Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

Khách thể của quan hệ pháp luật giữa người lao động và người sử dụng lao động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (62.21 KB, 3 trang )

Khách thể của quan hệ pháp luật giữa người lao động và người sử
dụng lao động
Trong một quan hệ pháp luật, việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của các chủ thể bao
giờ cũng nhằm hướng tới một mục đích, một lợi ích nào đó và đó chính là khách thể
của quan hệ pháp luật đó. Khi tham gia vào quan hệ pháp luật lao động, người lao
động muốn sử dụng sức lao động của mình để có thu nhập đảm bảo cuộc sống cho
họ và gia đình cho họ; còn bên sử dụng lao động cũng muốn có sức lao động để sử
dụng vào quá trình sản xuất, kinh doanh hay dịch vụ. Như vậy, khi thiết lập quan hệ
pháp luật lao động với nhau, các bên đều hướng tới sức lao động của người lao
động và đó chính là khách thể của quan hệ pháp luật lao động. Trong bài tập này,
em xin phân tích khách thể của quan hệ pháp luật giữa người lao động và người sử
dụng lao động.

Tại sao khách thể là sức lao động? Tại sao khách thể là sức lao động của người lao
động? Sức lao động được định dạng như thế nào? Để lí giải cho các vấn đề đó, cần
bắt đầu từ bản chất sâu xa của quan hệ lao động và biểu hiện của quá trình thực hiện
quan hệ lao động đó. Về mặt bản chất, các bên của quan hệ lao động không thực
hiện việc mua, bán sức lao động – vì sức lao động là đại lượng phi vật chất, không
phải là thứ có thể cầm nắm hay sờ thấy được, mà là đang mua bán một đại lượng
vật chất khác, giống như mua một chiếc bình gốm do người lao động sản xuất ra.
Có thể không có sự đánh giá hay hình dung một cách đầy đủ về sức lao động nhưng
chắc chắn đó là một đối tượng của quan hệ trao đổi. Vì vậy, theo cách hiểu thông
thường, đó chính là quan hệ khách thể của quan hệ trao đổi. Nhưng người lao động
“bán” đi sức lao động không phải bằng cách dùng tay hay dùng các phương tiện
khác chuyển cho người sử dụng lao động sức lao động của mình mà phải làm việc
để chuyển giao sức lao động đó. Người lao động không chỉ làm việc theo nghĩa
thông thường là thực hiện các hành động, các thao tác như một cái máy mà là lao
động với tất cả tâm trí, khả năng, kĩ năng, tình cảm, trách nhiệm của mình. Ví dụ


như một ông giám đốc được thuê để quản lí một công ty cổ phần thì ông ta phải có


đủ bằng cấp, kĩ năng mềm, kinh nghiệm…để điều hành công ty và ông ta phải chịu
trách nhiệm về công việc của mình. Ngược lại, người sử dụng lao động không thể
dùng các công cụ, phương tiện để nhận sức lao động từ người lao động như các
hàng hóa khác (nguyên liệu, vật liệu…) và cũng không thể nhận trực tiếp hàng hóa
sức lao động đó mà phải thực hiện hành vi này một cách gián tiếp. Đối với người sử
dụng lao động, việc bàn giao công việc, tổ chức quản lí người lao động chính là
việc đang “nhận” sức lao động người lao động chuyển giao. Ví dụ chủ quán phở
thuê đầu bếp và chân chạy bàn thì chủ quán phải bàn giao công việc và quản lí
những người đã được thuê.

Sức lao động (không phải là lao động, với cả hai ý nghĩa: là người lao động và thao
tác – hành vi lao động) là khách thể của quan hệ pháp luật lao động. Sức lao động
gắn liền với người lao động, sức lao động gắn liền với cơ bắp, trí não, những phẩm
chất và giá trị nhân thân của từng người. Do vậy, không thể có hiện tượng người lao
động này “lấy trộm, lấy cắp” sức lao động của người khác để bán cho người sử
dụng lao động.
Trong trường hợp nào sức lao động của người lao động là khách thể? Người lao
động “hướng tới” khách thể tức là hướng tới sức lao động của chính bản thân mình.
Muốn có được sức lao động tốt người lao động phải bồi bổ cơ thể, siêng năng học
hành, chịu khó rèn luyện tích lũy kinh nghiệm và kỹ năng làm việc. Đây là lí do vì
sao sinh viên khi ra trường đều cố kiếm tấm bằng khá giỏi, người có bằng đại học
thì lại muốn có thêm bằng thạc sĩ…Chung quy chỉ vì người lao động mong muốn
bán được sức lao động với giá cao – lương và hoa hồng cao, có môi trường làm việc
tốt để chuyển giao sức lao động cho người sử dụng lao động một cách thuận lợi.
Còn người sử dụng lao động cũng “hướng tới” sức lao động của người lao động
thông qua hành vi quan tâm đến số lượng và chất lượng của sức lao động mà người
lao động chuyển giao cho họ. Vì vậy, trước khi tuyển người lao động vào làm việc,
người sử dụng lao động đã có sự đánh giá, phân loại đối tượng để tìm được đối tác



thích hợp cho quá trình lao động. Đây chính là lí do người sử dụng lao động tiến
hành công việc xem xét đơn xin việc và phỏng vấn người lao động. Sau khi có lực
lượng lao động, người sử dụng lao động lại tiếp tục giám sát quá trình chuyển giao
sức lao động của những công nhân - viên chức làm việc tại đơn vị. Ví dụ ban
Thanh tra nhân dân do cán bộ, công nhân viên chức từng đơn vị bầu ra, với nhiệm
kỳ 2 năm, để làm công việc giám sát, thanh tra mọi công việc, hoạt động của cơ
quan, đơn vị.
Sự “hướng tới” khách thể của hai bên là khác nhau do mục tiêu của họ là khác nhau
nhưng vấn đề là cả hai bên trong quan hệ lao động đều “hướng tới” sức lao động
của người lao động. Nhưng sức lao động của người lao động không phải lúc nào
cũng là cái mà các bên trong quan hệ pháp luật “hướng tới”. Thời điểm hướng tới
đó luôn được xác định vì con người luôn có nhiều mối quan tâm khác nhau. Tùy
từng thời điểm mà mối quan tâm đó được đặt vào những điều cần thiết. Ví dụ chị H
là viên chức nhà nước. Chị đi làm vào giờ hành chính từ 8h tới 17h30. Tan việc, chị
về đón con và nội trợ. Khoảng 19h tới 21h, chị kinh doanh quán giải khát tại nhà.
Sau đó chị kiểm tra bài tập của con, dọn dẹp nhà cửa và đi ngủ. Cuối tuần chị tham
gia CLB “làm giàu không khó”. Nói cách khác, trong khoảng thời gian ngoài giờ
hành chính, sức lao động của chị H không được chuyển giao, không được đưa vào
quá trình trao đổi nên không thể là khách thể nữa.
Khách thể của quan hệ pháp luật lao động là sức lao động và đây luôn là vấn đề
được người lao động và người sử dụng lao động quan tâm hướng tới. Xung quanh
sức lao động có rất nhiều vấn đề được đặt ra, tuy nhiên do giới hạn bài tập cá nhân
nên em xin kết thúc tại đây. Em rất mong thầy cô góp ý và sửa chữa những thiếu sót
của em.



×