Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Bài thu hoạch ngoại khóa tư tưởng Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.13 KB, 16 trang )

Nêu cảm nghĩ của em sau chuyến học tập ngoại
khóa.

Là công dân Việt Nam ai ai cũng biết đến cái tên Nguyễn Ái Quốc, cả đời Người
đã buôn ba khắp năm trâu để tìm đường giải phóng dân tộc. Trong buổi học tập ngoại
khóa để phục vụ cho môn Tư tưởng Hồ Chí Minh vừa qua, tập thể lớp chúng tôi đã có
dịp đến viếng lăng Bác và thăm Bảo tàng Hồ Chí Minh. Chuyến đi này đã để lại trong
chúng tôi rất nhiều suy nghĩ và tâm trạng xúc động về Bác Hồ - người cha già kính yêu
của dân tộc Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh tên thật là Nguyễn Sinh Cung tự là Tất Thành. Quê nội là
làng Kim Liên (tên Nôm là làng Sen). Người được sinh ra ở quê ngoại là làng Hoàng
Trù (tên Nôm là làng Chùa, nằm cách làng Sen khoảng 2km) và sống ở đây cho đến
năm 1895. Hai làng này vốn cùng nằm trong xã Chung Cự, thuộc tổng LâmThịnh,
huyện Nam Đàn. Quê nội của người, làng Kim Liên là một làng quê nghèo khó. Phần
lớn dân chúng không có ruộng, phải làm thuê cấy rẽ, mặc quần ít, đóng khố nhiều, bởi
thế nên làng này còn có tên là làng Đai Khố. Thân phụ Người là một nhà nho tên là
Nguyễn Sinh Sắc, từng đỗ phó bảng. Thân mẫu là bà Hoàng Thị Loan, Người có một
người chị là Nguyễn Thị Thanh, một người anh là Nguyễn Sinh Khiêm (tự Tất Đạt, còn
gọi là Cả Khiêm) và một người em trai mất sớm là Nguyễn Sinh Nhuận (1900-1901, tên
khi mới lọt lòng là Xin).
Vào năm 1901 khi cha của Bác đậu học vị Phó bảng, ông đã đưa 2 người con
trai của mình trở lại quê nội là Làng Sen. Và theo phong tục của làng thì ông đã làm lễ
nhập làng và đổi tên con trai đầu Nguyễn Sinh Khiêm thành Nguyễn Tất Đạt, đổi tên
Bác Hồ, Nguyễn Sinh Cung thành Nguyễn Tất Thành với một mong muốn- mong muốn
2 người con trai của mình sau này lớn lên sẽ thành đạt. Hơn 5 tuổi Nguyễn Tất Thành
được cha gửi vào học tại trường Tiểu học Vạn Sử Vinh và Người đã được học tiếng
Pháp.
Tháng 9 năm 1907, Người vào học tại trường Quốc học Huế, nhưng bị đuổi học
vào cuối tháng 5 năm 1908 vì tham gia phong trào chống thuế ở Trung Kỳ. Cha Người
bị triều đình khiển trách vì "hành vi của hai con trai". Hai anh em Tất Đạt và Tất Thành
bị giám sát chặt chẽ. Ông quyết định vào miền Nam để tránh sự kiểm soát của triều


đình. Đến năm 1910, khi Người 20 tuổi thì Người đã rời quê hương và đi vào Phan
Thiết. Người dạy chữ Hán và chữ Quốc ngữ cho học sinh lớp ba và tư tại trường Dục
Thanh của Hội Liên Thành. Tại đây, Người theo học trường Bá Nghệ là trường đào tạo
công nhân hàng hải và công nhân chuyên nghiệp cho xưởng Ba Son ( bây giờ là
trường Cao Đẳng kỹ thuật Cao Thắng ). Ở đây, Người học được 3 tháng. Sau đó


Người quyết định sẽ tìm một công việc trên một con tàu viễn dương để được ra nước
ngoài. Với tinh thần yêu nước nồng nàn, với sự sáng suốt về chính trị, Người đã bắt
đầu suy nghĩ về những nguyên nhân thành bại của các phong trào yêu nước hồi bấy
giờ và quyết tâm đi tìm con đường đúng đắn để cứu dân, cứu nước.
Lòng yêu nước, thương dân và ý chí quyết tâm tìm đường cứu nước của Người
đã được hình thành trong Người.
Ngày 5 tháng 6 năm 1911, từ Bến Nhà Rồng, Người lấy tên Văn Ba, lên đường
sang Pháp với nghề phụ bếp trên chiếc tàu buôn Đô đốc Latouche-Tréville , với mong
muốn học hỏi những tinh hoa và tiến bộ từ các nước phương Tây. Sau khi ở Hoa Kỳ
một năm (cuối 1912-cuối 1913), Người quay trở lại nước Anh làm nghề cào tuyết, đốt lò
rồi phụ bếp cho khách sạn. Cuối năm 1917, Người trở lại nước Pháp, sống và hoạt
động ở đây cho đến năm 1923.Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc Luận cương về vấn đề
dân tộc và thuộc địa của Lenin, từ đó Người đi theo chủ nghĩa cộng sản. Người tham
dự Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp tại Tours (từ 25 đến 30 tháng 12 năm
1920) với tư cách là đại biểu Đông Dương của Đảng Xã hội Pháp, Người trở thành một
trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp và tách khỏi đảng Xã hội. Năm
1921, Người cùng một số nhà yêu nước của các thuộc địa Pháp lập ra Hội Liên hiệp
Thuộc địa (Union intercoloniale - Association desindigènes de toutes les colonies) nhằm
tập hợp các dân tộc bị áp bức đứng lên chống chủ nghĩa đế quốc. Năm 1922, Người
cùng một số nhà cách mạng thuộc địa lập ra báo Le Paria (Người cùng khổ), làm chủ
nhiệm kiêm chủ bút, nhằm tố cáo chính sách đàn áp, bóc lột của chủ nghĩa đế quốc nói
chung và thực dân Pháp nói riêng. Tác phẩm "Bản án chế độ thực dân Pháp" bằng
tiếng Pháp (Procès de la colonization française) do Nguyễn Ái Quốc viết được xuất bản

năm 1925, đã tố cáo chính sách thực dân tàn bạo của Pháp và đề cập đến phong trào
đấu tranh của các dân tộc thuộc địa. Tháng 6 năm 1923, Nguyễn Ái Quốc đến Moskva
học tập tại trường Đại học Phương Đông. Tại đây Người đã dự Hội nghị lần thứ nhất
Quốc tế Nông dân (họp từ ngày 12 đến ngày 15 tháng 10 năm 1923), được bầu vào
Ban chấp hành và Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân. Tại Đại hội lần thứ 5 Đệ Tam Quốc
tế (họp từ ngày 17 tháng 6 đến ngày 8 tháng 7 năm 1924), Người được cử làm ủy viên
Ban Phương Đông, phụ trách Cục Phương Nam.
Đây quá trình hòa minh với cuộc sống của nhân dân lao động, với thực tiễn đấu
tranh cách mạng... Người nhận thức được nguồn gốc sâu xa của áp bức dân tộc và áp
bức giai cấp. Kết hợp giữa lý luận cách mạng và thực tiễn cách mạng, Người tìm thấy
con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam. Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc
rời Liên Xô tới Quảng Châu, lấy tên là Lý Thụy, làm phiên dịch trong phái đoàn cố vấn
của chính phủ Liên Xô bên cạnh chính phủ Trung Hoa Dân quốc.
Cảm nhận đầu tiên của tôi khi vào thăm lăng Bác là không khí trang nghiêm. Tất
cả mọi thứ ở đây như ngưng đọng lại để tạo không khí yên tĩnh cho giấc ngủ ngàn thu
của người anh hùng vĩ đại của dân tộc.


Nhịp chân khi xếp hàng chờ được vào viếng Bác càng nóng lòng và hối hả bao
nhiêu, thì khi đứng bên Người càng chậm rãi bấy nhiêu. Con tim như ngừng đập,
những đôi mắt dừng lại, và bước chân cố níu chậm hơn. Thật khó diễn tả hết cảm xúc
khi đứng bên và ngắm nhìn Người đang an lành trong giấc ngủ. Khuôn mặt Người vẫn
rạng ngời niềm vui như ngày toàn thắng, niềm vui của một tấm lòng yêu cháu con và
đất nước da diết.
Năm tháng dần qua, nơi đó vẫn lưu giữ Người trong giấc ngủ ngàn thu. Ngày
ngày đoàn người nối nhau về viếng thăm rồi tạm biệt Người trong kính yêu, tin tưởng
và trong nghẹn ngào nuối tiếc. Ngày ngày, dòng người ngược xuôi qua lại trên con
đường dài chạy vòng quanh Lăng Bác, con đường nối liền với hàng tre xanh như vòng
tay của đất nước ôm ấp Người vào lòng. Đứng xa xa nhìn khung cảnh yên bình ấy, thấy
lòng xôn xao ấm áp, bởi hiểu rằng, làng quê và lòng người Việt luôn bên Người, mặc

cho bao đổi thay của thời cuộc.Trước lăng Bác, giữa quảng trường Ba Đình là nơi lưu
lại nhiều dấu tích trọng đại nhất suốt chiều dài lịch sử đất nước. Chính tại nơi đây, ngày
2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, chấm dứt
80 năm ách thực dân phát xít, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Từ đó,
vào các ngày lễ lớn của nước ta, luôn có những cuộc diễu hành trên quảng trường
được người dân Việt mọi nơi chờ đợi, hướng về.
Cuộc đời của Người là “bảy mươi chín mùa xuân” tươi đẹp, cống hiến trọn vẹn
cho dân tộc, cho đất nước. Suốt hơn nửa thế kỉ, Bác đã chiến đấu, hy sinh để đem lại
độc lập tự do cho dân tộc, đem lại cuộc sống hòa bình, ấm no, hạnh phúc cho nhân
dân. Sự cống hiến của Bác thật cao cả, vĩ đại! Vì vậy Bác còn sống mãi trong niềm
ngưỡng mộ, tôn kính của nhân dân. Bác đã đi xa nhưng sự nghiệp cách mạng cao cả
của Người vẫn luôn tồn tại như bầu trời cao xanh kia. Hình ảnh Bác vẫn mãi soi sáng,
sát cánh cùng non sông đất nước, trong tâm hồn dân tộc. Nhưng sự thật vẫn là sự thật,
Bác đã ra đi, Tôi nghe mà “nhói ở trong tim”. Đó là nỗi đau của những người con miền
Nam bao năm mong ước được gặp Bác và cũng là nỗi đau chung của cả dân tộc. Bác
ra đi là một mất mát lớn lao không gì bù đắp được. Dân tộc đã mất đi một vị lãnh tụ vĩ
đại, một người cha già kính yêu.
Di tích Phủ Chủ tịch
Điểm di tích đầu tiên trong hành trình tham quan Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí
Minh tại Phủ Chủ tịch là toà nhà Phủ Chủ tịch. Đây là toà nhà sang trọng, bề thế, cao
bốn tầng nhìn thẳng ra đường Hùng Vương.
Công trình mang phong cách thời Phục Hưng này được xây dựng từ những năm
đầu thế kỷ XX (1900 – 1906), do kiến trúc sư người Pháp gốc Đức Lich-ten Fen-đơ
thiết kế. Diện tích sử dụng của toà nhà gần 1300 mét vuông. Toàn bộ toà nhà có trên
30 phòng, mỗi phòng được trang trí theo một phong cách riêng. Trong thời thực dân
Pháp cai trị, toà nhà được gọi là Phủ Toàn quyền Đông Dương, từ khi nhà được hoàn
thành đến ngày cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, đã có 29 đời Toàn quyền và
Quyền Toàn quyền ở và làm việc.
Trong năm 1945 đến năm 1946, hết phát xít Nhật đến quân đội Trung Hoa dân
quốc chiếm giữ toà nhà này. Khi thực dân Pháp quay trở lại xâm lược Việt Nam lần thứ



hai thì nơi đây lại trở thành trụ sở cao nhất của chính quyền thực dân. Toà nhà này chỉ
thực sự thuộc về nhân dân Việt Nam sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
thành công, thủ đô Hà Nội được giải phóng (tháng 10 – 1954), (toà nhà được gọi là Phủ
Chủ tịch). Tại đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường chủ trì các phiên họp Hội đồng Chính
phủ quyết định những vấn đề lớn, quan trọng của đất nước; tiếp đón khách quốc tế và
gặp gỡ đại biểu nhân dân Việt Nam.
Với khách quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp đón từ các vị nguyên thủ quốc gia,
lãnh tụ Đảng các nước anh em, đại sứ các nước đến trình quốc thư, các đoàn nghệ
thuật, thể thao, các nhà văn, nhà báo, nhà khoa học, các tổ chức quần chúng… và bạn
bè khắp nơi trên thế giới đến với Việt Nam, ủng hộ sự nghiệp cách mạng và giúp đỡ
nhân dân Việt Nam xây dựng cuộc sống mới.
Với nhân dân Việt Nam, Người gặp gỡ các đại biểu thuộc mọi thành phần trong
xã hội, không phân biệt họ thuộc tôn giáo, đảng phái nào, làm ngành nghề gì. Trong 15
năm, từ năm 1945 đến năm 1969, tại Phủ Chủ tịch, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp trên
1000 đoàn đại biểu trong nước và ngoài nước. Phủ Chủ tịch còn là nơi Chủ tịch Hồ Chí
Minh nhiều lần đọc thơ chúc Tết đầu xuân nhân dịp năm mới.
Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời (ngày 2 tháng 9 năm 1969), Phủ Chủ tịch
trở thành một trong những di tích lưu niệm về Người được Nhà nước xếp hạng là di
tích đặc biệt quan trọng trong tổng thể Khu di tích Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch. Song
từ đó đến nay toà nhà này vẫn là nơi làm việc của Chủ tịch nước; những hoạt động có
ý nghĩa quan trọng của Đảng và Nhà nước ta vẫn được tiến hành trọng thể ở đây.
Di tích nhà 54
Sau khi quyết định dành Phủ Toàn quyền cũ để Nhà nước làm việc và tiếp
khách, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn một ngôi nhà nhỏ mái ngói, ở gần bờ ao để ở và
làm việc. Ngôi nhà này vốn là nơi ở của người thợ điện nằm trong khu vực dành cho
các nhân viên phục vụ Phủ Toàn quyền Đông Dương trước đây. Chủ tịch Hồ Chí Minh
sống và làm việc tại ngôi nhà này từ tháng 12 năm 1954, vì vậy ngôi nhà có tên là “Nhà
54”. Người ở và làm việc tại ngôi nhà này gần 4 năm từ 1954 đến giữa tháng 5 năm

1958. Sau đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh chuyển sang ở ngôi nhà sàn được xây dựng trong
khu vườn Phủ Chủ tịch phía bên kia bờ ao, nhưng hàng ngày Người vẫn trở về nơi đây
để dùng cơm và khám sức khoẻ định kỳ. Bởi vậy Nhà 54 là nơi gắn bó với cuộc sống
đời thường của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt 15 năm cuối cùng của cuộc đời.
Trong thời gian ở và làm việc ở Nhà 54, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương
Đảng, Bộ Chính trị xây dựng đường lối chiến lược, sách lược cơ bản cho cách mạng
Việt Nam, lãnh đạo nhân dân Việt Nam hoàn thành thắng lợi công cuộc hàn gắn vết
thương chiến tranh, khôi phục kinh tế và xây dựng những cơ sở vật chất đầu tiên cho
sự nghiệp xây dựng đất nước, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trong thời gian
này (từ năm 1954 đến năm 1958), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dẫn đầu nhiều đoàn đại
biểu Đảng, Chính phủ ta đi thăm chính thức 15 nước anh em ở châu Âu và châu á.
Những chuyến đi đó đã góp phần tích cực vào việc xây dựng và phát triển mối quan hệ
hữu nghị giữa Việt Nam với các nước trên thế giới, nâng cao vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới đối với cách mạng
Việt Nam.
Nhà 54 có ba phòng, phía giáp ao là phòng làm việc và cũng là nơi Người tiếp
khách, ở giữa là phòng ăn, cuối cùng là phòng ngủ. Mọi đồ dùng sinh hoạt của Người
cùng với tài liệu sách báo Người đang đọc, những món quà lưu niệm bạn bè quốc tế


tặng Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn được giữ nguyên, xếp đặt gọn gàng, hợp lý, khoa học
như những ngày cuối cùng của Người.
Tại phòng ăn của Chủ tịch Hồ Chí Minh hiện đang trưng bày một bộ đồ ăn hàng
ngày của Người. Bữa cơm hàng ngày của Người chỉ vài ba món. Khi mời khách dùng
cơm thân mật. Người thường nhắc các đồng chí phục vụ nấu món ăn phù hợp khẩu vị
của khách để mọi người ngon miệng.
Trong phòng ngủ, đồ dùng sinh hoạt của Chủ tịch Hồ Chí Minh đơn giản, như
mọi người dân bình thường: một bộ bàn ghế để Người đọc sách ban đêm, một chiếc
giường nhỏ đơn giản không kiểu cách, cầu kỳ, chiếc tủ đựng quần áo. Trong tủ chỉ có
vài ba bộ quần áo Người mặc hàng ngày và bộ quần áo kaki Người dùng khi tiếp khách

hoặc đi công tác…
Tổng số tài liệu hiện vật ở trong nhà 54 gần 400 đơn vị, riêng hiện vật thuộc chất
liệu giấy đã có hơn 300 đơn vị.
Ngôi nhà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sống trong những năm đầu về thủ đô Hà Nội
là minh chứng cuộc sống giản dị, gần gũi gắn bó với nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Người chia sẻ với nhân dân những vất vả, khó khăn, đồng cam cộng khổ và động
viên nhân dân, cùng nhân dân vượt qua những thách thức lớn của thời kỳ miền Bắc
quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên một nền tảng kinh tế, xã hội vô cùng nghèo nàn, lạc
hậu, bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Nhũng hoạt động của Người ở ngôi nhà nhỏ này
đã phản ánh phong cách sống, tinh thần quyết tâm phấn đấu vì cuộc sống ấm no, hạnh
phúc của nhân dân, vì tương lai của đất nước trên chặng đường phát triển mới của lịch
sử dân tộc.
Di tích Nhà sàn
Sau gần 4 năm tiến hành công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục
kinh tế ở miền Bắc Việt Nam cơ sở vật chất của xã hội bước đầu được củng cố và phát
triển, đời sống nhân dân được nâng cao, Trung ương Đảng, Bộ Chính trị mong muốn
xây dựng một ngôi nhà mới để Chủ tịch Hồ Chí Minh có nơi ở, làm việc được tốt hơn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đồng ý với ý định này của Trung ương và lựa chọn kiểu nhà
sàn của đồng bào dân tộc sau buổi gặp mặt đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Bắc tại
Phủ Chủ tịch và sau chuyến đi thăm một số địa phương của tỉnh Thái Nguyên. Kiến trúc
sư Nguyễn Văn Ninh, nguyên Cục phó Cục Thiết kế kiến trúc thuộc Bộ Giao thông thuỷ
lợi (nay là Bộ xây dựng) được trao nhiệm vụ thiết kế và chỉ đạo xây dựng ngôi nhà này,
Đoàn 5 Cục Doanh trại (nay là Cục kiến thiết cơ bản) Tổng cục Hậu cần Quân đội nhân
dân Việt Nam chịu trách nhiệm thi công. Ông Nguyễn Văn Ninh được Chủ tịch Hồ Chí
Minh mời đến trao đổi về thiết kế, cách bố trí cụ thể của ngôi nhà.
Ngày 15 tháng 4 năm 1958 ngôi nhà sàn được khởi công xây dựng. Ngày 17
tháng 5 năm 1958 ngôi nhà được khánh thành.
Chủ tịch Hồ Chí Minh ở và làm việc tại nhà sàn trong 11 năm cuối đời (1958 –
1969). Tại nơi đây, Người đã ngày đêm suy nghĩ để cùng Bộ Chính trị hoàn chỉnh
đường lối chiến lược, sách lược cho cách mạng Việt Nam, tiếp tục lãnh đạo nhân dân

vượt qua khó khăn, thử thách để thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, tiến tới thống nhất đất nước,
góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc dân chủ và chủ
nghĩa xã hội trên thế giới . Hiện nay gần 250 tài liệu hiện vật thuộc nhiều chất liệu khác
nhau ở Nhà Sàn vẫn được giữ nguyên vẹn và bảo quản chu đáo như những ngày cuối
cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh sống và làm việc.


Nhà sàn được làm bằng gỗ dổi- loại gỗ thông thường trong xây dựng dân dụng,
mái nhà lợp ngói. Trước nhà là một vườn hoa nhỏ, trồng nhiều loại hoa thơm. Phía
ngoài là hàng rào dâm bụt gợi nhớ hình ảnh ngôi nhà Người đã sinh ra và lớn lên ở quê
hương Nghệ An.
Tầng dưới nhà sàn kê một bộ bàn ghế lớn. Đây là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh làm
việc về mùa hè, nơi Người họp, trao đổi công việc với các đồng chí trong Bộ Chính trị,
cán bộ phụ trách đầu ngành hoặc các địa phương đặc biệt là cán bộ, chiến sĩ miền
Nam ra miền Bắc chữa bệnh và công tác.
Trên bàn làm việc vẫn còn lại những kỷ vật của Người. Đó là những cuốn sách
Người đang đọc vào những ngày cuối cùng. Chồng sách ngoài cùng là loại sách nói về
người tốt, việc tốt của các giới, các ngành được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan
tâm. Người trực tiếp theo dõi việc xuất bản loại sách này. Hai chồng sách phía trong là
những cuốn sách bằng tiếng nước ngoài. ở đây có sách của V.I Lênin viết về cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười vĩ đại, sách của các tác giả nước ngoài viết về cuộc
chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ ở Việt Nam và phong trào đấu tranh chống phân
biệt chủng tộc ở ngay trong lòng nước Mỹ. Trên bàn làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
còn có chiếc khay đựng bút bằng đá mầu đen hình con thuyền, kỷ vật của Tổng thống
nước cộng hoà nhân dân Cu Ba Ôt-xvan-đô Đoóc-ti-cốt tặng Người năm 1967.
Phía cuối phòng có chiếc ghế chao (còn gọi là ghế xích đu) bằng mây, Người
thường nghỉ ngơi vào buổi trưa hoặc sau giờ làm việc, sau khi tiếp khách về.
Trong những năm tháng đế quốc Mỹ leo thang bắn phá miền Bắc Việt Nam bằng
không quân hải quân, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn làm việc tại nhà sàn. Người theo dõi

tình hình chiến sự, làm việc với Bộ tư lệnh phòng không, không quân, Cục tác chiến;
làm việc với Bộ Chính trị, Trung ương Đảng thông qua những máy điện thoại đặt ở cuối
phòng. Chiếc mũ sắt để bên cạnh được anh em bảo vệ mang theo trong những lần Chủ
tịch Hồ Chí Minh đi thăm các địa phương, đơn vị bộ đội… để phòng tránh những mảnh
bom, đạn.
Năm 1966, bị lún sâu vào vòng thế bị động, thua đau tại chiến trường miền Nam,
đế quốc Mỹ đánh phá miền Bắc càng dữ dội. Chúng hùng hổ tuyên bố: đưa miền Bắc
Việt Nam quay về thời kỳ đồ đã. Đứng trước thách thức đó, ngày 17 tháng 7 năm 1966,
tại ngôi nhà sàn bé nhỏ này Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết lời kêu gọi toàn dân đứng lên
chiến đấu chống Mỹ cứu nước. Người khẳng định ý chí, quyết tâm của toàn dân tộc
Việt Nam: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà
Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt
Nam quyết không sợ. Không có gì quý hơn Độc lập Tự do”. Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã cổ vũ nhân dân Việt Nam tiến lên giành chiến thắng và nó đã trở thành
chân lý của thời đại.
Xung quanh tầng dưới nhà là bệ xi măng bên trên lát ván gỗ được làm theo gợi ý
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, để mỗi lần các cháu thiếu nhi vào thăm Người có đủ chỗ
ngồi. Người còn nhắc anh em phục vụ đặt thêm bể cá vàng cho các cháu vui hơn.
Tầng trên nhà sàn có hai phòng: phòng làm việc, phòng ngủ. Diện tích mỗi
phòng hơn 10 mét vuông. Đồ dùng sinh hoạt, làm việc chỉ là những gì cần thiết nhất đủ
cho một người sử dụng.
Phòng làm việc có một bàn, một ghế, một giá sách. Giá sách được đặt vào vách
ngăn giữa hai phòng. Sách ở trên giá thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau: chính trị, kinh tế,
lịch sử, khoa học, văn học… Trong đó có nhiều cuốn sách của các tác giả trong nước


và ngoài nước tặng Chủ tịch Hồ Chí Minh với những lời đề tặng đầy tình cảm trân trọng
và quý mến.
Ngăn dưới cùng giá sách là chiếc máy chữ, Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng hàng
ngày như một cây bút.

Tại nơi đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo nhiều văn bản quan trọng có tính
chất định hướng cho cách mạng. Một trong những văn bản quan trọng có ý nghĩa như
kim chỉ nam cho sự nghiệp cách mạng sau ngày đất nước thống nhất; như lời tâm
huyết đầy tình yêu thương giành cho Đảng, nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ Việt Nam
chính là bản Di chúc lịch sử. Người viết những dòng đầu tiên của bản Di chúc vào dịp
sinh nhật lần thứ 75. Từ đó hàng năm, Người dành một thời gian nhất định từ ngày 10
đến ngày 20 tháng 5, để sửa chữa, bổ sung hoàn chỉnh bản Di chúc, tháng 5 năm
1969, Người đọc và sửa chữa lần cuối bản Di chúc.
Tại phòng ngủ, tiện nghi sinh hoạt cũng đơn giản như ở mọi gia đình người dân
Việt Nam thời đó. Mùa hè trên chiếc giường gỗ trải chiếu cói, mùa đông có thêm tấm
đệm, chăn bông và một lò sưởi điện nhỏ. Để ngăn những trận gió mùa đông bắc lạnh
buốt, cửa sổ, cửa ra vào phòng ngủ được lắp thêm kính.
Trên bàn làm việc ở phòng ngủ của Người, vẫn còn một số sách, tạp chí, chiếc
mũ cát và chiếc đài bán dẫn của bà con Việt Kiều Thái Lan kính biếu Người.
Trên chiếc tủ nhỏ đặt ở đầu giường vẫn còn chiếc đồng hồ và cuốn sách Người
đang đọc: “Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII” của hai tác giả
Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đang đọc dở.
Ao cá
Thời kỳ thực dân Pháp chiếm đóng, đây là một ao tù nước đọng, hươu, nai của
Toàn quyền Đông Dương vẫn thường tới uống nước. Khi về ở và làm việc tại khu Phủ
Chủ tịch, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gợi ý anh em phục vụ cải tạo nơi này thành ao nuôi
cá để làm cho môi trường thêm trong lành và cải thiện bữa ăn hàng ngày. Ao rộng hơn
3000 mét vuông, nơi sâu nhất khoảng 3 mét. Trong ao nuôi nhiều loại cá khác nhau
như: Trắm, chép, mè, rô phi… để tận dụng hết nguồn thức ăn ở các tầng nước.
Hàng ngày, sau giờ làm việc buổi chiều Chủ tịch Hồ Chí Minh thường ra cầu ao
trước nhà sàn cho cá ăn.Trước khi cho cá ăn, Người thường vỗ tay gọi, lâu dần tiếng
vỗ tay của Người đã tạo cho cá một phản xạ quen thuộc, hễ cứ nghe tiếng vỗ tay cá lại
bơi về cầu ao. Năm 1959, Người gửi cá giống cho hợp tác xã Tiền Phong- Yên Sởhuyện Thanh Trì- Hà Nội để động viên nhân dân tích cực phát triển nghề cá.
Ao cá là điểm di tích sống động cho du khách đến tham quan nơi này.
Vườn cây

Vườn cây xanh, thảm cỏ ở trong Khu di tích Phủ Chủ tịch kết hợp với hồ nước
mát tạo nên một bức tranh thiên nhiên hữu tình, một môi trường sống tuyệt vời làm
phong phú thêm cuộc sống của Chủ tịch Hồ Chí Minh . Diện tích vườn cây xanh, thảm
cỏ chiếm hơn 65.000 mét vuông. Cây trong vườn Phủ Chủ tịch gồm rất nhiều loài, tạo
thành một hệ sinh thái thực vật phong phú, đa dạng, làm nên cảnh quan đẹp, giản dị và
có sức cuốn hút du khách. Toàn bộ vườn cây có 1271 cá thể, thuộc 161 loài cây, 54 họ
thực vật; 78 cây có nguồn gốc trong nước, 68 loài có nguồn gốc từ nước ngoài và một
số cây chưa rõ nguồn gốc; có 35 loài cây ăn quả, 59 loài cây bóng mát, 67 loài hoa và
cây cảnh. Nhiều cây không chỉ có giá trị về mặt kinh tế, mà còn mang ý nghĩa lịch sử,
văn hoá, gắn với quê hương đất nước, gắn với tình đồng chí, bè bạn quốc tế, tình hữu
nghị giữa các dân tộc. Có nhiều cây cổ thụ hàng trăm năm tuổi, có cây Chủ tịch Hồ Chí


Minh tự tay trồng và chăm sóc, có cây Người đặt tên, có cây Người mang từ nước
ngoài về hoặc đồng bào trong nước gửi tặng…, mỗi cây đều chứa đựng những kỷ niệm
sâu sắc về Người. Các loài cây được trồng xen kẽ nhau tạo nên những nét chấm phá
làm tăng sự hấp dẫn sinh động của cảnh quan môi trường. Những cây gắn với kỷ niệm
trong đời sống của Chủ tịch Hồ Chí Minh được gọi là cây di tích. Đó là: cây đa kiên trì,
cây xanh bốn mùa, cây vú sữa, cây bụt mọc. Mỗi cây là một câu chuyện cảm động về
tình yêu thiên nhiên, con người; là một bài học có ý nghĩa giáo dục sâu sắc.
Vườn cây xanh trong khu vực Phủ Chủ tịch cho chúng ta thấy Chủ tịch Hồ Chí
Minh không chỉ biết cách thưởng thức thiên nhiên đã sẵn có mà Người còn biết cách
chăm sóc, cải tạo, “thổi hồn” vào thiên nhiên làm cho cảnh quan thêm đẹp, môi trường
sống trong lành. Năm năm sau khi về ở Phủ Chủ tịch, tháng 11 năm 1959, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã phát động phong trào “Tết trồng cây” với mong muốn : “đất nước ta phong
cảnh sẽ ngày càng tươi đẹp, khí hậu điều hoà hơn, cây gỗ đầy đủ hơn. Điều đó sẽ góp
phần quan trọng vào việc cải thiện đời sống của nhân dân ta”. “Tết trồng cây” do Chủ
tịch Hồ Chí Minh phát động được sự hưởng ứng của các địa phương trong cả nước,
trở thành một phong trào quần chúng sâu rộng, một phong tục tốt đẹp, mang tính văn
hoá của dân tộc Việt Nam, mang lại lợi ích to lớn về nhiều mặt.

Trong vườn cây xanh có một khoảng đất rộng chừng 100 mét vuông trải sỏi cạnh
đường Xoài ở phía sau Phủ Chủ tịch được gọi là Giàn hoa Phủ Chủ tịch. Bao quanh
khoảng đất là giàn hoa móc diều (hoa giấy) màu tím. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường tiếp
khách trong nước, ngoài nước thân tình tại đây vào những ngày đẹp trời. Người coi
giàn hoa này như một phòng khách đặc biệt, không bị giới hạn bởi không gian. Có bức
hình đẹp ghi lại hình ảnh Bác Hồ đang làm việc tại nơi này trên bộ bàn ghế bằng mây.
Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, vườn cây trong khu Phủ Chủ tịch vẫn
được bảo tồn nguyên vẹn. Phong trào xây dựng “vườn quả Bác Hồ” được phát động,
nhiều địa phương trong nước đã nhận những giống cây ăn quả từ vườn này về trồng
và một số địa phương đưa những giống cây đặc sản vào trồng tại đây khiến cho khu
vườn càng phong phú và thêm ý nghĩa.
Các di tích ngoài trời trong Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch
chứa đựng những giá trị tư tưởng nhân văn cao cả. Mỗi một di tích đều mang những ý
nghĩa, thông điệp sâu xa và những bài học quý báu của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tình
thương yêu con người, yêu thiên nhiên; cách ứng xử với thiên nhiên, bảo vệ và nâng
cao chất lượng môi trường sống.
Nhà Di tích 67
Ngôi nhà màu xanh nhạt ở phía sau nhà sàn, nằm sát gò đất cao được gọi là
“Nhà 67”. Ngôi nhà được gọi tên theo thời gian xây dựng.Vào năm 1967, cuộc phiêu
lưu mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân, hải quân của đế quốc
Mỹ ngày càng trở nên ác liệt, Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố khác cùng các
khu công nghiệp bị bắn phá ngày đêm. Trước tình hình đó, để đảm bảo an toàn tuyệt
đối cho Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Chính trị đã quyết định xây dựng ở phía sau nhà sàn
một ngôi nhà kiên cố đề phòng khi máy bay Mỹ bắn phá bất ngờ, Người chưa kịp
xuống hầm.
Các đồng chí cán bộ, chiến sĩ ở Cục Công trình thuộc Bộ Tư lệnh công binh
được giao nhiệm vụ thiết kế và xây dựng công trình. Ngày 1 tháng 5 năm 1967, nhân
dịp Chủ tịch Hồ Chí Minh đi công tác nước ngoài, ngôi nhà được khởi công xây dựng.
Ngày 30 tháng 6 năm 1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh trở về Hà Nội sau chuyến đi công



tác, ngôi nhà đã được hoàn tất trọn vẹn, đảm bảo chắc chắn, kiên cố mà vẫn thoáng
mát, tiện lợi cho sinh hoạt. Tường nhà dầy hơn 60 phân, trần nhà dày hơn 1 mét , đều
được làm bằng bê tông, cốt thép.
Chủ tịch Hồ Chí Minh không nhận ngôi nhà cho riêng mình. Người đề nghị sử
dụng làm nơi họp Bộ Chính trị, làm việc với các đồng chí Trung ương, và các cán bộ
phụ trách đầu ngành để bàn những vấn đề quan trọng của đất nước như: đảm bảo sản
xuất trongthời chiến, tăng sức chi viện cho chiến trường miền Nam, tìm ra những giải
pháp tích cực để cuộc đàm phán ở Hội nghị Pari giành thắng lợi và theo dõi tình hình
chiến trường miền Nam. Gần 100 tài liệu hiện vật đang được bảo quản gìn giữ ở nơi
đây đều gợi lại những hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh và những vấn đề Người
đang quan tâm trong những ngày cuối đời.
Hai tấm bản đồ quân sự về “bố trí binh lực địch ở miền Nam” và “bố trí không
quân, hải quân địch tham chiến ở Việt Nam” treo trên tường để Chủ tịch Hồ Chí Minh
theo dõi báo cáo của các cán bộ Cục tác chiến, văn phòng Quân uỷ về diễn biến, tình
hình chiến trường miền Nam, chiến sự miền Bắc. Chiếc đài ZENITH đặt trên bàn làm
việc là chiến lợi phẩm của quân giải phóng miền Nam thu được trong trận Phước
Thành (nay thuộc tỉnh Bình Dương) kính tặng Người để báo công đầu.
Ngày 17 tháng 8 năm 1969, sau khi kiểm tra sức khoẻ cho Chủ tịch Hồ Chí Minh,
các bác sĩ đề nghị Người không lên xuống nhà sàn nữa. Theo lời đề nghị của bác sĩ,
Người chuyển hẳn xuống ở nhà 67.
Những tập sách báo tài liệu còn lại trên bàn làm việc tại căn phòng này Người
đang đọc dở, nhiều trang báo còn lưu lại bút tích của Người. Tờ báo, bản tin cuối cùng
Người xem được phát hành vào ngày 24 tháng 8 năm 1969.
Từ ngày 25 tháng 8 năm 1969 trở đi, Chủ tịch Hồ Chí Minh lâm bệnh nặng, diễn
biến bệnh tình mỗi ngày một xấu và phức tạp. Ngôi nhà 67, theo quyết định của Bộ
Chính trị trở thành nơi điều trị bệnh cho Người. Các đồng chí trong Bộ Chính trị, các
giáo sư, bác sĩ đầu ngành tập trung về đây chăm lo sức khoẻ cho Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Các thiết bị y tế hiện đại nhất ở thời kỳ đó được đưa về đây để chữa bệnh cho
Người. Nằm trên giường bệnh nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh theo dõi, vẫn nắm tình hình

đất nước qua báo cáo của các đồng chí Bộ Chính trị, Trung ương khi các đồng chí về
bên. Người thường hỏi tin chiến trường miền Nam, tình hình lũ lụt ở miền Bắc. Người
nhắc nhở các đồng chí Trung ương phải quyết tâm giữ vững đê, bảo vệ dân, bảo vệ
sản xuất. Biết tin Trung ương muốn mời Người lên khu vực Ba Vì ( Sơn Tây) để tránh
lũ lụt, Người nói: “Bác đi chỉ được mình Bác, còn dân thì sao”. Người quyết định ở lại
cùng đồng bào. Người mong muốn được gặp nhân dân trong ngày lễ quốc khánh.
Bệnh tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh diễn biến ngày một trầm trọng, nhịp tim rối
loạn thất thường. Vì tổi cao, sức yếu Chủ tịch Hồ Chí Minh không vượt qua được cơn
bệnh hiểm nghèo. Ngày mùng 2 tháng 9 Người ra đi. Đồng hồ trên tủ nhỏ ở cạnh
giường và cuốn lịch treo tường dừng lại thời khắc Người đi xa: 9 giờ 47 phút ngày
mùng 2 tháng 9 năm 1969 (ngày 21 tháng 7 năm Kỷ Dậu).
Những di vật còn lưu lại ở nơi đây,những câu chuyện của các đồng chí lãnh đạo
Đảng, Nhà nước và các nhân chứng lịch sử kể lại về giờ phút cuối đời của Chủ tịch Hồ
Chí Minh cho chúng ta cảm nhận sâu sắc những giá trị cao quý về phẩm chất một lãnh
tụ của nhân dân, về tình yêu sâu nặng, tha thiết của Người đối với nhân dân, đất nước.
Bảo tàng Hồ Chí Minh


Bảo tàng Hồ Chí Minh là một bảo tàng vào loại lớn nhất Việt Nam nằm trong khu
vực có nhiều di tích như : Lăng Chủ tich Hồ Chí Minh, Khu di tích Phủ chủ tịch, Chùa
Một Cột…. Nhiệm vụ và chức năng của Viện bảo tàng Hồ Chí Minh: “Là trung tâm
nghiên cứu những tư liệu hiện vật và di tích lịch sử có quan hệ đến đời sống và hoạt
động của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng của
Người và tuyên truyền, giáo dục quần chúng về sự nghiệp tư tưởng, đạo đức và tác
phong c ủa người thông qua những tư liệu, hiện vật và di tích đó”. Bảo tàng Hồ Chí
Minh lưu giữ hơn mười hai vạn tài liệu, hiện vật, phim ảnh gốc về cuộc và sự nghiệp
cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây là tài sản vô giá của dân tộc Việt Nam trong
việc giáo dục chủ nghĩa yêu nước, học tập tư tưởng đạo đức trong sáng của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, bồi dưỡng các thế hệ người việt Nam kế tục trung thành và xuất sắc sự
nghiệp cách mạng vĩ đại của Người. Trong bảo tàng, các hiện vật được trưng bày theo

các chủ đề, mỗi chủ để chứa một nội dung, và giá trị riêng.
Và trong Bảo tàng Hồ Chí Minh có rất nhiều tư liệu về Bác vào thời gian này.
Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc lên án chủ nghĩa thực dân, thức tỉnh, cổ vũ và đoàn kết
các dân tộc bị áp bức đấu tranh giải phóng theo con đường Cách mạng Tháng Mười
Nga. Nhiều hình ảnh tài liệu và hiện vật về hoạt động của Nguyễn Ái Quốc như: tham
dự Đại hội đảng cộng sản Pháp năm 1921, 1922. Hoạt động trong Ban nghiên cứu
thuộc địa của Đảng cộng sản Pháp, xây d ựng tình đoàn k ết chiến đấu giữa giai cấp vô
sản Pháp và nhân dân các nước thuộc địa. Sáng lập “Hội liên hiệp thuộc địa” và ra báo
Le Paria(Người cùng khổ)… Một nội dung quan trọng trong trưng bày hiện vật của chủ
đề này là giới thiệu hoạt động của Nguyễn Ái Quốc tại Matxcova từ tháng 6/1923 đên
tháng 10/1924. Những hoạt động sôi nổi vủa Nguyễn Ái Quốc tại trung tâm của phong
trào cách mạng thế giới nhằm bảo vệ, bổ xung và phát triển sáng tạo quan điểm của
Chủ Nghĩa Mác-Lenin về cách mạng thuộc địa. Nhiều tư liệu như: hoạt động của
Nguyễn Ái Quốc tại Đại hội V Quốc tế Cộng sản, Hội nghị Nông dân Quốc tế, hoạt động
trong Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân, tham dự Hội nghị quốc tế Thanh niên, Quốc tế
Công hội…
Năm 1925, Bác thành lập tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội
ở Quảng Châu (Trung
Quốc) để truyền bá chủ nghĩa Marx-Lenin (thường được phiên âm là Mác–Lê-nin) vào
Việt Nam. Cuốn Đường Kách mệnh, mà Bác là tác giả, tập hợp các bài giảng tại các
lớp huấn luyện chính trị của Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, được xuất
bản năm 1927. Cùng năm 1925 Bác tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp
bức ở Á Đông, do Liêu Trọng Khải, một cộng sự thân tín của Tôn Dật Tiên, làm hội
trưởng và Bác làm bí thư. Do Tưởng Giới Thạch khủng bố các nhà cách mạng cộng
sản Trung Quốc và Việt Nam, Bác rời Quảng Châu đi Hương Cảng, rồi sang Liên Xô.
Tháng 11 năm 1927, Bác được cử đi Pháp, rồi từ đó đi dự cuộc họp Đại hội đồng của
Liên đoàn chống đế quốc từ ngày 9 đến ngày 12 tháng 12 năm 1927 tại Brussel, Bỉ.
Mùa thu 1928, Bác từ châu Âu đến Xiêm La, với bí danh Thầu Chín để tuyên
truyền và huấn luyện cho Việt kiều tại Xiêm. Cuối năm 1929, Bác rời khỏi Vương quốc
Xiêm La và sang Trung Quốc.Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam Ngày 3 tháng 2 năm

1930, tại Cửu Long thuộc Hương Cảng, Bác thống nhất ba tổ chức đảng cộng sản
thành Đảng Cộng sản Việt Nam (sau đó đổi tên là "Đảng Cộng sản Đông Dương", rồi


đổi thành "Đảng Lao Động Việt Nam" và nay là "Đảng Cộng sản Việt Nam"). Tháng 3
năm 1930, Bác trở lại Xiêm La trong một thời gian ngắn, sau đó quay lại Trung Hoa.
Trong khoảng thời gian này, Bác chuẩn bị điều kiện và sáng lập đảng cộng sản
Việt Nam (11/1924 – 2/1930). Bác nhằm chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức để
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Các tư liệu, hình ảnh và hiện vật trưng bày ở chủ
đề này phản ánh hoạt động của Nguyễn Ái Quốc trong những thời gian và địa điểm
khác nhau như ở Quảng Châu – Trung qu ốc (từ tháng 11/1924 đ ến tháng 5/1927). Ở
Liên Xô, Đức (từ tháng 5/1927 đến tháng 6/1928)... Kết hợp giữa nội dung với giải pháp
mỹ thuật và phương tiện kỹ thuật, trưng bày làm nổi bật ý nghĩa của sự kiện ra đời của
Đảng Cộng Sản Việt Nam là một sự kiện trọng đại trong cuộc đời của Nguyễn Ái Quốc
và là bước ngoặt trong lịch sử cách mạng Việt Nam.
Năm 1931, dưới tên giả là Tống Văn Sơ, Nguyễn Ái Quốc bị nhà cầm quyền Hương
Cảng bắt giam với ý định trao cho chính quyền Pháp ở Đông Dương. Tờ L'Humanité số
ra ngày 9 tháng 8 năm 1932 đưa tin Nguyễn Ái Quốc đã chết vì bệnh lao phổi trong
trạm xá nhà tù tại Hồng Kông đồng thời tố cáo đây là âm mưu của thực dân Pháp câu
kết với thực dân Anh nhằm ám sát người lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Nhưng sau đó nhờ sự biện hộ và giúp đỡ tận tình của luật sư Frank Loseby, Tống Văn
Sơ được thả ngày 28 tháng 12 năm 1932. Bác đi Thượng Hải rồi bí mật quay trở lại
Liên Xô. Thời kỳ ở Liên Xô lần thứ hai Người đến Moskva vào mùa xuân năm 1934.
Với bí danh Lin, Nguyễn Ái Quốc học ở Trường Quốc tế Lenin (1934-1935). Người dự
Đại hội lần thứ 7 Đệ Tam Quốc tế (từ ngày 25 tháng 7 đến ngày 20 tháng 8 năm 1935)
với vai trò quan sát viên của ban thư ký Dalburo với tên Linov. Theo tài liệu của một số
nhà sử học, Người bị buộc ở Liên Xô cho đến năm 1938 và bị giam lỏng ở đó do bị nghi
ngờ về lý do Người được nhà cầm quyền Hương Cảng trả tự do. Trong những năm
1931-1935, Người đã bị Trần Phú và sau đó là Hà Huy Tập phê phán về đường lối cải
lương "liên minh với tư sản và địa chủ vừa và nhỏ", không đúng đường lối đấu tranh

giai cấp của Đệ Tam Quốc tế. Từ năm 1938 đến đầu năm 1941. Năm 1938, Người trở
lại Trung Quốc. Trong vai thiếu tá Bát Lộ quân Hồ Quang, Nguyễn Ái Quốc đến công
tác tại văn phòng Bát Lộ quân Quế Lâm, sau đó đi Quý Dương, Côn Minh rồi đến Diên
An, căn cứ đầu não của Đảng Cộng sản Trung Quốc và Hồng quân Trung Quốc mùa
đông 1938.Trở về Việt Nam, Người trở về Việt Nam vào ngày 28 tháng 1 năm 1941, ở
tại hang Cốc Bó, bản Pác Bó, tỉnh Cao Bằng với bí danh Già Thu. Tại đây, Bác mở các
lớp huấn luyện cán bộ cho in báo, tham gia các hoạt động thường ngày. Người cho lập
nhiều hội đoàn nhân dân như hội phụ nữ cứu quốc, hội phụ lão cứu quốc, hội nông dân
cứu quốc,...
Từ khi bị giam ở Trung Quốc cho tới ngày 2 tháng 9 năm 1945 Ngày 13 tháng 8
năm 1942, Bác lấy tên Hồ Chí Minh, sang Trung Quốc với danh nghĩa đại diện của cả
Việt Minh và Hội quốc tế phản xâm lược Việt Nam (một hội đoàn được Bác tổ chức ra
trước đó) để tranh thủ sự ủng hộ của Trung Hoa Dân quốc. Đây là lần đầu tiên trong
các giấy tờ cá nhân Bác sử dụng tên Hồ Chí Minh. Bác khai nhân thân là "Việt NamHoa kiều”. Bác bị chính quyền địa phương của Trung Hoa Dân quốc bắt ngày 29 tháng
8 khi đang đi cùng một người Trung Quốc dẫn đường và giam hơn một năm, trải qua
khoảng 30 nhà tù. Bác viết Nhật ký trong tù trong thời gian này (từ tháng 8 năm 1942
đến tháng 9 năm 1943). "Nhật kỳ trong tù" là một tác phẩm được những tác giả người
Việt Nam, người phương Tây và cả người Trung Quốc, như Quách Mạt Nhược, Viên


Ưng hay Hoàng Tranh đề cao. Bác trực tiếp ra chỉ thị thành lập một đội quân mang tính
chính thống và chính quy là đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, với 34 đội viên
là các tiểu đội trưởng, trung đội trưởng hoặc thành viên của các đội quân nhỏ bé và rải
rác trước đó của Việt Minh. Cuối năm 1944, Bác lại trở lại Côn Minh hoạt động cho tới
đầu năm 1945. Ngay trước khi Hội nghị Tân Trào họp vào tháng 8 năm 1945, Bác ốm
nặng, tưởng không qua khỏi. Ngày 16 tháng 8 năm 1945, Tổng bộ Việt Minh triệu tập
Đại hội quốc dân tại Tân Trào (Tuyên Quang), cử ra Ủy ban dân tộc giải phóng tức
Chính phủ lâm thời, do Hồ Chí Minh làm chủ tịch.
Lãnh đạo cuộc vận động giải phóng dân tộc và Cách mạng Tháng Tám, sáng lập
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1930- 1945). Phản ánh sự quan tâm chỉ đạo của

Nguyễn Ái Quốc đối với cao trào Xô Viết – Nghệ Tĩnh, cao trào cách mạng đầu tiên của
nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Từ nước ngoài Người kêu gọi nhân
dân thế giới ủng hộ phong trào, phản đối sự khủng bố của đế quốc với phong trào cách
mạng Việt Nam. Trong Bảo tàng cũng trưng bày nhiều tài liệu và hình ảnh Nguyễn Ái
Quốc bị bắt tại Hồng Kông và cuộc đấu tranh của Người để được trả tự do trong những
năm 1931-1933. Tư liệu về hoạt động của Nguyễn Ái Quốc nhằm duy trì thực hiện quan
điểm của mình về cách mạng thuộc địa và sự chiến thắng quan điểm của Người được
khẳng định tại Đại hội VII Quốc tế Cộng sản(1935). Nhiều tài liệu, hình ảnh trưng bày
thời kỳ nay thể hiện rõ tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Chủ t ịch Hồ Chí Minh. Với tư
tưởng ấy mọi người Việt Nam không phân biệt tôn giáo, đảng phái, già trẻ, gái trai cùng
nhau đoàn kết cứu nước.
Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 trên
quảng trường Ba Đình tại Hà Nội, tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa. Bác trích dẫn bản Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ và bản Tuyên ngôn Dân quyền
và Nhân quyền của Pháp để mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam. Ngoài ra,
Bác còn gửi thư cho nhiều nguyên thủ quốc gia trên thế giới kêu gọi công nhận nhà
nước Việt Nam mới được thành lập cũng như tranh thủ sự ủng hộ nhưng không nhận
được hồi âm.
Ngày 23 tháng 9 năm 1945, quân Pháp tấn công Sài Gòn. Quân dân Sài Gòn cấp tập
chống cự. Ủy ban kháng chiến Nam Bộ được thành lập với Trần Văn Giàu là chủ tịch.
Xứ ủy và Ủy ban nhân dân Nam Bộ điện ra Trung ương xin cho được đánh. Chính phủ
ra huấn lệnh, bản thân Bác gửi thư khen ngợi "lòng kiên cường ái quốc của đồng bào
Nam Bộ. Ngày 6 tháng 1 năm 1946, tổng tuyển cử tự do trong cả nước được tổ chức,
bầu ra Quốc hội và Quốc hội thông qua Hiến pháp dân chủ đầu tiên của Việt Nam.
Quốc hội khóa I của Việt Nam đã cử ra Chính phủ Liên hiệp kháng chiến do Hồ Chí
Minh làm chủ tịch. Đại biểu quốc hội chủ yếu là nhân sĩ trí thức, người ngoài Đảng. Hồ
Chí Minh trở thành Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và với chức danh Chủ
tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Bác cũng đảm nhiệm luôn công việc của
thủ tướng. Nhà nước và chính phủ đối mặt với hàng loạt khó khăn cả về đối nội và đối
ngoại. Về đối ngoại, khi này Việt Nam chưa được bất cứ quốc qia nào công nhận. Về



đối nội, "giặc đói, giặc dốt" - như chính cách Bác gọi - và ngân quỹ trống rỗng là những
vấn đề hệ trọng nhất. Bởi thế, Bác chú trọng đến việc phát triển giáo dục, mà trước hết
là xóa nạn mù chữ bằng cách mở các lớp học Bình dân học vụ. Tháng 9 năm 1945,
nhân ngày khai trường, Hồ Chí Minh đã viết thư gửi cho học trò Việt Nam. Thư có
đoạn:
Để diệt "giặc đói", ngoài việc kêu gọi tăng gia sản xuất, Bác đề nghị đồng bào "cứ 10
ngày nhịn ăn 1 bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa" để đem số gạo tiết kiệm được cứu dân
nghèo. Bản than Bác gương mẫu thực hiện việc nhịn ăn để cứu đói này. Để đối phó với
giặc ngoại xâm, Bác thi hành một chính sách đối ngoại mềm dẻo và nhẫn nhịn. Bác nói:
“ Chính sách của ta hiện nay là chính sách Câu Tiễn, nhưng nhẫn nhục không phải là
khuất phục.
.
Tháng 11 năm 1945, Bác quyết định cho Đảng tự giải tán. Về mặt công khai, đảng của
Bác không còn hiện diện mà chỉ có một bộ phận hoạt động dưới danh nghĩa Hội nghiên
cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương. Bác kêu gọi các đảng viên nếu tự xét thấy mình
không đủ phù hợp thì nên tự rút lui khỏi hàng ngũ lãnh đạo chính quyền. Trước Quốc
hội, Bác tuyên bố: "Tôi chỉ có một Đảng - đảng Việt Nam".
Theo Hiệp ước Pháp-Hoa, ký ngày 28 tháng 2 năm 1946, quân Pháp sẽ thay thế
quân của Tưởng Giới Thạch. Một tuần sau, ngày 6 tháng 3 năm 1946, Bác cùng Vũ
Hồng Khanh ký với Jean Sainteny - Ủy viên Pháp ở miền bắc Ðông Dương - bản Hiệp
định sơ bộ với Pháp. Ngày 14 tháng 9 năm 1946, Bác ký với đại diện chính phủ Pháp,
bản Tạm ước (Modus vivendi), quy định đình chỉ chiến sự tại miền Nam, và thời gian
tiếp tục đàm phán vào đầu năm 1947. Thế nhưng những nhân nhượng đó cũng không
tránh nổi chiến tranh. Sau khi nhận được liên tiếp 3 tối hậu thư của Pháp trong vòng
chưa đầy một ngày, Bác kí lệnh kháng chiến. Tối ngày 19 tháng 12 năm 1946, Lời kêu
gọi toàn quốc kháng chiến do Bác chấp bút được phát trên đài phát thanh. 20h tối cùng
ngày, kháng chiến bùng nổ.
Tháng 3 năm 1947, Bác và Trung ương Đảng chuyển lên Việt Bắc. Bác kêu gọi

nhân dân tiêu thổ kháng chiến, tản cư cũng là kháng chiến, phá hoại (cho quân Pháp
không lợi dụng được) cũng là kháng chiến. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 2 được
tổ chức vào trung tuần tháng 2 năm 1951 tại Tuyên Quang, Bác quyết định đưa Đảng
ra hoạt động công khai trở lại. Tuy nhiên, khi này tên gọi không còn là Đảng Cộng sản
nữa mà có tên mới là Đảng Lao động Việt Nam. Bác tuyên bố:“ Chính vì Đảng Lao
động Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải
là đảng của dân tộc Việt Nam. ”
Cuộc Chiến tranh Đông Dương kết thúc vào năm 1954, khi thực dân Pháp bị
đánh bại tại Điện Biên Phủ - sự kiện báo hiệu sự cáo chung của chủ nghĩa thực dân
trên phạm vi toàn thế giới- và dẫn đến Hiệp định Genève. Kết quả mà đoàn Việt Nam
thu nhận được kém hơn nhiều so với mục tiêu đề ra ban đầu. Tuy vậy, trên các phương
tiện truyền thông chính thức, Hồ Chí Minh tuyên bố "Ngoại giao đã thắng to!”.


Lãnh đạo cuộc kháng chiến, kiến quốc (1945-1954). Mở đầu trưng bày chủ đề
này là các tài liệu, hình ảnh về sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đấu tranh xây
dựng, giữ vững và củng cố chính quyền cách m ạng sau ngày tuyên bố độc lập. Đó là
việc giải quyết những yêu cầu cấp bách: chống giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm.
Xây dụng Nhà nước dân chủ nhân dân với hệ thống chính quyền từ Trung ương đến
địa phương… Nội dung trưng bày về Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo cu ộc kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược tập trung thể hiện ý tưởng: Hồ Chí Minh là linh hồn của
ý chí độc lập, tự lập tự cường, huy động sức mạnh toàn dân và kháng chiến toàn diện,
vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Từ việc xây dựng các điều kiện đảm bảo kháng chiến
thắng lợi như: tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát triển phong trào thi đua yêu
nước mở rộng khối đoàn kết toàn dân, thành lập khối đoàn kết của nhân dân Đông
Dương chống xâm lược, tăng cường đoàn kết quốc tế… Những nội dung này được thể
hiện bằng một giải pháp riêng nhằm làm rõ vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với
cuộc kháng chiến và chiến thắng vĩ đại của nhân dân Việt Nam ở Điện Biên Phủ năm
1954.
Ngày 2/9/1969, Người từ trần, hưởng thọ 79 tuổi. Cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí

Minh là một cuộc đời trong sáng cao đẹp của mộtngười cộng sản vĩ đại, một kiệt xuất,
một chiến sĩ quốc tế lỗi lạc, đã đấu tranh không mệt mỏi và hiến dâng cả đời mình vì Tổ
quốc, vì nhân dân, vì lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, vì độc lập, tự do của các dân tộc, vì
hòa bình và công lý trên thế giới. Cuộc họp lần thứ 24, năm 1987 tổ chức giáo dục,
khoa học và văn hóa của liên hợp quốc UNESCO ra nghị quyết về kỷ niệm 100 năm
ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh "Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam và là một nhà
văn hóa lớn" (HỒ CHÍ MINH VIETNAMESE HERO OF NATIONAL LIBERATION AND
GREAT MAN OF CULTURE) vào năm 1990.

Lãnh đạo công cuộc xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội ở miền Bắc và đấu tranh giải
phóng Miền Nam, thống nhất Tổ Quốc (1954-1969). Giới thiệu đường lối đúng đắn,
sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng trong việc lãnh đạo nhân dân
Việt Nam thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Đường lối kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước, bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền nam, th ống n ất Tổ quốc. kết
hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, nêu cao chân lý “không có gì quý hơn độc
lập tự do”. Nội dung trưng bày về Chủ tịch Hồ Chí Minh với Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ III của Đảng (tháng 9/1960) và hoạt động của Người nhằm xây dựng, c ủng c ố
vai trò lãnh đạo của Đảng. Những ngày cuối đời, bản Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
và tang lễ Người được thể hiện bằng một giải pháp độc đáo. Giải pháp đó nói lên Chủ
tịch H ồ Chí Minh đã qua đời nhưng hình ảnh và tư tưởng của Người vẫn còn sống mãi.
Mãi mãi đi theo con đường của Chủ tịch Hồ chí Minh. Đảng Cộng sản Việt Nam kế tục
trung thành và xuất sắc sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh


đạo nhân dân Việt Nam biến những tư tưởng của Người thành hiện thực. Hoàn thành
sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc và đang lãnh đ ạo nhân dân Việt
Nam thực hiện mong muốn cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là xây dựng m ột nước
Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng
vào sự nghiệp cách mạng thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh – Anh hùng giải phóng dân tộc

Việt Nam, nhà văn hóa kiệt xuất. Người đã hiến dâng trọn đời minh cho sự nghiệp gi ải
phóng dân t ộc Vi ệt Nam, góp phần to lớn vào sự nghiệp cách mạng nhân dan thế giới
vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh
qua đời, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết
định xây dựng Bảo tàng về Người. Bảo tàng lưu giữ rất nhiều tài liệu, hiện vật, phim
ảnh gốc về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Mịnh. Đây là tài sản
vô giá của dân t ộc Việt Nam trong việc giáo dục chủ nghĩa yêu nước, học tập tư tưởng,
đạo đức trong sáng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bồi dưỡng các thế hệ người Việt Nam
kế tục trung thành và xuất sắc sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Người.
Còn ấn tượng sâu sắc nhất của tôi là hình ảnh chiếc áo nâu đã bạc màu, bộ đồ
kaki chấp vá, chiếc gậy tre đơn sơ mộc mạc, chiếc nón cối cũ kĩ phai màu,đôi dép cao
su… nó không còn là bốn từ “đôi dép cao su” mà tôi vẫn tự hình dung khi đọc sách. Một
người bôn ba gần 40 năm trời, hơn nửa đời mình đi tìm đường cứu nước, cả cuộc đời
đấu tranh cho giải phóng dân tộc, một vị lãnh tụ đất nước, một danh nhân văn hóa thế
giới mà không đòi hỏi cho bản thân mình thứ gì cả. Cả cuộc đời lo cho dân cho nước,
lo hạnh phúc cho nhân dân còn bản thân mình thì sống đơn sơ đạm bạc, lúc nào cũng
nghĩ những gì Bác dùng là mồ hôi nước mắt của nhân dân. Tất cả những thứ ấy thật là
giản dị và đơn sơ đến mức ngạc nhiên. Tôi khâm phục Bác vô cùng và cảm thấy
thương Bác vô hạn, Người cho đi mà không nhận lại, Người luôn phải sống bình dị,
thanh bạch luôn đồng khổ với nhân dân lao động. Và tự tôi bỗng thấy mình trước giờ
được sống trong cảnh hòa bình, trong sự lo toan của gia đình, sống trong hạnh phúc
mà không biết quý trọng nó. Chuyến thăm này đã cho tôi nhận ra nhiều điều để bồi
dưỡng cả về tinh thần lẫn tri thức. Mọi thứ đã dường như thức tỉnh lại trong tôi tìm về
với chính bản thân, với chính con người mình. Sống một cuộc sống có ý nghĩa, có đam
mê, sống sao không phải hối tiếc vì thời gian đã qua và phấn đấu hết sức mình vì Tổ
quốc.Chuyến đi bảo tàng giúp cho ta hiểu thêm về cuộc sống, nhân cách của Người, vị
cha già mến yêu của dân tộc.
Chúng tôi đã được xem phim tư liệu ngắn về cuộc đời của Bác. Qua đó tôi có
thể thấy rõ hơn về cuộc đời của Bác.Và cũng nhờ chị hướng dẫn viên mà tôi có thể
khái quát cuộc đời của Bác.





×