Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

bài tập luật hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.61 KB, 9 trang )

ĐỀ BÀI
K và H đã bàn bạc trước về việc chiếm đoạt tài sản của gia đình ông N
(giám đốc một doanh nghiệp). Chiều 07/02/2010, lợi dụng gia đình ông N đi
sắm tết, K và H mang theo một túi quà đến gõ cửa nhà ông N và nói với bà P
(là người giúp việc nhà ông N) là đến chúc tết gia đình. Không nghi ngờ gì, bà
P đã mở cửa cho K và H vào nhà. Sau khi vào nhà, chúng vờ xin nước uống
rồi xông vào đe doạ và định trói bà P. Bà P sợ hãi van xin K, H và nói: “Các
anh lấy gì thì cứ lấy, tôi chỉ là người giúp việc thôi”. K và H phá két sắt và lấy
đi của nhà ông N 70 triệu đồng, 47 chỉ vàng cùng một số ngoại tệ .Tổng giá trị
tài sản bị chiếm đoạt là 460 triệu đồng. Sau khi K, H lấy được tài sản và bỏ đi
thì bà P mới chạy ra đường hô hoán. Một tuần sau K và H bị công an bắt giữ.
Có 3 ý kiến khác nhau về tội danh của K và H:
a. K và H phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản vì chúng đã có hành vi
gian dối đánh lừa người giúp việc.
b. K và H phạm tội trộm cắp tài sản vì chúng có hành vi lợi dụng lúc gia
đình ông N đi vắng để lấy tài sản. Tuy bà P ở nhà nhưng bà P chỉ là người
giúp việc, không phải là chủ sở hữu của những tài sản đó
c. K và H phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản vì chúng công khai
lấy tài sản trước mắt người giúp việc.
Hỏi:
1. Hành vi của K và H cấu thành tội gì? Tại sao? (3 điểm)
2. Hãy phản bác các ý kiến mà anh (chị) cho là sai. (4 điểm)

1


MỞ ĐẦU
Quyền sở hữu tài sản là một trong những quyền cơ bản của công dân,
tuy nhiên tội phạm xâm phạm sở hữu lại chiếm một số lượng không hề nhỏ.
Trong đó, điển hình là tội cướp tài sản. Tuy là một tội phạm phổ biến nhưng
biểu hiện khách quan của tội phạm này khá đa dạng, phong phú, dễ gây nhầm


lẫn với các tội xâm phạm sở hữu khác. Do đó, em xin chọn giải quyết tình
huống số 5 về cướp tài sản để làm rõ vấn đề này.
NỘI DUNG
1,Hành vi của K,H cấu thành tội cướp tài sản quy định tại điều 133 BLHS
Tội phạm mà K và H đã thực hiện là tội cướp tài sản.
Điều 133 BLHS Việt Nam quy định về tội cướp tài sản:

“1. Ng i nào dùng v l c, e d a dùng v l c ngay t c kh c ho c có hành
vi khác làm cho ng i b t n công lâm vào tình không th ch ng c
c nh m chi m o t tài s n thì b ph t tù t ba n m n m i n m. ”
Hành vi c a K và H th c hi n ã th a mãn y
các d u hi u c u
thành t i ph m c a t i “c p tài s n ” quy n h t i i u 133 BLHS.
a. V khách th c a t i ph m
K và H đã giả vờ đến gia đình ông N chúc tết để có cơ hội đe dọa và
định trói bà P rồi lấy đi nhiều tài sản của gia đình. Hành vi của K và H thông
qua việc xâm phạm đến tự do thân thể của bà P để nhằm mục đích chiếm đoạt
tài sản của gia đình ông N là 70 triệu đồng, 47 chỉ vàng cùng một số ngoại tệ,
tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 460 triệu đồng. Vì vậy, hành vi phạm tội
của K và H đã xâm phạm đồng thời hai quan hệ xã hội được pháp luật hình sự
bảo vệ. Đó là quan hệ nhân thân và quan hệ sở hữu. Đây cũng là hai khách thể
của tội cướp tài sản quy định tại điều 133 BLHS. Khách thể bị xâm phạm
2


trước là quan hệ nhân thân, thông qua việc xâm phạm quan hệ này mà người
phạm tội xâm phạm đến quan hệ tài sản.
b. Về mặt khách quan của tội phạm
Hành vi khách quan của tội cướp tài sản điều 133 BLHS quy định có 3
dạng hành vi khách quan. Đó là hành vi dùng vũ lực, hành vi đe dọa dùng vũ

lực ngay tức khác và hành vi làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng
không thể chống cự được. Ở trường hợp này, hành vi của K và H thỏa mãn
dấu hiệu của hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc vì K và H đã xông vào
đe dọa và định trói bà giúp việc gia đình ông N là bà P để có thể dễ dàng
chiếm đoạt tài sản của gia đình ông N. Hành vi đe dọa và định trói của K và H
đã uy hiếp được tinh thần đối với bà P là người đang quản lý tài sản khiến cho
bà P phải sợ hãi van xin K, H và cho phép ‘‘Các anh lấy gì thì cứ lấy’’. Điều
đó chứng tỏ bà P đã quá lo sợ mà tê liệt ý chí, không thể kháng cự lại hành vi
chiếm đoạt tài sản của K và H là phá két sắt và lấy đi 70 triệu đồng, 47 chỉ
vàng cùng một số ngoại tệ. Đến khi K và H rời khỏi nhà ông N không còn sự
đe dọa đối với bà P thì bà mới dám chạy ra đường hô hoán. Về tương quan lực
lượng giữa bên đe dọa và bên bị đe dọa. Bên đe dọa có 2 người K và H còn
bên bị đe dọa là một mình bà P. Hơn nữa,việc K, H nhanh chóng xông vào đe
dọa, định trói mang tính bất ngờ cao làm cho bà P lo lắng cho tính mạng của
mình mà để cho K, H lấy tài sản đi mà không dám có phản ứng gì. Như vậy, K
và H đã có hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc- một dạng hành vi khách
quan của tội cướp tài sản để nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản.
c.Về mặt chủ quan
Lỗi của người phạm tội trong tội cướp tài sản là lỗi cố ý trực tiếp.
Người phạm tội khi thực hiện hành vi cướp tài sản nhận thức rõ hành vi của
3


mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả của hành vi đó và
mong muốn hậu quả xảy ra. Khi thực hiện hành vi phạm tội, người phạm tội
biết rằng đang thực hiện một hành động Nhà nước cấm và xã hội lên án, tài
sản họ đang chiếm đoạt là tài sản của người khác, hành động chiếm đoạt đó là
trái pháp luật.
Hành vi phạm tội cướp tài sản của K và H được thực hiện với lỗi cố ý
trực tiếp. Mục đích phạm tội là chiếm đoạt tài sản. K và H đã có ý định chiếm

đoạt tài sản ngay từ đầu bằng kế hoạch cụ thể, từ việc lấy lý do chúc tết để bà
P cho vào nhà rồi xin nước để có cơ hội đe dọa và định trói bà P. Khi thực
hiện hành vi phạm tội, K và H nhận thức được mình có hành vi dùng vũ lực và
mong muốn hành vi đó đè bẹp hoặc làm tê liệt được sự chống cự của người bị
tấn công, để có thể chiếm đoạt được tài sản một cách dễ dàng. Mặc dù biết rõ
hành vi của mình là phạm pháp nhưng K và H vẫn cố ý thực hiện hành vi
phạm tội và mong muốn cho hậu quả xảy ra là lấy đi được tài sản mà không bị
bắt.
d.Về chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội cướp tài sản là chủ thể thường. Những người có năng
lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định đều có khả năng trở thành chủ
thể của tội phạm. Đề bài không ghi rõ độ tuổi của K và H nhưng giả thiết K và
H có độ tuổi từ đủ 16 tuổi trở lên.
Vậy hành vi của K và H hoàn toàn thỏa mãn dấu hiệu cấu thành tội
cướp tài sản theo điều 133 BLHS Việt Nam.
2.Hành vi của K,H không phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Có ý kiến cho rằng : “K và H phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản vì
chúng đã có hành vi gian dối đánh lừa người giúp việc.’’
4


Theo em, ý kiến này là sai.
Điều 139 BLHS quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau :
Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá
trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng… thì…
Xét về mặt khách quan, người phạm tội có hành vi lừa dối người khác
nhằm chiếm đoạt tài sản. Đây là hành vi đưa ra những thông tin gian dối,
không đúng sự thật nhằm tạo lòng tin ở người quản lý tài sản. Trong tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản thì thủ đoạn gian dối là cơ sở, là tiền đề để việc chiếm
đoạt tài sản xảy ra. Thủ đoạn gian dối có thể được thể hiện dưới nhiều hình

thức khác nhau bằng lời nói, việc làm, bằng giấy tờ giả mạo…
Có thể nói, trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thủ đoạn gian dối tạo
lòng tin ở người khác, làm cho người quản lý tài sản nhầm lẫn, tin vào thông
tin gian dối mà người phạm tội đưa ra mà giao tài sản cho họ. Thủ đoạn gian
dối có ý nghĩa quan trọng và quyết định cho việc chiếm đoạt tài sản xảy ra.
Trong tình huống này, K và H có hành vi gian dối ngay từ đầu. Đó là K
và H đã giả vờ lấy cớ chúc tết gia đình ông N để có thể được bà giúp việc P
cho vào nhà. Hành vi gian dối nêu trên nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản
nhưng hoàn toàn không quyết định đến việc chiếm đoạt xảy ra mà hành vi
gian dối nêu trên chỉ tạo thuận lợi cho việc chiếm đoạt tài sản. Việc chiếm
đoạt được tài sản của gia đình ông N do K, H thực hiện không phải bằng thủ
đoạn gian dối. Hành vi gian dối đánh lừa người giúp việc của K và H giúp
chúng được vào nhà tạo điều kiện thuận lợi cho việc đe dọa dùng vũ lực đối
với bà P để có thể dễ dàng chiếm đoạt được tài sản. Thủ đoạn của K,H trực
tiếp chiếm đoạt tài sản là thủ đoạn đe dọa dung vũ lực ngay tức khắc.
Hơn nữa, trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, người quản lý tài sản do
tin tưởng vào người phạm tội mà “tự nguyên” đưa tài sản cho chúng. Nhưng
5


trong trường hợp này, K,H đã tự mình mở két sắt lấy đi tài sản gia đình ông N
chứ không phải bà P giao cho một cách tự nguyện.
3. K và H không phạm tội trộm cắp tài sản
Có ý kiến cho rằng : K và H phạm tội trộm cắp tài sản vì chúng có hành
vi lợi dụng lúc gia đình ông N đi vắng để lấy tài sản. Tuy bà P ở nhà nhưng bà
P chỉ là người giúp việc, không phải là chủ sở hữu của những tài sản đó
Ý kiến này cho rằng người phạm tội chiếm đoạt tài sản khi chủ tài sản
không có mặt nên hành vi chiếm đoạt này có tính lén lút do không cho chủ sở
hữu tài sản biết có việc chiếm đoạt xảy ra. Theo em, ý kiến này là sai.
Hành vi chiếm đoạt của tội trộm cắp tài sản có hai dấu hiệu phân biệt

với hành vi chiếm đoạt của tội khác. Đó là dấu hiệu lén lút và dấu hiệu tài sản
đang có chủ. Hành vi được coi là lén lút nếu được thực hiện bằng hình thức
mà hình thức đó có khả năng không cho phép chủ tài sản biết có hành vi
chiếm đoạt khi hành vi này xảy ra. Ta cần hiểu chủ tài sản bao gồm có chủ sở
hữu tài sản và người quản lý tài sản.
Chủ sở hữu tài sản là người có đầy đủ 3 quyền năng là quyền chiếm
hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản theo quy định của pháp luật.
Có đầy đủ 3 quyền này mới là chủ sở hữu hợp pháp đối với tài sản và được
pháp luật bảo vệ.
Người quản lý tài sản là người đang nắm giữ hoặc trông coi, bảo vệ tài
sản nhưng lại không phải là chủ sở hữu tài sản và không có quyền định đoạt
tài sản. Trong tình huống đề bài, khi gia đình ông N ra ngoài thì bà P chính là
người quản lý tài sản.
Do đó, hành vi của K, H không có tính lén lút, bởi việc lấy tài sản hoàn
toàn diễn ra trước mắt bà P. Tuy hành vi chiếm đoạt tài sản của K và H xảy ra,
gia đình ông N không hề biết nhưng một chủ tài sản là người quản lý tài sản
6


lúc đó là bà P hoàn toàn biết rõ. Vì vậy, K và H không phạm tội trộm cắp tài
sản.
4. K và H không phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản
Có ý kiến cho rằng : K và H phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản vì
chúng công khai lấy tài sản trước mắt người giúp việc.
Theo điều 137 BLHS tội công nhiên chiếm đoạt tài sản được quy định :
Người nào công nhiên chiếm đoạt tài sản của nười khác có giá trị từ hai triệu
đồng đến dưới năm mươi triệu đồng…thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm…
Công nhiên chiếm đoạt tài sản là hành vi công khai lấy tài sản của chủ
sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản mà không dùng vũ lực hoặc
đe dọa dùng vũ lực hoặc bất cứ một thủ đoạn nào nhằm uy hiếp tinh thần của

người quản lý tài sản. Đặc điểm nổi bật của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản
là người phạm tội ngang nhiên lấy tài sản trước mắt người quản lý tài sản mà
người quản lý tài sản không thể bảo vệ được tài sản của mình do những trở
ngại khách quan như ốm đau, lũ lụt, tai nạn… Do vậy, người phạm tội không
cần và cũng không có ý định dùng bất cứ thủ đoạn nào khác để đối phó với
chủ tài sản như dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hay nhanh chóng chiếm đoạt
tài sản…
Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản có ba dấu hiệu.
Hành vi chiếm đoạt tài sản của H và K có tính công khai. Khi đó, bà P
hoàn toàn biết được hành vi chiếm đoạt tài sản của K và H đang xảy ra. Đảm
bảo dấu hiệu thứ nhất của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.
Dấu hiệu thứ hai, người quản lý tài sản rơi vào tình trạng không thể
quản lý, bảo vệ được tài sản. Trong trường hợp này, H,K đã đe dọa và định
trói khiến bà P bị tê liệt về ý chí, không dám có hành động phản kháng. Nói
7


cách khác, người quản lý tài sản là bà P ở trong tình trạng không có khả năng
bảo vệ, ngăn cản việc chiếm đoạt. Nội dung này cũng thỏa mãn dấu hiệu của
tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.
Nhưng yếu tố thứ ba, lý do mà người có tài sản lâm vào tình trạng
không thể quản lý, bảo vệ được tài sản trong tội công nhiên chiếm đoạt tài sản
là do nguyên nhân khách quan hay chủ quan của chính người bị hại chứ không
phải do người phạm tội tạo ra tình trạng đó. Ở đây, chính H và K đã có hành
vi đe dọa sẽ dùng vũ lực khiến bà P không có điều kiện để ngăn cản hành vi
chiếm đoạt của mình. Do đó, không thể kết luận K, H phạm tội công nhiên
chiếm đoạt tài sản.
KẾT LUẬN
Từ tình huống trên, ta thấy rằng khi xác định tội danh của người phạm
tội cần thiết phải xem xét một cách đầy đủ các dấu hiệu của hành vi phạm tội

thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm đó hay không. Vì các tội phạm rất dễ
có sự nhầm lẫn với nhau, đặc biệt khi trong thực tế, các tình tiết thường rất đa
dạng, phong phú chứ không mang tính đơn thuần, kiểu mẫu, do đó, cần đặc
biệt lưu ý một số tình tiết trong hành vi có thể gây nhầm lẫn với tội phạm khác
nên cần phải xét các hành vi đó trong một tổng thể khách quan.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Giáo trình luật hình sự Việt Nam tập 2- NXB Công an nhân dân-2007
2.Bộ luật hình sự Việt Nam 1999
8


3.Định tội danh đối với các tội xâm phạm sở hữu-TS Lê Đăng Doanh-NXB
Tư pháp-2013

9



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×