Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

ĐẶC điểm PHẬT GIÁO VIỆT NAM và ẢNH HƯỞNG của PHật GIÁO đến đời sống và xã hội và CON NGƯỜI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (318.62 KB, 36 trang )

PHN A: M U

Tụn giỏo l mt hỡnh thỏi ý thc xó hi, va l thc th xó hi. Vi t
cỏch mt hỡnh thỏi ý thc xó hi, tụn giỏo luụn phn ỏnh tn ti xó hi. Vỡ
vy, mun tỡm hiu c im ca mt tụn giỏo cng nh h thng tớn
ngng ca mt quc gia, mt khu vc, khụng th khụng nghiờn cu c
im ca mnh t hin thc ó ny sinh ra nú.
Phật giỏo là một trong những học thuyết Triết học - tôn giáo lớn trên thế
giới, tồn tại rất lâu đời, vi mt hệ thống giáo lý rất đồ sộ và số lợng phật tử
đông đảo đợc phân bố rộng khắp. Pht giỏo cú mt trờn t nớc ta vo thế kỷ
th II và đã nhanh chóng trở thành một tôn giáo có ảnh hởng sâu sắc đến đời
sống tinh thần của con ngời Việt Nam; bên cạnh đó l Nho giỏo, Lão giỏo,
Thiên chúa giỏo cng ln lt c truyn bỏ vo Vit Nam. Tuỳ từng giai
đoạn lịch sử, dân tộc ta đều có một học thuyết t tởng hoặc một tôn giáo gi
vai trò chủ đạo, có tác động sõu sc đến i sống tinh thn của con ngời Vit
Nam. Tuy nhiên, trong chiu di lch s ca dõn tc không mt tụn giỏo no
chim c vị trí độc tôn mà song song tồn tại bờn nhau v chung sng hũa
bỡnh vi tớn ngng tụn giỏo bn a m khụng h xy ra chin tranh tụn
giỏo; bờn cnh tụn giỏo ch o vẫn có các học thuyết, tôn giáo khác tác
động vào các khu vực khác nhau của đời sống xã hội, đồng thời cũng tác
động trở lại các học thuyết tụn giỏo chủ đạo.
Trong công cuộc xây dựng đất nớc quá độ lên Ch ngha xó hi, ng
ta ly chủ nghĩa Mác - Lênin, t tng H Chớ Minh làm nn tng t tởng, là
vũ khí lý luận, l Kim ch nam cho mi hnh ng ca ng nhng bên
cạnh đó, bộ phận kiến trúc thợng tầng của xã hội cũ vẫn có sức sống dai
dẳng, trong đó giáo lý nhà Phật đã in sâu vào t tởng, tình cảm của bộ phận
lớn dân c Việt Nam. Vỡ vậy, vic nghiên cứu c im lịch sử, giáo lý, và sự
1


tác động của đạo Phật đối với thế giới quan, nhân sinh quan của con ngời là


hết sức cần thiết. Việc đi sâu nghiên cứu, đánh giá những mặt hạn chế cũng
nh nhng tiến bộ, nhân đạo của Phật giáo giúp ta hiểu rõ tâm lý ngời dân
hơn và qua đó tìm ra đợc một phơng cách để hớng đạo cho họ một nhân
cách chính, đúng đắn.
Lĩnh vực nghiên cứu Phật giáo hiện nay tơng đối đợc mở rộng, ngoài
việc nghiên cứu giáo lý, kinh điển, lịch sử của Phật giáo còn đề cập đến các
lĩnh vực Triết học, Sử học, Tâm lý học, Khảo cổ học, Xã hội học, Dân tộc
học, Văn học, Nghệ thuật... Phật học đã trở thành một trong những khoa học
tơng đối quan trọng trong khoa học xã hội, trớc mắt có quan hệ mật thiết với
xã hội học.
Hơn nữa quá trình Phật giáo phát triển, truyền bá ở Việt Nam gắn liền
với quá trình hình thành, phát triển t tởng, đạo đức của con ngời. Vì vậy khi
nghiên cứu lịch sử, t tởng, đạo đức Việt Nam không thể không đề cập đến
Phật giáo và những mối quan hệ, tác động qua lại giữa chúng.
Tóm lại, nghiên cứu c im Pht giỏo Vit Nam và ảnh hởng của
Pht giỏo đến i sng xã hội và con ngời Việt Nam là một nội dung quan
trọng nhằm tìm hiểu lịch sử cũng nh định hớng cho sự phát triển nhân cách,
t duy con ngời Việt Nam trong tơng lai.

2


Phần B: Nội dung

I. Khái quát về Phật giáo
1.1 Nguồn gốc ra đời:
Đạo Phật mang tên ngời sáng lập là Đà (hay buddha). Đạo phật chính là
giáo lý mà Phật Đà đã thuyết giảng. Sau khi ra đời ở ấn Độ vào thế kỷ thứ
IX đến thế kỷ thứ VI (trớc Công nguyên), đạo Phật đợc lu hành rộng rãi ở
các quốc gia trong khu vực - Phi, gần đây đợc truyền tới các nớc Âu - Mỹ.

Trong quá trình truyền bá của mỡnh, đạo Phật đã kết hợp với tín ngỡng, tập
tục, dân gian, văn hoá bản địa để hình thành rất nhiều tông phái và học phái,
có tác động vô cùng quan trọng với đời sống xã hội và văn hoá của rất nhiều
quốc gia.
Buddha vốn là thái tử tên là Tất Đạt Đa (Siddharta), con trai của Trịnh
Phạm Vơng (Suđhodana) vua nớc Trịnh Phạm, một nớc nhỏ thuộc Bắc ấn
Độ (nay thuộc đất Nê Pan) ông sinh ra vào khoảng năm 623 (trớc công
nguyên). Cuộc đời của Phật Thích Ca đợc kể lại ở trong truyền thuyết nh
sau:
Vào một đêm Mahamaia (ngời vợ chính của vua Suđhodana) mơ thấy
mình đợc đa tới hồ thiêng Anavatápta ở Himalaya. Sau khi các thiên thần
tắm rửa cho bà ở trong hồ thiêng, thì có một con Voi trắng khổng lồ có đoá
hoa Sen ở vũi bớc tới và chui vào Sờn bà. Các nhà thông thái cho rằng giấc
mơ là điềm Hoàng hậu đang có mang và sẽ sinh hạ đợc một Hoàng tử, ngời
sau này sẽ trở thành vị chúa tể của thế giới hoặc ngời thầy của thế giới.
Hoàng hậu Mahamaia cú thai v khi sp n ngy sinh n, B tr v nhà
cha mình để sinh con. Thế nhng vừa đến khu vờn Lumbini, cách thủ đô
Capilavastu của ngời Sakia không xa, Hoàng hậu trở dạ và vị Hoàng tử đã ra
3


đời. Vừa ra đời, Hoàng tử đã đứng ngay dậy, đi bảy bớc và nói: Đây là
kiếp cuối cùng của ta, từ nay ta không phải luõn hồi một kiếp nào nữa!.
Đến ngày thứ năm một nghi thức trọng thể đợc tổ chức và Hoàng tử đợc
đặt tên là Siđhartha. Để ngăn cản Hoàng tử không nghĩ tới việc tu hành, đức
vua cha đã tìm mọi cách tạo ra quanh ngời con trai mình một cuộc sống vơng giả. Hoàng tử đợc học mọi kiến thức để sau này trở thành một vị vua tài
ba, anh minh trị vì một đất nớc n Độ bao la. Nhng cuộc đời vơng giả
không cán dỗ đợc Hoàng tử trẻ tuổi. Nhng sự việc đã làm thay đổi hẳn
cuộc đời Hoàng tử Siddhartha. Đó là một lần khi đang dạo chơi trong vờn,
Hoàng tử thấy một ông già gy còm, ốm yếu rồi nhận ra một điều rằng mọi

ngời rồi ai cũng phải già yếu nh thế. t lâu sau Hoàng tử lại đợc chứng kiến
ngời ốm và ngời chết. T hoàn cảnh trên làm cho Hoàng tử băn khoăn, lo
nghĩ về kiếp ngời và muốn cứu con ngời ra khỏi những trầm luõn đau khổ
của kiếp luõn hồi Sinh, lão, bệnh, tử chính sự việc thứ t đã đem đến cho
Hoàng tử niềm hy vọng và an ủi. Lần đó, Hoàng tử nhìn thấy một vị hành
khất dáng vẻ bần hàn nhng lại ung dung tự tại. Vừa nhìn thấy vị hành khất
Hoàng tử nh bừng tỉnh và quyết định sẽ ra đi trở thành nhà hành khất nh thế.
Đợc tin, đức vua Suddhôđana tìm mọi cách ngăn cản Hoàng tử. Thế nhng vi s quyt tõm ca mỡnh; vo mt ờm Hoàng tử lặng lẽ đến nhìn vợ và
con lần cuối rối đánh thức ngời đánh xe dậy cùng mỡnh cỡi con ngựa rời
khỏi cung in. Hoàng tử Sidhartha đã trở thành nhà tu hành. Thoạt đầu,
Hoàng tử đi lang thang đây đó, sống theo kiểu khổ hạnh. Sau đó, ngài vào
rừng tu. Nhà hiền triết Alara Calama dạy cho chàng các phép thiền định và
những triết lý của upanishad. Học thuyết và thực hành giải thoát cá nhân của
Upanishad không hấp dẫn Hoàng tử. Chàng đi tiếp và nhập vào nhóm năm
ngời tu khổ hạnh. Suốt sáu năm trờng ép xác Hoàng tử gần nh chỉ còn bộ xơng khô mà vẫn cha tìm ra chân lý của sự giải thoát. Ngài bèn bỏ cuộc sống
tu hành khổ hạnh và trở lại ăn uống bình thờng.
4


Khi Hoàng tử Sidhartha 35 tuổi, một hôm ngài đến ngồi dới gốc cây bồ
đề ở ngoại vi thành phố Gaia thuộc vùng đất của vua Bimbisura, vua nớc
Magadha. Cho đến một hôm có nàng Sudjata, con gái của một nông dân
trong vùng đem cho ngài một bát cơm to nấu bằng sữa. Ăn xong, ngài xuống
sông tắm rửa, rồi trở lại gốc cây bồ đề. Ngài ngồi Thiền định và nguyện sẽ
không đứng dậy nếu không tìm ra sự giải thoát về điều bí ẩn của sự đau khổ.
Hoàng tử đã ngồi dới gốc cây bồ đề suốt 49 ngày đêm. Rạng sáng ngày th
49, Siddhartha đã tìm ra bí mật của sự đau khổ, tìm ra đợc vì sao thế giới lại
tràn đầy khổ đau và đã tìm ra đợc cách để chiến thắng sự đau khổ.
Siddhartha đã hoàn toàn giác ngộ và trở thành Buddha (Đấng giác ngộ). Sau
khi giác ngộ Đức phật còn ngồi tiếp bảy ngày nữa dới cây bồ đề suy ngẫm

về những chân lý diệu kỳ mà mình đã khám phá. Ngài mới rời khỏi gốc cây
bồ đề đi đến khu vờn Lộc Uyển gần Varanasi để giảng bài thuyết pháp đầu
tiên cho năm ngời bạn tu khổ hạnh của mình. Sự kiện này đợc ghi chép lại
nh một sự kiện quan trọng nhất của Đạo phật và đợc gọi là Phật quay bánh
xe Đạo pháp (chuyển Pháp Luân). Giáo pháp mới của Đạo phật đã gây ấn tợng mạnh đối với năm nhà tu, họ nhanh chóng trở thành những môn đồ đầu
tiên của Đức Phật. Vài ngày sau số môn đồ của Phật đã tăng lên 60 ngời,
theo thời gian số môn đồ Đạo Phật ngày càng tăng và các tổ chức tăng gia đã
ra đời.
Đến năm 80 tuổi, biết mình tuổi cao, sức yếu, Đức Phật cùng các môn
đồ trở về chân núi Hymalaya nơi ngài sinh ra và lớn lên. Trên đờng Phật đã
chuẩn bị mọi thứ cho các môn đồ để họ có thể tự lập đợc sau khi ngài viên
tịch. Tại một nơi thuộc ngoại vi thành phố Cusinagara, Phật đã ra đi. Câu nói
cuối cùng của Phật là: Hỡi các tì kheo tất cả những gì đang tồn tại rồi sẽ
qua đi. Vậy các ngời càng không nên ngừng gắng sức.
1.2. Nội dung chủ yếu của t tởng Triết học Phật giáo.

5


T tởng triết lý Phật giáo đợc tập trung trong một khối lợng kinh điển rất
lớn, đợc tổ chức thành ba bộ kinh lớn gọi là Tam tạng, gồm:
- Tạng Luận: l toàn bộ những giới luật của Phật giáo quy định cho cả
năm bộ phái Phật giáo nh: Tứ phần luật của Thợng ta bộ; Maha tăng kỷ
luật của Đại chúng bộ; căn bản nhất Thiết hữu bộ luật ... Sau này còn
thêm các Bộ luật của Đại Thừa nh An lạc, Phạm Võng.
- Tạng kinh: Chép lời Phật dạy, trong thời kỳ đầu Tạng kinh gồm nhiều
tập dới dạng các tiền đề, mỗi tập đợc gọi là một Ahàm.
- Tạng luận: Gồm những bài bình chú, giải thích về giáo pháp của Phật
giáo. Tạng luận gồm bảy bộ thể hiện một cách toàn diện các quan điểm về
giáo pháp của Phật giáo.

T tởng triết học Phật giáo trên hai phơng diện, về bản thể luận và nhân
sinh quan, chứa đựng những t tởng duy vật và biện chứng chất phác.
Phật giáo cho rằng các sự vật và hiện tợng trong vũ trụ (chử pháp) là vô
thuỷ, vô chung (vô cùng, vô tận). Tất cả thế giới đều ở quá trình biến đổi
liên tục (vô thờng) không có một vị thần nào sáng tạo ra vạn vật cả. Tất cả
các Pháp đều thuộc về một giới (vạn vật đều nằm trong vũ trụ) gọi là Pháp
giới. Mỗi một pháp (mỗi một sự việc hiện tợng, hay một lớp sự việc hiện tợng) đều ảnh hởng đến toàn Pháp. Nh vậy các sự vật, hiện tợng hay các quá
trình của thế giới là luôn luôn tồn tại trong mối liên hệ, tác động qua lại và
quy định lẫn nhau.
Tác phẩm thanh dung thực luận của kinh Phật viết rằng: Có ngời cố
chấp là có Đại tự nhiên là bản thể chân thực bao khắp cả, lúc nào cũng thờng
định ra ch pháp(1) đạo Phật cho rằng toàn bộ ch pháp đều chi chi phối bởi
Luật nhân quả, biến hoá vô thờng, không có cái bản ngã cố định, không có
cái thực thể, không có hình thức nào tồn tại vĩnh viễn cả. Tất cả đều theo
luật nhân quả biến đổi không ngừng và chỉ có sự biến hoá ấy là thờng còn
1

(1) Dẫn theo Đoàn Chính - Lơng Minh Cừ - LSTH ấn Độ cổ đại 1921

6


(vĩnh viễn). Cái nhân nhờ có cái duyên mới sinh ra đợc mà thành quả; quả
lại nhờ có duyên mà thành nhân khác; nhân khác lại thành quả mới ... Cứ
nh thế, nhõn- qu nối nhau vô cùng vô tận mà thế giới, vạn vật, muôn loài,
cứ sinh sinh, hoá hoá mãi.
Vy l ngay từ đầu Phật giáo đã đặt ra mục đích giải quyết vấn đề cơ
bản của Triết học một cách biện chứng và duy vật. Phật giáo đã gạt bỏ vai
trò sáng tạo thế giới của các đấng tối cao, của Thợng đế và cho rằng bản
thể của thế giới tồn tại khách quan và không do vị thần nào sáng tạo ra cả.

Cái bản thể ấy chính là sự thờng hằng trong vận động của vũ trụ, là muôn
ngàn hình thức của vạn vật trong vận động, nó có mặt trong vạn vật nhng nó
không dừng lại ở bất kỳ hình thức nào. Nó muôn hình vạn trạng nhng lại
tun hành nghiêm ngặt theo luật nhân quả.
Do quy luật nhân quả mà vạn vật ở trong quá trình biến đổi không
ngừng, thành, trụ, hoại, diệt (sinh thành, biến đổi, tồn tại, tan rã và diệt
vong). Quá trình đó phổ biến khắp vạn vật, trong vũ trụ, nó là phơng thức
thay đổi chất v lợng của sự vật và hiện tợng.
Phật giáo trong quá trình giải thích sự biến hoá vô thờng của vạn vật, đã
xây dựng nền thuyết nhân duyên. trong thuyết nhân duyên có ba khái
niệm chủ yếu là Nhân, Quả và Duyên.
- Cái gì phát động ra ở vật gây ra một hay nhiều kết quả nào đó, đợc gọi
là Nhân.
- Cái gì lp lại từ Nhân đợc gọi là Quả.
- Duyên: Là điều kiện, mối liên hệ, giúp Nhân tạo ra Quả. Duyên không
phải là một cái gì đó cụ thể, xác định mà nó là sự tơng hợp, điều kiện để
giúp cho sự biến chuyển của vạn Pháp.
Ví dụ hạt lúa là cái quả của cây lúa đã thành, mà lại là cái nhân của cây
lúa sắp thành. Lúa muốn thành cây lúa có bông lại phải nhờ có điều kiện và
7


những mối liên hệ thích hợp nh đất, nớc, không khí, ánh sáng. Những yếu tố
đó chính là Duyên.
Trong thế giới sinh vật, khi đã giải thích về nguyên nhân biến hoá vô
thờng của nó, từ quá khứ đến hiện tại, từ hiện đại tới tơng lại. Phật giáo đã
trình bày thuyết Thập Nhị Nhân Duyên (mời hai quan hệ nhân duyên) đợc
coi là cơ sở của mọi biến đổi trong thế giới hiền sinh, một cách tất yếu của
sự liên kết nghiệp quả.
+ Vô minh: (là cái không sáng suốt, mông muội, che lấp cái bản nhiên

sáng tỏ).
+ Hành: (là suy nghĩ mà hành động, do hành động mà tạo nên kết quả,
tạo ra cái nghiệp, cái nếp. Do hành động mà có thức ấy là hành làm quả cho
vô minh và là nhân cho Thức).
+ Thức: (Là ý thức là biết. Do thức mà có Danh sắc, ấy là Thức làm quả
cho hành và làm nhân cho Danh sắc).
+ Danh sắc: (Là tên và hỡnh ta đã biết tên ta là gì thì phải có hình và tên
của ta. Do danh sắc mà có Lục xứ, ấy danh sắc làm quả cho thức và làm
nhân cho Lục xứ).
+ Lục xứ hay lục nhập: (Là sáu chỗ, sáu cảm giác: Mắt, mũi, lỡi, tai,
thân và tri thức. Đã có hình hài, có tên phải có Lục xứ để tiếp xúc với vạn
vật. Do Lục nhập mà có xúc - tiếp xúc. y là Lục xứ làm quả cho Danh sắc
và làm nhân cho Xúc.)
+ Xúc: ( Là tiếp xúc với ngoại cảnh qua sáu cơ quan xúc giác gây nên
mở rộng xúc, cảm giác. Do xúc mà có thụ ấy là xúc làm quả cho Lục xứ và
làm nhân cho Thụ.)
+ Thụ: (Là tiếp thu, lĩnh nạp, những tác động bên ngoài tác động vào
mình. Do thụ mà có ái, y là thụ làm quả cho Xúc và làm nhân cho ái.)

8


+ i: (Là yêu, khát vọng, mong muốn, thích. Do ái mà có Thủ, ái làm
quả cho Thụ và làm nhân cho Thủ.)
+ Thủ: (Là lấy, chiếm đoạt cho mỡnh. Do thủ mà có Hữu. Do vậy mà
Thủ làm quả cho ái và làm nhân cho Hữu.)
+ Hữu: (Là tồn tại, hiện hữu, ham, muốn, nên có dục gây thành cái
nghiệp. Do Hữu mà có sinh, do đó Hữu là quả của Thủ và làm nhân của
Sinh).
+ Sinh: (Hiện hữu là ta sinh ra ở thế gian làm làm ngời, làm súc sinh.

Do sinh mà có Tử, ấy là sinh làm quả cho Hữu và làm nhân cho Tử).
+ Lão tử: (Là già và chết, đã sinh ra là phải già yếu mà đã già là phải
chết. Nhng chết - sống là hai mặt đối lập nhau không tách rời nhau. Thể xác
tan đi là hết nhng linh hồn vẫn ở trong vòng vô minh. Cho nên lại mang cái
nghiệp rơi vào vòng luân hồi (khổ não).
Thập nhị nhân duyên nh nớc chảy kế tiếp nhau không bao giờ cạn,
không bao giờ ngừng, nên đạo Phật là Duyên Hà. Các nhân duyên tự tập
nhau lại mà sinh mãi mãi gọi là Duyên hà mãn. Đoạn này do các duyên mà
làm quả cho đoạn trớc, rồi lại do các duyên mà làm nhân cho đoạn sau. Bởi
Thp nh nhân Duyên mà vạn vật cứ sinh hoá vô thờng.
- Mối quan hệ Nhân - Duyên là mối quan hệ biện chứng trong không
gian và thời gian giữa vạn vật. Mối quan hệ đó bao trùm lên toàn bộ thế giới
không tính đến cái lớn nhỏ, không tính đến sự giản đơn hay phức tạp. Một
hạt cát nhỏ đợc tạo thành trong mối quan hệ nhân quả của toàn vũ trụ. Cả vũ
trụ hoà hơp tạo nên nó. Cũng nh nó hoà hợp tạo nên cả vũ trụ bao la. Trong
một có tất cả trong tất cả có một. Do nhân Duyên mà vạn vật sinh hay diệt.
Duyên hợp thì sinh, Duyên tan thì diệt.
Vạn vât sinh hoá vô cùng là do ở các duyên tan hợp, hợp tan nối nhau
mà ra. Nên vạn vật chỉ tồn tại ở dạng tơng đối, trong dòng biến hoá vô tận vô

9


thờng vô thực thể, vô bản ngã, chỉ là h ảo. Chỉ có sự biến đổi vô thờng của
vạn vật, vạn sự theo nhân duyên là thờng còn không thay đổi.
Do vậy toàn bộ thế giới đa dạng, phong phú, muụn hình, muụn vẻ cũng
chỉ là dòng biến hoá h ảo vô cùng, không có gì là thờng định, là thực, là
không thực có sinh, có diệt, có ngời, có mình, có cảnh, có vật, có không
gian, có thời gian. Đó chính là cái chân lý cho ta thấy đợc cái chân thế tuyệt
đối của vũ trụ. Thấy đợc điều đó gọi là chân nh là đạt tới cõi hạnh phúc,

cực lạc, không sinh, không diệt, niết bàn.
Thế giới của chúng sinh (loài ngời) cũng do nhân duyên kết hợp mà
thành. Đó là sự kết hợp của hai thành phần: phần sinh lý và phần tâm lý.
- Cái tôi sinh lý tức là thể xác, hình chất với yếu tố sắc (địa, thuỷ,
ho, phong) tức là cái cảm giác đợc.
- Cái tôi tâm lý (tinh thần) linh hồn tức là tâm với 4 yếu tố chỉ có tên
gọi mà không có hình chất gọi là Danh.
Trong Sắc gồm những cái nhìn thấy đợc cũng nh những thứ không
nhìn thấy đợc nếu nó nằm trong quá trình biến đổi của sắc gọi là vô biến
sắc nh vật chất chuyển hoá thành năng lợng chẳng hạn.
Bốn yếu tố do nhân duyên tạo thành phần tâm lý (tinh thần) của con ngời là:
+ Thụ: Những cảm giác, cảm thụ về khổ hay sớng, đa đến sự xúc chạm
lĩnh hội thân hay tâm.
+ Tởng: Suy nghĩ, t tởng.
+ Hành: ý muốn thúc đẩy hành động.
+ Thức: Nhận thức, phân biệt đối tợng tâm lý ta là ta.
Hai thành phần tạo nên Ngũ uẩn do Nhân - Duyên tạo thành mỗi sinh
vật cụ thể có danh và có sắc. Duyên hợp ngũ uẩn thì là ta. Duyên tan ngũ
uẩn thì là diệt. Quá trình hợp tan ngũ uẩn do Nhân - Duyên là vô cùng tận.
10


- Các yếu tố của ngũ uẩn cũng luôn luôn biến hoá theo qui luật nhân
qu không ngừng không nghỉ, nên mọi sinh vật cũng chỉ là vụt mất, vụt còn.
Không có sự vật riêng biệt, cố định, không có cái tôi, cái tôi hôm qua không
còn là cái tôi hôm nay. Kinh Phật có đoạn viết Sắc chẳng khác không,
không chẳng khác sắc, sắc là không, không là sắc. Thụ, Tởng, Hành, Thức
cũng đều nh thế.
Nh vậy thế giới là biến ảo vô thờng, vô định. Chỉ có những cái đó mới
là chân thực, vĩnh viễn, thờng hằng. Nếu không nhận thức đợc nó thì con ngời sẽ lầm tởng ta tồn tại mãi mãi, cái gì cũng c định, cái gì cũng của ta. Do

đó, mà con ngời cứ khát ái, tham dục, cứ mong muốn và hành động chiếm
đoạt tạo ra kết quả mà kết quả đó có thể tốt, có thể xấu gây nên nghiệp báo,
rơi vào bể khổ triền miên không bao giờ dứt.
Sở dĩ có nỗi khổ là do quy định của Luật nhân quả. Vì thế mà ta không
thấy đợc cái luật nhân bản của mình (bản thể chân thực). Khi đã mắc vào sự
chi phối của Luật Nhân - Duyên, thì phải chịu nghiệp báo và kiếp luân hồi,
luân chuyển tuần hoàn không ngừng, không dứt.
Nghiệp và luân hồi không những chỉ là những khái niệm của Triết học
Phật giáo mà có từ trong Upanishad.
Nghiệp chữ Phạn và Karma, là cái do những hoạt động của ta, do hậu
quả việc làm của ta, do hành động của thân thể ta. Đợc gọi là Thân
nghiệp, còn hậu quả của những lời nói của ta, phát ngôn của ta thì đợc gọi
làg Khẩu nghiệp. Hay những cái do ý nghĩ của ta, do tâm tu của ta gây
nên đợc gọi là ý nghiệp. Tất cả những thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý
nghiệp là do ta tham dục mà thành, do ta muốn thoả mãn tham vọng của
mình gây nên. Sở dĩ ta tham dục vì ta cha hiểu đơc chân bản vốn có của ta
cũng nh vạn vật là luôn luôn biến đổi không có gì là thờng định và vĩnh viễn
cả.

11


Cuộc đời con ngời là sự gánh chịu hậu quả của nghiệp đơng thời và các
kiếp sống trớc rồi nó tiếp tục chi phối cả đời sau.
Nghiệp báo trong một đời là sự tổng hợp của các nghiệp gây ra trong
hiện tại cộng với các nghiệp gây ra trong quá khứ, nó quyết định đời sau xấu
hay tốt, thiện hay ác.
Luân hồi chữ Phạn là Samsara; có nghĩa là Bánh xe quay tròn. Đạo
phật cho rằng: sau khi một thể xác sinh vật nào đó chết thì linh hồn sẽ tách
ra khỏi thể xác và đầu thai vào một sinh vật khác, nhập vào một thể xác khác

(có thể là con ngời, loài vật thậm chí cỏ cây). Cứ thế mãi do kết quả, quả báo
hành động của những kiếp trớc gây ra. Đó cũng là cách lý giải căn nguyên
nỗi khổ ở đời con ngời.
Sau khi lý giải đợc nỗi khổ ở cuộc đời con ngời là do thập nhị nhân
duyên làm cho con ngời rơi vào bể trầm luân. Đạo Phật đã chủ chơng tìm
con đờng diệt khổ. Con đờng giải thoát đó không những đòi hỏi ta nhận thức
đợc nó mà cao hơn ta phải hành động, phải thấm nhuần tứ diệu đế.
* Tứ diệu đế: Là bốn sự thật chắc chắn, bốn chân lý lớn, đòi hỏi chúng
sinh phải thấu hiểu và thực hiện nó. Tứ diệu đế gồm:
1. Khổ đế: Con ngời và vạn vật sinh ra là khổ, ốm đau là khổ, già yếu là
khổ, chết là khổ, ghét nhau mà phải sống gần nhau là khổ, yêu nhau mà phải
chia lìa nhau là khổ, mất là khổ mà đợc cũng là khổ. .... Những nỗi khổ ấy từ
đâu? chúng ta tiếp tục tìm hiểu Tập đế.
2. Tập đế: Tập là tập hợp, tụ tập lại mà thành. Vậy do những gì tụ tập lại
mà tạo ra nỗi khổ cho chúng sinh?
Đó là do con ngời có lòng tham, dâm (giận dữ ), si (si mê, cuồng mê,
mê muội) và dục vọng; lòng tham và dục vọng của con ngời làm cho con ngời không nắm đợc nhân duyên- vốn nh là một định luật chi phối toàn vũ trụ.
Chúng sinh khômg biết rằng mọi cái là ảo ảnh, sắc sắc, không không, cái tôi

12


tởng là có nhng thực là không. Vì không hiểu đợc ra nỗi khổ triền miên, từ
đời này qua đời khác.
3. Diệt đế: Là phải thấu hiểu đợc Thập nhị nhân duyên để tìm ra đợc
căn nguyên của sự khổ - để dứt bỏ từ ngọn cho đến gốc rễ của cái khổ. Thực
chất là thoát khỏi nghiệp chớng, luân hồi, sinh tử.
4. Đạo đế: Là con ngời ta phải theo đế diệt khổ, phải đào sâu suy nghĩ
trong thế giới nội tâm (thực nghiệm tâm linh). Tuy luyện tâm trí, đặc biệt là
thực hành Yoga để đạt tới cõi siêu phàm mà cao nhất là đạt tới cõi phận là

đạt tới trình độ giác ngộ bát nhã. Tới chừng đó sẽ thấy đợc chân nh và thanh
thản tuyệt đối, hết ham muốn, hết tham vọng tầm thờng, tức là đạt tới cói
Niết bàn không sinh, không diệt.
Thực hiện Đạo đế là một quá trình lâu dài, kiên trì, giữ nguyên giới luật
tập trung thin định cao độ; Phật giáo đã trình bày 8 con đờng hay 8 nguyên
tắc (Bát chính Đạo, gồm:
- Chính kiến: Phải nhận thức đúng, phân biệt đợc phải - trái, ỳng - sai;
không để cho những cái trỏi, cỏi sai che lấp sự sáng suốt.
- Chính t duy: Suy nghĩ l phải, phải chính, phải đúng đắn.
- Chính nghiệp: Hành động phải chân chính, phải đúng đắn.
- Chính ngữ: Nói phải đúng, không gian dối, không vu oan cho ngời
khác.
- Chính mệnh: Sống trung thực, không tham lam, vụ lợi, gian tà, không
đợc bỏ điều nhân nghĩa.
- Chính tịnh tiến: Phải nỗ lực, siêng năng học tập, có ý thức vơn lên để
đạt tới chân lý.
- Chính niệm: Phải luôn luôn hớng về đạo lý chân chính, không nghĩ
đến những điều bạo ngợc gian ác.

13


- Chính định: Kiên định, tập trung t tởng vào con đờng chính, không bị
thoái chí, lay chuyển trớc mọi cán dỗ.
Muốn thực hiện đợc Bát chính đạo thì phải có phơng pháp để thực
hiện nhằm ngăn ngừa những điều gian ác gây thiệt hại cho mình và những
ngời làm điều thiện cho mi ngời. Nội dung của các phơng pháp đó là thực
hiện Ngũ giới (năm điều răn) và Lục độ (Sáu phép tu).
- Ngũ giới gồm:
+ Bất sát - Không sát sinh

+ Bất đạo -Không làm điều phi nghĩa.
+ Bất dâm - Không dâm dục.
+ Bất vọng ngữ - Không bịa đặt, không vu oan giáo hoạ cho kẻ khác,
không nói dối.
- Lục độ gồm:
+ Bố thí - Đem công sức, tài trí, của cải để giúp ngời một cách thành
thực chứ không để cầu lợi hoặc ban ơn.
+ Trí giới - Trung thành với điều răn, kiên trì tu luyện.
+ Nhẫn nhục - Phải biết kiên nhẫn, nhờng nhịn, chịu đựng để làm chủ
đợc mình.
+ Tịnh tiến - Cố gắng nỗ lực vơn lên.
+ Thiền định - T tởng phải tập trung vào điều ngay, chính không để cho
cái xấu cho lấp.
+ Bát nhã - Trí tuệ thấy rõ hết, hiểu thấu hết mọi chuyện trên thế gian.
* Tóm lại, Phật giáo cho rằng chỉ có bằng sự kiên định để thực hiện
Bát hành đạo, Ngũ giới, Lục độ thì chúng sinh mới có thể giải thoát
mình ra khỏi nỗi khổ. Phật giáo không chủ trơng giải phóng bằng cách mạng
xã hội. Mặc dù Phật giáo lên án rất gay gắt chế độ ngời bóc lột ngời, chống
14


lại chủ nghĩa Duy tâm ca Bàlamôn giáo. Đó là một trong những nhợc điểm
đồng thời cũng là u điểm nửa vời của Đạo phật. Đứng trớc bể khổ của chúng
sinh Phật giáo chủ trơng cải tạo tâm linh chứ không phải cải tạo thế giới hiện
thực. Nh vậy, Phật giáo nguyên thuỷ có t tởng vô thần, phủ nhận đấng sáng
tạo (vô ngã, vô tạo giả) và có t tởng biện chứng (vô thờng, lý thuyết Duyên
khởi). Tuy nhiên, Triết học Phật giáo cũng thể hiện tính Duy tâm chủ quan
khi coi thế giới hiện thực là ảo giả và do cái tâm vô minh của con ng ời tạo
ra.
1.3. Sự truyền bá Phật giáo trên thế giới:

Trớc khi Thích ca Mâu Ni tạ thế, các khu vực truyền bá Đạo Phật chủ
yếu ở miền Trung lu vực Sông Hằng, đặc biệt l xung quanh các khu vực
thành phố lớn. Sau khi ngài tạ thế, các t của ngài đã đem Đạo Phật mở
rộng đến hạ lu sông Hằng i về phía Đông, phía Nam đến bờ Sụng
Caođaveri, phía Tây đến bờ Biển rập, phía Bắc tới khu vực Thaiysiro. ở
thời kỳ thống trị của vua Asôca thuộc vơng triều Maurya, Đạo phật bắt đầu
phát triển tới các cùng biển của thứ Đại lục, Đông tới Mianma, Nam tới
Xrilanca, Tây tới Xyri, Aicập .... Nhanh chóng trở thành tôn giáo cú nh
hng rng ln trờn thế giới. Sau khi vơng triều Casan (kushan) hng vng;
Pht giỏo truyền tới Iran, các nơi ở trung tâm Châu á, rồi qua con đờng tơ
lụa truyền vào Trung Quốc.
Mt s nơi khác trờn th giỏo: trong nhng năm gần đây Pht giỏo bt
u cú mt ti một số nớc nh: Italya, Thuỵ sỹ, Thuỵ Điển, Tiệp .... Việc
nghiên cứu Đạo Phật cũng rất sôi nổi, đã xây dựng nên không ít cơ sở
nghiên cứu Phật giáo và trung tâm nghiên cứu Phật học. Ví dụ sở nghiên cứu
Trung Đông, Viễn Đông Italia, dới sự chủ trì của Đỗ Kỳ đã biên tập và xuất
bản T sách La mã với Đông Phơng (Đến năm 1977 đã xuất bản đợc 51
loại) trong đó bao gồm rất nhiều tác phẩm Phật giáo nhng ở trong các quốc
gia này số tín đồ không nhiều lắm chỉ chiếm số ít trong dân s.
15


1.4. Tình hình phát triển của Phật giáo
Trớc đây Phật giáo đợc coi là một trong ba tôn giáo lớn của thế giới,
nhng trong những năm gần đây do sự suy yếu của một số quốc gia, số tín đồ
Phật giáo đã gim xuống đứng sau Đạo Cơ Đốc, Đạo Ixlam và Đạo ấn Độ,
chiếm vị trí thứ t. Căn c s liu tớch phõn da trờn tng s dõn v iu tra
ca cỏc quc gia, vựng lónh th năm 2009, toàn thế giới c có khong 1,2
t n 1,6 t tín đồ Phật giáo. Con số này so với năm 1985 đã tăng lên nhiu
(năm 1985 có 295.570.780 ngời). Tín đồ Phật giáo phát triển so với tổng số

dân trên toàn thế giới là rất nhỏ bé. Trên thực tế hiện nay số lợng tín đồ Phật
giáo trên thế giới đã tăng lên rất nhiều, ớc chừng khoảng gn 1,6 t tớn .
Vit Nam hin nay cú 11 Tụn giỏo chớnh c Nh nc cụng nhn,
gm: Pht giỏo, Hi giỏo, Thiờn chỳa giỏo, Tin lnh, Hũa ho, Cao i, Tnh
c s pht hi, T õn hiu ngha, Pht ng Nam tụng minh s o,
Minh lý o tam tụng miu, B la mụn. Ngoi ra cũn cú nhúm t chc tụn
giỏo c cụng nhn nh: Bu sn k hng v mt h phỏi Tin lnh l Hi
thnh phỳc õm ng tun Vit Nam.
Theo tng iu tra dõn s nm 2009; s lng Pht t Vit Nam cú
6.802.318 ngi, chim 7,94% so vi tng s ngi theo o trong ton
Quc; cỏc tụn giỏo khỏc cú: Cụng giỏo 5.677.086 tớn ; Pht giỏo Hũa ho
1.433.252 tớn , Cao i 807.915 tớn ; Tin lnh 734.168 tớn ; Hi giỏo
75.268 tớn ; B La Mụn 56.427, cũn li l cỏc tụn giỏo khỏc. Tng s
ngi cú tụn giỏo l 15.651.467/85.846.997 ngi.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Phật giáo ở các nơi trên thế giới đã trải
qua những biến đổi khác nhau, đã xuất hiện một số đặc điểm mới.

16


II. C IM PHT GIO VIT NAM V ảnh hởng của
PHT GIO đến I SNG xã hội và con ngời Việt Nam:
2.1. c im Pht giỏo Vit Nam:
Trc ht ta xem xột Pht giỏo Vit Nam cú c im gỡ khỏc vi Pht
giỏo cỏc nc. Da trờn cỏc vn bn hin cú, ta thy Pht giỏo cú mt trờn
õt nc ta vo th k th II. Ngay t khi mi du nhp, Pht giỏo nc ta cú
nhiu nột m ớt thy cỏc nc, ú l ngay khi du nhp, Pht giỏo ó quyn
cht vi tớn ngng dõn giõn v to nờn mt cỏi m ta thng gi l Pht
giỏo dõn gian. Nhỡn chung, theo sut chu di lch s, Pht giỏo ó tri qua
nhng bc thng trm ca dõn tc, gn lin vi dõn tc v tn ti cho n

ngy nay. Nhỡn chung, Pht giỏo Vit Nam khụng cũn l Pht giỏo thun tỳy
nh chớnh ni sinh ra nú m nú l s kt hp gia Thin, Tnh, Mt, Nho,
Lóo v tớn ngng bn a. Vớ nh phỏi Thin tụng l nũng ct, tr ct, bi
vy cỏc yu t khỏc cng ch l cỏi tham gia to thnh Pht giỏo Vit Nam.
* Pht giỏo Vit Nam cú tớnh tng hp: Trc ht ta xem xột v Thin
tụng: Thin tụng l s kt hp gia i tha n vi Lóo Trang v vn
húa Trung Hoa! Thin tụng vi phng chõm: Bt lp vn t, giỏo ngoi
bit truyn, thc ch nhõn tõm, kin tớch thnh Pht phng chõm ny phự
hp vi ngi dõn Vit Nam, bi l di ỏch ụ h gn nghỡn nm ca
Phong kin phng Bc, ngi Vit khụng tip nhn ch Hỏn, mt mt l
khú, mt khỏc l ch ca k xõm lc nờn h khụng thớch lm, trong khi h
mun thoỏt kh thnh Pht ngay trong i sng hin ti y ry bt cụng,
au kh, ỏp bc búc lt. Vỡ khụng cn vn t nờn phi truyn chõn lý
bờn ngoi giỏo lý kinh im bng cỏch ch thng vo tõm lý con ngi m
kin tớch thnh Pht. Vic kin tớch thnh Pht ngay trong cuc i trn th
ny chng t s phỏt tin ca o Pht ngy cng theo khuynh hng rỳt
ngn con ng n Nit Bn. Phng chõn ny cú l l s gp g gia
17


Thiền và tính cách dân Việt. Trong các tông phái Phật giáo, Thiền tông có
quan niệm về nhập thế rõ ràng hơn cả “Một ngày không làm, một ngày
không ăn”. Sang Việt Nam Thiền tông còn nhập thế tích cực hơn nữa; nó
được thể ở việc đánh giặc cứu nước cũng là Thiền, chống lũ lụt cũng là
Phật, chính vì vậy mà Thiền đáp ứng được nhu cầu đời sống tâm linh, đáp
ứng được nhiệm vụ dựng nước và giữ nước của người Việt. Do đó người
Việt chọn Thiền tông làm chính đạo.
Khi du nhập vào Việt Nam, Thiền tông được Việt Nam hóa mang một
màu sắc, đặc điểm mới đó là sự “Đồng nguyên tam giáo”, tuy nhiên nó khác
với Trung Quốc, đồng nguyên tam giáo ở Trung Quốc lấy Nho giáo làm nền

tảng; trong khi đó ở Việt Nam lại khác, đồng nguyên tam giáo cụ thể lần thứ
nhất vào thế kỷ thứ II, III và lần thứ hai vào thời Lý - Trần, nó lại dựa trên
cơ sở Phật giáo mà chủ yếu là Thền tông. Hiện nay ta thấy Phật giáo Việt
Nan có Đại thừa lẫn Tiểu thừa, cả những tông phái của Phật giáo sau này lẫn
Phật giáo nguyên thủy. Hiện nay Phật giáo Việt Nam hội tụ được tất cả 9
dòng giáo phái, điều này có lẽ không có một nước nào như vậy và đây cũng
là một đặc điểm của Phật giáo Việt Nam.
* Phật giáo Việt Nam mang tính sáng tạo: Về phương diên tu hành, các
vị tổ của Thiền tông đã đưa ra những biện pháp, cách thức để dẫn dắt môn
đồ trên con đương tu đạo nhằm hướng đến giải thoát bằng cách vấn đáp,
niệm tụng, các công án như nói ngược lại, nói vượt qua, lý luận vòng tròn,
im lặng, hét, đánh.....Một số phương pháp đó cũng được các Thiền sự Việt
Nam sử dụng, thậm chí còn sớm hơn cả ở Trung Quốc. Nhưng Trần Thái
Tông còn đưa ra một phương pháp mới: phương pháp này cho rằng con
người tạo nên nghiệp bởi lục căn, phỏng theo Đức Thích Ca vào dãy Tuyết
Sơn tu khổ hạnh 6 năm, Trần Thái Tông chia một ngày đêm thành 6 buổi,
mỗi buổi sám hối một canh, cứ lặp đi lặp lại dần dần con người biến tâm
mình thành hư. Rút ra từ phương pháp này mà nhà vua viết cuốn “Khóa hư
18


lục”, ghi chép quá trình luyện tập nhằm biến tâm mình thành hư không. Đây
vừa là đóng góp đồng thời cũng là điểm độc đáo của Phật giáo Việt Nam.
* Một trong những đặc điểm của Phật giáo việt Nam là Phật giáo dân
gian. Dòng phật giáo dân gian này có mầm mống từ khi phật giáo mới du
nhập vào Việt Nam- Phật giáo dân gian là sự dung hợp giữa phật giáo Ấn
Độ với tín ngưỡng cổ của người Việt; điều này được thể hiện ở hình tượng
Tứ pháp (Pháp vân, Pháp vũ, Pháp lôi. Pháp điện) ở trung tâm Phật giáo cổ
xưa nhất Việt Nam – Luy lâu (nay thuộc Thuận Thành - Bắc Ninh. Tại đây
ngày Phật đản được tổ chức lễ hội gắn liền với các lễ nghi Nông nghiệp như

cầu mưa, cầu mùa màng tươi tốt. Hệ tứ pháp từ trung tâm Luy Lâu đã truyền
đi các địa phương khác như: Tứ pháp ở Lạc Hồng - Mỹ Văn - Hải Dương;
tứ pháp ở Thường Tín (Hà Nội). Phật giáo dân gian gần gũi với những
người nông dân nghèo khổ, ít hiểu biết về những giáo lý như “Thập nhị
nhân duyên”, “Tứ diệu đế”, “Bát chánh đạo”....; hiện nay có nhiều dòng
Phật giáo đã suy tàn hay phai mờ, trong khi đó Phật giáo dân gian với các lễ
hội vẫn tồn tại với tư cách là một hiện tượng văn hoá cho đến ngày nay. Có
thể nói Phật giáo dân gian Việt Nam mang đậm màu sắc của người Việt cổ.
một trong những đặc điểm độc đáo của Phật giáo Việt Nam là “Gia đình
Phật tử” (tiền thân là “Đoàn thanh niên đức dục - được thành lập năm 1938
tại chùa Từ Đàm (huế)”. Từ những tổ chức đầu tiên lấy tiên Gia đình hướng
thiện, Gia đình gia thiện - ở Huế; Gia đình Minh Tâm, Gia đình Liên hoa - ở
Hà nội, tổ chức Gia đình Phật tử đã lan tràn khắp mọi miền đất nước và
ngày nay mở rộng ra nhiều nước trên thế giới. Hiện nay Gia đình Phật tử
phát triển mạnh mẽ ở Miền Trung, đặc biệt là Huế, Quảng Nam, Đà Nẵng.
* Phật giáo Việt Nam có tính linh hoạt: Về mặt lý luận, đóng góp của
Phật giáo Việt Nam là việc tiếp thu có chọn lọc và biến các học thuyết tôn
giáo cho phù hợp và có lợi ích thiết thực cho dân tộc, đó là một sáng tạo lớn.
Nhưng dân tộc Việt Nam ngoài việc tiếp thu còn sáng tạo trên cơ sở Phật
19


giáo Ấn - Trung, đã tạo nên một hệ thống lý luận mới; chẳng hạn như triết
lý “Nhậm vận”, “Vô bô uý” của Vạn Hạnh, “Lục thì sám hối khoá nghi tự”
của Trần Thái Tông.... Nhưng điểm lý luận đáng chú ý nhất là con đường đi
đến giác ngộ bằng hành động hàng ngày. Cái đẹp cao cả, cái quý hiến không
phải ở đâu xa, không phải trong vương quốc mây mù trìu tượng, mà nó nằm
trong thế giới đời thường. Nói theo danh từ Triết học thì cái tuyệt đối nằm
trong cái tương đối. Cái tương đối chứa đựng cái tuyết đối. Chân Như, Niết
Bàn, Bồ Đề, Chân Tâm, Phật, không phải ở đâu xa mà ở ngay trước mắt,

trong tâm mỗi con người. Niết Bàn nằm tong thế giới trần tục, vậy con
người trần tục muốn đạt đến Niết Bàn, tốt nhất nên bằng con đường trần tục
như: giã Gạo, bổ Củi, gánh Nước.... Đây là một tư tưởng quan trọng cho
việc tu hành. Trong cuộc sống, ai hướng thiện, hướng tới cái tâm bao la bát
ngát như Biển cả thì người đó tiến gần đến giải thoát. Tư tưởng này được
Quốc sư Trúc Lâm làm rõ khi khuyên vị Phật tử Trần Thái Tông: “dĩ thiên
hạ chi dục vi dục, dĩ thiên hạ chi tâm di tâm” (Lấy muốn của thiên hạ làm
muốn của mình, lấy tâm của thiên hạ làm tâm của mình). Theo tư tưởng
này, con người hướng thiện bằng việc phục vụ nhân sinh, nhân quần xã hội
và trong quá trình đó tâm con người mở rộng, khai mở dần dần bao chứa
tâm nhiều người từ hẹp đến rộng, từ nông đến sâu, từ gia đình, xóm, làng,
xã, huyện, tỉnh đến quốc gia và thiện hạ. Càng trải rộng bao nhiêu thì càng
đi đến giác ngộ bấy nhiêu. Như vậy, Phật giáo Việt Nam tìm ra con đường
mới đi đến giác ngộ, hoàn toàn khác với Phật giáo Ấn - Trung. Đó là con
đường đi đến giác ngộ bằng cách “Cứu dân độ thế” và trên con đường này
tâm con người ngày càng khai mở bao trùm thiên hạ, muôn loài, vạn pháp,
tức đạt đến tâm Phật. Đi đến giác ngộ bằng cách như vậy, Phật giáo Việt
Nam đã mang trong mình tinh thần yêu nước. Không thể nói yêu nước
thương dân mà lại không lấy nguyện vọng, mong muốn của dân làm nguyện
vọng, mong muốn của mình. Ngược lại, đã là người yêu nước chân chính thì
20


phải lấy nguyện vọng, mong muốn của dân làm nguyện vọng, mong muốn
của mình. “Lấy” ở đây không phải lấy cái chung chung trìu tương ở trong
tâm mà bằng hành động thiết thực, cụ thể. Chính quan điểm này đã dẫn Phật
giáo Việt Nam đến chủ nghĩa yêu nước chân chính.
* Từ bi của Phật giáo Việt Nam nói chung là hoàn toàn khác so với
Phật giáo Ấn - Trung. Đây cũng là đặc điểm đặc sắc của Phật giáo Việt
Nam, một cống hiến mới cho kho tàng Phật giáo thế giới; đây vừa là từ tinh

thần sáng tạo của con người việt Nam vừa do quy định bởi hoàn cảnh địa lý,
kinh tế chính trị của đất nước. Trong thư gửi Giáo hội Phật giáo Việt Nam,
Bác Hồ viết: “Nay đồng bào ta đại đoàn kết, hy sinh của cải xương màu:
kháng chiến đến cùng, để đánh tan thực dân phản động, để cứu quốc dân ra
khỏi khổ nạn, để giữ vững thống nhất và độc lập Tổ quốc. Thế là chúng ta
đã làm theo lòng đại từ bi của Đức Phật Thích Ca, kháng chiến để đưa
giống nòi ra khỏi cái khổ ải nô lệ”(1). Hưởng ứng lời kêu gọi của Người,
nhiều nhà tu đã giúp đỡ hoặc đi theo kháng chiến và họ đã anh dũng hy sinh
vì độc lập dân tộc, để đưa giống nòi ra khỏi cái khổ ải nô lệ. Trong lịch sử
Phật giáo Việt Nam, nhiều người giác ngộ, họ không chỉ là những Phật tử
cao tăng, mà còn là những đại trí thức, cố vấn cho nhà vua, lãnh đạo chỉ huy
quân đội, bởi vậy nhiều khi họ dẫn dắt người Phật tử đi theo những tư tưởng
của họ, những tư tưởng đó vừa phù hợp với Đạo và phù hợp với Đời nên đã
góp phần tạo nên những chiến công hiển hách, đi theo con đường giác ngộ
cũng là đi theo khuynh hướng “Dĩ chúng tâm vị kỷ tâm” như đã trình bày ở
phần trước và đó cũng là đi dần đến giác ngộ. Như vậy, những bậc đại giác
đã mật truyền cho các đệ tử nói riêng và Phật tử nói chung rằng, đánh giặc,
giết giặc cứu nước cũng là con đường đi đến giác ngộ. Đây cũng là một đặc
điểm, một nét độc đáo của Phật giáo Việt Nam.

1

. (1) Hồ Chí Minh: toàn tập, NXB CTQG, Hà Nội 1995, tập 5, tr. 197

21


2.2. Phật giáo với i sng xã hội và con ngời Việt Nam xa kia:
Đạo phật c truyền vào nớc ta vo thế kỷ II và đã trở thành một trong
những hệ t tởng, tôn giáo có sức sống lâu dài, tồn tại cho đến mãi ngày nay,

đã ảnh hởng sâu sắc đến đời sống xã hội và tinh thần của con ngời Việt Nam
Vào lúc này, mặc dù đang phải chống lại các thế lực Phong kin phơng
bắc, nhân dân Việt Nam vẫn đủ thông minh, tỉnh táo để tiếp nhận Đạo Phật
đến với dân tộc ta bằng tinh thần hoà bình, hữu nghị
Sự tiếp nhận đạo Phật trong hoàn cảnh nh vậy, không thể bỏ qua vấn đề
nội dung của đạo Phật. Điều đó có nghĩa là bản thân đạo Phật phải có những
nội dung nào đó mà nhân dân Việt Nam có thể chấp nhận đợc; ở đây chính
là nội dung của hai nền tín ngỡng có nét giống nhau, có lẽ do những nét
giống nhau mà có sự hợp nhất tạo nên các chùa Pháp vân, Pháp vũ, Pháp lôi,
Pháp điện. Tức là tín ngỡng Phật và tín ngỡng Thần của Việt Nam khi đó có
sự hợp nhất. Hình ảnh Phật đã trở thành hình ảnh Bụt
Một điều thể hiện đặc biệt phổ quát mà nhiều ngời đã nhắc đến là Phật
giáo vốn dễ hoà hợp với tín ngỡng dân gian ở những nơi nó đợc truyền bá
đến . ở Min Bắc Việt Nam đặc điểm đó càng nổi bật. Nếu đặc điểm tôn
giáo Việt Nam là sự thờ cúng tổ tiên (linh hồn ngời thân đã khuất) thì Phật
hay Quan âm cũng đợc coi nh l T tiên (trong tâm thức dân gian việt cổ,
Phật hay Quan âm không phải là ngời ngoại quốc ngời khác tộc). Nếu đặc
điểm của tôn giáo Việt Nam là sự thờ thần (thế lực siêu nhiên) mà con ngời
cũng cầu để nhờ sự phù hộ độ trì thì Phật hay Quan âm cũng trở thành
Thần, Phật điện cũng trở thành Thần điện, õy tâm linh ấn độ nhờng bớc
cho tín ngng Việt Nam (hơn đâu hết, tôn giáo Việt Nam thiờn về tính tình
cảm hơn là giáo lý, gii luật, tôn giáo).
Bụt ca ngời Việt không phải thuần tuý là việc phiên âm thuật ngữ
Bonddha. Hình ảnh Bụt của ngời Việt là sự sáng tạo từ hai nguyên liệu tín
ngỡng Phật và tín ngỡng thần linh của ngời Việt c. Bụt có những nét giống
22


và khác Phật. Bụt giống phật ở lòng từ bi, bác ái, vị tha đối với những ngời bị
áp bức bóc lột; nhng Bụt khác Phật ở chỗ bất kỳ ngời nghèo nào gặp tai nạn,

gặp áp bức bất công mà cần tới Bụt, Bụt lập tức xuất hiện ngay để cứu vớt;
các vị thần trong nhà nhng lại có cái oai lực, uy quyền hơn cả trời. Đối với
những ngời bị áp bức trời ở quá xa, kêu trời khó thấu. Có lẽ ngày xa cha có
một ngời dân bình thờng nào nghĩ đến khái niệm bình đẳng. Nhng đối với
Phật họ cũng có thể có mặc cảm sâu sa rằng Phật có cái nhìn ngang bằng với
tất cả chúng sinh. Với Phật, không ai tiểu nhân, không ai quân tử, cũng
không có quân, không có dân, chia cắt nhau bằng các hàng rào cấp bậc giai
cấp. Với Phật, còn cả một niềm từ bi bác ái, không có hằn học, oán ghét,
phục thù. Đó cũng là điều phù hợp với bản chất dân tộc Việt Nam. Tiếp đó
Phật kêu gọi sự tự giác, không ch để giải thoỏt nỗi khổ của mình mà còn
phải cứu nhân độ thế. Chc chắn trong t duy của ngời dân bình thờng, cha ai
băn khoăn tìm hiểu thế nào là Bản ngã là Chân theo nghĩa sâu xa của
Phật học. Ngời ta chỉ thấy ở đây một chủ nghĩa nhân đạo lớn lao và có phần
tích cực. Có thực hiện đợc hay không là vấn đề khác cũn ở đây thì rõ ràng đó
là những điểm chính yếu làm cho Phật giáo gắn bó đợc với nhõn dõn.
Tâm lý dân gian Việt Nam ta thiên về sự cân bằng, sự bù đắp; nỗi khổ
hôm nay phải đợc đền bù bằng sự sung sớng ngày mai. Cô tấm trong cổ tích
trải qua bao gian nan cuối cùng vẫn đợc hởng hạnh phúc. Phật giá cũng hứa
hẹn với con ngời sự đền bù không do quyền phép nào, chỗ dựa nào của Nho
giáo, cũng không do cán cân phúc tội của đạo Gia, mà do chính nỗ lực của
bản thân mình. Ngời dân bình thờng Vit Nam ở phần bản chất cũng có
quan niệm nhận thức nh vậy. Tuy nhiên, không phải Phật giáo đi đợc vào
nhõn dõn, có một sự gắn bó nhất định, mà không cú sự thẩm định, chọn lựa
no; sự lựa chọn ối với phật giáo bao hàm cả ý nghĩa phê phán. Ngày nay,
chúng ta có thể chỉ ra đợc nhiều khuyết điểm của Nho, Phật, Lão ở góc độ
chính trị hay t tởng triết học. Ngi Vit xa không có điều kiện hay trình độ
để làm việc ấy, song khi họ chấp nhận, chối bỏ hoặc biến hóa những giáo lý
23



để thích nghi với trình độ t duy, với các sinh hoạt tớn ngng của họ tức là
họ đã th hin quan im đồng ý hay không đồng ý tip nhn. Có thể nói
rằng văn hoá Việt Nam hoá Phật hơn là Phật hoá. Phật giáo đến Việt Nam
dù là Phật giáo nguyên thuỷ hay cú tớnh đa dạng sau này bởi Tiểu thừa hay
i thừa thì vẫn nhất phải nhập với tín ngỡng bản địa. Để biến Man nơng
thành Phật mẫu, ỷ lan thành quan âm mà không cần phải tạo ra xung quanh
nhân vật ấy những gì huyền bí thần kỳ cho lắm.
Phật giáo còn là một sự kiện văn hoá, Phật giáo từ ấn độ đợc truyền vào
Việt Nam vốn không phải một sự kiện đơn độc mà kéo theo nó là các ảnh hởng của tổng thể văn hoá ấn độ đối với Việt Nam cổ. Mặc dù chúng ta còn ít
nghiên cứu và hiểu biết về văn hoá việt- ấn nhng chắc chắn ảnh hởng của
văn hoá ấn độ lên vn húa Việt Nam diễn ra trên nhiều lĩnh vực: Nông
nghiệp, y dợc, âm nhạc, vũ đạo, ngôn ngữ. Điều quan trọng là văn hoá Việt
Nam cổ tiếp thu một liều lợng quan trọng văn hoá n độ qua con đờng Phật
giáo, vào suốt thời bắc thuộc và chống bắc thuộc, khi ảnh hởng văn minh
Trung Hoa tràn lan đất nớc Việt Nam và mang khuynh hớng đồng hoà rõ rệt.
Về khách quan, ảnh hởng của văn hoá n độ là một đối trọng của văn
hoá Trung hoa trên đất Việt. Nó có tác dụng dung hoà ảnh hởng quá mạnh
mẽ của văn hoá Trung hoa; Nó góp sức cùng nền văn hoá Việt Nam cổ ngăn
chặn sự đồng hoá của văn húa Trung hoa, nó hội nhập và làm giàu làm nên
cái khác của văn hoá Việt với văn hoá Trung hoa.
Cũng vậy, Đạo Phật từ ấn Độ đợc truyền bá vào đất Việt ở buổi đầu
thời kỳ Bắc thuộc về khách quan mà nói là một đối tợng của Nho giáo. Đạo
nho cũng bắt đầu phát huy ảnh hởng ở đất Việt từ buổi đầu công nguyên với
việc mở trờng nhằm giáo lễ nghĩa Trung Hoa cho ngời Việt. Ta không thể
phủ nhận các mặt tích cực của Nho giáo, góp phần làm tăng tri thức ngời
dân, nhấn mạnh vào Nhân, L, Nghĩa. Nhng dù sao đi nữa Nho giáo vẫn là
một công cụ của tầng lớp thống trị Trung Hoa nhằm nô dịch ngời nông dân
24



Trung Quốc và các dân tộc vùng ngoại vi đ chế Trung Hoa lấn áp. Dù có đề
cao Nhân, Trí, Dũng là những giá trị con ngời muôn thủa thì Nho giáo vẫn
đặt cợc cơ bản vào Lễ, mà Lễ là gì nếu không phải thực chất là trật tự Tiên
học lễ hậu học văn, nghĩa là trớc hết và trên hết phải học tập để tôn trọng và
duy trì trật tự đẳng cấp, trật tự trên dới: Vua - tôi, cha - con, chồng - vợ (tam
cơng).
Song ngời Việt cổ vốn có một nội lực tự sinh quật cờng, bất khuất, cú
lối sống riêng tự do thuần phác, một lối sống không quá ngăn cách giữa vua
và dân, một lối sống khá bình đẳng giữa cha và con, bình đẳng giữa vợ và
chồng. Bởi vậy ngời Việt cổ khó lòng chấp nhận nổi trật tự Cơng thờng
của Nho gia. Hn nữa, đạo Phật chủ trơng bình đẳng, Phật là đức Phật đã
thành, chúng sinh là Đức Phật sẽ thành, chúng sinh đều có Phật tính, đều
bình đẳng trớc Phật. Nếu nh Nho giáo Việt Nam dựng ra cái Đình ở làng quê
với một tiểu triều đình trọng nam khinh nữ thì dân quê Việt Nam dựng và
bảo vệ Chùa, Chùa làng của dân gian và trớc hết là giới đàn bà đợc loại khỏi
sinh hoạt ở Đình có thể sinh hoạt thậm chí trở thành lực lợng quan trọng
trong sinh hoạt Chùa làng.
Mặt khác, điều kiện xã hội con ngời Vit Nam xa kia cũng mở rộng cho
Phật giáo dễ dàng du nhập hn so với Trung Quốc. Phật giáo khi du nhập
vo Trung Quốc đã bị phản ứng mãnh liệt của tâm lý dân tộc, truyền thống
văn hoá, đặc biệt là ý thức hệ Nho giáo. Trong khi đó Phật giáo vào Việt
Nam tơng đối thuận lợi, phát triển nhanh chóng, hầu nh không bị phản i
gay gt lm- trừ một số ít Nho sỹ thời Trần, Hồ. Xã hội Việt Nam khi tiếp
nhận Phật giáo từ ấn Độ hay Trung Quốc sang cha có sự phân chia gay gắt
và đối kháng kịch liệt, mối quan hệ của Tông tộc gia đình cha chịu ảnh hởng
của lý thuyết Tam cơng nặng nề. Điều này khiến Phật giáo khi thâm nhập
không bị phản đối. Song lý do chính có lẽ là do Phật giỏo khi vào đây cha
gây một đảo lộn, một biến cách, không phủ nhận những giá trị tinh thần,
phong tục tập quán của từng ngời, từng gia đình, của lng, xã. Vì vậy, ngời
25



×