Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội giết người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (40.32 KB, 4 trang )

Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội giết người
Đề bài: A dùng súng định giết chết B. Mới bắn 1 phát trúng chân B,
thấy B bị thương, A có điều kiện bắn tiếp nhưng A vẫn không bắn
mà bỏ đi. Kết quả B chỉ bị thương tích (tỷ lệ 45%).
Hỏi:
a. Hành vi của A có thỏa mãn các điều kiện của tự ý nửa chừng
chấm dứt việc phạm tội không? Giải thích? (4 điểm).
b. Xác định trách nhiệm hình sự của A. (3 điểm)

Bài làm:
a. Hành vi của A có thỏa mãn các điều kiện của tự ý nửa chừng
chấm dứt việc phạm tội.
Theo Điều 19 BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung 2009 quy định: “
Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự ý mình không thực
hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản.”
Hành vi của A thỏa mãn các dấu hiệu sau của tự ý nửa chừng
chấm dứt việc phạm tội. Bởi các lý do sau:
- Việc chấm dứt không thực hiện tiếp tội phạm của A xảy ra khi tội
phạm ở giai đoạn chưa đạt chưa hoàn thành. Theo đó,” A dùng
súng định giết chết B. Mới bắn 1 phát trúng chân B, thấy B bị
thương, A có điều kiện bắn tiếp nhưng A vẫn không bắn mà bỏ đi.
Kết quả B chỉ bị thương tích (tỷ lệ 45%)”. Trong trường hợp này, A


biết hành vi của mình chưa thể gây ra hậu quả chết người mà
mình mong muốn.
- Việc chấm dứt không thực hiện tiếp tội phạm của A là tự nguyện
và dứt khoát. Điều này được thể hiện như sau: Việc A dừng lại
không thực hiện tiếp tội phạm là hoàn toàn do động lực bên trong
chứ không phải do trở ngại khách quan chi phối (tại thời điểm đó
không có gì ngăn cản A và A vẫn có thể thực hiện tiếp được tội


phạm nhưng A đã dừng lại không thực hiện tiếp). Việc tự ý nửa
chừng chấm dứt việc phạm tội này của A là sự thể hiện của việc từ
bỏ hẳn ý định phạm tội ( bằng chứng là sau đó A không có ý định
giết B nữa).
b. Xác định trách nhiệm hình sự của A:
Cũng theo Điều 19 BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung 2009 có quy
định: “Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn
trách nhiệm hình sự về tội định phạm; nếu hành vi thực tế đã thực
hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác, thì người đó phải
chịu trách nhiệm hình sự về tội này”.
Theo đó. A được miễn trách nhiệm hình sự về tội giết người.Bởi:
- Xét về mặt chủ quan, A hoàn toàn tự nguyện từ bỏ hẳn ý định
phạm tội của mình, không còn mong muốn thực hiện tội phạm đến
cùng nữa. Xét về mặt khách quan, hành vi đã thực hiện của A chưa
có tính nguy hiểm đầy đủ của loại tội định phạm vì chưa thỏa mãn
hết các dấu hiệu của cấu thành tội phạm. Trong sự thống nhất giữa
mặt khách quan và chủ quan như vậy, hành vi đã thực hiện của A
coi như đã mất tính nguy hiểm của loại tội định phạm. Đó cũng


chính là một trong những căn cứ của việc miễn truy cứu trách
nhiệm hình sự về tội định phạm cho người tự ý nửa chừng chấm
dứt việc phạm tội.
- Mục đích của việc truy cứu trách nhiệm hình sự là cải tạo, giáo
dục ý thức của người phạm tội để họ biết hành vi của mình là sai,
gây nguy hiểm cho xã hội. Việc người tự ý nửa chừng chấm dứt
việc phạm tội tức là về mặt ý thức họ đã từ bỏ hẳn ý định phạm
tội, tự nhận thức hành vi của mình là sai, là nguy hiểm cho xã hội.
Vì vậy, vấn đề cải tạo, giáo dục không đặt ra đối với hành vi phạm
tội của họ bởi bản thân người phạm tội đã tự nhận thức được điều

đó nên không cần có sự tác động của pháp luật. Nếu truy cứu
trách nhiệm hình sự hay áp dụng hình phạt đối với họ sẽ không đạt
được mục đích của hình phạt.
Tuy nhiên, hành vi thực tế mà A đã thực hiện lại có đủ yếu tố cấu
thành tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác theo Điều 104 BLHS.Hành vi của A có thể bị truy cứu
trách nhiệm hình sự theo khoản 2 hoặc khoản 3 của Điều này:
- Khoản 2 Điều 104 BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung 2009 quy
định: “Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến
30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm
từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm
đến bảy năm”.
- Khoản 3 Điều 104 BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung 2009 quy
định: “Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết


người hoặc từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường
hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này,
thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.”
Hành vi phạm tội của A không bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo
khoản 3 Điều 104 BLHS được vì tuy A gây thương tích cho B là 45%
nhưng lại không thuộc một trong các trường hợp quy đinh tại các
điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.
Căn cứ vào các nhận định trên thì hành vi gây thương tích cho B
45% của A sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều
104 BLHS. Việc xác định mức hình phạt cụ thể của A lại phải căn
cứ vào Điều 45 BLHS quy định về căn cứ quyết định hình phạt:
“Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật

hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi tội phạm, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ
và tăng nặng trách nhiệm hình sự”.



×