Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

Phát triển kế hoạch kinh doanh nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cổ phần sách và thiết bị giáo dục trí tuệ trong môi trường hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (882.16 KB, 101 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
GVHD: ThS. Lê Huỳnh Mai
MỤC LỤC

Sinh viên: Lê Hải Long
Lớp: Kế hoạch 54A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
GVHD: ThS. Lê Huỳnh Mai
DANH MỤC VIẾT TẮT
• CTPT: Công ty cổ phần
• DT: Doanh thu
• LNKT: Lợi nhuận kế toán
• LNTT: Lợi nhuận trước thuế
• LNST: Lợi nhuận sau thế
• TBGD: Thiết bị giáo dục
• TDT: Tổng doanh thu
• THCS: Trung học cơ sở
• THPT: Trung học phổ thông
• VNĐ: Việt Nam đồng

Sinh viên: Lê Hải Long
Lớp: Kế hoạch 54A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
GVHD: ThS. Lê Huỳnh Mai
DANH MỤC BẢNG BIỂU

Sinh viên: Lê Hải Long


Lớp: Kế hoạch 54A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

4

GVHD: ThS. Lê Huỳnh Mai
LỜI MỞ ĐẦU
1/ Lý do lựa chọn đề tài
Trong quá trình phát triển kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế đang trở thành một
xu thế tất yếu mang tầm vóc toàn cầu. Hội nhập góp phần giúp các quốc gia tăng
cường sự gắn kế dựa trên quá trình chia sẻ về lợi ích, mục tiêu, giá trị, nguồn lực, và
tuân thủ các luật chơi chung trong khuôn khổ các định chế hoặc tác chiến quốc tế.
Quá trình này không chỉ diễn ra ở khu vực kinh tế, mà còn ở nhiều khu vực khác
như chính trị, văn hóa- xã hội... Hội nhập mang đến cho những doanh nghiệp cơ hội
làm ăn mới khi thị trường được mở rộng hơn, nhưng cũng đem đến nhiều những
thách thức, đặc biệt là vấn đề cạnh tranh của các đối thủ. Họ không chỉ gói gọn là
những doanh nghiệp trong nước nữa, thêm vào đó, là các doanh nghiệp nước ngoài
với tiềm lực kinh tế lớn mạnh. Vì vậy, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp là một đòi hỏi bức thiết cần làm để chủ động hội nhập với thế giới.
Công ty cổ phần Sách và Thiết bị giáo dục Trí tuệ là một doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực xuất bản và kinh doanh xuất bản phẩm. Trong xu thế hội nhập
hiện nay, doanh nghiệp đang phải đối mặt với rất nhiều những thách thức trong cạnh
tranh. Là một ngành có sự tăng trưởng nhanh trong thập niên trước, ngành xuất bản
và kinh doanh sách đang phải chịu đựng sự cạnh tranh khốc liệt và đào thải mạnh mẽ
trên thị trường. Bắt đầu từ những mầm non ban đầu được hình thành ở chiến khu Việt
Bắc, tới cuối năm 2011, cả nước đã có 64 nhà xuất bản, khoảng 1.500 cơ sở in cùng
khoảng 13.700 nhà sách, hiệu sách, trung tâm sách…; 119 công ty phát hành sách cấp
tỉnh thuộc lĩnh vực Thông tin- Truyền thông, Văn hóa, Giáo dục– Đào tạo; 75 công ty

trách nhiệm hữu hạn kinh doanh xuất bản phẩm. Số lượng lớn các nhà sách hình
thành góp phần đem lại một thị trường cung cấp sách và xuất bản phẩm sôi động,
đem lại sự thoải mái, kịp thời trong hoạt động tiếp thu với tri thức, giải trí với sách
thường ngày đối với người tiêu dùng.
Kể từ sau năm 2011 cho tới hiện nay, đây là khoảng thời gian mà ngành in ấn
và xuất bản cũng phải chứng kiến giai đoạn giảm tốc nhanh chóng. Tính đến ngày
25/12/2014, tổng doanh thu toàn ngành ước đạt trên 2000 tỷ đồng 1, tới từ nhiều
thành phần, trong đó bao gồm: doanh thu của 63 nhà xuất bản trên phạm vị cả nước;
khoảng 1.500 cơ sở in công nghiệp; cùng hơn 13.700 cơ sở phát hành xuất bản
phẩm, trong đó có 117 công ty, đơn vị phát hành sách tỉnh, thành phố, 80 công ty
1

/>
Sinh viên: Lê Hải Long
Lớp: Kế hoạch 54A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

5

GVHD: ThS. Lê Huỳnh Mai
thuộc thành phần kinh tế khác. Đặc biệt trong đó, số lượng các doanh nghiệp kinh
doanh sách và xuất bản phẩm đã biến động đáng kể, với 13.500 trung tâm, siêu thị
sách, nhà sách, hộ kinh doanh, các điểm bán sách trên toàn quốc, giảm mạnh so với
trước năm 2011. Những doanh nghiệp yếu kém và chậm thay đổi đã buộc phải tái
cấu trúc, hoặc đã bị loại bỏ khỏi cuộc chơi khốc liệt của thị trường này.
Cùng với sự phát triển vượt bậc của mạng Internet mà quá trình toàn cầu hóa lần
thứ ba đem lại, số lượng người dân được tiếp xúc với internet đã gia tăng vượt trội, và
được công nhận là sự bùng nổ mạnh Internet tại nước ta vào năm 2012. Kể từ đây,

ngoài cách đọc sách giấy truyền thống, người dân còn có thể đọc các loại sách điện tử,
xem nội dung xuất bản phẩm được chia sẻ trên internet một cách thuận tiện và dễ dàng.
Sự phát triển này đã tạo ra những bất lợi lớn cho văn hóa đọc truyền thống của người
Việt Nam, tác động mạnh mẽ tới toàn bộ ngành xuất bản và kinh doanh xuất bản phẩm
trong nước.
Cuối cùng, hội nhập kinh tế quốc tế còn giúp bạn đọc được tiếp cận nhiều hơn
với nền tri thức và văn học nước ngoài. Cùng những quan điểm và văn hóa nước
ngoài được du nhập vào nước ta theo con đường hội nhập mà văn học trong nước
chịu sự cạnh tranh mạnh mẽ. Tiếp tục lựa chọn kinh doanh xuất bản phẩm nội địa
hay mở rộng và phát triển mảng xuất bản phẩm có nội dung từ nước ngoài trở thành
bài toán cần cân nhắc của mỗi nhà sách, đặc biệt đối với những nhà sách có mục
tiêu củng cố và duy trì văn hóa đọc bản địa.
Qua những thách thức mà các doanh nghiệp trong ngành xuất bản và kinh
doanh xuất bản phẩm dễ gặp phải khi đất nước tiến vào hội nhập sâu rộng, thi
nâng cao năng lực cạnh tranh đang trở thanh một trong những yếu tố sống còn mà
công ty cổ phẩn Sách và Thiết bị giáo dục Trí Tuệ cần đạt được. Chỉ có cải thiện
được năng lực của mình, nhà sách mới có khả năng tiếp tục kinh doanh bài bản,
phù hợp với thực tiễn đời sống, thích nghi và phát triển theo những biến động của
thị trường hội nhập.
Nhận thấy rằng cần có những phương pháp phù hợp để giúp cho doanh nghiệp
cổ phần Sách và Thiết bị Trí Tuệ sẵn sàng và chủ động, tạo ra năng lực cạnh tranh
tốt hơn, qua đó, các phương pháp ấy sẽ góp phần đối phó được với các áp lực cạnh
tranh trong ngành Xuất bản và hòa nhập với những xu hướng biến đổi mới của thị
trường. Vì vậy tôi xin được đề xuất tiến hành đề tài "Phát triển kế hoạch kinh
doanh nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Doanh nghiệp Cổ phần Sách và
Thiết bị Giáo dục Trí Tuệ trong môi trường hội nhập" làm chủ đề của chuyên đề
thực tập tốt nghiệp đại học của mình.
2/ Mục tiêu đề tài
Sinh viên: Lê Hải Long
Lớp: Kế hoạch 54A



Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

6

GVHD: ThS. Lê Huỳnh Mai
Thông qua việc tiến hành nghiên cứu, đánh giá và phân tích các quan điểm về
kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp cùng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp,
tác giả tập trung đi sâu vào 2 khía cạnh chính là nội dung kế hoạch kinh doanh và
các thành tố cấu tạo nên năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, từ đó hướng tới
nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp. Vì vậy, chuyên đề thực tập sẽ tập
trung vào các mục tiêu chính như sau:
- Làm rõ các khái niệm về kế hoạch kinh doanh và các yếu tố hình thành nên
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Phân tích và làm rõ các ảnh hưởng lí thuyết
của kế hoạch kinh doanh tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
- Trên cơ sở lí thuyết trên, có thể làm rõ những ưu và nhược điểm thực tế tồn
tại trong các kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp, cũng như xác định được tổng
quát về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp này.
- Dựa vào những khoảng trống từ các bản kế hoạch kết hợp với đánh giá tình
hình kinh doanh của doanh nghiệp để đưa ra những đề xuất và giải pháp phát triển
kế hoạch kinh doanh phù hợp, giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh trên
thị trường trong hiện tại và tương lai.
3/ Nội dung
3.1/ Đối tượng nghiên cứu
- Kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp
- Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
3.2/ Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về nội dung
Chuyên đề thực tập nhắm tới kế hoạch kinh doanh hàng năm của nhà sách Trí

Tuệ giai đoạn 2011-2015 và tập trung phân tích năng lực cạnh tranh ở 2 khía cạnh
chính: Năng lực tài chính và năng lực Marketing của doanh nghiệp.
Phạm vi về không gian
Nghiên cứu hoạt động kinh doanh, kế hoạch kinh doanh trong lĩnh vực chính
là hoạt động bán lẻ của hệ thống nhà sách Trí Tuệ và các đối thủ cạnh tranh tại thị
trường Hà Nội.
Phạm vi thời gian
Phân tích thực trạng hoạt động kinh doanh và nội dung kế hoạch kinh doanh
của Nhà sách Trí Tuệ giai đoạn 2010-2015. Đề xuất các giải pháp thực hiện giai
đoạn 2015-2020
4/ Phương pháp thực hiện
Sinh viên: Lê Hải Long
Lớp: Kế hoạch 54A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

7

GVHD: ThS. Lê Huỳnh Mai
4.1/ Công cụ
Để thực hiện đề tài này, tôi dự kiến sẽ sử dụng phương pháp chính bao gồm:
Thống kê mô tả và Bình phương nhỏ nhất OLS đối với các bộ số liệu thu thập được;
Đồng thời là phương pháp nghiên cứu tại bàn đối với lượng lí thuyết dùng làm cơ
sở cho chuyên đề.
4.2/ Lí thuyết
Phần lí thuyết được tham khảo tại giáo trình liên quan, cùng các tài liệu và
nghiên cứu đi trước về chủ đề liên quan.
4.3/ Phần dữ liệu và thông tin thực tế
Dữ liệu thứ cấp: Trích xuất từ các báo cáo tài chính của doanh nghiệp (20102015) cùng các nguồn liên quan nếu cần.

5/ Kết cấu đề tài
Đề tài "Phát triển kế hoạch kinh doanh nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh của Doanh nghiệp Cổ phần Sách và Thiết bị Giáo dục Trí Tuệ trong môi
trường hội nhập" được chia làm 3 chương chính:
• CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ KẾ HOẠCH KINH DOANH VÀ
NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP TRONG ĐIỀU KIỆN
HỘI NHẬP
• CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG KẾ HOẠCH KINH DOANH
TRONG NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CÔNG TY CỔ PHẦN SÁCH
VÀ THIẾT BỊ GIÁO DỤC TRÍ TUỆ
• CHƯƠNG III: ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NHẰM CẢI THIỆN KẾ HOẠCH
KINH DOANH HƯỚNG TỚI NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CHO
CÔNG TY CỔ PHẦN SÁCH VÀ THIẾT BỊ GIÁO DỤC TRÍ TUỆ

Sinh viên: Lê Hải Long
Lớp: Kế hoạch 54A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

8

GVHD: ThS. Lê Huỳnh Mai
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ KẾ HOẠCH KINH DOANH VÀ
NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH
TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1/ Nội hàm của kế hoạch kinh doanh tại doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường
1.1.1/ Kinh doanh và doanh nghiệp kinh doanh
Khái niệm của hoạt động kinh doanh

Hoạt động kinh doanh vốn đã có từ rất lâu đời trên thế giới và bắt đầu có mặt
tại Việt Nam sau khi nước ta thực hiện đổi mới nền kinh tế, xóa bỏ nền kinh tế bao
cấp lạc hậu và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Sau một khoảng
thời gian bị bỏ ngỏ, kinh tế tư nhân mới được nhìn nhận xứng đáng. Những công
nhận này thể hiện trong các bộ luật liên quan tới kinh doanh tư nhân, qua nhiều lần
sửa đổi và bổ sung thì luật Doanh nghiệp 2014 đã cơ bản hoàn thiện. Theo đó, luật
có quy định2: "Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các
công đoạn của quá trình, đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng
dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi".
Cũng theo cách định nghĩa từ nhiều nguồn khác nhau: Kinh doanh là phương
thức hoạt động kinh tế trong điều kiện tồn tại nền kinh tế hàng hoá, gồm tổng thể
những phương pháp, hình thức và phương tiện mà chủ thể kinh tế sử dụng để thực
hiện các hoạt động kinh tế của mình (bao gồm quá trình đầu tư, sản xuất , vận tải
,thương mại, dịch vụ…) trên cơ sở vận dụng quy luật giá trị cùng với các quy luật
khác, nhằm đạt mục tiêu vốn sinh lời cao nhất3.
Như vậy, hoạt động kinh doanh gồm có nội dung rộng lớn và bao gồm nhiều
mảng nhỏ: Đầu tư, sản xuất, chế biến, các hoạt động thương mại gắn liền với
quá trình sản xuất và chế biến ra sản phẩm hữu hình, hoặc là các hoạt động
thương mại thuần túy và các hoạt động cung cấp dịch vụ vô hình, hướng tới
mục tiêu tạo ra lợi nhuận.
Khái niệm của doanh nghiệp kinh doanh
Có rất nhiều định nghĩa về doanh nghiệp đã được thể hiện trong các văn bản
luật và trong đời sống thường ngày. Theo luật Doanh nghiệp 2014, doanh nghiệp là
2

Theo khoản 16, điều 4, luật Doanh nghiệp 2014: />%20lut/View_Detail.aspx?ItemID=30314
3

Sinh viên: Lê Hải Long
Lớp: Kế hoạch 54A



Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

9

GVHD: ThS. Lê Huỳnh Mai
tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng ký thành lập theo quy
định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh.
Tuy nhiên, có một số ý kiến xem xét về tổng thể vai trò của doanh nghiệp:
"Doanh nghiệp là một trong số các chủ thể kinh doanh chủ yếu của xã hội" và
"Doanh nghiệp là một đơn vị kinh doanh được thành lập để thực hiện các hoạt động
kinh doanh nhằm mục đích sinh lời"
Từ các quan điểm về kinh doanh và về doanh nghiệp, theo quan điểm cá nhân,
tôi xin đưa ra ý hiểu của mình về doanh nghiệp kinh doanh như sau: "Doanh nghiệp
kinh doanh là tổ chức theo luật định, là một trong các chủ thể của nền kinh tế, thực
hiện hoạt động kinh doanh nhằm mục đích sinh lời"
1.1.2/ Nội dung của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm có nhiều hình thức khác
nhau, điển hình như: Sản xuất hàng hóa tiêu dùng hữu hình; Cung cấp các dịch vụ
đem lại giá trị gia tăng cho những hàng hóa trung gian trước khi cung cấp tới khách
hàng cuối cùng; Chế biến hoặc là hoạt động đầu tư vào các loại hình tài sản nhất
định. Bên cạnh đó còn xuất hiện các hoạt động thương mại được gắn chặt với sản
phẩm là hàng hóa, dịch vụ...
Nhiệm vụ của hoạt động kinh doanh
Hoạt động kinh doanh có nhiệm vụ chính là tạo ra của cải vật chất cho xã hội,
và đem lại lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh cho các chủ thể tham gia.
Bản chất của hoạt động kinh doanh là tạo ra giá trị cho những loại dịch vụ và
sản phẩmcủa doanh nghiệp. Do đó, việc tạo ra giá trị là nhiệm vụ được ưu tiên hàng
đầu của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trong mọi doanh nghiệp kinh doanh.

1.1.3/ Kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp
1.1.3.1/ Khái niệm và phân loại kế hoạch kinh doanh
Trước khi phân tích khái niệm "kế hoạch kinh doanh", ta cần hiểu được các thành
phần trong đó. Theo quan điểm chung nhất, "Kế hoạch là sự thể hiện mục đích, kết quả
cũng như cách thức, giải pháp thực hiện cho một hoạt động tương lai"4.
Như vậy, "Bản chất của công tác kế hoạch là sự hướng tới tương lai, được
xem như là nhịp cầu nối hiện tại đến chỗ mà chúng ta muốn đế trong tương lai".
Đồng thời, kế hoạch cũng thể hiện nhiều tính chất hướng tới tương lai trong cả hai
4

Giáo trình Kế hoạch hóa phát triển- PGS.TS Ngô Thắng Lợi, Nhà xuất bản đại học Kinh tế Quốc dân

Sinh viên: Lê Hải Long
Lớp: Kế hoạch 54A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

10

GVHD: ThS. Lê Huỳnh Mai
nội dung: Thứ nhất, kế hoạch có khả năng dự đoán những gì sắp xảy ra, xem xét các
kết quả trong tương lai (tuy nhiên là có những sai số nhất định, tùy thuộc vào
phương pháp và công cụ được lựa chọn để lập kế hoạch); Thứ hai, kế hoạch sắp đặt
các hoạt động của tương lai, cùng các công việc cần làm và định rõ thứ tự của
chúng nhằm thu được kết quả đã được định trước.
Kế hoạch kinh doanh theo khái niệm được đề cập trong chuyên ngành quản trị
được hiểu như là: "...Một văn bản trình bày ý tưởng kinh doanh và cách thức thực
hiện hóa ý tưởng đó của người khời sự doanh nghiệp". "Thông qua bản kế hoạch
kinh doanh, ban trình bày chi tiết mô hình kinh doanh có khả năng khai thác tốt nhất

cơ hội kinh doanh trên thị trường cũng như triển vọng phát triển của doanh nghiệp
thể hiện qua các số liệu phản ánh kết quả và hiệu quả kinh doanh dự tính..." 5. Mặc
dù "kế hoạch kinh doanh" trong lĩnh vực quản trị thường được hiểu là một công cụ
được phát triển khi người khởi sự chuẩn bị hoạt động khởi sự một công việc kinh
doanh, nhưng kế hoạch kinh doanh ở đây vẫn được hiểu theo nghĩa thông thường là
một công cụ kế hoạch hóa.
Có thể thấy rằng, "kế hoạch kinh doanh" được sử dụng khá rộng rãi trong
nhiều chuyên ngành khác nhau liên quan tới kinh tế, nhưng đều có những điểm
chung nhất định, mang tính thống nhất và bổ sung cho nhau. Kết hợp khái niệm "kế
hoạch" cùng "kinh doanh" đã đề cập tới ở mục trước cùng những khái niệm liên
quan, theo quan điểm của cá nhân, tôi xin đề xuất khái niệm của "Kế hoạch kinh
doanh" đó là: Kế hoạch kinh doanh là sự thể hiện mục đích, kết quả cho một hay
một số công đoạn trong hoạt động kinh doanh, qua đó đề xuất các cách thức và giải
pháp thực hiện, nhằm đem lại các kết quả giống hoặc gần sát (tới một mức có thể)
với những dự kiến ở tương lai.
Phân loại kế hoạch kinh doanh
Hệ thống kế hoạch kinh doanh trong doanh nghiệp có thể phân chia thành
nhiều loại, tương ứng với mõi góc độ quan sát và nhận xét khác nhau. Tuy nhiên, có
hai cách phân loại kế hoạch kinh doanh thường được các doanh nghiệp sử dụng
nhất trong quá trình hoạt động của mình: Phân loại theo góc độ thời gian và phân
loại theo góc độ nội dung , tính chất hay cấp độ của kế hoạch.
Phân loại theo góc độ thời gian, kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp được
chia làm ba bộ phận cấu thành:
5

Giáo trình Khởi sự kinh doanh- PGS.TS Nguyễn Ngọc Huyền, Nhà xuất bản đại học Kinh tế Quốc dân

Sinh viên: Lê Hải Long
Lớp: Kế hoạch 54A



Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

11

GVHD: ThS. Lê Huỳnh Mai
Kế hoạch dài hạn: Là loại kế hoạch có khả năng bao trùm lên khoảng thời
gian tương đối dài 10 năm. Loại hình này thừng có nội dung chính về: Môi trường
liên quan được hạn chế bởi thị trường mà doanh nghiệp đã có mặt; Dự báo theo các
cơ sở ngoại suy từ quý khứ về nhu cầu- giá cả- hành vi cạnh tranh; Nhấn mạnh tới
các ràng buộc tài chính; Hay sử dụng các phương pháp định lượng để dự báo.
Kế hoạch trung hạn: là loại kế hoạch cụ thế hóa hơn những định hướng của kế
hoạch dài hạn ra các khoảng thời gian ngắn hơn, thường là 3 hoặc 5 năm.
Kế hoạch ngắn hạn: Là các kế hoạch được thiết kế hàng năm, các kế hoạch
liên quan tới tiến độ và những hoạt động có thời hạn ở mốc quý, tháng... Loại này
bao gồm các phương pháp cụ thể để sử dụng nguồn lực của các doanh nghiệp cần
thiết để đạt mục tiêu trong kế hoạch trung và dài hạn.
Phân loại theo góc độ nội dung và tính chất, có thể chia kế hoạch kinh doanh
ra hai cấp độ chính:
Kế hoạch chiến lược: Đem tới định hướng lớn, cho phép các doanh nghiệp
thay đổi, hoàn thiện và củng cố vị thế cạnh tranh của mình với những phương pháp
cơ bản để đạt được mục tiêu đó.
Kế hoạch chiến thuật: Kế hoạch này còn được gọi là kế hoạch tác nghiệp. Đây
là công cụ cho phép chuyển các định hướng chiến lược thành các chương trình áp
dụng trong khuôn khổ các hoạt động của doanh nghiệp, nhằm thực hiện được các
mục tiêu của kế hoạch chiến lược.
1.1.3.2/ Nội dung cơ bản của kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp
Từ các loại hình kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp kể trên, theo quan
điểm cá nhân của tôi, mỗi cách thức phân loại đều đem tới cho chủ thể sử dụng kế
hoạch những ưu điểm nhất định. Phân loại theo thời gian có thể giúp chủ thể kinh

doanh định hướng và theo dõi kế hoạch thuận lợi để đáp ứng các yêu cầu về thời
gian của bản kế hoạch. Còn đối với hình thức phân loại theo nội dung, đây là kiểu
phân loại phù hợp cho doanh nghiệp có cơ cấu tổ chức hướng tới đơn giản hóa, tập
trung mạnh vào quá trình sản xuất và tận dụng tốt các mối quan hệ giữa những
phòng ban chức năng trong bộ máy của mình. Điển hình như trong kế hoạch tác
nghiệp của một doanh nghiệp, các kế hoạch cụ thể ở những bộ phận riêng biệt trong
tổng thể hoạt động kinh doanh đều được đề cập tới: Kế hoạch sản xuất, kế hoạch
Marketing, kế hoạch tài chính, kế hoạch nhân sự. Chính vì vậy, hoạt động giữa các
bộ phận có thể trở nên tốt hơn, có tính tương tác và thích nghi cao hơn, phù hợp với
Sinh viên: Lê Hải Long
Lớp: Kế hoạch 54A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

12

GVHD: ThS. Lê Huỳnh Mai
điều kiện cơ cấu doanh nghiệp đơn giản hóa.
Những kế hoạch kinh doanh thường có nội dung theo sát với loại hình và đối
tượng mà nó hướng tới. Các kế hoạch theo thời gian thường được xây dựng để
hướng tới nhiều mục tiêu nằm trong khoảng thời gian nào đó ở tương lai. Tuy
nhiên, hệ thống kế hoạch này thường được áp dụng cho các cơ quan, tổ chức thuộc
khu vực nhà nước.
Trong hệ thống còn lại, kế hoạch kinh doanh theo nội dung gồm kế hoạch
chiến lược và kế hoạch tác nghiệp. Loại hình này hay được gặp trong các doanh
nghiệp tư nhân, gắn liền tới các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nội dung
cơ bản của chúng yêu cầu cần có hai phần chính: Mục tiêu cần đạt được và phương
thức tổ chức cùng cách thức thực hiện chúng trong tương lai. Các mục tiêu mà kế
hoạch kinh doanh hướng tới tập trung vào các phương diện chính: Đáp ứng các nhu

cầu của thị trường; Tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh và quản lý các nguồn lực
hiệu quả hơn; Bảo đảm thực hiện chiến lược và theo dõi được quá trình triển khai
chiến lược. Những kế hoạch chức năng ở cấp dưới dùng để nhắm tới các đối tượng
tác nghiệp của doanh nghiệp, điều chỉnh và định hướng cho doanh nghiệp từ những
phần nhỏ nhất. Đồng thời, các kế hoạch tác nghiệp này đảm bảo quá trình tương tác
và trao đổi thông tin giữa các phòng chức năng, đem lại sự kết hợp nhuần nhuyễn
và nhịp nhàng trong hoạt động tác nghiệp và hoạt động tổng thể của cả doanh
nghiệp
1.1.3.3/ Khái niệm của kế hoạch hóa trong doanh nghiệp
Kế hoạch hóa đã có lịch sử khá lâu đời và được nhận định là một công cụ
dùng cho hoạt động thiết lập và thực hiện các chiến lược. Mặc dù vậy, kế hoạch hóa
đã mất đi vị thế của nó sau khi loại hình kinh tế gắn liền với nó trong giai đoạn
trước khi đổi mới bị đào thải. Kế hoạch hóa có thể coi là một công cụ quản lý không
thể thiếu đối với kế hoạch, nhưng trong quá trình sử dụng, nếu quá cứng nhắc thì nó
lại trở thành nguyên nhân gây cản trở cho các đối tượng khác. Vì vậy, hiểu theo một
cách bao quát nhất, "kế hoạch hóa là một phương thức quản lý theo mục tiêu" 6.
Nếu nhìn theo mặt đặc điểm nhận diện, theo quan điểm cá nhân của người
viết, "Kế hoạch hóa" là một động từ phát triển từ cụm "kế hoạch". Do đó, kế hoạch
hóa sẽ mang những điểm đặc trưng nhất của kế hoạch trong suốt giai đoạn thực
hiện. Hay nói cách khác, kế hoạch hóa sẽ là một quá trình quản lý các hoạt động
6

Giáo trình Kế hoạch kinh doanh, Ths. Bùi Đức Tuân chủ biên.

Sinh viên: Lê Hải Long
Lớp: Kế hoạch 54A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp


13

GVHD: ThS. Lê Huỳnh Mai
trong doanh nghiệp, đưa các hoạt đó theo một trình tự, với những phương pháp xác
định để thực hiện. Cuối cùng, kế hoạch hóa sẽ hướng cho các hoạt động của doanh
nghiệp đi tới được những mục tiêu đã định.
Tiếp tục phân tích vào "kế hoạch hóa hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp", ta nhận thấy rằng kế hoạch hóa doanh nghiệp ở đây được xác định
trở thành một phương thức quản lý doanh nghiệp theo mục tiêu. Cụ thể hơn, sự
quản lý này bao gồm toàn bộ các hành vi can thiệp một cách có chủ đích của các
nhà lãnh đạo và quản lý, hướng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh...của doanh
nghiệp mình, từ đó đạt được những mục tiêu đã đề ra. Đến đây, kế hoạch hóa dường
như là một phương pháp cho phép xây dựng những bức tranh tương lai đáng mong
đợi mà doanh nghiệp muốn vươn tới được, kèm theo là quá trình tổ chức, triển khai
thực hiện mục tiêu đó.
1.1.3.4/ Vai trò của kế hoạch kinh doanh trong nền kinh tế thị trường
Đất nước càng tiến sâu trên con đường hội nhập, nền kinh tế thị trường càng
trở nên rõ rệt, các doanh nghiệp thường xuyên đối mặt và ứng phó với những quy
luật thị trường hiện hữu mạnh mẽ hơn. Lúc này, doanh nghiệp thực hiện sản xuất
hay kinh doanh trong nền kinh tế thị trường luôn luôn biến động. Các yếu tố liên
quan tới chi phí, sở thích của khách hàng, các yếu tố tài chính hay đối thủ cạnh
tranh luôn dễ bị thay đổi theo nhiều hướng khác nhau. Khi áp dụng quan điểm hoạt
dộng kinh doanh theo thị trường, doanh nghiệp cần có sự linh hoạt rất lớn trong hệ
thống quản lý và ra quyết định của mình. Các giá trị về tài chính sẽ được tập trung
ưu tiên theo đường lối này, nhưng những giá trị có tính vững bền và lâu dài mà một
doanh nghiệp cần xây dựng sẽ rất khó để thích ứng đối với những biến đổi quá
nhanh chóng trên thị trường đầy cạnh tranh. Những giá trị khác ngoài tài chính ấy
có thể kể tới như vị thế mà doanh nghiệp mong muốn xác lập trên thị thường, danh
tiếng, hay có thể là những giá trị quan trọng đối với khách hàng thân thiết và lâu
năm... Đây là những điểm rất khó có thể áp dụng được triết lý kinh doanh "Từ ngoài

vào trong".
Từ những khoảng trống còn thiếu trong con đường để đưa doanh nghiệp phát
triển toàn diện và bền vững, kế hoạch kinh doanh đã và đang được sử dụng như một
công cụ hữu hiệu để lấp đầy các khoảng trống mà thị trường tạo ra cho mỗi doanh
nghiệp. Kế hoạch được thực hiện theo nhiều khoảng thời gian và theo nhiều cấp độ,
có thể là kế hoạch có khoảng thời gian rất dài, nhưng cũng có những kế hoạch được
tính chỉ với đơn vị tuần, tháng, quý... Khi các doanh nghiệp đã vạch ra được những
Sinh viên: Lê Hải Long
Lớp: Kế hoạch 54A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

14

GVHD: ThS. Lê Huỳnh Mai
mong muốn của họ trong tương lai, cũng như xác định qua cách thức để đạt được
chúng, thì những biến động thị trường cả trong thời gian ngắn cũng như biến động
trong thời kì lâu dài đều có thể được doanh nghiệp nhận thức rõ ràng thông qua các
kế hoạch kinh doanh mà họ xây dựng. Nhờ vậy, doanh nghiệp vẫn có thể bám trụ và
thích nghi tốt với thị trường khi xuất hiện các biến đổi lớn nhỏ trong tương lai.
Có thể thấy rằng, kế hoạch kinh doanh là một mảnh ghép dành để lấp những lỗ
hổng mà doanh nghiệp còn thiếu khi hoạt động trong nền kinh tế thị trường ngày
nay. Bên cạnh đó, bản thân mỗi kế hoạch lại là sản phẩm của một loạt các hoạt động
được nhà quản lí kế hoạch hóa. Hay nói theo cách trực quan hơn, kế hoạch kinh
doanh là hiện thân của hoạt động được kế hoạch hóa, là sản phẩm cuối cùng của
hoạt động kế hoạch hóa. chính vì lí do ấy, các kế hoạch kinh doanh sẽ có mặt những
vai trò đặc trưng của công tác kế hoạch hóa, và đem những chúng đóng góp cho quá
trình hình thành thực hiện các chính sách, hoạt động của doanh nghiệp ở hiện tại và
tương lai. Có rất nhiều vai trò mà kế hoạch hóa cũng nhưng kế hoạch kinh doanh có

thể tạo ra, nhưng trong phạm vi chuyên đề, tôi xin hướng tới ba vai trò chính. Đây
là những vai trò lớn nhất, rõ ràng và thể hiện sâu sắc nhất ở nhiều loại kế hoạch
kinh doanh cùng kế hoạch hóa trong nền kinh tế thị trường ngày nay.
- Công tác kế hoạch hóa với việc ứng phó với những bất định và đổi thay của
thị trường. Do đó, kế hoạch kinh doanh cũng thể hiện nguyên vẹn vai trò này đối
với doanh nghiệp. Kinh tế thị trường là một loại hình kinh tế luôn luôn ẩn chứa
nhiềm biến động. Trong đó, các mối quan hệ và quy luật trong đó liên tục bổ sung
cho nhau, tương tác nhau cả xuôi chiều và nghịch chiều, đem tới ảnh hưởng cho các
chủ thể hoạt động kinh doanh trong môi trường đó. Kế hoạch hóa nhắm tới các mục
tiêu tương lai, nên khả năng chính xác sẽ bị phụ thuộc rất lớn vào mức độ ổn định
của thị trường. Để tránh mắc phải những sai lầm của kế hoạch hóa trong nền kinh tế
tập trung, kế hoạch hóa trong nền kinh tế thị trường cần phải giúp doanh nghiệp
thích ứng và đối phó tốt hơn với thị trường trong tương lai, ổn định hoạt động của
doanh nghiệp. Vì thế, kế hoạch hóa cũng cần được linh hoạt và thay đổi để phù hợp
với tình hình, góp phần điều chỉnh các hoạt động cần thiết để đảm bảo thực thi các
mục tiêu đề ra.
- Kế hoạch hóa cũng gắn với chức năng tạo ra khả năng tác nghiệp kinh tế
trong doanh nghiệp. Khi có kế hoạch hóa, doanh nghiệp đã xác định rằng nó đang
hướng tới mục tiêu gì trong tương lai, định hình được nó phải làm gì để đạt được
những mục tiêu ấy. Từ ấy, kế hoạch hóa góp phần loại bỏ đi sự manh mún và thiếu
Sinh viên: Lê Hải Long
Lớp: Kế hoạch 54A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

15

GVHD: ThS. Lê Huỳnh Mai
tổ chức trong công tác quản lý của doanh nghiệp. Kết quả cuối cùng là các kế hoạch

kinh doanh của từng bộ phận tác nghiệp được hình thành, thực hiện định hướng
mục tiêu và cách thức cho từng bộ phận hoạt động. Cùng với đó, các kế hoạch kinh
doanh được thực hiện trao đổi giữa các bộ phận tác nghiệp với bộ phận quản lí,
nhận phản hồi từ bộ phận quản lí để xác nhận kế hoạch. Sự di chuyển này giúp loại
bỏ được đặc tính kém linh hoạt cố hữu của kế hoạch thời kì cũ, giúp tăng độ chính
xác trong định hướng cho người quản lý, đem lại cái nhìn tổng thể hơn về các hoạt
động tương lai của doanh nghiệp kinh doanh.
- Tập trung sự chú ý của các hoạt động trong doanh nghiệp vào các mục tiêu
đã được xác định. Kế hoạch hóa là nhằm đạt được các mục tiêu của doanh nghiệp,
cho nên chính các hoạt động của công tác kế hoạch hóa là tập trung sự chú ý vào
những mục tiêu này. Trong đó, lập kế hoạch là quan trọng nhất và đứng đầu tiên
trong chuỗi các hoạt động của kế hoạch hóa, đóng góp và thiết lập các mục tiêu cần
thiết cho sự phấn đấu của tập thể
Từ những vai trò quan trọng trên, các mục tiêu tương lai của doanh nghiệp dường
như được định hình tốt hơn bởi các kế hoạch tương ứng. Cùng với kế hoạch, các phân
tích và định hướng từ thị trường có thể phù hợp hơn với các bộ phận trong doanh
nghiệp, giúp cân đối giữa những lựa chọn thay đổi trong môi trường kinh doanh.
1.1.3.5/ Các nhân tố tác động tới kế hoạch kinh doanh
Như những lập luận ở trên, kế hoạch kinh doanh là sản phẩm và thành quả của
công tác kế hoạch hóa và quá trình lập kế hoạch. Vậy nên những nhân tố tác động
tới các quá trình đó đều tác động trực tiếp tới các kế hoạch kinh doanh của doanh
nghiệp. Những nhân tố có thể tới từ các yếu tố khách quan bên ngoài, và cũng có
những loại là xuất phát từ bản thân con người của chính doanh nghiệp ấy.
Thứ nhất, quan điểm của các nhà lập kế hoạch. Kế hoạch là sản phẩm của con
người, vì vậy mà quan điểm của đội ngũ quản lý thiết lập sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới
nội dung của bản kế hoạch. Những quản lý cấp cao thì kế hoạch lập ra càng mang
tính chiến lược cao hơn, hướng tới những mục tiêu dài hơn cho doanh nghiệp. Các
nhà quản lý cấp trung và thấp sẽ đưa ra những kế hoạch có tính chi tiết cao hơn về
vấn đề họ quản lý.
Thứ hai, chu kì của doanh nghiệp có tác động mạnh mẽ tới các kế hoạch kinh

doanh của doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp đều trải qua bốn giai đoạn trong vòng
đời của nó, từ khi hình thành, tiến tới tăng trưởng, sau đó phát triển ổn định và cuối
Sinh viên: Lê Hải Long
Lớp: Kế hoạch 54A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

16

GVHD: ThS. Lê Huỳnh Mai
cùng là suy thoái. Ứng với mỗi giai đoạn, các kế hoạch kinh doanh sẽ có độ dài thời
gian và tính chi tiết khác nhau. Vì vậy, các nhà quản lý sẽ cần lập những bản kế
hoạch sao cho phù hợp với nhân tố này, đảm bảo hoạt động hiệu quả, tránh được
những thay đổi tiêu cực ảnh hưởng tới doanh nghiệp của mình.
Nhân tố thứ ba được đề cập là tính không chắc chắn của môi trường kinh
doanh. Những yếu tố xung quanh một doanh nghiệp luôn có sự biến động và đổi
mới không ngừng. Vì vậy, các kế hoạch được lập ra phải có khả năng giúp cho các
nhà quản lý chèo lái doanh nghiệp vượt qua được những tác động của môi trường
bên ngoài tới doanh nghiệp. Đối với môi trường kinh doanh nhiều biến động, các kế
hoạch cần ngắn hơn, chi tiết hơn và dễ dàng chỉnh lý và cập nhật kịp thời để đảm
bảo khả năng theo sát diễn biến thị trường. Những doanh nghiệp hoạt động trong
môi trường tương đối ổn định thì sẽ cần yêu cầu các kế hoạch kinh doanh có thời
gian dài, tầm nhìn tương lai xa hơn và không cần quá cụ thể. Qua đó, kế hoạch kinh
doanh sẽ hướng tới xử lí ba hình thức không chắc chắn: Tình trạng không chắc chắn
của thị trường; Hậu quả từ không chắc chắn; Sự phản ứng không chắc chắn.
Sự hạn chế của các nguồn lực cũng góp phần ảnh hưởng tới nội dung của kế
hoạch kinh doanh. Trên thực tế, rất ít doanh nghiệp có nguồn lực vô hạn trong vòng
đời của mình. Điều này dẫn đến nhiều rào cản trong các hoạt động ở những bộ phận
tác nghiệp, đồng thời tạo ra các giới hạn khó vượt qua cho những nhà quản lý khi

đưa ra quyết định. Khan hiếm nguồn lực còn dẫn đến sự khó khăn trong tối ưu của
các phương án được lựa chọn trong kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp.
Ngoài bốn nhân tố quan trọng tác động mạnh mẽ tới kế hoạch kinh doanh của
doanh nghiệp, còn có các nhân tố khác tác động ít hơn cũng được phát hiện như: Hệ
thống mục tiêu và chiến lược của doanh nghiệp; Hệ thống thông tin; Hệ thống kiểm
tra đảm bảo cho quá trình lập kế hoạch đạt kết quả và hiệu quả; Năng lực của người
lập kế hoạch. Các nhân tố này đều tác động tới quá trình lập kế hoạch và kế hoạch
kinh doanh cuối của mỗi doanh nghiệp. Nếu biết cách khai thác các ưu điểm trong
đó, các nhà quản lý có thể tạo ra những kế hoạch kinh doanh có chất lượng cao, có
khả năng giúp công ty của mình hoạt động hiệu quả hơn trong hiện tại và tương lai.
1.2/ Nội hàm về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.2.1/ Khái niệm năng lực cạnh tranh
Năng lực cạnh tranh được đề cập tới lần đầu tiên vào những năm 1990 tại Mỹ,
tạo ra cái nôi cho sự phát triển khái niệm sau này. Theo báo cáo năm 1985 của
Sinh viên: Lê Hải Long
Lớp: Kế hoạch 54A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

17

GVHD: ThS. Lê Huỳnh Mai
Aldington Report: " Doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh là doanh nghiệp có thể
sản xuất sản phẩm và dịch vụ với chất lượng vượt trội và giá cả thấp hơn các đối thủ
khác trong nước và quốc tế". Và cho tới năm 1988, Bộ thương mại và Công nghiệp
Anh đưa ra định nghĩa tiếp theo: "Đối với doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh là khả
năng sản xuất đúng sản phẩm, xác định đúng giá cả và đúng thời điểm. Điều đó có
nghĩa là họ đáp ứng nhu cầu khách hàng với hiệu suất và hiệu quả hơn các doanh
nghiệp khác".

Qua một thời gian dài kể từ khi khái niệm này xuất hiện, vẫn tồn tại nhiều
điểm chưa thống nhất trong những lập luận đưa ra về sau. Điển hình như với quan
điểm của tác giả Buckley (1988), năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cần được
gắn với việc thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp trong ba yếu tố: Các giá trị chính
mà doanh nghiệp có được, mục đích chủ đạo của doanh nghiệp, cùng với các mục
tiêu nhằm hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện chức năng của chính mình.
Từ những nền tảng đã có của "năng lực cạnh tranh", hiện nay, chúng ta có thể
điểm lại một số quan điểm đáng lưu về khái niệm trên. Phần lớn các ý kiến cho
rằng, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được hiểu là khả năng giữ vững và mở
rộng thị phàn, đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Theo đó, năng lực cạnh tranh đã
được mọi người hiểu như là khả năng tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ so với các đối thủ
và khả năng mang về mức chênh lệch lợi nhuận có tính tích cực. Theo M. Porter,
năng lực cạnh tranh phụ thuộc nhiều vào khả năng khai thác các năng lực độc đáo
của bản thân doanh nghiệp nhằm đem tới sản phẩm có giá thành thấp và sự dị biệt
đặc trừng của chính nó.
Cũng ở một số định nghĩa khác: "...năng lực cạnh tranh hướng nhằm nói về
cạnh tranh- khi nó thực hiện đối phó lại với những công ty, thương hiệu, sản phẩm
hay các dịch vụ trong thị trường hoặc ngành công nghiệp được lựa chọn...". Năng
lực cạnh tranh lúc này lại là khả năng chống chịu của doanh nghiệp trước sự tấn
công của những chủ thể bên ngoài. Có thể kể tới khái niệm được Từ điển thuật ngữ
chính sách Thương mại (1997) đưa ra, đó là khả năng của doanh nghiệp khi "không
bị các doanh nghiệp khác đánh bại về năng lực kinh tế".
Ở một phương diện khác, năng lực cạnh tranh lại được các học giả gắn liền
với năng suất lao động. Cùng chung hướng suy nghĩ ấy, tác giả M. Porter (1990)
cũng từng cho rằng: Năng lực lao động là thước đo duy nhất về năng lực cạnh tranh.
Mặc dù có quan niệm theo hướng này đã gắn năng lực cạnh tranh tương tác thuận
Sinh viên: Lê Hải Long
Lớp: Kế hoạch 54A



Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

18

GVHD: ThS. Lê Huỳnh Mai
chiều với năng suất lao động, nhưng lại chưa gắn chúng với việc thực hiện và nhiệm
vụ mà doanh nghiệp cần phải thực hiện.
Cũng theo tác giả Tôn Thất Nguyễn Thiêm với tác phẩm "Thị trường, chiến
lược, cơ cấu"[trang 22] đã nêu lên tầm ảnh hưởng quan trọng khi gia tăng giá trị
ngoại sinh và nội sinh của doanh nghiệp. Nó chính là năng lực cạnh tranh mà doanh
nghiệp đang hướng tới, tạo ra cơ sở cho các chiến lược kinh doanh để họ thực hiện.
Ngoài những quan điểm nổi bật về "năng lục cạnh tranh trên", còn nhiều luồng
ý kiến khác chiều nhau liên quan tới định nghĩa này. Nhưng dù là các khái niệm của
những tác giả nước ngoài, hay cho tới các khái niệm được thảo luận và đề cập từ
những nghiên cứu trong nước, thì năng lực cạnh tranh cũng có những điểm chung
và cần để tâm tới một số những điều kiện cụ thể sau:
Đầu tiên là khái niệm cần phải phù hợp với hoàn cảnh. Có thể thấy, "năng lực
cạnh tranh" xuất hiện đầu tiên từ nước Mỹ vào rất sớm. Là một quốc gia điển hình
cho nền kinh tế thị trường, cùng với lịch sử phát triển rộng lớn của cạnh tranh tư
nhân, có thể nói rằng tại nước Mỹ là nơi mà "năng lực cạnh tranh" có trình độ phát
triển và hoàn thiện ở mức rất cao. Vì vậy, khi áp dụng khái niệm này ở những nước
có nền kinh tế khác, đặc biệt là nước ta, khi nền kinh tế hàng hóa chưa đầy đủ và
thiếu nhiều đặc trưng của thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Bên cạnh đó, sau một
khoảng thời gian dài, các quan điểm về cạnh tranh đã có nhiều thay đổi hơn thời kí
trước. Cạnh tranh triệt hạ nhau được thay thế bằng sự cạnh tranh hợp tác, dựa vào
nhau cùng phát triển. Doanh nghiệp thực hiện cạnh tranh cả về không gian, tiếp cận
nhau về thời gian, thay phiên nhau đi tìm và chiếm lĩnh các mảng nhỏ của thị phần,
cùng việc lấp đầy các mảng còn thiếu. Những thay đổi quan trọng ấy đã dẫn tới yêu
cầu thay đổi quan niệm năng lực cạnh tranh sao cho phù hợp với thời kì mới.
Thứ hai là năng lực cạnh tranh không chỉ đơn thuần là khả năng tranh đua và

giành thị phần hay tập trung vào yếu tố sản xuất, mà con tăng khả năng sáng tạo và
mở rộng thị trường cho sản phẩm.
Cuối cùng, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cần tùy thuộc vào phương
thức cạnh tranh phù hợp tại quốc gia sở tại, không tập trung tuyệt đối vào lợi thế so
sánh mà còn dựa vào quy chế và lợi thế cạnh tranh.
Qua những quan điểm trong và ngoài nước, cũng như từ những yêu cầu cần có
để xây dựng một khái niệm sao cho phù hợp với thực tế hơn, theo tôi, khái niệm
năng lực cạnh tranh có thể được biểu diễn như sau:
Sinh viên: Lê Hải Long
Lớp: Kế hoạch 54A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

19

GVHD: ThS. Lê Huỳnh Mai
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là toàn bộ những khả năng và tiềm lực
mà doanh nghiệp có, được sử dụng để duy trì vị trí của nó trên thị trường, nâng cao
lợi thế cạnh tranh trong nhiều mặt như: Sản xuất và tiêu thụ sản phẩm; Mở rộng hệ
thống phân phối cùng mạng lưới tiêu dùng; Sử dụng hiệu quả nguồn lực nội tại
nhằm đạt được các giá trị kinh tế và phi kinh tế dài lâu.
1.2.2/ Vai trò của năng lực cạnh tranh và nâng cao năng lực cạnh tranh
Năng lực cạnh tranh là khái niệm được sử dụng trong quá trình nghiên cứu về
cạnh tranh. Nó được xem xét ở nhiều cấp độ như: Năng lực cạnh tranh quốc gia,
ngành, doanh nghiệp, cụ thể nhất là năng lực cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ.
Hiểu cụ thể hơn, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện được khả năng và
lợi thế thực tế của doanh nghiệp khi so sánh với các đối thủ cạnh tranh khác trong
quá trình họ cung cấp sản phẩm và dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu của khách hàng.
Năng lực ấy cần phải xuất phát từ chính thực lực của doanh nghiệp, nên không chỉ

xem xét riêng lẻ từng tiêu chí, mà thay vào đó cần đánh giá tập hợp những yếu tố
nội tại ấy với những doanh nghiệp cùng ngành, với các đối thủ cạnh tranh hoạt động
cùng lĩnh vực.
Thực tế trong nhiều thị trường cho thẩy rằng, dường như không một doanh
nghiệp nào đủ khả năng để giải đáp toàn bộ các mong muốn của khách hàng.
Những doanh nghiệp có khả năng về mặt này thì sẽ gặp nhiều hạn chế bời các
phương diện khác và ngược lại. Tuy nhiên, khi mà nền kinh tế thế giới ngày càng
hội nhập và giao lưu sâu rộng hơn, thế giới ngày càng trở nên "phẳng" cả về lĩnh
vực kinh tế, chính trị và văn hóa, thì các doanh nghiệp có thêm nhiều cơ hội để tận
dụng để bù đắp vào những mảng còn yếu, tăng cường đem những điểm mạnh,
những lĩnh vực mà họ có khả năng tốt để đưa ra thị trường. Vì vậy, khi con thuyền
doanh nghiệp căng buồm ra biển lớn, họ sẽ gặp phải sự cạnh tranh đến từ nhiều
phía, cùng những thay đổi và thách thức rình rập. Nâng cao năng lực cạnh tranh trở
thành một chiến lược không thể bỏ qua trong định hướng doanh nghiệp, đem khả
năng phát triển, góp phần hoàn thành các mục tiêu cho doanh nghiệp.
1.2.3/ Những chỉ tiêu phản ánh năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.2.3.1/ Thị phần
Đây là chỉ tiêu thường được các doanh nghiệp dùng để đánh giá mức độ chiếm lĩnh
thị trường của mình so với đối thủ cạnh tranh. Các chỉ tiêu thị phần thường dùng là:
- Thị phần của toàn bộ công ty so với thị trường: Được tính là tỷ lệ phần trăm
giữa doanh số của doanh nghiệp so với doanh số của toàn ngành
Sinh viên: Lê Hải Long
Lớp: Kế hoạch 54A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

20

GVHD: ThS. Lê Huỳnh Mai

- Thị phần tương đối: Dùng để so sánh về doanh số của doanh nghiệp và đối
thủ cạnh tranh mạnh nhất có mặt trên thị trường lúc bấy giờ. Qua việc so sánh này,
có thể theo dõi được vị thế của doanh nghiệp trên thị trường.
Sử dụng các chỉ tiêu thị phần giúp doanh nghiệp có thể nhìn nhận đúng đắn vị
trí và khả năng cạnh tranh của họ trên thị trường, từ đó đưa ra các chiến lược hợp lý
để tăng khả năng cạnh tranh, chiếm lấy thị phần của đối thủ.
1.2.3.2/ Giá cả, chất lượng sản phẩm và dịch vụ
Giá cả là biểu hiện bằng tiền của hàng hóa mà doanh nghiệp thực hiện trao đổi
trên thị trường. Người tiêu dùng muốn sử dụng hàng hóa hoặc dịch vụ sẽ phải chi
trả cho khoản tiền bằng với giá cả của chúng. Vì vậy, giá cả quyết định tính cạnh
tranh giữa các nhà sản xuất với nhau, quyết định tình hình biến động của thị trường.
Chỉ tiêu này được đánh giá thông qua hoạt động so sánh giá bán của các hàng
hóa cùng loại giữa những doanh nghiệp đối thủ với nhau. Nếu xuất hiện sự khác
biệt chất lượng thì giá cả được xem như quá trình so sánh lợi ích mà sản phẩm và
dịch vụ mang lại cho người tiêu dùng.
Chất lượng cũng là một chỉ tiêu để quyết định sự phát triển bền vững của
doanh nghiệp. Có thể xem xét thông qua chỉ tiêu thành phần, chỉ tiêu kĩ thuật, chỉ
tiêu về thẩm mỹ, chỉ tiêu tiện dụng...
1.2.3.3/ Thương hiệu
Uy tín mà thương hiệu mang lại là yếu tố tác động mạnh tới quyết định tiêu
dùng của khách hàng đối với sản phẩm dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp. Muốn
xây dựng được lòng tin nơi khách hàng, với nhà cung ứng và với các đối tác kinh
doanh, doanh nghiệp cần có vị thế vững chắc trên thị trường, thương hiệu được biết
đến rộng rãi, khả năng trả nợ đúng hạn và có thể chăm sóc khách hàng kịp
thời...Nhưng không chỉ đánh giá ở số lượng, một thương hiệu mạnh khi nó có khả
năng phát triển trong tương lai. Doanh nghiệp có khả năng phát triển càng cao, độ
tin cậy càng lớn, càng giữ được lòng tin của các bên đối với mình.
1.2.4/ Những yếu tố tác động tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Năng lực cạnh tranh xuất phát từ thực lực nội tại và tiếp cận trực tiếp với môi
trường kinh doanh nên dễ dàng bị các yếu tố liên quan của doanh nghiệp và ngoài

Sinh viên: Lê Hải Long
Lớp: Kế hoạch 54A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

21

GVHD: ThS. Lê Huỳnh Mai
doanh nghiệp ảnh hưởng tới. Có nhiều cách sắp xếp các yếu tố này, nhưng nhìn
chung, có thể chia thành hai nhóm chính: Các yếu tố bên trong doanh nghiệp và các
yếu tố bên ngoài doanh nghiệp.
1.2.3.1/ Yếu tố xuất phát từ trong doanh nghiệp
Trình độ quản lý của doanh nghiệp
Khả năng quản lý tốt được thể hiện ở phương thức tổ chức hoạt động quản
lý của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp trong bối cảnh toàn cầu hóa nên tích cực
phấn đấu áp dụng những phương thức quản lý hiện đại, đảm bảo tiêu chí của
những tiêu chuẩn thế giới. Nổi bật cho hệ thống tiêu chuẩn này là bộ tiêu chuẩn
ISO 9000 và các bổ sung liên quan như ISO 9001 và ISO 9002. Ngoài ra, mỗi
doanh nghiệp cũng cần tập trung cải tiến cơ cấu tổ chức doanh nghiệp, đi theo
hướng đơn giản hóa cơ cấu, đấy nhanh khả năng trao đổi thông tin giữa các cấp,
bộ phận trong doanh nghiệp.
Trình độ lao động trong doanh nghiệp
Người lao động là nguồn lực lớn nhất của mỗi doanh nghiệp kinh doanh. Đây
chính là bộ phận thực hiện sản xuất, tiếp xúc với công việc, khơi nguồn sáng tạo
cho doanh nghiệp. Trình độ của lao động biểu hiện ở khả năng quản lý của lãnh
đạo, trình độ chuyên môn ở mỗi nhân viên, đem tới cho doanh nghiệp sự khác biệt
nhất định về trí tuệ, sáng tạo. Từ đó sẽ tạo ra những sản phẩm và dịch vụ khác biệt
so với đối thủ cạnh tranh, đem lại năng lực cạnh tranh riêng cho họ.
Năng lực tài chính của doanh nghiệp

Bên cạnh nguồn nhân lực, khả năng tài chính cũng quyết định năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp. Yếu tố này sẽ quyết định xem công ty này có nhiều vốn
hay ít vốn, có khả năng đầu tư ở mức nào, dòng tiền luân chuyển có hiệu quả ra sao
hay có thể chiếm lĩnh thị trường hay không,... Đồng thời, do thực tế ít có doanh
nghiệp nào có nguồn vốn đủ dồi dào để thực hiện toàn bộ các hoạt động của mình,
nên vốn và trình độ gọi vốn đầu tư đều ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp.
Khả năng liên kết với các doanh nghiệp khác và hội nhập kinh tế quốc tế
Đất nước càng hội nhập thì các doanh nghiệp càng có nhiều điều kiện tiếp cận
với những thị trường bên ngoài lãnh thổ, đồng thời cũng sẵn sàng trước những đợt
xâm nhập của các doanh nghiệp nước ngoài. Bên cạnh đó, mỗi doanh nghiệp
Sinh viên: Lê Hải Long
Lớp: Kế hoạch 54A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

22

GVHD: ThS. Lê Huỳnh Mai
thường chỉ làm tốt được một hoặc một vài lĩnh vực mà khách hàng mong muốn, đây
chính là cơ hội cho những doanh nghiệp có khả năng tận dụng được các mối liên hệ,
tạo ra các liên kết tới những doanh nghiệp khác. Sự liên kết thuận lợi có thể đem lại
cho họ khả năng linh hoạt hơn trong quá trình hoạt động và phục vụ nhu cầu của
khách hàng, hình thành các mối quan hệ trong cung ứng hàng hóa và nguyên vật
liệu, hay có thể dễ dàng bổ sung những điểm mạnh cho nhau để cùng phát triển trên
thị trường. Không chỉ có các quan hệ bổ trợ, các doanh nghiệp cạnh tranh cũng có
thể tạo ra các liên kết để cùng phát triển ở thị trường trong nước và tiến ra thế giới.
Trình độ thiết bị, công nghệ
Khoa học công nghệ ngày càng trở nên quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp

kinh doanh. Công nghệ đem lại nhiều lợi thế cho doanh nghiệp sở hữu, tăng khả
năng sản xuất, giảm thiẻu thời gian chờ đợi và hao tổn nguyên vật liệu. Sự thay đổi
của yếu tố này cũng góp phần tạo năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp.
Trình độ và năng lực Marketing
Cùng với xu hướng đi theo nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp kinh
doanh trong môi trường ấy đều có nhận thức rõ ràng được đối tượng mà doanh
nghiệp đang phục vụ. Luôn xem xét nhu cầu của khách hàng, sản xuất dựa theo nhu
cầu. Kết hợp với dự báo và điều chỉnh hoạt động sản xuất theo cung cầu thị trường
có thể đem lại cho doanh nghiệp cơ hội tiết kiệm nguồn lực, tăng thêm doanh thu và
mở rộng sang các thị trường có nhu cầu.
Bên cạnh hoạt động sản xuất, đi kèm sự phát triển mạnh mẽ của thông tin và
truyền thông ngày nay, khâu chuẩn bị, chăm sóc và hậu mãi để cần được quan tâm,
giúp đem lại cho khách hàng trải nghiệm tuyệt vời, gia tăng mức độ trung thành của
họ đối với doanh nghiệp hơn.
1.2.3.1/ Các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp
Mỗi một doanh nghiệp từ khi hình thành đều được bao bọc bởi một loạt các
yếu tố bên ngoài, các yếu tố này có thể tới từ khu vực nhà nước, xuất phát từ ngay
trong ngành nghề mà doanh nghiệp kinh doanh... Căn cứ theo tính chất của mỗi yếu
tố mà được phân chia thành các bộ phận chính
1.2.3.1.1/ Môi trường vĩ mô
Môi trường vĩ mô có khả năng ảnh hưởng tới toàn bộ các doanh nghiệp kinh
doanh trong nền kinh tế đó, tuy nhiên tùy thuộc vào những thay đổi mà sẽ có những
tác động nhất định. Có các nhóm thuộc môi trường này, bao gồm:
Sinh viên: Lê Hải Long
Lớp: Kế hoạch 54A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

23


GVHD: ThS. Lê Huỳnh Mai
Nhân tố kinh tế
Đây là nhân tố có tầm ảnh hưởng to lớn, là nhân tố có tác động mạnh nhất
trong nhóm các nhân tố của môi trường vĩ mô này. Doanh nghiệp hoạt động kinh
doanh nào cũng đều chịu sự ràng buộc khi các yếu tố kinh tế của quốc gia sở tại có
những biến động. Khi nền kinh tế phát triển tốt, việc làm được đảm bảo, mức sống
của dân cư được nâng cao, kéo theo sự tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ nhiều hơn,
đem tới nguồn lợi doanh thu cho nhiều doanh nghiệp. Ngược lại, khi nền kinh tế
khủng hoảng, thất nghiệp tràn lan, dân chúng không được tạo điều kiện làm ăn sinh
sống, khiến tỉ lệ tiêu dùng giảm mạnh, tạo khó khăn lớn cho những doanh nghiệp
sản xuất.
Nhân tố chính trị và pháp luật
Chính trị và pháp luật là bộ khung được bộ máy quản lý của mỗi quốc gia thiết
lập nhằm đảm bảo các hoạt động được quy củ, ổn định. Bộ khung này có thể đem
lại cho doanh nghiệp khả năng cạnh tranh cao với nước ngoài khi nó linh hoạt, bám
sát và thực tế, tiến bộ. Nhưng đây cũng sẽ là nhân tố gây kìm hãm doanh nghiệp
phát triển, nếu như tốc độ đổi mới, khả năng phù hợp của nó đi chậm hơn tốc độ
tăng trưởng của nền kinh tế cùng sự lớn lên của doanh nghiệp kinh doanh nội địa.
Đồng thời, sự khác biệt giữa luật pháp và chính trị giữa các quốc gia cũng giúp cho
doanh nghiệp tìm kiếm được những cơ hội để vươn ra thị trường mới trên thế giới.
Nhân tố xã hội- nhân khẩu học
Khách hàng là đối tượng cung cấp sản phẩm và dịch vụ cuối cùng của nhiều
doanh nghiệp kinh doanh. Tại từng quốc gia và lãnh thỗ khác nhau, phong tục
tập quán tại đó lại có nhiều điểm khác biệt. Những thay đổi về tộc người, đặc
điểm dân cư theo vùng...có thể ảnh hưởng tới xu hướng tiêu dùng hàng hóa và
các dịch vụ được cung cấp ở đó. Bên cạnh đặc điểm nhân khẩu học, các yếu tố
văn hóa cũng có nguồn gốc lâu đời và thấm sau vào tâm trí mỗi người, gây ra tác
động mạnh tới những đặc tính của sản phẩm, dịch vụ như: Màu sắc, mùi vị, chủng
loại nguyên liệu...

Nhân tố tự nhiên
Điều kiện tự nhiên của từng vùng tạo ra những thuận lợi hoặc khó khăn cho
doanh nghiệp. Họ cạnh tranh vị trí địa lý thuận lợi ở trung tâm công nghiệp hay gần
nguồn nguyên liệu, những khu vực dễ dàng tiếp cận nhân lực trình độ cao, lành
nghề hay các trục đường giao thông quan trọng ... tất cả tạo nên nhiều cơ hội cho
Sinh viên: Lê Hải Long
Lớp: Kế hoạch 54A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

24

GVHD: ThS. Lê Huỳnh Mai
các doanh nghiệp phát triển, giảm được chi phí thiết kế.
Nhân tốc công nghệ
Khoa học công nghệ tác động mạnh mẽ đến khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp thông qua chất lượng và giá bán sản phẩm. Bất kỳ một doanh nghiệp nào
muốn thành công cũng cần phải sử dụng một hệ thống thu thập, xử lý, lưu trữ,
truyền phát thông tin về thị trường và đối thủ cạnh tranh. Những khoa học công
nghệ tiên tiến góp phần xử lý thông tin chính xác và hiệu quả hơn cho doanh
nghiệp. giúp doanh nghiệp có khả năng tương tác nhanh với những biến động của
thị trường. Vì vậy, có thể nói rằng khoa học công nghệ là tiền đề cho các doanh
nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh của mình.
1.2.3.1.2/ Môi trường ngành
Các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có thể hoạt động trong một hoặc
nhiều lĩnh vực kinh doanh nhất định. Khi tham gia vào bất cứ lĩnh vực nào, doanh
nghiệp đã trực tiếp được bao phủ bởi thị trường của ngành, và cùng bị tác động bởi
các yếu tố và đối tượng khác xuất hiện trong ngành ấy. Các đối tượng xuất hiện
trong ngành có thể là các doanh nghiệp cùng ngành, các doanh nghiệp của ngành

khác nhưng có liên quan tới một hay một phần hay công đoạn của thị trường mà
doanh nghiệp tham gia... Để khái quát hóa lại môi trường ngành, tác giả M.Porter,
trong các phân tích của mình, đã đề cập tới mô hình năm lực lượng cạnh tranh nổi
tiếng và còn có khả năng áp dụng cho tới ngày nay.
Sự cạnh tranh của các doanh nghiệp trong cùng ngành
Những doanh nghiệp trong cùng ngành có hoạt động sản xuất, kinh doanh
hàng hóa dịch vụ mang tính tương đồng đối với doanh nghiệp chủ thể. Sự cạnh
tranh bắt đầu xảy ra khi số lượng sản phẩm hay dịch vụ mà các doanh nghiệp cùng
cung cấp vượt quá nhu cầu của thị trường toàn ngành. Các doanh nghiệp sẽ bắt đầu
cạnh tranh nhau về số lượng người tiêu dùng nhằm tạo ra tăng trưởng về doanh thu
và thị phần của mình. Để thực hiện được công việc này, đòi hỏi mỗi doanh nghiệp
cần có sự thay đổi về nhiều phương diện, họ cần tăng chất lượng sản phẩm, thực
hiện chăm sóc khách hàng tốt hơn, hay có những hoạt động marketing hiệu quả và
thực tế hơn...Để rồi cuối cùng, sẽ chỉ có một số ít các doanh nghiệp dành được niềm
tin của khách hàng và chiếm lĩnh được các đoạn của phân khúc thị trường ấy. Càng
nhiều doanh nghiệp cùng ngày, khả năng dẫn tới cạnh tranh càng cao. Đây là nhân
tố trực tiếp tác động tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Khả năng gây áp lực từ khách hàng
Sinh viên: Lê Hải Long
Lớp: Kế hoạch 54A


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

25

GVHD: ThS. Lê Huỳnh Mai
Đa phần các doanh nghiệp tư nhân sinh ra để phục vụ nhu cầu của một nhóm
khách hàng trên thị trường. Khách hàng là những đối tượng thực hiện chi trả cuối
cùng cho sản phẩm và dịch vụ, đem lại nguồn doanh thu trực tiếp cho các doanh

nghiệp. Không có khách hàng, doanh nghiệp rất khó để duy trì hoạt động kinh
doanh của mình và có thể dẫn tới phá sản trong thời gian ngắn sau đó. Nhận thức
được tầm quan trọng ấy, nhiều doanh nghiệp đã đề cao vai trò của khách hàng, cho
rằng "khách hàng là thượng đế", bỏ rất nhiều công sức và tiền bạc để đem lại thiện
cảm cho những người tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ của mình. Chính vì là người
quyết định có chi tiền hay không, khách hàng nghiễm nhiên được nắm nhiều đặc
quyền, đặc biệt là quyền lực này càng thể hiện rõ hơn trong nền kinh tế thị trường.
Khách hàng được quyền mặc cả về giá bán và các dịch vụ đi kèm. Số lượng đơn
hàng càng lớn càng giúp khách hàng tạo ra sức ép lớn lên doanh nghiệp.
Sức ép của sản phẩm thay thế
Sức ép của sản phẩm thay thế làm hạn chế tiềm năng lợi nhuận của ngành do
mức giá cao nhất bị khống chế. Những sản phẩm thay thế tiềm ấn mặc vừa khó để
doanh nghiệp phát hiện, đều có thể tiếp cận vị thế của các doanh nghiệp trong
ngành dựa trên ưu thế tiềm lực đổi mới công nghệ.
Quyền lực thương lượng từ nhà cung ứng
Trong nền kinh tế hiện nay, các doanh nghiệp thường tập trung chuyên môn
hóa cho thế mạnh sản xuất và kinh doanh của mình. Họ xác định mình là một phần
trong chuỗi giá trị thay vì phải làm toàn bộ tất cả các công đoạn để có thể tạo ra sản
phẩm và dịch vụ cuối cùng. Vì vậy, các doanh nghiệp phải phụ thuộc nhiều và
những nhà cung ứng nguyên liệu sản xuất, đem lại khả năng thương lượng cho nhà
cung ứng. Nhà cung ứng có nhiều quyền lực hơn, tác động sẽ càng lớn hơn tới năng
lực cạnh trạnh của doanh nghiệp.
Nguy cơ từ những đối thủ tiềm năng
Đối thủ tiềm năng là những doanh nghiệp có khả năng và mong muốn tiếp cận
ngành hoặc ở những ngành sản xuất sản phẩm, dịch vụ thay thế. Là những doanh
nghiệp mới, họ có điều kiện về công nghệ, một số lại có nguồn tiềm lực tài chính
dồi dào để xâm nhập. Doanh nghiệp trong ngành sẽ cần theo dõi những chuyển biến
này và cần tạo ra các rào cản nhất định để bảo vệ vị thế bản thân mình và sẵn sàng
tiếp đón đối thủ cạnh tranh.
1.3/ Mối quan hệ giữa kế hoạch kinh doanh với nâng cao năng lực cạnh

Sinh viên: Lê Hải Long
Lớp: Kế hoạch 54A


×