Vùng đồi núi có độ cao trên 495m.
3.1.2.2. Địa chấn
Cùng với các khu vực xã , phường khác trong tỉnh Điện Biên, xã Thanh
Luông chịu ảnh hưởng của vùng địa chấn thuộc hệ thống đứt gẫy á kinh tuyến với:
- Chu kỳ động đất là 120 năm với cường độ chấn động trên mặt đất là Lomax
= 8.
- Cấp động đất Mmax = 5.1 - 5.5. độ Richter, độ sâu h = 10 - 15km.

25


×