Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

HỌC PHẦN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CHÍNH SÁCH CẠNH TRANH VÀ CHÍNH SÁCH BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (351.57 KB, 31 trang )

HỌC PHẦN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CHÍNH
SÁCH CẠNH TRANH VÀ CHÍNH SÁCH BẢO
VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG
Mục lục
Giới thiệu ........................................................................................................................2
Tổng quan về chính sách cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng ...................................4
Chính sách/Luật cạnh tranh .................................................................................4
Chính sách bảo vệ người tiêu dùng .....................................................................4
Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam .............................................5
Mối quan hệ bổ sung giữa chính sách cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng ................10
Phân tích khái niệm mối quan hệ giữa chính sách cạnh tranh và người tiêu dùng .....10
Hành vi cạnh tranh không công bằng ..................................................................10
Quảng cáo gian dối ..............................................................................................13
Bán hàng theo mô hình kim tự tháp ....................................................................15
Phân tích trên cơ sở quyền lợi về mối quan hệ giữa chính sách cạnh tranh và người tiêu
dùng ........................................................................................................................... 17
Quyền được thỏa mãn những nhu cầu cơ bản .....................................................18
Quyền được an toàn .............................................................................................19
Quyền được lựa chọn ...........................................................................................20
Quyền được bồi thường .......................................................................................21
Quyền được thông tin ..........................................................................................23
Quyền được giáo dục về tiêu dùng ......................................................................23
Quyền được lắng nghe .........................................................................................24
Quyền được có môi trường lành mạnh và bền vững ...........................................24
Xử lý các vấn đề về cạnh tranh và người tiêu dùng .......................................................26
Tài liệu tham khảo ..........................................................................................................30
1


Giới thiệu
Khi đề cập đến luật và chính sách cạnh tranh, mối quan hệ bổ sung giữa cạnh tranh và bảo vệ


người tiêu dùng không còn là một vấn đề mới và gây nhiều tranh cãi, mà thay vào đó đã phần
nào được khẳng định.
Cạnh tranh thúc đẩy nhà sản xuất bán sản phẩm ở mức giá hấp dẫn nhất với nhiều lựa chọn về
chất lượng. Trên thị trường cạnh tranh, các nhà sản xuất phải đạt được mức doanh thu mới, thu
hút khách hàng mới bằng cách thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng thông qua việc tăng thêm
lựa chọn cho khách hàng, bởi nếu người tiêu dùng không cảm thấy thỏa mãn với lời chào hàng
của một người bán, thông tin đó có thể dễ dàng được truyền đến tai người khác. Đó là do sự sẵn
có của các sản phẩm thay thế ở mức giá chấp nhận được trên thị trường cạnh tranh giúp người
tiêu dùng có thể thay đổi hành vi mua hàng, áp đặt các quy tắc nghiêm ngặt đối với mỗi người
bán để thỏa mãn sở thích của người tiêu dùng.
Bên cạnh việc tăng thêm lựa chọn sẵn có cho người tiêu dùng, trên thị trường cạnh tranh, những
chiến lược cạnh tranh lâu dài bắt buộc các nhà sản xuất phải cung cấp những thông tin chính xác
và hữu ích về sản phẩm, thực hiện đầy đủ các cam kết về giá cả, chất lượng và các điều khoản
kinh doanh khác, và từ đó nâng cao hình ảnh thương hiệu đối với người tiêu dùng. Các nhà sản
xuất cũng cần liên tục sáng tạo nếu họ không muốn bị tụt lại phía sau trong cuộc đua thỏa mãn
nhu cầu luôn thay đổi. Do đó, để đảm bảo cho thị trường thực hiện được chức năng cạnh tranh,
luật và chính sách cạnh tranh phải trở thành một công cụ hữu hiệu để nâng cao lợi ích cho người
tiêu dùng, và đó cũng là mục tiêu của chính sách bảo vệ người tiêu dùng.
Tuy nhiên, không phải lúc nào thị trường cũng tồn tại cạnh tranh có thể do nguyên nhân tự nhiên
hay do những ý đồ cá nhân, và sự bất lực của thị trường cũng là một kết quả phụ không tránh
khỏi của bất kỳ thị trường mở và tự do nào, do đó hành vi không trung thực hay gian lận của các
nhà sản xuất không phải luôn luôn bị phạt hay bị cấm. Bên cạnh đó thông tin không đầy đủ và
nhận thức hạn chế cũng làm cho người tiêu dùng dễ bị lừa, lừa đảo hay gian lận. Trong khi luật
và chính sách cạnh tranh tập trung xem xét các hành vi cạnh tranh của các đối thủ cạnh tranh trên
thị trường, xử lý các trường hợp độc quyền, và phạt các công ty thành lập các-ten,… có thể dễ
dàng bỏ qua những tổn thất nhỏ hơn của người bình thường hay là người tiêu dùng. Giá trị của
cạnh tranh đã bị phủ nhân trước khi đạt đến đích cuối cùng – lợi ích người tiêu dùng.
Chính sách bảo vệ người tiêu dùng có vai trò quan trọng trong việc giải quyết vấn đề này. Chính
sách này nhằm đảm bảo rằng người tiêu dùng có thể đưa ra những quyết định có đầy đủ thông
tin về lựa chọn của mình và rằng người bán sẽ giữ lời hứa về sản phẩm mà họ cung cấp. Nói

cách khác, chính sách bảo vệ người tiêu dùng ngăn cản các nhà sản xuất tham gia hành vi cạnh
tranh không lành mạnh nhằm mục đích tăng doanh thu.
Phần sau của học phần sẽ đề cập chi tiết hai loại chính sách cạnh tranh và bảo vệ người tiêu
dùng, chúng có chung một mục tiêu cuối cùng, hỗ trợ nhau như thế nào, và các lĩnh vực chung

2


cụ thể của hai chính sách này là gì. Những ví dụ và tình huống cụ thể của Việt Nam liên quan
đến chính sách cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng cũng sẽ được phân tích.

3


Tổng quan về chính sách cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng
Luật/chính sách cạnh tranh
Một phương thức phát triển đúng đắn liên quan đến công nghệ mới nhất, thúc đẩy xuất khẩu,
công nghiệp hóa, và tăng cường cạnh tranh để đưa ra lựa chọn tốt hơn,… Duy trì và phát huy
tính cạnh tranh có vị trí trung tâm trong phương thức này. Chính sách cạnh tranh là một phần
thống nhất của phương thức này.
Luật và chính sách cạnh tranh là hai khái niệm khác nhau. Luật cạnh tranh là một phần của chính
sách cạnh tranh.
Chính sách cạnh tranh đề cập đến những biện pháp của chính phủ ảnh hưởng trực tiếp đến hành
vi của các công ty và cấu trúc của ngành. Chính sách cạnh tranh là một thành phần của chính
sách kinh tế, và có thể bao gồm một số yếu tố như tự do hóa thương mại, chính sách công
nghiệp, đầu tư và tư nhân hóa, với mục tiêu chủ yếu là để duy trì và phát huy cạnh tranh như một
phương thức để đảm bảo sự phân bổ nguồn lực hiệu quả trong một nền kinh tế, cuối cùng là
người tiêu dùng được cung ứng đầy đủ hàng hóa với chất lượng tốt nhất và giá rẻ nhất.
Mối quan hệ giữa luật và chính sách cạnh tranh có thể được thể hiện bằng công thức sau đây:
Chính sách cạnh tranh = Các chính sách kinh tế ảnh hưởng đến cạnh tranh + Luật cạnh

tranh

Chính sách bảo vệ người tiêu dùng
Theo một cách tiếp cận khác về phát triển, mối quan tâm chính là thỏa mãn những nhu cầu cơ
bản tối thiểu của con người, loại bỏ nguồn gốc đói nghèo và sự cách ly ra khỏi nhịp điệu phát
triển của xã hội, tập trung vào những vấn đề như thất nghiệp và những dịch vụ sức khỏe cơ
bản,…. Chính sách bảo vệ người tiêu dùng là một phần của chiến lược bắt nguồn từ phương thức
này.
Giống như tên gọi, trọng tâm của chính sách bảo vệ người tiêu dùng là người tiêu dùng, khác với
chính sách và luật cạnh tranh, liên quan đến tính cạnh tranh, hiệu quả, các công ty và hành vi của
họ, các ngành công nghiệp và cấu trúc, và tất nhiên là lợi ích người tiêu dùng. Đơn giản là để đạt
được mục tiêu cuối cùng của chính sách bảo vệ người tiêu dùng – lợi ích người tiêu dùng, một
chính sách bảo vệ người tiêu dùng có thể có các công cụ khác nhau, tất cả đều có hiệu quả cao
trong ít nhất là một số tình huống. Một số công cụ hướng tới việc giúp đỡ người tiêu dùng trực
tiếp, chẳng hạn như giáo dục về tiêu dùng và hỗ trợ người tiêu dùng làm thế nào để được bồi
thường khi họ bị ảnh hưởng bởi những hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Các biện pháp khác
hướng tới các công ty cung ứng sản phẩm, như yêu cầu cung cấp thông tin nhất định cho người
tiêu dùng hay hạn chế một số hành vi kinh doanh và quảng cáo.
Một chính sách bảo vệ người tiêu dùng có thể bao gồm những yếu tố sau đây:

4




Nhận thức người tiêu dùng và giáo dục về tiêu dùng



Cung cấp và công bố thông tin




Quy định điều khoản hợp đồng



Khoảng thời gian hợp lý để xem xét



Thuyết phục có đạo đức



Quy phạm về hành vi



Tiêu chuẩn và an toàn



Trách nhiệm sản phẩm



Cho phép và cấp phép




Ngăn cấm



Giải quyết tranh chấp và cơ chế bồi thường



Chiến lược thực thi

Luật bảo vệ người tiêu dùng có thể bao gồm nhiều yếu tố kể trên và cấu thành một phần quan
trọng của chính sách bảo vệ người tiêu dùng. Hơn nữa các luật và quy định riêng có thể nhắc đến
nhiều yếu tố kể trên. Trong trường hợp đó, những luật và quy định tương ứng, cùng với luật bảo
vệ người tiêu dùng, cấu thành chính sách bảo vệ người tiêu dùng của một quốc gia.
Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng tại Việt Nam
Tại Việt Nam, sau khi bắt đầu quá trình đổi mới, khi nền kinh tế Việt Nam bắt đầu phải đương
đầu với những ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường, người ta bắt đầu quan tâm đến vấn đề lợi
ích của người tiêu dùng và vấn đề bảo vệ người tiêu dùng bắt đầu hình thành. Kể từ đó, các cơ
quan được trao các công cụ pháp lý để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng đã từng bước được
thành lập, với công cụ pháp lý quan trọng nhất cho đến nay là Pháp lệnh về việc bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng Việt Nam (Số 13/1999/PL-UBTVQH10), được Ủy ban thường vụ quốc hội
thông qua vào tháng 4 năm 1999, có hiệu lực từ tháng 10 năm 1999. Thêm nữa, Nghị định Số
69/2001/ND-CP đã được chính phủ ban hành hướng dẫn chi tiết việc thực hiện Pháp lệnh, sau đó
là nghị định số 29/2004/ND-CP cho phép Bộ Thương mại đảm nhiệm là cơ quan quản lý nhà
nước về các vấn đề bảo vệ người tiêu dùng được luật quy định. Thêm vào đó, người tiêu dùng
Việt Nam cũng được bảo vệ trong các quy định của các văn bản pháp lý như Bộ luật dân sự, Bộ
luật hình sự, luật thương mại, Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân, Luật bảo vệ môi trường, Pháp lệnh
về chất lượng hàng hóa, Pháp lệnh về đo lường, Pháp lệnh về an toàn và vệ sinh thực phẩm,….
Gần đây nhất, khung pháp lý về bảo vệ người tiêu dùng đã được cải thiện bằng các điều khoản

của Luật cạnh tranh 2004 và Nghị định số 55/2008/ND-CP, có hiệu lực thay thế Nghị định số
69/2001 hướng dẫn chi tiết thực hiện Pháp lệnh 1999.
5


Ngoài những hành vi lạm dụng chung người tiêu dùng ở khắp mọi nơi trên thế giới như quảng
cáo gây nhầm lẫn, các điều khoản hợp đồng không công bằng, hoặc tăng giá không hợp lý,…
người tiêu dùng ở Việt Nam cũng gặp phải nhiều vấn đề nghiêm trọng, liên quan đến chất lượng,
tiêu chuẩn, an toàn và quyền sở hữu trí tuệ. Những sản phẩm không an toàn và dưới mức tiêu
chuẩn gần như trở thành giả định thực tế, mặc dù mức thu nhập và chất lượng đời sống đã được
cải thiện. Với cơ chế và công cụ để quản lý các hành vi của các công ty trên thị trường vẫn còn
yếu, hàng giả và hàng nhái vẫn tràn lan, ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng, và thậm chí là
tính mạng của họ chẳng hạn như thuốc giả. Hàng giả và hàng kém chất lượng là những thách
thức nghiêm trọng với người tiêu dùng Việt Nam. Bên cạnh đó, có nhiều loại hàng hóa được
nhập khẩu trái phép vào Việt Nam có chất lượng kém, hàng giả, hàng không được quản lý (như
thuốc trừ sâu không được cấp phép) hay có hại đến sức khỏe người tiêu dùng (như thuốc lá,
những phương tiện giải trí không lành mạnh). Do đó, cùng với việc đấu tranh chống hàng giả,
người tiêu dùng Việt Nam phải đấu tranh với hàng lậu, không chỉ vì lợi ích của quốc gia mà còn
vì lợi ích của mỗi người tiêu dùng.
Hộp 1: Điện thoại di động khuyến mại liệu có phù hợp với túi tiền của người tiêu dùng?
Công ty TNHH Anh Tú là 1 công ty Việt Nam chuyên về phần mềm và điện tử. Công ty Anh
Tú bắt đầu chương trình khuyến mại ‘đặc biệt’ từ ngày 20 tháng 1 năm 2005. Theo chương
trình khuyến mại, bất kỳ khách hàng nào mới mua hàng ở bất kỳ đại lý bán lẻ nào của Anh
Tú sẽ nhận được phiếu quà tặng với 1 chiếc điện thoại di động CDMA Motorola C131, với
điều kiện là khách hàng đồng ý hòa mạng gói cước thuê bao trả trước miễn phí 1 do S-Fone
cung cấp, với mức phí hòa mạng là 200,000 đồng.
Tổng cộng có 3,200 khách hàng đã bị lừa trong chương trình khuyến mại này (với tổng số
tiền mà công ty Anh Tú thu được là sấp xỉ 640 triệu đồng), bởi không biết rằng từ ngày 11
đến ngày 30 tháng 1, S-Fone – nhà cung cấp mạng lưới dịch vụ CDMA, đang tặng một chiếc
điện thoại miễn phí này cho bất kỳ người dùng mới nào sử dụng gói cưới Miễn phí 1 mà

không tính phí hòa mạng là 200000 đồng.

Bên cạnh đó nhiều vấn đề cũng phát sinh trong lĩnh vực dịch vụ và tiện ích công cộng, kể cả
những dịch vụ được sử dụng rộng rãi như giao thông vận tải, điện, nước và vệ sinh, Internet, viễn
thông, ngân hàng,… khiến người tiêu dùng cũng đối mặt với rất nhiều vấn đề, từ độc quyền (tức
là ít sự lựa chọn), chất lượng dịch vụ kém, chi phí cao, cơ chế xử lý khiếu nại còn thiếu,…

6


Hộp 2 – Các tòa nhà chung cư – Thị trường viễn thông độc quyền
Tại Hà Nội, vào năm 2005, có khoảng 45 dự án xây dựng nhà chung cư đang được tiến
hành, 20 trong số đó đã được hoàn thành và đưa vào sử dụng. Tuy nhiên, báo cáo đã cho
thấy trong tất cả các tòa nhà chung cư này, người tiêu dùng không được lựa chọn truyền
hình cáp, internet hay kết nối điện thoại. Họ bị ép buộc sử dụng những dịch vụ này của
một nhà cung cấp dịch vụ nhất định.
Bà Thu Hoa, 1 người dân sống tại một trong những khu chung cư này – KT4- Định Công,
nói rằng gia đình bà bị ép buộc sử dụng đường dây cố định của dịch vụ viễn thông và
Internet Hà nội do công ty truyền thông số liệu Việt Nam (VDC) cung cấp, thậm chí giá
dịch vụ còn cao hơn mức giá của các công ty khác. Bên cạnh đó, trong khi dịch vụ truyền
hình cáp có mặt ở khắp nơi trong thành phố Hà Nội, người dân sống trong các khu chung
cư ở Định Công không thể kết nối được.
Ở khu Trung Hòa – Nhân Chính, Viettel là nhà cung cấp dịch vụ duy nhất cho 1786 hộ
dân. Mặc dù người tiêu dùng trong các khu chung cư này đã được cung cấp các dịch vụ
viễn thông cơ bản, họ không được hưởng dịch vụ mới nào có trên thị trường trừ trường
hợp Viettel không thể cung cấp dịch vụ đó. Bà Thành Kim, một trong những cư dân khu
vực này tiết lộ rằng mặc dù gia đình sử dụng Internet thường xuyên để liên lạc với các
thành viên đang sống ở nước ngoài, họ không thể kết nối ADSL bởi vào thời điểm đó
Viettel không cung cấp dịch vụ đó. Do đó họ phải liên lạc qua điện thoại, hết sức tốn kém
và chậm.

Bất kỳ khiếu nại nào từ phía người dân trong những khu chung cư này đều nhận được cùng
một câu trả lời của ban quản lý tòa nhà rằng: Bất kỳ nhà cung cấp dịch vụ nào muốn kinh
doanh trong những tòa nhà này đều phải ký hợp đồng với chủ đầu tư từ đầu. Sau khi tòa
nhà đã được đưa vào sử dụng, không có nhà cung cấp dịch vụ nào có thể tham gia vào thị
trường nữa.
Một thành viên của ban quản trị công ty dịch vụ bưu điện Hà Nội nói, “Thường thì chúng
tôi bắt đầu thương lượng với chủ đầu tư ngay cả khi dự án mới đang được phác thảo. Do
cung cấp dịch vụ trong các tòa nhà chung cư mang lại nhiều lợi nhuận, tất cả các nhà cung
cấp dịch vụ viễn thông đều muốn làm. Các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông phải trả tiền
lót tay để được chủ đầu tư lựa chọn.” Ông cũng phản ánh rằng mỗi nhà cung cấp dịch vụ
viễn thông sẽ có mối quan hệ làm ăn lâu dài với một hay nhiều công ty đầu tư để họ có thể
giữ được hợp đồng cung cấp dịch vụ bất kỳ khi có một dự án nhà chung cư mới; chẳng hạn
như Bưu điện Hà nội có mối quan hệ làm ăn thân thiết với Công ty nhà ở và phát triển đô
thị (HUD).
Cũng chính bởisự tồn tại của mối quan hệ thân thiết này, người tiêu dùng là bên duy nhất
phải gánh chịu khi mối quan hệ này đổ vỡ. HUD đã từng ký hợp đồng với công ty truyền
hình cáp Việt Nam để cung cấp dịch vụ truyền hình cáp cho các tòa nhà ở Định Công, do
đó công ty truyền hình cáp Hà Nội không thể tham gia vào thị trường đó. Tuy nhiên, nhiều
năm trôi qua mà đường truyền cáp của công ty truyền hình cáp Việt Nam vẫn chưa được
lắp đặt trong những tòa nhà này. Sau đó công ty cáp Hà nội cũng không muốn tham gia
bởi thủ tục rắc rối. Do đó, cư dân ở các khu chung cư Định Công vô tình bị tước đoạt dịch
vụ cơ bản này.
7


Cuối cùng, trong cuộc sống hàng ngày ở Việt Nam, chúng ta thường gặp phải vô số các trường
hợp quảng cáo về sản phẩm hay dịch vụ tự khoa trương là được ‘người tiêu dùng tin tưởng’ hay
chất lượng cao ‘được người tiêu dùng chứng nhận’. Những quảng cáo này có thể gây nhầm lẫn
cho người tiêu dùng hoặc không có cơ sở rõ ràng, chỉ có một số trường hợp là được chứng nhận
bởi cơ quan nhà nước. Vấn đề là ở chỗ những quảng cáo này mượn danh người tiêu dùng nhằm

mục tiêu chủ yếu là kích thích người tiêu dùng mua hàng. Trong khi đó lẽ ra việc này phải để
người tiêu dùng tự chứng nhận bằng những phương pháp đáng tin cậy hơn, hay thông qua các cơ
quan thực sự đại diện cho người tiêu dùng.
Theo Luật Cạnh tranh Việt Nam 2004, có 2 hành vi kinh doanh có thể gây ảnh hưởng tiêu cực
trực tiếp đến người tiêu dùng Việt Nam. Đó là các hành vi miêu tả gây nhầm lẫn và bán hàng đa
cấp bất chính.
Điều 45 của Luật Cạnh tranh Việt Nam 2004 cấm hành vi quảng cáo dễ gây nhầm lẫn, cùng với
quảng cáo so sánh và bắt chước các sản phẩm được quảng cáo khác. Hi vọng là khi Luật được
thực thi đầy đủ sẽ giúp loại bỏ những hành vi này bởi chúng đang rất phổ biến ở Việt Nam. Ví
dụ, nhiều người tiêu dùng Việt Nam phàn nàn dùng dầu gội đầu nhãn hiệu CLEAR, được Viện
ELIDA (Paris) chứng nhận có thể loại trừ gầu sau 7 lần gội không tốt như quảng cáo, và tất
nhiên, điều kỳ diệu này trên thực tế không xảy ra, dù dầu gội đầu CLEAR giúp kiểm soát gầu.
Tại Việt Nam, Luật Cạnh tranh 2004 (điều 48) và Nghị định bổ sung số 110/2005/ND-CP đã giải
thích chi tiết sự khác biệt giữa kinh doanh đa cấp và bán hàng theo mô hình kim tự tháp, và quy
định trách nhiệm của những người khai thác và tham gia các hình thức này. Bán hàng đa cấp, khi
hoạt động trong khuôn khổ luật pháp quy định, là một hoạt động kinh doanh hợp pháp, trong khi
bán hàng theo mạng lưới hình kim tự tháp là chiến dịch bán hàng đa cấp có các hình thức tiếp thị
lừa đảo khác nhau và là hành vi vi phạm luật nghiêm trọng.
Những hành vi sau là trái pháp luật:


Yêu cầu những ai muốn tham gia vào hệ thống kinh doanh phải trả một khoản tiền đặt
cọc, mua một số lượng hàng ban đầu hay trả một khoản tiền để được quyền tham gia vào
mạng lưới kinh doanh đa cấp;



Không cam kết mua lại hàng ở mức ít nhất là 90% mức giá mà hàng hóa đã được bán cho
những người tham gia để bán lại;




Tiền hoa hồng, tiền thưởng hay các lợi ích kinh tế khác hầu hết có được do lôi kéo những
người khác tham gia vào mạng lưới kinh doanh đa cấp cho những người tham gia;



Cung cấp thông tin sai lệch về lợi ích của việc tham gia vào mạng lưới kinh doanh đa
cấp, thông tin sai lệch về bản chất và tiện ích của hàng hóa nhằm lôi kéo những người
khác tham gia.

8


Cùng với những quy định trực tiếp ở trên, các hành vi phản cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống
lĩnh, tập trung kinh tế khác và các hành vi cạnh tranh không công bằng khác được Luật Cạnh
tranh Việt Nam 2004 điều chỉnh cũng có ảnh hưởng lớn đến quyền lợi của người tiêu dùng Việt
Nam.
Ví dụ chắc chắn rằng người tiêu dùng bị ảnh hưởng trực tiếp bởi những hành vi thống nhất giá,
phân bổ thị trường hay các thỏa thuận chia sẻ khách hàng. Những thỏa thuận này khiến người
tiêu dùng không được hưởng lợi từ những hành vi cạnh tranh công bằng sẽ mang lại sản phẩm và
dịch vụ có giá rẻ hơn, chất lượng tốt hơn và đa dạng hơn. Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường và độc quyền áp giá cao bất hợp lý, duy trì giá bán lại, kinh doanh độc quyền hay bán
kèm cũng gây hại cho người tiêu dùng. Mặc dù người phải chịu thiệt hại trực tiếp do những hành
vi cạnh tranh không công bằng gây ra là các công ty, gánh nặng thiệt hại cuối cùng sẽ được
chuyển cho người tiêu dùng thông qua mức giá cao hơn, hạn chế sản lượng và phân phối.
Tập trung kinh tế (hầu hết là sát nhập và mua lại – M&As) là các giao dịch giữa các công ty. Tuy
nhiên, để các M&As có thể dẫn đến các bên tham gia trở thành doanh nghiệp thống lĩnh và/hoặc
độc quyền trên các thị trường liên quan, có nhiều khả năng rằng họ sẽ lạm dụng sức mạnh thị
trường mới có được để gây hại cho người tiêu dùng.

Một hành vi kinh doanh khác thoạt nhìn thì có vẻ tốt nhưng lại có hại cho người tiêu dùng về lâu
dài đó là định giá hủy hiệt. Định giá hủy diệt xảy ra khi một công ty có vị trí thống lĩnh tạm thời
tính mức giá đặc biệt thấp để cố gắng loại bỏ những đối thủ đang có mặt trên thị trường, hoặc tạo
ra rào cản gia nhập thị trường đối với các đối thủ mới có tiềm năng. Doanh nghiệp tạm thời chấp
nhận lỗ trong suốt quá trình thực hiện chính sách định giá thấp với ý định tăng giá trong tương
lai để bù lại phần lỗ và có được lợi nhuận cao hơn. Bên cạnh đó, số lượng đối thủ cạnh tranh trên
thị trường bị giảm đi đáng kể có thể đặt người tiêu dùng ở thế bất lợi, do đó họ không có cơ hội
để lựa chọn nhà cung ứng hay sản phẩm phù hợp với thị hiếu, nhu cầu và khả năng có thể chi trả
được của mình.
Nhìn chung, có thể nói rằng việc ban hành và thực thi có hiệu quả Luật Cạnh tranh Việt Nam
2004 có khả năng sẽ mang lại những lợi ích trực tiếp và gián tiếp cho người tiêu dùng Việt Nam
trước mắt và lâu dài. Đổi lại các cơ quan canh tranh cũng cần có sự ủng hộ từ phía người tiêu
dùng cũng như các tổ chức và hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng.
Hiện nay Việt Nam đang soạn thảo Luật bảo vệ người tiêu dùng nhiều khả năng sẽ được ban
hành vào cuối năm 2010. Đây sẽ là một bước tiến dài khác trong lĩnh vực bảo vệ người tiêu dùng
của đất nước và chắc chắn sẽ bổ sung cho khung pháp lý về vấn đề này hiện tại đang được điều
tiết bởi Luật cạnh tranh 2004.

9


Mối quan hệ bổ sung giữa chính sách cạnh tranh và người tiêu dùng
Phân tích khái niệm về mối quan hệ giữa chính sách cạnh tranh và người tiêu dùng
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh (UTPs) bao gồm một loạt các hành vi dân sự liên quan đến
thiệt hại kinh tế do hành vi sai trái hay lừa đảo gây ra. Các học thuyết pháp lý có thể được xác
nhận gồm những khiếu nại như biển thủ bí mật thương mại, cạnh tranh không công bằng, quảng
cáo sai lệch, lừa đảo, suy giảm hay mất danh tiếng. UTPs có thể phát sinh trong bất kỳ lĩnh vực
công nghệ nào và thường liên quan đến những khiếu nại sở hữu trí tuệ truyền thống hơn chẳng
hạn như bằng sáng chế, thương hiệu và vi phạm quyền tác giả. Luật quốc gia sẽ quy định cụ thể

các hình thức hành vi cạnh tranh không công bằng bị luật cấm phụ thuộc vào luật của quốc gia
đó. Luật mẫu của Ngân hàng thế giới (WB) và Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), ví
dụ, liệt kê những hành vi sau là hành vi cạnh tranh không công bằng:


Đưa thông tin sai lệch hoặc gây nhầm lẫn có khả năng gây hại cho lợi ích kinh doanh
của một công ty khác;



Đưa thông tin sai lệch hay gây nhầm lẫn tới người tiêu dùng, gồm có việc đưa thông tin
thiếu cơ sở hợp lý, liên quan đến giá cả, đặc tính, phương pháp hay nơi sản xuất, sở hữu
và phù hợp với mục đích sử dụng, hay chất lượng hàng hóa; so sánh sai lệch hay gây
nhầm lẫn về hàng hóa trong quá trình quảng cáo;



Sử dụng gian lận thương hiệu, tên, nhãn sản phẩm hay đóng gói của công ty khác; và



Nhận, sử dụng hay truyền bá thông tin khoa học, kỹ thuật, sản xuất, kinh doanh hay
thương mại tối mật mà chưa được phép.

Hơn nữa, UTPs, như luật cạnh tranh không công bằng hay luật chống độc quyền của một số quốc
gia nêu rõ, có thể gồm một loạt những hành vi như phân biệt đối xử không hợp lý, thỏa thuận ở
mức giá quá cao, lôi kéo hay dụ dỗ khách hàng của đối thủ một cách phi pháp, giao dịch với các
công ty khác theo cách hạn chế bất hợp lý hoạt động kinh doanh của các công ty khác, giao dịch
kinh doanh với các công ty khác bằng cách sử dụng vị trí thương lượng không đảm bảo, và can
thiệp không thỏa đáng vào một giao dịch hay lôi kéo không hợp pháp một người trong cuộc hành

động chống lại công ty của mình. Quy định cấm những hành vi này đặc biệt phổ biến ở các quốc
gia châu Á, lấy một số ví dụ, chẳng hạn như Luật chống độc quyền của Nhật Bản, Luật cạnh
tranh công bằng của Hàn Quốc, Luật cạnh tranh công bằng của Đài Loan và những quốc gia mới
có luật như Inđô-nê-sia, Thái Lan, Trung Quốc, hay Việt Nam. Đặc biệt là Trung Quốc và Việt
Nam cũng cấm những hành vi cạnh tranh không công bằng do các cơ quan chính phủ hay chính
phủ thực hiện thông qua việc lạm dụng quyền quản lý tồn tại trong thời gian chuyển tiếp từ nền
kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường.

10


Do đó, UTPs không chỉ gây hại cho người tiêu dùng, mà còn gây hại cho các đối thủ khác trên
thị trường và quan trọng hơn, chúng gây hại cho toàn bộ thị trường. Xét từ khía cạnh của doanh
nghiệp/ nhà sản xuất, sự nguy hiểm của hình thức UTPs đầu tiên chủ yếu là làm mất hay thiệt hại
danh tiếng của họ. Một doanh nghiệp thực hiện những hành vi cạnh tranh không công bằng sẽ
làm hại các đối thủ cạnh tranh bằng cách giảm bớt hay cướp đoạt khách hàng của đối thủ. Tuy
nhiên, chỉ hành vi cướp đoạt khách hàng của một doanh nghiệp không được coi là UTP. Nguyên
nhân là bởi hành vi này cũng có thể xảy ra trong trường hợp cạnh tranh đúng nghĩa và trung
thực. Một ví dụ là sản phẩm hay dịch vụ có chất lượng tốt hơn có thể khiến một lượng khách
hàng không nhỏ chuyển từ doanh nghiệp sang đối thủ cạnh tranh. Tuy nhiên, vẫn có những hành
vi thương mại cố ý cướp đoạt khách hàng của đối thủ và do đó giảm lượng khách hàng của đối
thủ, những hành vi đó được coi là không công bằng và do đó bị Luật cấm. Hành vi lừa đảo người
tiêu dùng của một nhà sản xuất hay một nhóm doanh nghiệp, một khi bị phát giác, có thể dẫn đến
sự mất lòng tin của người tiêu dùng đối với toàn ngành hay thị trường, kéo theo đó sẽ ảnh hưởng
tiêu cực đến doanh thu của thị trường.
Mặt khác, những thiệt hại mà loạt hành vi UTP thứ hai gây ra bắt nguồn từ vị trí thị trường khác
nhau giữa các đối thủ. Trong trường hợp này, các công ty lớn cố gắng tạo lập nên những rào cản
ngăn các công ty khác tham gia thị trường, hay sử dụng sức mạnh để ngăn các doanh nghiệp
khác phát triển, bằng những phương thức không công bằng. Điều này sẽ bóp méo chức năng
thông thường của thị trường cạnh tranh, ngăn cản các doanh nghiệp cạnh tranh cải tiến và phục

vụ khách hàng tốt hơn, và ngăn chặn các kết quả công bằng có thể xảy ra. Tuy nhiên, UTPs gồm
một nhóm các hành vi thị trường tiêu cực hoàn toàn khác với hành vi hạn chế cạnh tranh hay
phản cạnh tranh – ví dụ như độc quyền, các-ten, sát nhập và mua lại,… - vấn đề trọng tâm của
luật cạnh tranh nói chung/luật chống độc quyền.
UTPs phổ biến ở hầu hết các nền kinh tế, và đặc biệt ở các nước đang phát triển, khi nguyên tắc
luật vẫn chưa đủ mạnh, khung pháp lý vẫn chưa hiệu quả hoặc còn thiếu, và nhận thức của người
tiêu dùng thấp. Đó là bởi vì hầu hết thương nhân có được thông tin đầy đủ hơn người tiêu dùng
và họ tận dụng điều đó để làm sao có lợi nhất cho mình, họ lừa đảo người tiêu dùng và lừa đảo
lẫn nhau để đạt được lợi nhuận nhanh chóng và ngắn hạn.
Những vụ việc sau đây sẽ làm rõ hơn khái niệm hành vi cạnh tranh không công bằng.
Wal-Mart Áchentina1
Vào tháng 4 năm 2002, cơ quan thực thi Đạo luật trung thành của khách hàng trong thương mại
đã kết tội Wal-Mart Achentina đã vi phạm điều 9 Dự thảo 22.802, cấm việc chào bán ra công
chúng và quảng bá các sản phẩm và dịch vụ dễ gây nhầm lẫn.

1

Nguồn: Andrea Botto (2006), Áchen-tina, Cơ chế cạnh tranh trên thế giới – Báo cáo tổ chức dân sự, CUTS, trang
544.

11


Trong năm 2002, các chuỗi siêu thị lớn (có thể kể đến Wal-Mart, Carrefour) đua nhau cung cấp
sản phẩm với mức giá đặc biệt để thu hút khách hàng. Tuy nhiên, vào thời điểm thanh toán hóa
đơn, trong nhiều trường hợp khách hàng thấy rằng mức giá tính với một số sản phẩm khác với
giá được thông báo trên tờ rơi hay bảng treo.
Khi rà soát vụ việc, cơ quan thực thi quyết định điều chỉnh mức giá một số loại sản phẩm trong
rổ hàng thực phẩm cơ bản. Trong quá trình điều tra cơ quan này nhận thấy có sự chênh lệch hơn
8% về giá đối với 2 trong số các sản phẩm được lựa chọn. Mức giá được thông báo trên tờ rơi

hay ở bảng treo thường thấp hơn mức giá cuối cùng được tính ở quầy thu ngân.
Mức phạt càng nặng khi xét thấy Wal-Mart đã từng bị phạt gấp 30 lần vì một vi phạm tương tự
trong khoảng thời gian 3 năm .
Cơ quan phát triển đô thị Haryana (HUDA)2
Ủy ban về hành vi độc quyền và hạn chế cạnh tranh (MRTPC) bắt đầu một cuộc điều tra chống
lại cơ quan phát triển đô thị Haryana (HUDA) sau khi Chủ tịch điều tra và đăng ký (DGIR) thấy
rằng HUDA đang tận dụng lợi thế bất hợp pháp của một công ty nhà nước trong dự án phân bổ
nhà, do đó đã tham gia hành vi UTPs.
DGIR đã báo cáo rằng trong 2 dự án nhà ở Faridabad và các thị trấn khác như Bhiwadi, HUDA
vẫn còn giữ khoản tiền đặt cọc của những người đăng ký trong vòng 6 tháng. Vào thời điểm đó
HUDA đã không trả lãi suất khi trả lại số tiền đặt cọc cho những người đã không được chia đất,
đó là Aditya Kishwar và Bimla Gupta.
Cipla3
MRTPC đã chủ động chỉ định chủ tịch điều tra và đăng ký (DGIR) điều tra hành vi định giá quá
cao đối với thuốc chữa HIV ‘Viraday’ của Cipla. Nghi vấn của MRTPC xuất hiện đọc mẩu
quảng cáo của một tổ chức phi chính phủ của Mỹ, Tổ chức chăm sóc sức khỏe AIDS đăng trên
báo. Tổ chức này tố cáo Cipla xuất khẩu thuốc HIV/AIDS Viraday tới các nước châu Phi với
mức giá 21,000 Rupies mỗi bệnh nhân, trong khi tại Ấn Độ thì thuốc có giá 54,000 Rupies.
MRTPC cảm thấy mức chênh lệch giá giữa Ấn Độ và châu Phi lên đến 150% là không hợp lý và
nghi ngờ có thể đây là hành vi cạnh tranh không công bằng. DGIR được yêu cầu trình báo cáo
trong vòng 60 ngày.
Ceylon Oxygen Ltd. với Industrial Gases (Pvt.) Ltd.
Ceylon Oxygen Ltd. (COL) là một công ty độc quyền trong lĩnh vực sản xuất và phân phối khí ôxy và các sản phẩm liên quan trên thị trường nội địa từ khi công ty mới thành lập năm 1936 cho
đến năm 1993. Industrial Gases Ltd. (IGL) bắt đầu tham gia thị trường vào tháng 12 năm 1993.
2

/> />3

12



Thị phần của COL xấp xỉ 80%, và phần còn lại do IGL cung cấp. Năm 1994, IGL phản đối hành
vi của COL trên cơ sở hành vi cạnh tranh không công bằng gây hại cho IGL. IGL viện dẫn rằng
COL đã sử dụng biện pháp định giá hủy diệt sau khi IGL tham gia vào thị trường. Các bằng
chứng về sự thay đổi giá các sản phẩm COL đã được đưa ra. Hành vi hủy diệt gồm có việc giảm
phí đặt cọc cho xi-lanh khí ô-xy từ 8500LKR xuống 3000 LKR. Hơn nữa, phí bảo dưỡng cũng
giảm từ LKR 75 xuống khoảng từ 35LKR đến 55LKR sau khi IGL gia nhập thị trường. Các hành
vi chiết khấu phân biệt và giao dịch độc quyền cũng bị cáo buộc, với bằng chứng là các thỏa
thuận bằng văn bản được COL ký kết vào tháng 10 năm 1993 với những nhà mua buôn, khi
người mua cam kết mua toàn bộ các loại sản phẩm ô-xy công nghiệp/các sản phẩm có liên quan
của COL trong một khoảng thời gian nhất định. Các chứng cứ cũng chỉ ra rằng các loại khí và xi
lanh khác nhau cũng được chiết khấu đáng kể.
Về vấn đề này Ủy ban cạnh tranh công bằng (FTC) đã chỉ ra ba nhóm hành vi có thể cấu thành
hành vi phản cạnh tranh, đó là định giá hủy diệt, chiết khấu hay giảm giá phân biệt, và kinh
doanh độc quyền, và kết luận rằng các bằng chứng là không đầy đủ để đưa ra kết luận về việc vi
phạm các hành vi này. Bằng chứng duy nhất mang tính thuyết phục là điều khoản trong các hợp
đồng mua quy định rằng người mua chỉ được mua các loại sản phẩm khí ô-xy của COL và đây
được coi là hành vi phản cạnh tranh. Do đó FTC tuyên bố rằng những hợp đồng này vô hiệu. tại
phiên tòa phúc thẩm mà COL kháng án, Tòa phúc thẩm đã bác bỏ phán quyết này của FTC. Tòa
phúc thẩm cho rằng FTC không có quyền hạn tuyên bố vô hiệu hợp đồng mà không tạo điều kiện
cho các bên liên quan được biét và làm như vậy tức là FTC đã vi phạm nguyên tắc xử án thông
thường. Rõ ràng trong trường hợp này việc không tuân theo thủ tục bắt buộc đã gây trở ngại đến
việc xử phạt hành vi phản cạnh tranh.
Quảng cáo gây nhầm lẫn
Quảng cáo gây nhầm lẫn là các thông tin gian dối hay gây nhầm lẫn của một cá nhân trước công
chúng trong quá trình kinh doanh. Thông tin có thể là về bản chất, đặc tính, kích cỡ, loại thành
phần, trọng lượng hay hiệu suất của một sản phẩm. Ngoài ra thông tin cũng có thể liên quan đến
bảo hành, công bố hay đảm bảo không dựa trên những cuộc kiểm tra chính xác và phù hợp.4
Khái niệm này cũng được bao gồm trong các luật trên thế giới và có thể có những sự khác biệt
không đáng kể tùy thuộc vào các mô hình tài phán. Tuy nhiên khái niệm về mặt cơ bản là giống

nhau.
Một ví dụ rõ ràng về việc quảng cáo gây nhầm lẫn là một quảng cáo miêu tả đôi giầy “được sản
xuất tại Đài Loan” là “Sản xuất thủ công tại Anh”. Qua cách diễn đạt để gắn với một lịch sử lâu
đời sản xuất giầy cao cấp, người bán hàng đã đưa thông tin sai lệch với loại giày mình bán. Một
ví dụ khác về quảng cáo gây nhầm lẫn xảy ra khi một người bán hàng hứa với một khách hàng sẽ
chuyển hàng trong vài ngày nhất định và cố ý không thực hiện lời hứa của mình. Việc che giấu
4

Ủy
ban
cạnh
tranh
công
bằng
Jamaica,
/>
13

Các

điều

khoản

cấm

của

FCA,



các thông tin có vai trò quan trọng với quyết định mua hàng của khách hàng cũng được coi là
quảng cáo dễ gây nhầm lẫn.
Quảng cáo gây nhầm lẫn và Bán hàng rởm5
Hành vi cạnh tranh không công bằng (UTPs), hiện nay hoàn toàn nằm trong quy mô điều chỉnh
của Đạo luật bảo vệ người tiêu dùng Ấn Độ (COPRA), trước đó thuộc phạm vi điều chỉnh của
Đạo luật hạn chế cạnh tranh và độc quyền (MRTPA) vào tháng 8 năm 1984. Người khởi xướng
tổ chức hình thức khuyến mại trong kinh doanh đầu tiên là ông Bal Krishna Khurana, người rất
nổi tiếng ở Bắc Ấn, đã Đạo luật kết tội vì đã bán hàng dệt kim ‘chất lượng xuất khẩu’ với mức
giá quá rẻ.
CUTS đã hành động khi Khurana đến Jaipur vào năm 1984 để bán hàng với giá như đi cho.
CUTS đã nhận được đơn khiếu nại của rất nhiều nạn nhân có liên quan và quyết định điều tra.
Sau đó, CUTS đã chuyển hồ sơ chống lại Khurana lên Ủy ban MRTPC và yêu cầu được biết làm
thế nào để ông ta có thể bán hàng dệt kim ‘có chất lượng xuất khẩu’ đáng giá 210 rupi với giá chỉ
từ 5 đến 15 rupi.
Trong khiếu nại trước Ủy ban, CUTS nêu ra rằng quảng cáo gây nhầm lẫn và hình thức bán hàng
rởm, đã gây thiệt hại và bất tiện cho công chúng và người mua. Người tiêu dùng cảm thấy tức
giận khi mất thời gian và tiền bạc đến mua tại quầy hàng của Khurana vì thứ họ mua về chủ yếu
là hàng giả.
Ủy ban MRTPC đã nhanh chóng yêu cầu điều tra đơn khiếu nại, sau đó là lệnh cấm Khurana tiếp
tục tổ chức bán hàng khuyến mại.
Ngoài ra, Ủy ban MRTPC đã khuyên báo chí không đăng tải những quảng cáo dễ gây nhầm lẫn,
bởi một trong những nghĩa vụ của các cơ quan truyền thông là bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng,
và không chỉ kiếm doanh thu qua những quảng cáo giả mạo. Lời khuyên này cũng nhận được sự
ủng hộ của giới báo chí.
IES các vấn đề lược giản6
Ủy ban MRTPC đã ngăn chặn một học viện đào tạo sinh viên dịch vụ công (kỳ thi Dịch vụ hành
chính Ấn Độ) xuất bản cái mà Ủy ban liên đoàn dịch vụ công (UPSC) gọi là quảng cáo gây nhầm
lẫn. Dựa trên đơn khiếu nại của UPSC rằng 3 viện đào tạo đã đưa ra những quảng cáo gây nhầm
lẫn để thuyết phục sinh viên, Chủ tịch được uỷ quyền của MRTPC đã đưa ra thông báo tới một

trong những học viện này “các vấn đề giản lược IES”. Học viện trong một quảng cáo được phát
hành trên tờ thời báo tiếng Anh số ra hàng ngày rằng các thành viên cựu UPSC sẽ đào tạo sinh
viên thông qua những cuộc phỏng vấn mô phỏng. UPSC đã làm mất lòng những cựu thành viên
UPSC và tuyên bố rằng quảng cáo đó là nhầm lẫn.
5
6

Nguồn: Pradeep S. Mehta, Người tiêu dùng sống sót như thế nào, CUTS, 1998.
/>
14


Cox & Kings India7
MRTPC, Ấn Độ làm sáng tỏ vụ Cox & Kings, Ấn Độ đã thực hiện hành vi cạnh tranh không
công bằng vì đưa ra tình tiết không đúng về đối thủ cạnh tranh trong quảng cáo cho chuyến du
lịch châu Âu. Đơn khiếu nại do công ty Thomas Cook (I) và Kuoni Travel India đệ trình chống
lại Cox & Kings, viện dẫn rằng quảng cáo của bị đơn đã tạo nên ấn tượng không đúng rằng các
tour du lịch châu Âu của bên khiếu nại đắt hơn. Sau khi nhận được yêu cầu từ phía MRTPC, Cox
& Kings đã thay đổi quảng cáo của mình và MRTPC đã bỏ qua hành vi cạnh tranh không công
bằng bị cáo buộc.
Hindustan Lever8
Colgate-Palmolive khiếu nại với MRTPC rằng công ty Hindustan Lever đã chào bán sản phẩm
thuốc đáng răng Pepsodent mới với tuyên bố rằng tính kháng khuẩn sẽ bằng 102% so với các
loại thuốc đánh răng thông thường khác. Do quảng cáo đó đã tác động chủ yếu đến ColgatePalmolive họ đã khiếu nại với MRTPC. MRTPC đã đưa ra lệnh của tòa cấm Hindustan Lever
trực tiếp hay gián tiếp đề cập đến Colgate trong những quảng cáo trên báo hay truyền hình về
tính kháng khuẩn vượt trội trong các sản phẩm thuốc đánh răng của mình.
Mô hình bán hàng hình kim tự tháp
Kinh doanh đa cấp bất hợp pháp – mạng lưới kinh doanh kim tự tháp là một loại hành vi cạnh
tranh không công bằng khác.
Mạng lưới kim tự tháp, cũng được gọi là “tiến cử chuỗi”, “đền bù kép” hay mạng lưới “kinh

doanh ma trận”, là một hình thức kinh doanh không bền vững chủ yếu từ việc lôi kéo những
người khác tham gia vào mạng lưới để trao đổi tiền, nhưng thường lại không có sự trao đổi hàng
hoá hay dịch vụ.
Các mô hình thương mại khác sử dụng hình thức bán hàng chéo chẳng hạn như kinh doanh đa
cấp (MLM) hoàn toàn hợp pháp và bền vững.9 Hầu hết các mạng lưới bán hàng hình kim tự tháp
tận dụng được sự mơ hồ giữa việc kinh doanh thực sự với ý đồ kiếm tiền tuy rắc rối nhưng có
tính thuyết phục. Đặc tính của mạng lưới kinh doanh kim tự tháp là lợi nhuận của hoạt động kinh
doanh thu được từ việc nhượng quyền thương hiệu chứ không phải từ việc bán sản phẩm bởi
7

/>Điều tra hành vi cạnh tranh không công bằng Số 405/97.
9
Bán hàng đa cấp (MLM) (cũng còn được gọi là bán hàng theo mạng hay NM) là hình thức kinh doanh kết hợp bán
hàng trực tiếp với việc nhượng quyền thương hiệu. Trong 1 thỏa thuận MLM điển hình, các cá nhân liên kết với 1
công ty mẹ như 1 đại lý độc lập và được chi trả dựa trên việc kinh doanh sản phẩm hay dịch vụ, cũng như doanh số
những người này đạt được khi họ tham gia kinh doanh. Trong 1 công ty MLM hợp pháp, tiền hoa hồng chỉ kiếm
được dựa trên doanh số bán hàng. Sẽ không thể kiếm tiền thông qua hình thức tuyển dụng người mới (“phí tham
gia”). Một số công ty ít hợp pháp hơn tạo doanh thu bằng cách thu hút những người mua tham gia và bán cho họ
những dịch vụ bán hàng, đối lập với việc bán những sản phẩm đích thực. Ai đó phải phân tích kế hoạch chi trả để
quyết định xem liệu những người tham gia có được trả từ doanh thu thực tế từ khách hàng và không phải từ tiền hoa
hồng của người mới tham gia hay doanh thu hỗ trợ kinh doanh.
8

15


không có sản phẩm hoặc bởi sản phẩm không thể bán được ở mức giá làm cho việc đầu tư vào
việc nhượng quyền thương hiệu có lãi. Nguyên nhân của tên gọi mạng lưới kinh doanh kim tự
tháp là vì ban đầu cấp thứ nhất của người được nhượng quyền có thể và thực sự kiếm được tiền
bởi cùng với việc bán một số sản phẩm, họ cũng có thể bán quyền thương hiệu cho 10 người bạn.

Để 10 người được nhượng quyền thương hiệu này kiếm được tiền, mỗi người trong số họ sẽ phải
bán cho 10 người khác hoặc 100 người. Với 100 người đó để kiếm được tiền họ sẽ phải bán cho
1000 người và hơn thế nữa.
Ví dụ, ông X chỉ thanh toán một lần. Để bắt đầu kiếm tiền, ông X phải tuyển những người khác
như ông mỗi người cũng sẽ thanh toán một lần. Ông X nhận được tiền hoa hồng từ khoản tiền
nhận được khi tuyển được những người mới. Sau đó, họ tiếp tục tuyển những người khác. Khi
mỗi ứng viên thanh toán, ông X được hưởng hoa hồng. Do đó ông ta được hưởng những lợi ích
theo cấp số mũ khi mở rộng hoạt động “kinh doanh”.10 Chúng ta có thể lấy một ví dụ khác như
sau. Bạn sẽ nhận được một lá thư mẫu mà theo đó bạn gửi tiền (hay hình thức nào khác) cho
những người ở cấp trên bạn trong chuỗi, và bạn sẽ lại gửi thư tới 10 người, những người này
cũng sẽ làm như thế. Thông thường vào thời điểm bạn nhận được bức thư này nó đã qua ít nhất 4
cấp. Giả sử không có sự trùng lặp, điều đó có nghĩa là đến cấp của bạn có 1000 người tham gia.
Nếu mỗi người gửi tiếp cho 10 người khác, cấp đó sẽ có 10,000 người, cấp thứ 6 có 10,000, cấp
thứ 7 có 100,000 người,… Vào thời điểm bức thư đến được cấp thứ 10 sẽ có hơn 1 tỷ người
tham gia và 10 tỷ ở cấp thứ 11.11
Tác hại ở việc bán quyền thương hiệu hay việc người nhượng quyền trả phí cho người được
nhượng quyền vì đã lập lên những cấp nhượng quyền mới. Tác hại là ở chỗ thông tin về khả
năng sinh lợi của việc bán một sản phẩm cơ bản là gian dối. Kinh doanh sản phẩm này không
mang lại lợi nhuận dù ở cấp nào. Sẽ là rõ ràng nếu những người khởi xướng việc nhượng quyền
thương hiệu chỉ ra số lượng sản phẩm phải bán để việc nhượng quyền đó có lợi nhuận và làm thế
nào để khả năng bán được số lượng lớn như thế. Những người mua quyền thương hiệu tiềm năng
có thể thấy hình thức này sinh lợi bởi vì người bán quyền cho họ đang kiếm tiền từ việc bán
những quyền mới. Nhưng như con số trên cũng cho thấy, con số những người mua quyền mới sẽ
nhanh chóng tăng đến mức lớn không tưởng (xem sơ đồ bên dưới).
Mạng lưới kim tự tháp là gian dối và những người tham gia, dù cố ý hay vô ý, đang lừa đảo
những người mà họ rủ vào. Nếu được giải thích đầy đủ, chắc chắn sẽ có rất ít người tham gia.

10
11


truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2009
truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2009

16


Source: truy cập ngày 9 tháng 6 năm

Phân tích dựa trên quyền về mối quan hệ giữa chính sách cạnh tranh và tiêu dùng
Ý nghĩa của lợi ích của người tiêu dùng – mục tiêu cuối cùng của cả chính sách cạnh tranh và
bảo vệ người tiêu dùng có thể được hiểu rõ hơn trong Nguyên tắc bảo vệ người tiêu dùng Mỹ
được quốc hội Mỹ thông qua vào năm 1985 và sửa đổi vào năm 1999. Những nguyên tắc này thể
hiện khung chính sách quốc tế cho chính phủ các nước sử dụng để phát triển và tăng cường chính
sách bảo vệ người tiêu dùng và pháp luật hướng tới tăng cường lợi ích của người tiêu dùng.
Nguyên tắc của Liên hợp quốc kêu gọi các chính phủ phát triển, tăng cường và duy trì một chính
sách tiêu dùng mạnh mẽ, và tăng cường công tác bảo vệ người tiêu dùng bẳng cách đưa ra nhiều
biện pháp và các bước khác nhau xoay quanh 8 chủ đề cơ bản (UNCTAD, 2001). 8 chủ để đó là:
1.

An toàn về thể chất

2.

Lợi ích kinh tế

3.

Tiêu chuẩn

4.


Những dịch vụ hay hàng hóa thiết yếu

5.

Bồi thường

6.

Giáo dục và thông tin

7.

Các lĩnh vực cụ thể liên quan đến sức khỏe

8.

Tiêu dùng bền vững

17


Hướng dẫn cũng đã ngầm thừa nhận 8 quyền của người tiêu dùng, được nêu rõ trong hiến
chương của Tổ chức tiêu dùng quốc tế như sau:


Quyền được thỏa mãn những nhu cầu cơ bản




Quyền được an toàn



Quyền được lựa chọn



Quyền được bồi thường



Quyền được thông tin



Quyền được giáo dục về tiêu dùng



Quyền được lắng nghe



Quyền được có môi trường lành mạnh

Những quyền này có thể được coi như tiêu chuẩn đánh giá việc thực hiện mục tiêu lợi ích của
người tiêu dùng của luật và chính sách cạnh tranh, và xem xét chúng sẽ giúp ích hay ngăn cản
việc thúc đẩy những quyền này.
Quyền được thỏa mãn những nhu cầu cơ bản

Như được thể hiện trong Nguyên tắc của Liên hợp quốc về bảo vệ người tiêu dùng cũng như
Hiến chương của tổ chức quốc tế người tiêu dùng, một yếu tố quan trọng của chính sách bảo vệ
người tiêu dùng là quyền được thỏa mãn những nhu cầu cơ bản. Việc chính phủ áp dụng một
khung chính sách để đảm bảo những nhu cầu cơ bản được đáp ứng ở mức giá hợp lý cũng đóng
vai trò quan trọng trong việc xóa nghèo.
Ở các nước đang phát triển, quyền này là quan trọng nhất bởi mức đói nghèo và thiếu thốn còn
cao. Do đó, để có được số lượng hàng hóa dịch vụ tối đa, giá rẻ đóng vai trò quan trọng với
người nghèo hơn với những người giàu. Bằng cách đảm bảo giá thấp hơn, cạnh tranh có thể giúp
người nghèo dễ tiếp cận những nhu cầu cơ bản hơn. Hơn nữa, người nghèo là những người
thường gắn với nông nghiệp hay các hoạt động thương mại khác, thường không bán được với
mức giá hợp lý cho những sản phẩm của họ, bởi hành vi phản cạnh tranh của người mua. Do đó,
nếu được thực thi hiệu quả, luật cạnh tranh có thể đóng góp lớn để giải quyết vấn đề này.
Trong bối cảnh này, cần phải trích dẫn báo cáo phát triển thế giới 200-2001:
“Thị trường hoạt động là vì người nghèo bởi người nghèo dựa vào thị trường chính thức và
không chính thức để bán sức lao động và sản phẩm của mình, để đầu tư, và tự bảo hiểm rủi ro.
Thị trường hoạt động tốt có vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng và mở ra cơ
hội cho người nghèo”.
“Hoạt động tốt” ngầm định rằng thị trường hoạt động hiệu quả và không có sự biến dạng, ví dụ
như thị trường cạnh tranh, khi mọi người đều có cơ hội tham gia. Tuy nhiên, khái niệm ‘cạnh
18


tranh’ thường bị hiểu sai và dễ dàng bị các doanh nghiệp tham gia thị trường bóp méo, kể cả khi
số lượng doanh nghiệp là lớn. Do đó luật cạnh tranh được ban hành để ngăn chặn bóp méo cạnh
tranh.
Thị trường các mặt hàng nông sản thường được coi là ví dụ của thị trường cạnh tranh hoàn hảo.
Điều đó là đúng xét từ phía người nông dân khi trên thị trường có một số lượng lớn người tham
gia. Tuy nhiên, câu trả lời sẽ khác nếu xét từ phía người tiêu dùng. Các sản phẩm không trực tiếp
chuyển từ tay người nông dân đến người tiêu dùng do có sự tham gia của chuỗi trung gian.
Những doanh nghiệp trung gian này lạm dụng vị trí thống lĩnh độc quyền trên thị trường sản

phẩm cuối cùng, trong khi trên thị trường sản phẩm sơ cấp họ lạm dụng vị trí thống lĩnh là người
mua duy nhất. Do đó, tồn tại một khác biệt lớn giữa giá người tiêu dùng phải trả với giá mà
những nhà sơ chế nhận được, ngầm định rằng nông dân không bán được sản phẩm với mức giá
hợp lý. Tại các quốc gia, gần 75% những người sống dưới mức nghèo khổ sống và làm việc ở
khu vực nông thôn và, 2/3 trong số họ sống trực tiếp nhờ nông nghiệp. Do đó, không thể coi nhẹ
sự liên hệ giữa những khuyết tật của thị trường sản phẩm nông nghiệp và nghèo đói, và do đó là
quyền được đáp ứng những nhu cầu cơ bản (Mehta & Nanda, 2004).
Quyền được an toàn
Mặc dù luật và chính sách cạnh tranh không trực tiếp xử lý những vấn đề về an toàn, chúng đóng
vai trò quan trọng trong việc tăng cường sản phẩm và dịch vụ an toàn hơn trên thị trường. Trên
thị trường cạnh tranh, người bán cố gắng thu hút nhiều người tiêu dùng hơn, không chỉ bằng giá
rẻ hơn mà còn bằng chất lượng tốt hơn, với nhiều đặc điểm an toàn có liên quan hơn. Một ngành
công nghiệp được các-ten hóa sẽ ít được đổi mới cũng như ít chủ động cải thiện các tiêu chuẩn
về an toàn.
Tuy nhiên tồn tại mối quan hệ tác dộng qua lại hết sức phức tạp giữa cạnh tranh, và quyền được
an toàn của người tiêu dùng. Một phần không thể thiếu được của an toàn đối với người tiêu dùng
là quá trình xác lập các tiêu chuẩn đối với những hàng hóa và dịch vụ khác nhau. Tiêu chuẩn
thực hiện một số chức năng quan trọng trong một nền kinh tế, theo đó những ngành công nghiệp
công nghệ cao là nhân tố đi đầu trong việc đẩy mạnh tăng trưởng và đổi mới. Chúng cung cấp
thông tin tới nhà sản xuất và người tiêu dùng giúp họ đánh giá được chất lượng sản phẩm mà các
công ty khác sản xuất ra, và cũng quyết định mức độ an toàn của những sản phẩm này. Thêm vào
đó, chúng cũng đảm bảo một sự phù hợp giữa các sản phẩm bổ sung cho nhau, và thậm chí giữa
các linh kiện của một sản phẩm nhất định. Tiêu chuẩn cũng đóng vai trò quan trọng trong việc
thúc đẩy cạnh tranh.
Tuy nhiên, quá trình xác lập các tiêu chuẩn thường xuất hiện sự hợp tác giữa các đối thủ cạnh
tranh. Sự bắt tay giữa các đối thủ cạnh tranh theo chiều ngang luôn có khả năng có hại đến cạnh
tranh và điều này cũng tương tự trong quá trình xác lập các tiêu chuẩn. Hơn nữa, nếu quy trình
đặt hay áp dụng tiêu chuẩn lại được thoả hiệp hay lợi dụng bởi một số doanh nghiệp vì lợi ích
của họ, sẽ dễ dẫn đến hệ quả phản cạnh tranh. Những người hiện đang tham gia thị trường có thể
19



tạo nên rào cản gia nhập thị trường kể cả với sản phẩm tốt hơn để ngăn cản những công ty có
tiềm năng. Ngay cả khi quá trình này được thực hiện không với mục đích gây hại với cạnh tranh,
bản thân các nguyên tắc đặt ra bởi một tổ chức xác lập tiêu chuẩn cũng đã có những hậu quả
phản cạnh tranh. Do chưa ý thức được điều này, nên ở Ấn Độ vẫn chưa có nghiên cứu về các vụ
việc này, kể cả khi chúng có tồn tại. Tuy nhiên, chúng ta có thể lấy một ví dụ ở một nước khác.
Công ty Allied Tube và Conduit với Tập đoàn India Head12
Trong vụ việc này, Tòa án tối cao Mỹ thấy rằng một phần nhỏ của một tổ chức xác lập tiêu
chuẩn đã “thâu tóm” đáng kể toàn bộ tổ chức, và gây hại cho cạnh tranh bằng cách loại trừ một
sản phẩm cải tiến. Trong vụ việc này, một hiệp hội đã xác lập một bộ các tiêu chuẩn cho thiết bị
điện trong đó yêu cầu sử dụng cáp điện thép khi xây dựng những tòa nhà cao tầng nhưng một
công ty mới gia nhập thị trường đã đề xuất sử dụng cáp điện nhựa. Sản phẩm mới được cho là là
lắp đặt rẻ hơn, dễ uốn hơn và ít bị đoản mạch hơn.
Những nhà sản xuất cáp điện thép đã thoả thuận sử dụng những thủ tục của hiệp hội để không
đưa các sản phẩm nhựa vào bộ tiêu chuẩn bằng cách cử các thành viên mới tham gia cuộc họp
thường niên của hội để thực hiện một nhiệm vụ duy nhất là bỏ phiếu chống lại sản phẩm mới.
Kết quả là, khả năng chào bán sản phẩm cáp điện bằng nhựa ra thị trường của đối thủ tiềm năng
đã bị suy yếu nghiêm trọng, và người tiêu dùng không được hưởng lợi ích của một hình thức cải
tiến sản phẩm có ý nghĩa quan trọng.
Quyền được lựa chọn
Đây có lẽ là quyền tiêu dùng có liên quan nhiều nhất đến luật và chính sách cạnh tranh. Theo
nghĩa đơn giản và nguyên gốc quyền được lựa chọn có nghĩa là đối với mỗi loại hình sản phẩm
và dịch vụ người tiêu dùng phải được tiếp cận với sự đa dạng về chủng loại/nhà sản xuất.
Tuy nhiên quyền được lựa chọn cũng được thể hiện ở một số khía cạnh khác. Bất kỳ hành vi hạn
chế cạnh tranh nào cũng ảnh hưởng đến quyền được lựa chọn của người tiêu dùng. Một thỏa
thuận thông đồng chia sẻ thị trường là một ví dụ điển hình của hành vi này, khi người tiêu dùng
không có lựa chọn nào khác ngoài việc mua hàng từ một người bán nhất định. Bằng cách đưa
vào những điều khoản rõ ràng, luật cạnh tranh có thể giải quyết những vấn đề này hiệu quả hơn.
Những kiểu hành vi cạnh tranh không lành mạnh nhất định có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng

đến quyền được lựa chọn. Những quảng cáo gây nhầm lẫn có thể hủy hoại quyền được lựa chọn
của người tiêu dùng.
Một khía cạnh khác của quyền lựa chọn đó là quyền của người tiêu dùng ở cận biên bị hạn chế
do sức mua thấp. Xét từ khía cạnh này, hàng hóa dịch vụ có mức giá rẻ ngầm định khách hàng có

12

486 Mỹ 492 (1988). Nguồn: Joseph J. Simons (2003), “Khởi xướng của ủy ban FTC về sở hữu trí tuệ”, bài trình
bay trong cuộc họp mùa xuân hiệp hội luật sở hữu trí tuệ Mỹ, ngày 15 tháng 5.

20


nhiều lựa chọn hơn. Như đã được đề cập ở trên, những chính sách điều tiết ngành với chức năng
phục vụ chung sẽ tăng thêm quyền lựa chọn và cơ hội tiếp cận của người tiêu dùng.
Quyền được bồi thường
Cơ quan cạnh tranh ở bất kỳ quốc gia nào, với quyền được xét xử, là một nhân tố quan trọng
trong hệ thống giải quyết tranh chấp. Tại Ấn Độ, MRTPC không thực hiện hiệu quả vai trò này.
Trong nhiều năm số lượng các vụ việc đang chờ MRTPC giải quyết vẫn tiếp tục tăng lên. Có
cảm giác MRTPC chỉ giải quyết các vụ việc ít gây thiệt hại cho người tiêu dùng và nền kinh tế
hơn, bỏ lại những vụ việc nghiêm trọng hơn.
Xử lý các-ten là một vấn đề cho thấy sự bất lực của MRTPC. Ví dụ, hầu như ai cũng biết có một
số các-ten đang hoạt động rộng rãi nhưng MRTPC vẫn chưa có động tĩnh gì để phá vỡ chúng.
Các vụ việc liên quan đến các-ten xi măng đã hai lần được gửi tới MRTPC nhưng cơ quan này
hầu như không đủ khả năng để xử lý vấn đề này. Thậm chí trong vụ việc các-ten vitamin do
CUTS khởi xướng, phản ứng của MRTPC chỉ dừng ở việc khuyến khích.
Tuy nhiên, cơ quan này đã xử lý thành công một số vụ việc liên quan đến hành vi hạn chế cạnh
tranh (RTP) và cạnh tranh không công bằng. Người ta kỳ vọng rằng với Đạo luật mới, Ủy ban
cạnh tranh Ấn Độ (CCI) sẽ có thể hoạt động tốt hơn về mặt này. Đạo luật cũng cho phép khiếu
kiện tập thể hay cá nhân, để mà những người tiêu dùng và những nhóm người tiêu dùng bình

thường có thể sử dụng toà án để yêu cầu bồi thường những khiếu nại liên quan.
Theo đạo luật bảo vệ người tiêu dùng Ấn Độ (COPRA), một cơ chế 3 cấp, đơn giản gần như có
tính chất pháp luật gồm cấp quốc gia, cấp bang và cấp huyện, đã được thành lập. Gần đây
COPRA đã được sửa đổi. Sự sửa đổi, cùng với các vấn đề khác, liên quan đến quyền của bên
khiếu nại, nguyên tắc chỉ định thành viên, chuyển giao vụ việc, quyền tài phán và thực thi liên
quan đến tiền. Đạo luật sửa đổi cũng quy định việc tịch biên và sau đó bán tài sản của người nào
không tuân thủ yêu cầu. Tiền thu được từ việc bán tài sản sẽ dùng để trả thiệt hại cho người tiêu
dùng bị ảnh hưởng.
Tại Ấn Độ, trừ COPRA và MRTPC/Đạo luật cạnh tranh 2002, cơ chế bồi thường được quy định
trong đạo luật trọng tài và hòa giải 1996, và tuân theo các nguyên tắc đạo đức kinh doanh. Ngoài
ra, một số quy định ngành cũng có cơ chế bồi thường.
Các-ten vitamin và MRTPC13
Một số nhà sản xuất thuốc hàng đầu và chuyên nghiệp trên thế giới đã tham gia một âm mưu
toàn cầu nhằm ấn định giá vitamin khối lượng lớn, số lượng bán ra và phân bổ thị trường. Cácten vitamin quốc tế này vẫn tiếp tục hoạt động từ năm 1990 đến năm 1999 và đã bị các nhà chức

13

Nguồn: CUTS (2003), “Hãy hành động – 1 bài nghiên cứu về cơ chế cạnh tranh ở 7 nước châu Phi và châu Á
đang phát triển: dự án 7-up”.

21


trách ở Mỹ, châu Âu, Úc, Canada và Nhật Bản,.. điều tra. Các công ty bị kết tội đã phải chịu mức
phạt nặng.
Các công ty còn của hầu hết các công ty này có mặt ở các quốc gia đang phát triển kể cả Ấn Độ.
Chi phí tăng thêm đối với các nước đang phát triển do các-ten này gây ra được dự tính là 3 tỷ đô
la Mỹ.14 Tuy nhiên, không một cơ quan cạnh tranh nào ở các nước đang phát triển, ngoài Brazil,
điều tra hay xử lý vụ việc. Kinh nghiệm từ Ấn Độ là một ví dụ.
Nhìn từ khía cạnh quốc tế của các-ten này, rõ ràng là nó đã gây ảnh hưởng bất lợi ở Ấn Độ.

Những công ty này hoàn toàn có khả năng tham gia vào những hành vi này tại Ấn Độ hoặc bằng
hình thức bán hàng trực tiếp hoặc bằng cách xuất khẩu. Chi phí ước tính được tạo nên bởi cácten trong những năm 1990 ở Ấn Độ là khoảng 25 triệu đô la Mỹ .
Để tìm hiểu thêm về vấn đề này, CUTS quyết định bắt đầu điều tra vụ việc. Bước đầu tiên là
CUTS đã tập hợp và lưu tất cả các thông tin liên quan đến vụ việc được tích luỹ bởi một số cơ
quan trên thế giới từ internet. Thông tin này gồm có chi tiết về công ty, chi tiết về cuộc điều tra,
phán quyết của tòa và bảng cân đối kế toán của một số công ty trong thời gian có liên quan.
CUTS đã gửi thư cho các chủ tịch hội đoàn quản trị của các công ty ở Ấn Độ yêu cầu họ viết
cam đoan rằng họ không tham gia vào hành vi phản cạnh tranh này ở Ấn Độ. Chỉ có Công ty
Hoffman La Roche và TNHH BASF Ấn Độ gửi phản hồi, tuyên bố rằng họ không tham gia vào
những hành vi này và không có phản hồi từ Rhone Poulenc, tình cờ là công ty đã xác nhận hành
vi trong vụ điều tra của Mỹ và đã tránh biện pháp xử phạt.
Là một tổ chức người tiêu dùng, CUTS có những hạn chế nhất định và do đó tổ chức đã chuyển
các thông tin thu thập được cho Tổng giám đốc (Điều tra và Đăng ký) với yêu cầu điều tra thêm
về vấn đề này. DG đã chuyển thông tin cho MRTPC và trở thành “người khiếu nại” trong khi
CUTS ở vị trí “người đưa tin”.
Với sự chỉ đạo của MRTPC, DG tiến hành một cuộc điều tra sơ bộ và nộp báo cáo điều tra sơ bộ
(PIR). Dựa trên báo cáo PIR đó, MRTPC cho rằng không có cơ sở kiện tụng nào và CUTS cũng
được thông báo tương tự. CUTS muốn có một bản sao của báo cáo để xem DG đã áp dụng hình
thức điều tra nào. Nhưng DG cho biết bản sao chỉ có thể có được do MRTPC cung cấp, trong khi
Ủy ban lại nói chỉ DG là người có thẩm quyền cung cấp. Điều này rõ ràng đã chỉ ra sự thiếu nhận
thức về luật của cơ quan cạnh tranh. Cuối cùng vụ việc đã được đưa ra tòa và tòa tuyên bố rằng
luật đã quy định rõ ràng rằng người đưa tin không có quyền nhận được bản sao của PIR.
Nói tóm lại, cách thức mà cơ quan cạnh tranh làm việc là rất rõ ràng. Cách thức điều tra được
thực hiện khá sơ sài và không ai biết được người ta đã thực hiện cái gì. Vấn đề đã kết thúc ngay
khi được MRTPC xem xét.

14

Clarke và Evenett (2002)


22


Quyền được thông tin
Trong lý thuyết kinh tế, sự tồn tại của thông tin hoàn hảo và luồng thông tin tự do giữa người
tiêu dùng là một trong những yêu cầu cơ bản của cạnh tranh hoàn hảo. Một người tiêu dùng
không có thông tin về sản phẩm hay dịch vụ mà anh ta định mua thì chẳng khác gì không nghe
không thấy. Mà không có thông tin về chất lượng, số lượng, hiệu lực, độ nguyên chất, tiêu chuẩn
và giá cả của hàng hóa và dịch vụ, người tiêu dùng sẽ không thể đưa ra quyết định đúng đắn.
Nếu người tiêu dùng không thể đưa ra quyết định đúng đắn, khi đó bản thân quy trình cạnh tranh
bị phá vỡ.
Tại Ấn Độ, quyền được thông tin về sản phẩm và dịch vụ trên thị trường là một nhân tố quan
trọng của đạo luật MRTP bởi nó có các điều khoản quy định UTPs bao gồm các biện pháp chống
lại quảng cáo gây nhầm lẫn giúp tăng cường quyền được thông tin. Đáng tiếc là Đạo luật mới
không xử lý những vấn đề này. Mặc dù vậy, những vấn đề này vẫn sẽ tiếp tục được các tòa án
khác nhau thụ lý theo COPRA. Các cơ chế tự nguyện, như Ủy ban tiêu chuẩn quảng cáo Ấn Độ
(ASCI) quy định phải có sự kiểm tra và cân nhắc kỹ các thông tin trước khi được công bố cho
người tiêu dùng qua quảng cáo.
Quyền được thông tin cũng áp dụng với thông tin về các cơ chế công và cơ chế bồi thường. Do
đó, người tiêu dùng cũng cần thông tin về sự vận hành của các phòng ban chính phủ và các cơ
quan điều tiết có ảnh hưởng đến cạnh tranh và lợi ích của người tiêu dùng. Tuy nhiên, họ có rất ít
thông tin về sự vận hành của MRTPC, chỉ trừ một số thông cáo không thường xuyên liên quan
đến những vụ việc cụ thể. MRTPC thậm chí không có trang web chính thức, trong khi hầu hết
các cơ quan cạnh tranh đều có trang web được bảo trì tốt. Kinh nghiệm của CUTS trong vụ cácten vitamin cũng nên được đề cập đến ở đây. CUTS đóng vai trò khởi xướng vụ việc và việc từ
chối cung cấp thông tin là biểu hiện của sự tước đoạt quyền được thông tin.
Quyền được giáo dục về tiêu dùng
Đây là một quyền rất quan trọng bởi người tiêu dùng được giáo dục có thể tự mình bảo vệ tốt
hơn trước những người bán vô lương tâm. Tuy nhiên người tiêu dùng ở các quốc gia đang phát
triển thường không được giáo dục tốt. Lấy ví dụ về Ấn Độ, đây là một mảng không được nhắc
đến trong đạo luật MRTP Ấn Độ. Tuy nhiên đạo luật mới có cải thiện đáng kể về vấn đề này.

Thực sự thì một điều may mắn là luật cạnh tranh mới quy định tư vấn cạnh tranh là một trong
những lĩnh vực hoạt động chủ yếu. Theo đạo luật này CCI cũng sẽ cần phải thực hiện các hoạt
động nâng cao nhận thức và tổ chức các chương trình đào tạo cho tất cả các bên liên quan. Nhận
thức về các vấn đề cạnh tranh của các bên có liên quan, bao gồm người tiêu dùng và các tổ chức
người tiêu dùng, vẫn còn khá thấp trong khi các hành vi phản cạnh tranh ngày càng phổ biến.
Nếu không có sự giáo dục đầy đủ, những hành vi này khó có thể được xử lý hiệu quả.
Chính phủ Ấn Độ, thông qua Quỹ lợi ích người tiêu dùng, có điều khoản tài trợ cho các chương
trình giáo dục về tiêu dùng do các nhóm người tiêu dùng hay các chính quyền địa phương thực

23


hiện. Tuy nhiên, những vấn đề cần được cải thiện cũng còn khá lớn. Cơ quan truyền thông cũng
đóng một vai trò quan trọng. Ngày nay hầu hết các tập san hàng đầu của Ấn Độ có những chuyên
mục đều đặn về người tiêu dùng, trong khi các kênh truyền hình cũng đều đặn phát sóng các
chương trình người tiêu dùng.
Một số cơ quan quản lý ngành cũng có các chương trình giáo dục về tiêu dùng. Họ cung cấp
thông tin cho người tiêu dùng thông qua báo chí cũng như các phương tiện điện tử.
Quyền được đại diện
Tại Ấn Độ không có một cơ chế chính thức nào đảm bảo quyền được đại diện của người tiêu
dùng khi thực thi Đạo luật cạnh tranh, mặc dù quyền được đại diện của người tiêu dùng đã có
trong quá trình soạn thảo Luật và có ảnh hưởng đáng kể đến việc soạn thảo. Với vai trò của CCI
là cơ quan tư vấn chính quyền trung ương về các vấn đề chính trị khi được yêu cầu, việc thiếu
một cơ thế chính thức để đảm bảo sự tham gia của người tiêu dùng là một thiếu sót đáng kể. CCI
đã hình thành một ủy ban tư vấn không chính thức mà các tổ chức người tiêu dùng, như CUTS,
đại diện. Ủy ban này lẽ ra phải được chính thức hóa.
Sau đây là một số cơ chế tại Ấn Độ theo đó các cá nhân và các tổ chức xã hội dân sự có thể bày
tỏ những quan ngại của mình với chính phủ:
Ủy ban quốc hội
Ủy ban xử lý đơn khiếu nại

Đại diện thông qua các tổ chức người tiêu dùng
Nhằm thúc đẩy quyền được đại diện, Chính phủ đã thành lập các ủy ban khác nhau của nghị viện
hợp nhất cũng như các cơ chế đại diện ở các phòng ban. Đây được coi là các Ủy ban thường
trực.
Để đại diện hiệu quả cho người tiêu dùng, chính phủ đã thành lập Hội đồng bảo vệ người tiêu
dùng trung ương cấp quốc gia. Ủy ban này được thừa nhận pháp lý thông qua COPRA. Các hội
đồng bảo vệ người tiêu dùng cũng được yêu cầu thành lập theo COPRA. Một số bang cũng đã có
ủy ban bảo vệ người tiêu dùng cấp quận huyện.
Thêm vào đó, một số cơ quan quản lý ngành cũng thỏa thuận để đại diện cho người tiêu dùng,
đáng chú ý nhất là trong ngành viễn thông và điện lực. Trong ngành điện lực, có các cơ quan
điều tiết cấp bang với quyền đại diện đại diện cho người tiêu dùng ở một số bang.
Quyền được sống trong môi trường lành mạnh
Cạnh tranh lành mạnh thúc đẩy đổi mới. Khi các công ty tham gia vào những phương thức đổi
mới để sản xuất hàng hoá hay cung cấp dịch vụ, kết quả là các nguồn lực cần được sử dụng sẽ ít
đi bởi họ phải sản xuất với mức chi phí thấp hơn để cạnh tranh. Việc giảm thiểu sử dụng nguồn
lực sẽ dẫn tới lợi ích đối với môi trường.

24


Nguyên nhân cơ bản đằng sau chính sách cạnh tranh, liên quan đến các giải pháp định hướng thị
trường và tự điều tiết môi trường, đó là các mục tiêu về môi trường sẽ dẫn đến sự phát triển của
thị trường cho những hoạt động môi trường mới. Theo đó, môi trường cạnh tranh tự do sẽ đưa
đến các giải pháp hiệu quả cho các vấn đề về môi trường. Nói cách khác, sự tự điều tiết có thể
giúp ích cho hoạt động môi trường tích cực nếu các động lực từ cơ chế thị trường được đảm bảo.
Việc sử dụng các công cụ định hướng thị trường, chẳng hạn như đánh thuế hay quyền khí thải có
thể mua bán được trong chính sách môi trường là phương thức trực tiếp nhất của việc thể hiện
nguyên tắc “người gây ô nhiễm trả phí” (OECD, 1996).
Tuy nhiên, hiệu quả của nguyên tắc “người gây ô nhiễm trả phí” sẽ bị đe dọa nếu việc vận hành
cơ chế thị trường bị cản trở, hoặc ngăn cản, thông qua các hành vi độc quyền hay hạn chế cạnh

tranh của các-ten. Nếu các doanh nghiệp không bị áp lực cạnh tranh, họ sẽ không cảm thấy sự
cần thiết phải đóng góp tích cực cho môi trường, bởi họ có khả năng chuyển chi phí ô nhiễm môi
trường cho các doanh nghiệp khác.

25


×