Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Văn học trung đại Việt Nam Lý Trần Hùng Văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.41 KB, 5 trang )

1. Tính chất bác học cao
quý
những sáng tác văn chương co
như thế mới được xem là bác
học, cao nhã, cao quý. Chẳng
hạn, noi đến cây và hoa, người
đọc sẽ bắt gặp tùng, trúc, cúc,
mai, sen… Đây là những biểu
tượng để chỉ phẩm chất, khí tiết
của bậc trượng phu, người quân
tử; noi đến vật thì thường là
long, ly, quy, phụng; noi đến
người thì ngư, tiều, canh, mục;
tả cảnh mùa thu phải là rừng
phong lá rụng, sen tàn giếng
ngọc, mây đùn cửa ải, lá ngô
đồng vàng rơi; noi hoa bốn mùa
thì thường là xuân lan, thu cúc,
hạ sen, đông mai… Vì thế,
người đọc không lấy làm lạ là
một kiệt tác như Dụ chư ty
tướng hịch văn (Hịch tướng sĩ)
của Hưng Đạo Vương Trần
Quốc Tuấn, để khích lệ lòng yêu
nước của các tướng sĩ dưới
quyền xông lên đánh quân xâm
lược, tác giả lại nêu lên những
tấm gương trung thần nghĩa sĩ ơ
sách vơ Trung Quốc như Ky
Tín, Do Vu, Dự Nhượng, Vương
Công Kiên.


1. Chủ nghĩa yêu nước và
chủ nghĩa nhân đạo- hai
dòng chủ lưu của
VHTÐVN.
a. Chủ nghĩa yêu nước:
Văn hoa Ðại Việt, văn chương
Ðại Việt khơi nguồn từ truyền
thống sản xuất và chiến đấu của
tổ tiên, từ những thành tựu văn
hoa và từ chính thực tiễn hàng
nghìn năm đấu tranh chống giặc
ngoại xâm phương Bắc.
Hiếm thấy một dân tộc nào trên
thế giới lại phải liên tục tiến
hành những cuộc chiến tranh
chống giặc ngoại xâm như dân
tộc Việt Nam. Nhà Tiền Lê, nhà
Lý chống Tống. Nhà Trần chống
Nguyên Mông. Nhà Hậu Lê
chống giặc Minh. Quang Trung

chống giặc Thanh. Những cuộc
kháng chiến vệ quốc vĩ đại được
tiến hành trong trường ky lịch sử
nhằm bảo vệ nền độc lập, thống
nhất của Tổ quốc không những
tôi luyện bản lĩnh dân tộc, nâng
cao lòng tự hào, tự tin, khí thế
hào hùng của dân tộc mà còn
gop phần làm nên một truyền

thống lớn trong văn học Việt
Nam: Chủ nghĩa yêu nước.
Ðặc điểm lịch sử đo đã quy định
cho hướng phát triển của văn
học là phải luôn quan tâm đến
việc ca ngợi ý chí quật cường,
khát vọng chiến đấu, chiến
thắng, lòng căm thù giặc sâu
sắc, ý thức trách nhiệm của
những tấm gương yêu nước,
những người anh hùng dân tộc
quên thân mình vì nghĩa lớn. Co
thể noi, đặc điểm này phản ánh
rõ nét nhất mối quan hệ biện
chứng giữa lịch sử dân tộc và
văn học dân tộc.
Quá trình đấu tranh giữ nước tác
động sâu sắc đến sự phát triển
của văn học, bồi đắp, phát triển
ý thức tự hào dân tộc, tinh thần
độc lập tự chủ. Cho nên, chế độ
phong kiến co thể hưng thịnh
hay suy vong nhưng ý thức dân
tộc, nội dung yêu nước trong
văn học vẫn phát triển không
ngừng.
Các tác phẩm văn học yêu nước
thời ky này thường tập trung thể
hiện một số khía cạnh tiêu biểu
như:

- Tình yêu quê hương
- Lòng căm thù giặc
- Yï thức trách nhiệm
- Tinh thần vượt kho, sẵn sàng
hy sinh vì Tổ quốc
- Ý chí quyết chiến, quyết thắng
- Ðề cao chính nghĩa của người
Việt Nam trong những cuộc
kháng chiến.

b. Chủ nghĩa nhân đạo
Văn học do con người sáng tạo
nên và tất yếu no phải phục vụ
trơ lại cho con người. Vì vậy,
tinh thần nhân đạo là một phẩm
chất cần co để một tác phẩm trơ
thành bất tử đối với nhân loại.
Ðiều này cũng co nghĩa là, trong
xu hướng phát triển chung của
văn học nhân loại, VHTÐVN
vẫn hướng tới việc thể hiện
những vấn đề của chủ nghĩa
nhân đạo như:
- Khát vọng hòa bình
- Nhận thức ngày càng sâu sắc
về nhân dân mà trước hết là đối
với những tầng lớp thấp hèn
trong xã hội phân chia giai cấp
- Ðấu tranh cho hạnh phúc, cho
quyền sống của con người,

chống lại ách thống trị của chế
độ phong kiến.
- Ca ngợi vẻ đẹp của con người
lao động
- Tố cáo mạnh mẽ và đấu tranh
chống những thế lực phi nhân.
2. Văn học viết phát triển
dựa trên những thành
tựu của văn học dân
gian
- Văn học viết Việt Nam hay bất
ky một nền văn học dân tộc nào
khác đều phải phát triển trên cơ
sơ kế thừa những tinh hoa của
văn học dân gian. Trong tình
hình cụ thể của VHTÐVN, mối
quan hệ giữa văn học viết và văn
học dân gian chủ yếu là do các
nguyên nhân sau:
+ Sau khi nước nhà độc
lập, nhu cầu thiết yếu mà nhà
nước phong kiến Việt Nam cần
phải chú ý là việc xây dựng một
nền văn hoa mang đậm bản sắc
dân tộc, chống lại âm mưu bành
trướng, đồng hoa của kẻ thù
phương Bắc và nâng cao lòng tự
hào dân tộc.



+ Những tác phẩm bằng
chữ Hán trong thời ky này
thường dễ xa lại với quần chúng
bình dân, tác phẩm ít được
truyền tụng rộng rãi. Vì vậy,
càng về sau, nhu cầu quần chúng
hoa, dân tộc hoa tác phẩm ngày
càng mạnh mẽ. Trong quá trình
giải quyết vấn đề này, chỉ co văn
học dân gian là nhân tố tích cực
nhất.
Quá trình kế thừa, khai thác
VHDG là một quá trình hoàn
thiện dần các yếu tố tinh lọc từ
VHDG bắt đầu từ thơ ca
Nguyễn Trãi về sau (Thời LýTrần, việc tiếp thu nguồn
VHDG chưa được đặt ra đúng
mức).
+ Văn học viết tiếp thu từ
văn học dân gian chủ yếu là về
đề tài, thi liệu, ngôn ngữ, quan
niệm thẩm mỹ, chủ yếu là khía
cạnh ngôn ngữ và thể loại.
+ Trong quá trình phát
triển, hai bộ phận luôn co mối
quan hệ biện chứng, tác động,
bổ sung lẫn nhau để cùng phát
triển (Những tác động trơ lại của
văn học viết đối với văn học dân
gian.

3. Văn học viết phát triển
dựa trên cơ sở tiếp thu,
tinh lọc những yếu tố tích
cực của hệ ý thức nước
ngoài
- Sự du nhập của các học thuyết
vào Việt Nam chủ yếu do các
nguyên nhân sau:
+ Vấn đề giao lưu văn hoa
giữa các dân tộc là một vấn đề
mang tính quy luật. Từ xưa,
nước ta và các vùng phụ cận đã
co sự giao lưu văn hoa nhưng
chỉ trong phạm vi hẹp, chủ yếu
là từ Trung Quốc sang.
+ Hơn 1000 năm bắc
thuộc, dân tộc ta không tránh
khỏi bị ảnh hương bơi sự bành

trướng văn hoa và nhất là âm
mưu đồng hoa của kẻ thù.
Những tên quan lại phương Bắc
sang đô hộ Việt Nam không chỉ
boc lột, vơ vét tài nguyên mà
còn truyền bá rộng rãi các học
thuyết triết học co nguồn gốc từ
Trung Quốc vào Việt Nam một
cách khéo léo và thâm hiểm.

Từ thế ky XV về sau, Nguyễn

Trãi đã mạnh dạn đưa chữ Nôm
vào sáng tác văn học. Thơ ông
tuy chưa được trau chuốt nhưng
đậm đà bản sắc dân tộc.Thành
công của Nguyễn Trãi chính là
tiền đề cho con đường phát triển
của văn học chữ Nôm đến đỉnh
cao Truyện Kiều.

+ Khi nhà nước phong
kiến VN bắt đầu hình thành, giai
cấp thống trị không co mẫu mực
nào khác hơn là nhà nước PK
TQ đã tồn tại trước đo hàng
nghìn năm và co rất nhiều kinh
nghiệm trong việc lợi dụng các
học thuyết triết học như một
công cụ đắc lực trong việc củng
cố ngai vàng, thống trị nhân dân.

5. Thơ phát triển sớm và
mạnh hơn văn xuôi.

- Các học thuyết Nho- Phật- Lão
đều co những điểm tích cực nhất
định nên các nhà tư tương lớn
của Việt Nam thời Trung đại đã
chú ý khai thác, tinh lọc, vận
dụng sao cho nét tích cực đo
phát huy tác dụng trong hoàn

cảnh cụ thể của từng giai đoạn
lịch sử.
4. Văn học chữ Hán phát
triển song song với văn
học chữ Nôm
Ngay từ khi được các nhà văn
mạnh dạn đưa vào sáng tác văn
học, chữ Nôm ngày càng khẳng
định vị trí của mình bên cạnh
chữ Hán vốn đã co ảnh hương
sâu sắc trong văn học thời Lý
Trần.
Sự phát triển của Văn học chữ
Nôm khẳng định ý thức dân tộc
phát triển ngày càng cao, biểu
hiện lòng tự hào, ý thức bảo vệ
ngôn ngữ, văn hoa dân tộc
chống lại âm mưu đồng hoa của
kẻ thù.
Ở thời Lý, Trần, việc sử dụng
chữ Nôm trong sáng tác văn học
chưa được phổ biến.

Ở thời trung đại, văn chính luận
mang tính quan phương chủ yếu
là công cụ của nhà nước phong
kiến. Mặt khác, những đặc thù
trong tư duy nghệ thuật, truyền
thống sáng tác dẫn đến một thực
tế là các tác phẩm văn xuôi hình

tượng chỉ chiếm một số lượng
khiêm tốn so với các tác phẩm
thơ ca.
Thể thơ thường sử dụng nhất
trong VHTÐ là thơ Ðường luật.
Ðây là hệ quả của quá trình giao
lưu văn hoa lâu dài và nằm trong
quan niệm thẩm mỹ của các nhà
thơ cổ điển. Trong thời ky này,
thơ Ðường luật đã được chính
quy hoa trong văn chương
trường ốc và văn chương cử tử.
Cho nên, sự thống trị văn đàn
của thơ Ðuờng luật trong bất ky
một tập thơ nào thời trung đại là
một điều dễ hiểu.
Tuy nhiên, việc sử dụng
thơ Ðường luật với tư cách là
một thể thơ chính thống trong
các ky thi và trong sáng tác đã
gây không ít trơ ngại trong nội
dung thể hiện do bị chi phối bơi
sự ngặt nghèo của luật thơ chặt
chẽ.
Ở thời Nguyễn Trãi, thơ luật
Ðường biến thể thành thơ thất
ngôn xen lục ngôn đầy sáng tạo,
độc đáo, phong khoáng, rất phù
hợp với cách nghĩ, cách noi, tâm
lý của dân tộc nên được một số

nhà thơ đời sau tiếp tục sử dụng
(Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh
Khiêm).


6. Việc sử dụng điển tích
và các hình ảnh tượng
trưng ước lệ- những thủ
pháp nghệ thuật được sử
dụng phổ biến trong văn
chương trung đại
Ðể miêu tả, người ta cho rằng
cần phải co những mẫu mực mà
qua nhiều thời ky đã được mặc
nhiên chấp nhận sử dụng. Quan
điểm ước lệ không chú ý đến
logic đòi sống, đến mối quan hệ
thực tế của các hình ảnh mang
tính chất mẫu mực, công thức.
Vì thế, khi phân tích các hình
ảnh ước lệ, chúng ta không cần
đặt vần đề co lý hay không co
lý, đúng hay không đúng thực tế
mà chỉ xem xét sức mạnh khơi
gợi của hình tượng co sâu sắc
hay không, hình tượng co được
dùng đúng tình đúng cảnh và thể
hiện được tư tương tình cảm của
nhà thơ hay không.


3.

4.

5.

II. Hùng văn

1. Văn chương tham gia
xây dựng ý thức dân
tộc
- Từ bài Thiên đô
chiếu, của Lý
Công Uẩn, Nam
Quốc Sơn Hà, đến
Phạt Tống Lộ bố
văn Lý thường kiệt
2. Tham gia cổ vũ động
viên binh sĩ trong chiến
tranh
- Hịch tướng sĩ Trần
Quốc Tuấn
- Trong HTS, hình
tượng người anh
hùng co tích chất
cá nhân
• Sơn hà,
xã
tắc
thuộc sơ

hữu của
quý tộc
• Đối với
tướng sĩ
thì ơn tri
ngộ
là

6.

chuyện cá
x cá x
Bộ phận văn chương
trực tiếp miêu tả cái
khốc liệt của chiến
tranh
- 1258
- 1285
- 1287
BPVC hồi cố chiến
tranh
- Chiếm số lượng
lớn, thể hiện ơ thơ
Đề vịnh (vịnh vật,
cảnh, sử)
- T/c lý tính nhiều
hơn
- Chủ yếu là tác
phẩm của các nhà
thơ

- Thể loại: thơ dài,
phú
Những khúc ca bi phân
của những anh hung lỡ
vận gđ đầu thế ký XV
- Bài “cảm hoài”đặng dung
Hình tượng trung tâm,
người anh hùng vệ
quốc lãng mạn, hào
sảng

Hai là, văn học Lý – Trần đa
vận động và phát triển trên cơ
sở ý thức dân tộc, kết hợp với
cảm hứng thời đại, mở ra một
dòng văn học yêu nước trong
văn chương Việt Nam.
Ở thời trung đại, trong
đo co thời Lý – Trần, yêu nước
gắn liền với lý tương trung quân.
Yêu nước và trung quân là một.
Trên cơ sơ ý thức độc lập dân
tộc được củng cố và phát triển,
kết hợp với âm hương của thời
đại phục hưng mà cảm hứng yêu
nước trong văn học Lý – Trần
được thể hiện ơ nhiều khía cạnh,
sắc thái, cung bậc, giọng điệu
khác nhau bơi những thời điểm
lịch sử khác nhau.


Trong điều kiện đất
nước hoà bình thì cảm hứng yêu
nước được bộc lộ trong thơ văn
thường là ý thức tự cường, tự
tôn dân tộc; là niềm khát vọng
xây dựng đất nước hoà bình
hạnh phúc; là yêu giống nòi,
tiếng noi, cảnh trí của non sông
gấm voc và yêu cả nền văn hoá
của dân tộc. Câu thơ của Đô
Pháp Thuận “Vô vi cư điện các,
Xứ xứ tức đao binh” khi trả lời
vua Lê Đại Hành đã chứng tỏ
niềm tin vào vận mệnh đất nước.
Bài Thiên đô chiếu (Chiếu dời
đô) thể hiện sự nhìn xa trông
rộng của Lý Thái Tổ về tương
lai đất nước, vì Thăng Long
không chỉ đẹp ơ thế đất “rồng
cuộn hổ ngồi” mà còn là nơi
trung tâm để co thể “mưu toan
việc lớn, tính kế lâu dài cho con
cháu đời sau”, điều mà cố đô
Hoa Lư không còn phù hợp với
yêu cầu của thời đại lịch sử bấy
giờ. Bài Bạch Đằng giang
phu của Trương Hán Siêu
không chỉ đưa lại cho người dọc
một tình yêu thiên nhiên với

cảnh trí tươi đẹp của non sông
gấm voc, mà còn đem đến một
niềm tự hào lớn về truyền thống
anh hùng, bất khuất của dân tộc
trong lịch sử chống ngoại xâm.
Bài phu từng được xem là kiệt
tác văn chương. Lê Quý Đôn thế
ky XVIII đã so sánh bài phú này
với bài Xích Bích phu của Tô
Đông Pha (đời Tống – Trung
Quốc) rồi ngợi khen “văn thể
phú triều Trần phần lớn khôi ky,
hùng vĩ, lưu loát, đẹp đẽ, âm
vận, cách điệu giống như thể
văn nhà Tống”
Cũng là con sông Bạch
Đằng lẫy lừng chiến tích, nửa
thế ky sau cuộc kháng ch iến
chống quân Nguyên Mông lần
thứ hai (1285), thứ ba (1287),
Trần Minh Tông và Trương Hán
Siêu cùng cảm nhận một màu
máu tanh hôi trên dòng sông:
“Ngỡ rằng máu giặc hãy còn
đây”, dù theo thời gian, nước
vẫn trôi nhưng dấu vết, chiến


tích lịch sử thì vẫn còn lưu lại
mãi. Thật tự hào biết bao! Cũng

với cảm hứng ấy, Phạm Sư
Mạnh khi nhìn dòng sông cuộn
song, cảm thấy lòng bồi hồi
tương nhớ chiến tích oai hùng
năm xưa của Ngô Quyền phá tan
quân Nam Hán trên dòng Bạch
Đằng giang:
Hung hăng Bạch Đằng đào,
Tưởng tượng
thuyền.

Ngô

Vương

(Thơ văn Lý – Trần, tập 3,
tr.79)
Dịch:

chiến

Hàm Tử bắt quân thù.

Nam quốc sơn hà Nam đế cư,

Non nước ấy nghìn thu.

Tiệt nhiên định phận tại thiên
thư.


Cảm hứng yêu nước của
thời đại Đông A còn vút lên
giọng hào sảng của kẻ nam nhi
quyết lập công để lưu danh hậu
thế trong thơ của Phạm Ngũ
Lão:

Như hà nghịch lỗ lai xâm
phạm?
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
(Thơ văn Lý – Trần, tập 1,
tr.322)
Dịch:
Núi sông Nam Việt vua Nam ơ,

Bạch Đằng cuồn cuộn song,
Tương thuyền
Vương.

dân ta đã coi bài thơ như là lời
tuyên ngôn độc lập đầu tiên của
dân tộc:

Vằng vặc sách trời chia xứ sơ.
Ngô

Để hơn trăm năm sau, thi
hào Nguyễn Trãi khi đến dòng
sông này cũng đã co cảm xúc và
niềm tự hào như thế trong bài

thơ Bạch Đằng hải khẩu.
Khi Tổ quốc bị xâm
lăng thì yêu nước là lòng căm
thù giặc, là tinh thần quyết chiến
thắng kẻ thù, bảo vệ đến cùng
chủ quyền của dân tộc. Yêu
nước còn là lòng biết ơn và ca
ngợi những con người dám xả
thân cứu nước; những con người
thà hy sinh chứ không hàng
giặc, không hợp tác với kẻ thù.
Bài thơ thần (Nam quốc sơn hà)
tương truyền của Lý Thường
Kiệt vẻn vẹn chỉ hai mươi tám
tiếng, goi gọn trong bốn câu mà
ít nhất đã mang hai tầng ý nghĩa:
vừa là lời hịch lại vừa là
lời tuyên ngôn, vì đã khích lệ, cổ
vũ tinh thần quyết chiến đấu và
chiến thắng quân Tống xâm
lược vào năm 1076 trên trận
tuyến sông Cầu; đồng thời
khẳng định cương vực bờ cõi
chủ quyền của đất nước với sự
phân biệt rạch ròi “Nam quốc”
với “Bắc quốc” và “Nam đế” với
“Bắc đế”. Do thế, xưa nay nhân

Giặc dữ cớ sao phạm đến đây?
Chúng mày nhất định phải tan

vỡ.
Hay như lòng căm thù,
sự căm tức của chủ tướng Trần
Quốc Tuấn “tới bữa quên ăn,
nửa đêm vô gối, ruột đau như
cắt, nước mắt đằm đìa”, với ước
muốn “xẻ thịt lột da, nuốt gan
uống máu quân thù” thì đo cũng
là lòng căm thù sôi sục của
tướng sĩ trong thời điểm ấy. Còn
đây là khí phách hào hùng cùng
niềm tin vào vận nước nghìn thu
được thể hiện trong bài thơ ngắn
với giọng điệu hả hê của Trần
Quang Khải:
Đoạt sóc Chương Dương độ,
Cầm hồ Hàm Tử quan.
Thái bình tu trí lực,
Vạn cổ thử giang san.
(Thơ văn Lý – Trần, tập 2,
tr.424)
Dịch:
Chương Dương cướp giáo giặc,

Thái bình nên gắng sức,

Hoàng sóc giang sơn cáp ky
thu,
Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu.
Nam nhi vị liễu công danh trái,

Tu thính nhân gian thuyết Vu
Hầu.
(Thơ văn Lý – Trần, tập 2, tr.
562)
Dịch:
Múa giáo non sông trải mấy thu,
Ba quân hùng khí át sao Ngưu.
Công danh nam tử còn vương
nợ,
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ
Hầu.
Một thời đại văn học đầy
chất tráng ca. Hào khí thời đại
ấy đã làm cho Trần Phu, một sứ
thần nhà Nguyên, vào thời điểm
đo đi sứ sang ta, khi về lại Trung
Quốc vẫn còn “giật mình kinh
sợ” đến nôi “toc bạc”. Cái cảm
giác này ông co ghi trong bài Sứ
hoàn cảm sự:
Kim qua ảnh lý đan tâm khổ,
Đồng cổ thanh trung, bạch phát
sinh.
Dĩ hạnh quy lai thân kiện tại,
Mộng hồi do giác chướng hồn
kinh.


Dịch:
Bong lè binh khí lòng đau khổ,

Vang vọng trống đồng, toc bạc
sinh.
Mừng được về nhà, thân khoẻ
mạnh,
Ngủ dài, trơ dậy, thấy còn kinh.
Cảm hứng yêu nước ấy
còn thể hiện qua giọng điệu uất
hận, dồn nén của người anh
hùng lỡ vận trong bài Cảm
hoài của Đặng Dung. Đây là hai
câu kết:
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,
Ky độ long tuyền đái nguyệt ma.
(Thơ văn Lý – Trần, tập 3,
tr.517)
Dịch:
Thù trả chưa xong đầu đã bạc.
Gươm mài bong nguyệt đã bao
rày.



×