Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần bê tông tân phương nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (373.84 KB, 63 trang )

MỤC LỤC


DANH MỤC BẢNG BIỂU


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TFP

: Năng suất các nhân tố tổng hợp
(Total Factor Productivity)

TNHH

: Trách nhiệm hữu hạn

TM

: Thương mại

BTCT

: Bê tông cốt thép

TCVN

: Tiêu chuẩn Việt Nam

TCXDVN

: Tiêu chuẩn xây dựng Việt Nam




LỜI GIỚI THIỆU
Hiện nay, sự hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu và rộng của nước ta
tạo ra những cơ hội cho các doanh nghiệp trong sân chơi kinh tế thị trường.
Yếu tố quan trọng trong sân chơi đó là cạnh tranh. Cạnh tranh là động lực
thúc đẩy sự phát triển bình đẳng của mọi thành phần kinh tế, tạo điều kiện để
giải phóng lực lượng sản xuất, nâng cao tiến bộ khoa học kỹ thuật, hiện đại
hoá nền sản xuất xã hội. cũng là điều kiện để xoá bỏ độc quyền bất hợp lý,
xoá bỏ bất bình đẳng trong kinh doanh, phát huy sự sáng tạo của các nhà quản
lý doanh nghiệp, gợi mở nhu cầu thông qua việc tạo ra nhiều sản phẩm mới,
nâng cao chất lượng đời sống xã hội, phát triển nền văn minh nhân loại. Cạnh
tranh là điều bất khả kháng đối với mỗi doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường. Cạnh tranh có thể được coi là cuộc chạy đua khốc liệt mà các doanh
nghiệp không thể tránh khỏi mà phải tìm mọi cách vươn lên để chiếm ưu thế
và chiến thắng. Cạnh tranh khốc liệt sẽ làm cho doanh nghiệp thể hiện được
khả năng “bản lĩnh” của mình trong quá trình kinh doanh. Nó sẽ làm cho
doanh nghiệp càng vững mạnh và phát triển hơn nếu nó chịu được áp lực cạnh
tranh trên thị trường. Và sự phát triển của công ty cổ phần bê tông Tân
Phương Nam – một doanh nghiệp trong lĩnh vực xây dựng cũng không nằm
ngoài quy luật đó. Cạnh tranh ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả hoạt động sản
xuất của doanh nghiệp, tới sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Chính vì
vậy, với nhận thức của một sinh viên chuyên ngành quản lí trong thời gian
thực tập ở công ty để đáp ứng chuyên đề thực tập cuối khóa cũng như mong
muốn áp dụng những kiến thức lí thuyết vào giải quyết những vấn đề thực tế,
em quyết định chọn tên đề tài: “Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực
cạnh tranh của công ty cổ phần bê tông Tân Phương Nam”.
Kết cấu chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lí luận về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp

Chương 2. Thực trạng về năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần bê
tông Tân Phương Nam giai đoạn 2012-2014
Chương 3. Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho công ty cổ phần


bê tông Tân Phương Nam

5


Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình thực tập, thu thập số liệu và
thông tin cũng như quá trình hoàn thiện chuyên đề này, nhưng không thể
tránh được những thiếu xót. Em kính mong nhận được sự góp ý sửa chữa của
thầy và các thầy cô trong Khoa Khoa học quản lí để chuyên đề của em được
hoàn thiện hơn nữa.
Em cũng xin bày tỏ lòng biết ơn trân thành tới sự hướng dẫn tận tình của
PGS.TS Phan Kim Chiến, cùng ban giám đốc công ty cổ phần bê tông Tân
Phương Nam và toàn thể các anh chị trong văn phòng công ty đã giúp đỡ em
rất nhiều trong quá trình thực tập của em.
Em xin chân thành cảm ơn.
Hà Nội, ngày 15 tháng 4 năm 2015
Sinh viên thực hiện
Đào Xuân Sơn


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ CẠNH TRANH VÀ NĂNG LỰC
CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Cơ sở lí luận về cạnh tranh
1.1.1 Khái niệm về cạnh tranh

Cạnh tranh là một thuật ngữ được dùng phổ biến hiện nay trên nhiều lĩnh
vực như kinh tế, chính trị, luật, thương mại, thể thao, quân sự. Tuy nhiên,
trong phạm vi nghiên cứu của chuyên đề này, em xin đề cập tới khái niệm
cạnh tranh là thuật ngữ sử dụng trong lĩnh vực kinh tế.
Cạnh tranh là một hiện tượng tất yếu trong nền kinh tế thị trường, ngày
nay có nhiều quan niệm khác nhau về cạnh tranh như sau:
- Theo K.Marx (1818-1883): “Cạnh tranh là sự ganh đua, đấu tranh gay
gắt giữa các nhà tư bản nhằm dành giật những điều kiện thuận lợi trong sản
xuất và tiêu dùng hàng hóa để thu được lợi nhuận siêu ngạch” khi ông nghiên
cứu về hàng hóa tư bản chủ nghĩa và cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản. Ông phát
hiện ra quy luật cơ bản của cạnh tranh tư bản chủ nghĩa là quy luật điều chỉnh tỉ
suất lợi nhuận bình quân từ đó hình thành nên hệ thống giá cả thị trường.
- Theo hai nhà kinh tế học P.A.Samuelson và W.D.Nordlhaus: “Cạnh
tranh là sự kình địch giữa các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau để giành
được thị trường hoặc khách hàng”.
- Theo Michael E.Porter - cha đẻ của thuyết chiến lược cạnh tranh:
“Cạnh tranh là giành lấy thị phần. Bản chất của cạnh tranh là tìm kiếm lợi
nhuận, là khoản lợi nhuận cao hơn mức lợi nhuận trung bình mà doanh nghiệp
đang có. Kết quả quá trình cạnh tranh là sự bình quân hóa lợi nhuận trong một
ngàn theo chiều hướng cải thiện sâu dẫn đến giá cả có thể giảm đi”.
- Theo ông Đoàn Hùng Nam: “Cạnh tranh là một quan hệ kinh tế, tất yếu
phát sinh trong cơ chế thị trường với các chủ thể kinh tế ganh đua gay gắt để
giành giật những điều kiện có lợi về sản xuất và tiêu thụ hàng hóa nhằm
chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng để thu được lợi nhuận cao nhất.
Mục đích cuối cùng trong cuộc cạnh tranh là tối đa hóa lợi ích đối với doanh
nghiệp và đối với người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi”.
Mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau về cạnh tranh, tổng kết lại, theo
7



quan điểm của em: “Cạnh tranh là sự ganh đua giữa các chủ thể trong nền
kinh tế (nhà sản xuất, người tiêu dùng) để đặt được những vị thế trong sản
xuất, tiêu thụ hay tiêu dùng hàng hóa nhất để thỏa mãn các mục tiêu (như thị
phần, lợi nhuận, hiệu quả, thương hiệu…) của các chủ thể”.
1.1.2 Phân loại cạnh tranh
Có nhiều tiêu thức để phân loại cạnh tranh như sau:
a. Căn cứ vào mức độ cạnh tranh
Cạnh tranh gồm hai loại: Cạnh tranh hoàn hảo và cạnh tranh không
hoàn hảo.
- Cạnh tranh hoàn hảo là cạnh tranh mà ở đó có nhiều người mua người
bán những sản phẩm tương tự nhau, giống nhau về chủng loại, mẫu mã. Giá
cả sản phẩm do quy luật cung cầu quyết định. Các doanh nghiệp được tự do
gia nhập, rút lui khỏi thị trường. Các doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo cần
giảm chi phí đầu vào, cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm phù
hợp với nhu cầu thị hiếu của thị trường.
- Cạnh tranh không hoàn hảo là cạnh tranh mà sức mạnh thị trường thuộc
về một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh lớn. Các doanh nghiệp trên thị
trường này kinh doanh những loại hàng hóa và dịch vụ khác nhau. Các hình
thức của cạnh tranh không hoàn hảo là độc quyền, độc quyền tập đoàn và
cạnh tranh mang tính độc quyền.
b. Căn cứ vào phạm vi ngành kinh tế
Cạnh tranh được chia làm hai loại: cạnh tranh nội bộ ngành và cạnh
tranh giữa các ngành.
- Cạnh tranh trong nội bộ ngành: là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
cùng sản xuất, kinh doanh một loại hàng hóa dịch vụ, mà ở đó các doanh
nghiệp yếu kém phải thu nhỏ hoạt động kinh doanh sản xuất, thậm chí bị phá
sản, các doanh nghiệp mạnh sẽ chiếm ưu thế. Mục tiêu của cạnh tranh là lợi
nhuận của các doanh nghiệp.
- Cạnh tranh giữa các ngành là cạnh tranh giữa chủ doanh nghiệp sản
xuất, kinh doanh hàng hóa trong các ngành khác nhau với mục tiêu lợi nhuận

và vị thế an toàn. Cạnh tranh giữa các ngành tạo ra sự di chuyển của vốn đầu
tư từ ngành có lợi nhuận thấp sang ngành có lợi nhuận cao.
c. Căn cứ vào chủ thể tham gia

8


Cạnh tranh gồm 3 loại:
- Cạnh tranh giữa người mua và người bán: trong thị trường, người bán
mong muốn bán được hàng với giá cao, người mua muốn mua được hàng với
giá cả thấp, chất lượng cao. Điều đó tạo ra sự cạnh tranh trong quá trình
thương lượng về giá cả hàng hóa trên thị trường để có thể đạt được mức giá
mà người bán chấp nhận bán, người mua chấp nhận mua.
- Cạnh tranh giữa người bán (những nhà sản xuất): Đây là loại hình cạnh
tranh chủ yếu trên thị trường, để dành được khách hàng, thị phần và vị thế
trên thị trường về cung cấp các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ.
- Cạnh tranh giữa người mua (những người tiêu dùng): Khi những người
mua cùng có nhu cầu về một loại hàng hóa, tạo ra sự khan hiếm của hàng hóa
đó trên thị trường, đẩy giá bán của hàng hóa lên cao. Những người mua cạnh
tranh với nhau làm thế nào để mua được hàng hóa đó với giá cả hợp lí, có lợi
nhất cho doanh nghiệp của mình.
1.1.3

Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường

Cạnh tranh là quy luật tất yếu của nền kinh tế thị trường. Sản xuất hàng
hóa ngày càng nhiều, số lượng nhà cung cấp trên thị trường càng đông đảo thì
cạnh tranh ngày càng gay gắt. Cạnh tranh làm cho một số doanh nghiệp bị
thua cuộc, bị gạt ra khỏi thị trường, cũng có thể làm cho các doanh nghiệp trở
nên phát triển hơn. Cạnh tranh làm cho doanh nghiệp năng động hơn, nhạy

bén hơn trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ nhằm tăng vị thế
của mình trên thị trường, tạo niềm tin với khách hàng mang lại uy tín cho
doanh nghiệp. Trong nền kinh tế hiện nay, cạnh tranh là một điều kiện và là
một yếu tố tạo động lực kích thích sản xuất kinh doanh, tăng năng xuất lao
động và tạo tiền đề cho sự phát triển của xã hội. Xét vai trò của cạnh tranh ở
ba khía cạnh sau: Vai trò của cạnh tranh đối với nền kinh tế quốc dân, đối với
doanh nghiệp và đối với người tiêu dùng.
a. Vai trò của cạnh tranh đối với nền kinh tế quốc dân
Cạnh tranh giúp phân bổ lại nguồn lực xã hội một cách có hiệu quả nhất.
Trong cùng môt ngành, các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau về giá cả, chất
lượng sản phẩm để có thể tồn tại và tìm kiếm lợi nhuận cho mình. Để có thể có
lãi, có sức cạnh tranh với đối thủ doanh nghiệp phải giảm giá thành sản xuất,
nâng cao chất lượng sản phẩm, muốn như vậy doanh nghiệp buộc phải sử dụng

9


một cách có hiệu quả nguồn lực đầu vào (vốn, nhân lực, nguyên vật liệu).
Cạnh tranh là động lực phát triển nâng cao năng suất lao động xã hội.
trong cuộc chiến cạnh tranh, doanh nghiệp nào có phương thức kinh doanh,
chiến lược phù hợp mang lại hiệu quả kinh tế, doanh nghiệp đó sẽ ngày càng
phát triển. Điều kiện tiên quyết cho doanh nghiệp có thể phát triển đó là làm
sao để nâng cao năng suất lao động, cần sử dụng máy móc thiết bị và công
nghệ hiện đại vào sản xuất để giảm bớt sức người, từ đó có thể giảm được chi
phí sản xuất, nâng cao hiệu quả sử dụng lao động. Doanh nghiệp muốn tồn tại
được phải thường xuyên tiến hành cải cách đổi mới, từ đó tạo tiền để cho sự
đổi mới mang lại sự tăng trưởng kinh tế cho toàn xã hội.
b. Vai trò của cạnh tranh đối với doanh nghiệp
Đối với bất kì một doanh nghiệp nào, dù mới gia nhập ngành, dù đang
tồn tại trong ngành thì đều phải đối mặt với cạnh tranh. Cạnh tranh để tìm

cách vươn lên, chiếm lấy ưu thế của mình trên thị trường (thị phần, lợi
nhuận…). Khi bước chân vào thị trường doanh nghiệp buộc các doanh nghiệp
phải luôn tìm cách cải tiến mẫu mã, chất lượng sản phẩm, định giá thành sản
phẩm có tính cạnh tranh đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Muốn làm được
điều đó doanh nghiệp cần có một chiến lược cạnh tranh làm sao sử dụng hiệu
quả nguồn lực để giảm chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm và tạo
ra sự khác biệt đối với đối thủ cạnh tranh. Chính sự tồn tại khách quan và sự
ảnh hưởng của cạnh tranh đối với nền kinh tế nói chung và đến từng doanh
nghiệp nói riêng nên việc nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là
một đòi hỏi tất yếu khách quan trong nền kinh tế thị trường.
c. Vai trò của cạnh tranh đối với người tiêu dùng
Nếu như cạnh tranh tạo áp lực cho doanh nghiệp thực hiện những đổi
mới, tìm kiếm sự khác biệt thỏa mãn những nhu cầu của khách hàng, thì cạnh
tranh tạo ra lợi ích cho người tiêu dùng. Những lợi ích to lớn mà khách hàng
đạt được nhờ có cạnh tranh như: chất lượng sản phẩm tốt hơn, nhiều chủng
loại sản phẩm đa dạng, có nhiều sự lựa chọn hơn, giá thành rẻ hơn, chất lượng
phục vụ tốt hơn, cuộc sống trở nên tiện nghi thoải mái hơn khi có những sản
phẩm dịch vụ đáp ứng nhu cầu…Hơn nữa, khách hàng đóng vai trò quyết
định đối với sự tồn tại của doanh nghiệp. Sự phản hồi của khách hàng về chất
lượng sản phẩm và dịch vụ tác động tới hành vi và cách thức cung cấp những
sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp. Đòi hỏi của khách hàng càng cao làm
10


cho tính chất cạnh tranh giữa các doanh nghiệp càng gay gắt để chiếm được
khách hàng.
1.2. Cơ sở lí luận về năng lực cạnh tranh
1.2.1. Khái niệm về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Thuật ngữ năng lực cạnh tranh lần đầu tiên xuất hiện vào những năm
1980 ở Mỹ, bởi tác giả Aldington Report(1985) có đưa ra như sau: “Năng lực

cạnh tranh là thể hiện doanh nghiệp có thể sản xuất sản phẩm và dịch vụ với
chất lượng vượt trội và giá cả thấp hơn đối thủ cạnh tranh trong nước và quốc
tế. Khả năng cạnh tranh tương ứng với việc đặt được lợi ích lâu dài của doanh
nghiệp và khả năng đảm bảo thu nhập cho người lao động và chủ doanh
nghiệp”. Năm 1998, Bộ Thương Mại và Công nghiệp (Anh) đã khẳng định ở
một khía cạnh khác về cạnh tranh như sau: “Đối với doanh nghiệp, năng lực
cạnh tranh là khả năng sản xuất đúng sản phẩm, xác định đúng giá cả và đúng
thời điểm. Thực hiện điều đó để đáp ứng nhu cầu khách hàng với hiệu suất và
hiệu quả cao hơn các doanh nghiệp khác”.
Nhìn chung, với nhiều công trình nghiên cứu trước đây đã có nhiều quan
niệm khác nhau về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp như sau:
- Theo quan điểm truyền thống, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là
khả năng duy trì và mở rộng thị phần, thu lợi cho doanh nghiệp. Đây là quan
niệm phổ biến nhất khi xét tới khía cạnh năng lực cạnh tranh của một doanh
nghiệp, tuy nhiên, đối với quan niệm này, yếu tố duy trì và nâng cao năng lực
cạnh tranh chưa được đề cập tới, chưa bao quát được khái niệm về năng lực
cạnh tranh.
- Theo quan niệm hiện đại cũng có nhiều giác độ khác nhau về năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp:
+ Một cách định tính, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng
chống chịu sự tấn công của đối thủ cạnh tranh. Năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp trước hết đi từ thực lực, khả năng của doanh nghiệp về tài chính, công
nghệ, nhân lực, tổ chức quản lí… so với các đối thủ cạnh tranh trong cùng
lĩnh vực, trong cùng thị trường. Từ việc so sánh với đối thủ cạnh tranh sẽ tìm
ra những điểm mạnh điểm yếu của doanh nghiệp để có lợi thế cạnh tranh so
với đối thủ cạnh tranh.
+ Theo M.Porter (1990), năng lực cạnh tranh là thước đo duy nhất về
năng lực cạnh tranh. Theo quan niệm định lượng này, năng lực cạnh tranh của
11



doanh nghiệp đồng nghĩa với năng xuất lao động của doanh nghiệp. Với quan
niệm này, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được đo lường một cách cụ
thể, nhưng chưa gắn với việc thực hiện những mục tiêu của doanh nghiệp
trong quá trình tồn tại và phát triển.
+ Một quan điểm khác, năng lực cạnh tranh đồng nghĩa với việc duy trì và
nâng cao lợi thế cạnh tranh. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng
tạo ra lợi thế cạnh tranh có khả năng tạo ra năng suất và chất lượng cao hơn đối
thủ cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường với thị phần cao tạo ra thu nhập cao.
Tóm lại, dù xem xét ở khía cạnh nào về năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp, cũng có những điểm chung là thực lực và lợi thế của doanh nghiệp so
với đối thủ cạnh tranh trong việc thỏa mãn nhu cầu khách hàng. Một cách
khái quát nhất, có thể định nghĩa về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp:
“Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng duy trì và nâng cao lợi
thế cạnh tranh của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc sử dụng
hiệu quả nguồn lực các yếu tố sản xuất đầu vào, tạo ra sản phẩm chất lượng,
chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ để đặt được những lợi ích kinh tế cao và bền
vững cho doanh nghiệp”.
1.2.2. Vai trò của năng lực canh tranh hiện nay
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp hiện nay là yếu tố sống còn đối
với mỗi doanh nghiệp muốn tham gia, tồn tại và phát triển trên thị trường.
Yếu tố cạnh tranh chi phối tới các quyết định của nhà quản trị doanh nghiệp,
buộc doanh nghiệp phải có những phương án kinh doanh, chiến lược phát
triển phù hợp để nâng cao năng lực của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh
tranh. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tồn tại bên trong doanh nghiệp,
nó không chỉ là thực lực về công nghệ, tài chính, nhân lực, tổ chức quản trị
doanh nghiệp… một cách riêng biệt mà cần đánh giá, so sánh một cách tương
quan trong một hệ quy chiếu với các đối tác cạnh tranh trong hoạt động trên
cùng một lĩnh vực, cùng một thị trường. Nhờ lợi thế này, doanh nghiệp có thể
thoả mãn tốt hơn các đòi hỏi của khách hàng mục tiêu cũng như lôi kéo được

khách hàng của đối tác cạnh tranh.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp đem lại những ưu thế cho doanh
nghiệp để có thể tồn tại đạt được những mục tiêu kinh tế và phát triển bền
vững. Từ những khả năng hiện tại của doanh nghiệp, doanh nghiệp tạo ra sự
khác biệt, tạo ra tính đặc trưng cho các dòng sản phẩm của doanh nghiệp, giúp
12


khách hàng có thể nhận biết, từ đó tạo dựng được thương hiệu cho sản phẩm,
chiếm lĩnh thị trường. Để tạo ra sự khác biệt đó, doanh nghiệp phải biết rõ
được năng lực cạnh tranh (điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp) để từ đó có
cách thức thực hiện được các mục tiêu chiến lược mà doanh nghiệp đề ra.
1.2.3. Tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh
Có nhiều tiêu chí khác nhau để đánh giá cũng như đo lường năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp, một số tiêu chí đáng chú ý khi xem xét năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp như sau:
a. Tiêu chí đánh giá về khả năng duy trì và mở rộng thị trường
Bao gồm 2 tiêu chí cụ thể: thị phần và tốc độ gia tăng thị phần.
- Thị phần của doanh nghiệp là phần thị trường doanh nghiệp đã chiếm
lĩnh được. Thực chất nó là phần phân chia thị trường của doanh nghiệp đối
với các đối thủ cạnh tranh trong ngành. Thị phần là tỉ lệ doanh thu hay số
lượng sản phẩm tiêu thụ của doanh nghiệp trong một thời gian nhất định so
với tổng doanh thu hay số lượng sản phẩm cùng loại tiêu thụ trên thị trường.
Công thức:
Tpi=
Trong đó: Tpi: thị phần của doanh nghiệp i
TRi, TR là doanh thu tiêu thụ của doanh nghiệp i, của toàn ngành
hiện có trên thị trường
Qi, Q là sản lượng tiêu thụ của doanh nghiệp i, của toàn ngành
hiện có trên thị trường

Chỉ tiêu này càng lớn, chứng tỏ phân khúc thị trường (thị phần) chiếm giữ
của doanh nghiệp càng lớn, khi đó doanh nghiệp chiếm được ưu thế cạnh tranh.
Ưu điểm: đơn giản
Nhược điểm: Chỉ tiêu thị phần chỉ phản ánh mang tính chất thời điểm.
Đối với doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp xuất khẩu rất khó để tính toán.
Chỉ tiêu này mang tính chất tĩnh. Phản ánh năng lực của doanh nghiệp trong
quá khứ, thường tính 3-5 năm để biết được sự biến đổi.
- Khi không tính được chỉ tiêu thị phần, người ta sử dụng tốc độ tăng
13


trưởng của doanh thu để thay thế. Đối với chỉ tiêu này, nó phản anh cho từng
doanh nghiệp ở mọi thời điểm và có thể so sánh được mức độ biến động đầu
ra giữa các doanh nghiệp tuy nhiên không phản ánh được vị thế của từng
doanh nghiệp so với tổng thể.
Công thức:
Rt=
Trong đó: Rt là tốc độ tăng trưởng của doanh thu
Dt, D(t-1) là doanh thu của doanh nghiệp năm t, năm (t-1)
b. Tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm
Phản ánh kết quả hoạt động sản xuất của doanh nghiệp thể hiện chất
lượng sản phẩm cao, giá cả hợp lí, mẫu mã hài lòng khách hàng.
- Chất lượng sản phẩm: đây là tiêu chí tổng hợp gồm 2 chỉ tiêu: chỉ tiêu
kinh tế (chi phí sản xuất, chi phí bảo đảm chất lượng, chi phí sử dụng…) và
chỉ tiêu kĩ thuật (công dụng, đặc tính lí hóa, các chỉ tiêu về kĩ thuật…)
- Giá cả: là yếu tổ quan trọng nhất trong năng lực cạnh tranh của một sản
phẩm. Những sản phẩm đồng chất, cùng loại trên thị trường giống nhau về
chất lượng, tính năng sử dụng và các yếu tố kĩ thuật, sản phẩm nào có giá
thành thấp hơn sẽ có lợi thế hơn.
- Mức độ hài lòng của khách hàng: được đo để đánh giá mức độ hài lòng

của khách hàng về sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp, giá cả có hợp lí, chất
lượng phục vụ có tốt không.
c. Tiêu chí đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp sản xuất
Các tiêu chí đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp sản xuất
được thể hiện qua các chỉ tiêu: tỉ suất lợi nhuận, chi phí đơn vị sản phẩm và
chỉ tiêu hiệu quả kĩ thuật.
- Chỉ tiêu tỉ suất lợi nhuận là chỉ tiêu tuyệt đối (bao nhiêu đồng lợi nhuận
trên một đơn vị đầu vào) hoặc chỉ tiêu tương đối (tỉ suất lợi nhuận của doanh
nghiệp so với tỉ suất lợi nhuận trung bình của ngành hoặc của thị trường) phản
ánh chất lượng của năng lực canh tranh

14


Công thức:
Pi =
Trong đó: Pi: là tỉ suất lợi nhuận
Pt: tỉ suất lợi nhuận của doanh nghiệp i được đo bằng lợi nhuận
trước thuế so với vốn kinh doanh
Pn: tỉ suất lợi nhuận trung bình của ngành được đo bằng lợi
nhuận trước thuế so với vốn kinh doanh
Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt, thể hiện biến động về tỉ suất lợi nhuận
của doanh nghiệp qua các giai đoạn, chỉ tiêu càng lớn chứng tỏ sự chênh lệch
so với năm trước về tỉ suất lợi nhuận lớn, doanh nghiệp thu được lợi nhuận
cao hơn.
- Chỉ tiêu chi phí đơn vị sản phẩm hay giá thành một đơn vị sản phẩm là
căn cứ quan trọng trong định giá. Chi phí cho một đơn vị sản phẩm (chi phí
bình quân) bằng chi phí cố định cộng với chi phí biến đổi.
Công thức:
UC =

Trong đó:

UC là chi phí đơn vị tính cho 1 sản phẩm
TC: tổng chi phí
TR: tổng doanh thu

UC>1, doanh nghiệp lỗ vốn
UC=1, điểm hòa vốn của doanh nghiệp
UC<1: doanh nghiệp có lãi
UC càng nhỏ hơn 1, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp càng cao, chi
phí cho sản xuất giảm, tạo lợi thế cạnh tranh về chi phí sản xuất cho doanh
nghiệp.
- Chỉ tiêu hiệu quả kĩ thuật đo lường mức độ sử dụng và khai thác của
các yếu tố sản xuất của doanh nghiệp.
Công thức:

15


TEi =
Trong đó:

TEi: hệ số hiệu quả kĩ thuật của doanh nghiệp i

i: sản lượng của doanh nghiệp I được tính theo hàm sản
xuất( gồm 4 yếu tố: vốn, lao động, nguyên vật liệu, dịch vụ công)
: sản lượng tiềm năng của doanh nghiệp toosid da có thể đạt được
TEi càng cao thì khả năng cạnh tranh càng cao, việc sử dụng các nguồn
lực đầu vào của doanh nghiệp đạt hiệu quả.
d. Tiêu chí đánh giá năng suất các yếu tố sản xuất

Năng suất các yếu tố sản xuất là chỉ tiêu phản ánh mặt lượng các yếu tố
cạnh tranh. Được thể hiện ở một số chỉ tiêu như sau:
- Năng suất lao động: năng lực sản xuất của lao động. Nó được đo bằng
số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc lượng thời
gian lao động hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Năng suất lao động
tăng lên có nghĩa là cũng trong một thời gian lao động, nhưng khối lượng
hàng hóa sản xuất ra tăng lên làm cho thời gian lao động cần thiết để sản xuất
ra một đơn vị hàng hóa giảm xuống. Do đó, khi năng suất lao động tăng lên
thì giá trị của một đơn vị hàng hóa sẽ giảm xuống và ngược lại. Giá trị của
hàng hóa tỷ lệ nghịch với năng suất lao động. Đây là chỉ tiêu quan trọng nhất
trong năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là tiền đề giảm chi phí sản xuất,
nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa của doanh nghiệp.
- Hiệu quả sử dụng vốn: càng lớn chứng tỏ việc sử dụng đồng vốn càng
hiệu quả, một đồng vốn bỏ ra thu được bao nhiêu đồng doanh thu.
Công thức:
Hiệu quả sử dụng vốn =
- Năng suất sử dụng toàn bộ tài sản của doanh nghiệp: càng lớn năng lực
canh tranh của doanh nghiệp càng cao. Nó được đo bằng tỉ số giữa doanh thu
với tổng tài sản (tổng vốn kinh doanh của toàn doanh nghiệp).
- Năng suất tổng hợp (TFP): là chỉ tiêu đo lường năng suất của đồng thời

16


cả “lao động” và “vốn” trong doanh nghiệp. TFP phản ánh sự tiến bộ của
khoa học, kỹ thuật và công nghệ, qua đó sự gia tăng đầu ra không chỉ phụ
thuộc vào tăng thêm về số lượng của đầu vào (phương thức truyền thống) mà
còn tuỳ thuộc vào chất lượng các yếu tố đầu vào là lao động và vốn. Nâng cao
TFP là biện pháp gia tăng đầu ra bằng việc nâng cao chất lượng của các yếu
tố đầu vào là lao động và vốn. Cùng với lượng đầu vào như nhau, lượng đầu

ra có thể lớn hơn nhờ vào vào việc cải tiến chất lượng của lao động, vốn và sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực này. Vì vậy, tăng TFP gắn liền với áp dụng
các tiến bộ kỹ thuật, đổi mới công nghệ, cải tiến phương thức quản lý, nâng
cao kỹ năng, trình độ tay nghề của người lao động….TFP càng cao, hàm
lượng khoa học công nghệ áp dụng trong sản xuất của doanh nghiệp càng lớn,
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cao.
e. Tiêu chí đánh giá về khả năng thích nghi và đổi mới của doanh nghiệp
Đây là một tiêu chí đánh giá năng lực “động”, được đánh giá thông qua
các chỉ tiêu: số lượng cải tiến, sáng tạo sản phẩm, mẫu mã, sáng tạo trong quy
trình sản xuất, sáng kiến lao động… những sáng kiến trong quá trình sản xuất
có thể đăng kí bản quyền trở thành tài sản của doanh nghiệp, tạo lợi thế cạnh
tranh độc quyền cho doanh nghiệp.
f.Tiêu chí đánh giá về tổng hợp năng lực cạnh tranh
Với tiêu chí này, người ta sẽ chọn ra một số chỉ tiêu nhất định ảnh hưởng
tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp với những trọng số nhất định. Sau
đó tiến hành đánh giá cho điểm từng chỉ tiêu. Cuối cùng, nhân trọng số với
điểm của các chỉ tiêu rồi cộng tổng, tiến hành so sánh tổng số của các doanh
nghiệp với nhau, tìm ra được năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Đây là
một chỉ tiêu mang tính tổng hợp khái quát, việc đánh giá năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp theo chỉ tiêu này mất thời gian, và mang tính định tính cao.
1.2.4. Những yếu tố chủ yếu ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp
1.2.4.1. Yếu tố bên trong doanh nghiệp
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được đánh giá thông qua các chỉ
tiêu được nêu ở mục 1.2.3. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là tổng hợp
sức mạnh từ các yếu tố hiện có khác biệt với đối thủ cạnh tranh thể hiện ở:
nguồn nhân lực, nguồn lực vật chất và nguồn lực tài chính.
a. Nguồn nhân lực
17



Là nhân tố hàng đầu ảnh hưởng tới năng lực sản xuất, năng suất lao động
của doanh nghiệp. Chất lượng nguồn nhân lực của doanh nghiệp là tài sản của
doanh nghiệp, tạo tiền đề cho sự phát triển bền vững cuả doanh nghiệp trong
tương lai. Với một đội ngũ nhân lực tốt, doanh nghiệp có thể được làm đựợc
tất cả những gì như mong muốn, đội ngũ nhân lực này sẽ gia tăng các nguồn
lực khác cho doanh nghiệp, đặc biệt là trí tuệ chất xám là những thứ vô cùng
quý giá. Nó tạo ra những sản phẩm chất lượng cao, ưu viêt hơn với giá thành
thấp nhất, đáp ứng tốt yêu cầu của khách hàng, đưa doanh nghiệp vượt lên
trên các đối thủ cạnh tranh. Có một đội ngũ nhân viên, lãnh đạo, quản lý giàu
kinh nghiệm, trình độ cao, năng động, linh hoạt và hiểu biết... sẽ đem lại cho
doanh nghiệp không chỉ là lợi ích trước mắt như tăng doanh thu, tăng lợi
nhuận mà là cả uy tín, thương hiệu cho doanh nghiệp. Từ chính những ý
tưởng, những sáng kiến của người lao động sẽ tạo ra những sản phẩm mới,
với mẫu mã đa dạng, giá thành giảm cung cấp rộng khắp trên thị trường.
Có một đội ngũ nguồn nhân lực chất lượng, có ý thức phẩm chất, có
trình độ chuyên môn vững vàng tạo điều kiện tăng năng suất lao động. Đây là
một trong những nhân tố cạnh tranh chiến lược của doanh nghiệp so với đối
thủ, tạo tiền đề giảm chi phí giá thành sản phẩm.
Tác động của nguồn nhân lực tới kết quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp:
+ Quản trị viên cấp cao: Gồm ban giám đốc và các trưởng phòng phó
ban. Đây là đội ngũ có ảnh hưởng quyết định đến kết quả sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp
+ Quản trị viên cấp trung gian: Đây là độ ngũ quản lý trực tiếp phân
xưởng sản xuất đòi hỏi phải có kinh nghiệm và khả năng hợp tác, ảnh hưởng
tới tốc độ sản xuất và chất lượng sản phẩm.
+ Đội ngũ quản trị viên cấp thấp và cán bộ công nhân viên trực tiếp
sản xuất sản phẩm: Đội ngũ công nhân ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng
sản phẩm, do vậy cần tạo điều kiện cho họ hoàn thành tốt những công việc

được giao.
b. Nguồn lực vật chất (máy móc thiết bị, cơ sở vật chất hạ tầng của
doanh nghiệp)
Máy móc thiết bị và công nghệ ảnh hưởng rất quan trọng tới năng lực

18


cạnh tranh của doanh nghiệp, thể hiện năng lực sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến sản phẩm, chất lượng của sản
phẩm và giá thành của sản phẩm. Một doanh nghiệp có hệ thống trang thiết bị
hiện đại thì sản phẩm của họ có chất lượng cao, giá thành thấp. Như vậy nhất
định khả năng cạnh tranh sẽ tốt hơn. Khả năng chiến thắng trong cạnh tranh
của doanh nghiệp sẽ rất lớn, ngược lại không một doanh nghiệp nào lại có khả
năng cạnh tranh cao khi mà công nghệ sản xuất lạc hậu, máy móc thiết bị cũ
sẽ làm giảm chất lượng sản phẩm, tăng chi phí sản xuất. Nguồn lực vật chất
có thể là:
- Tình trạng trình độ máy móc công nghệ, khả năng áp dụng công nghệ
mối tác động đến chất lượng, kiểu dáng, hình thức giá thành sản phẩm.
-Thiết bị cho mạng lưới phân phối: Phương tiện vận tải, cách thức tiếp
cận khách hàng
- Vị trí địa lý của doanh nghiệp cũng có thể tác động đến chi phí sản
xuất, (đất đai, nhà cửa, lao động ...) nguồn nguyên liệu.
c. Nguồn lực tài chính
Khả năng tài chính của doanh nghiệp ảnh hưởng tới việc ra quyết định
tới việc thực hiện hay không thực hiện bất cứ một hoạt động đầu tư, mua sắm
hay phân phối của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có tiềm lực về tài chính sẽ có
điều kiện để đổi mới công nghệ, đầu tư trang thiết bị, đảm bảo nâng cao chất
lượng, hạ giá thành. Như vậy, doanh nghiệp sẽ duy trì và nâng cao sức cạnh
tranh, củng cố vị trí của mình trên thị trường.

Khả năng về tài chính của doanh nghiệp thể hiện:
- Hoạt động đầu tư mua sắm dây chuyền sản xuất trang thiết bị hiện đại,
công nghệ, đầu tư cho các hoạt động quảng cáo… doanh nghiệp có thể chấp
nhận lỗ ở thời gian đầu để hạ giá thành sản phẩm nhằm giữ vững và mở rộng
thị phần cho doanh nghiệp để tăng giá, thu lợi nhuận nhiều hơn.
- Tạo được niềm tin, uy tín đối với khách hàng, nhà cung cấp và nhà đầu
tư. Tạo ra những lợi thế canh tranh mạnh so với đối thủ.
Tài chính không chỉ gồm các tài sản lưu động và tài sản cố định của
doanh nghiệp, mà gồm cả các khoản vay, khoản nhập sẽ có trong tương lai và
cả giá trị uy tín của doanh nghiệp đó trên thị trường. Vốn tự có có thể do các
thành viên sáng lập đóng góp hoặc do một phần lợi nhuận được để lại từ đầu

19


tư, hoặc vốn góp thêm của các cổ đông sau này. Vốn vay có thể được huy
động từ ngân hàng các tổ chức tài chính các đơn vị quen biết. Thiếu nguồn tài
chính doanh nghiệp có thể bị phá sản, sụp đỗ bất cứ lúc nào. Tài chính được
coi là phương tiện chủ yếu vũ khí sắc bén để tấn công, đánh thắng các đối thủ
cạnh tranh. Doanh nghiệp nào không đủ khả năng tài chính sẽ bị thôn tính bới
các đối thủ hùng mạnh hơn hoặc tự rút lui khỏi thị trường.
Năng lực tài chính được thể hiện thông qua khả năng thanh toán, khả
năng tạo giá trị gia tăng, cơ cấu vốn và khả năng hoạt động.
Khả năng thanh toán là khả năng chi trả nợ ngắn hạn khi các khoản nợ
đến hạn. Được đo lường thông qua hệ số thanh toán hiện hành và hệ số thanh
toán nhanh
Hệ số thanh toán hiện hành=

Hệ số thanh toán nhanh=
Khả năng tạo ra giá trị gia tăng: thể hiện khả năng kiểm soát chi phí và

tạo ra giá trị gia tăng, được đo lường bởi hệ số sinh lời của tài sản hữu hình và
hệ số sinh lời của tổng tài sản.
Khả năng hoạt động: là nhóm chỉ tiêu hiệu quả đo lường hiệu quả sử
dụng tài sản, các chỉ số được quan tâm như: vòng quay hàng tồn kho, thời
gian quay vòng hàng tồn kho, vòng quay các khoản phải thu …
1.2.4.2. Yếu tố bên ngoài doanh nghiệp
a. Yếu tố môi trường ngành
Môi trường ngành là môi trường phức tạp nhất và ảnh hưởng nhiều nhất
đến cạnh tranh. Môi trường ngành là môi trường bao gồm các doanh nghiệp
trong cùng tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh. Môi trường ngành còn
được hiểu là môi trường cạnh tranh của doanh nghiệp sự tác động của môi
trường ngành ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp là
điều không thể phủ nhận. Sự thay đổi thường diễn ra thường xuyên khó dự
báo được và phụ thuộc vào các lực lượng sau: khách hàng, đối thủ cạnh tranh,
người cung cấp, các đối thủ tiềm ẩn và các đối thủ thay thế. Đó là nhân tố
thuộc mô hình 5 lực lượng của M.Porter. Từ việc phân tích mô hình, giúp

20


doanh nghiệp tìm ra những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức mà
doanh nghiệp sẽ gặp phải.


Yếu tố khách hàng:

Khách hàng hay người mua hàng là một bộ phận trong môi trường cạnh
tranh. Khách hàng tác động trực tiếp đến sự tồn tại của doanh nghiệp. Các
doanh nghiệp cần phải làm chủ mối tương quan này, thiết lập được mối quan
hệ với khách hàng để có được khách hàng (thông qua số lượng, chất lượng,

giá cả, điều kiện giao nhận và dịch vụ sau bán hàng). Khách hàng muốn sử
dụng hàng hóa có chất lượng tốt với giá cả hợp lí, phân phối đúng thời gian,
dịch vụ hoàn hảo. Họ có quyền mặc cả thương lượng về giá cả và xu hướng
chúng là được tự do lựa chọn hàng hóa trên thị trường. Chính vì vậy, khách
hàng có ưu thế là có thể làm cho lợi nhuận của ngành hàng giảm bằng cách ép
giá xuống hoặc đòi hỏi chất lượng cao hơn và phải làm nhiều công việc dịch
vụ hơn. Khách hàng có thể được xem như một sự đe dọa cạnh tranh khi họ
buộc doanh nghiệp phải giảm giá hoặc có nhu cầu chất lượng cao và dịch vụ
tốt hơn. Ngược lại khi khách hàng yếu sẽ mang đến cho doanh nghiệp cơ hội
để tăng giá kiếm được lợi nhuận nhiều hơn. Người mua gồm: Người tiêu dùng
cuối cùng, các nhà phân phối (bán buôn, bán lẻ) và các nhà mua công nghiệp.
Ap lực của họ thường được thể hiện trong những trường hợp sau:
- Nhiều nhà cung ứng có quy mô vừa và nhỏ trong ngành cung cấp.
Trong khi đó người mua là số ít và có quy mô lớn, nó cho phép người mua chi
phối các công ty cung cấp.
- Khách hàng mua một khối lượng lớn sản phẩm hàng hoá của doanh
nghiệp và sử dụng đó làm lợi thế để mặc cả cho sự giảm giá không hợp lý.
- Khách hàng có thể vận dụng chiến lược liên kết dọc, tức là họ có xu
hướng khép kín sản xuất, tự sản xuất, gia công các bộ phận chi tiết, bán sản
phẩm cho mình.
- Khách hàng có đầy đủ các thông tin về thị trường như nhu cầu, giá cả
của các nhà cung cấp thì áp lực mặc cả của họ càng lớn.
Để nâng cao khả năng cạnh tranh thì doanh nghiệp phải giảm tối đa sức
ép trên và tạo môi trường với các khách hàng qua các chính sách giá, chất
lượng sản phẩm, dịch vụ, biến họ trở thành người cộng tác tốt.
 Yếu tố đối thủ cạnh tranh:

21



Trong một ngành có số lượng đối thủ cạnh tranh đông đảo hoặc có số
lượng đối thủ thống lĩnh thị trường nhiều thì mức độ cạnh tranh càng gay gắt,
tính chất cạnh tranh càng khốc liệt khi doanh nghiệp hoạt động trong ngành.
Đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp là những tổ chức cung cấp sản phẩm
dịch vụ tương đồng với doanh nghiệp, dành lấy khách hàng với mục tiêu
chiếm lĩnh thị phần và lợi nhuận trên các phân khúc thị trường.
Cạnh tranh trong một ngành trở nên khốc liệt hơn khi: nhu cầu tăng
chậm, giảm sút và hàng tồn kho dư thừa; chi phí khách hàng chuyển thương
hiệu rất thấp; số đối thủ cạnh tranh tăng nhanh và số đối thủ tương đối bằng
nhau về quy mô và năng lực cạnh tranh; sản phẩm giống nhau hoặc ít khác
biệt với giá cả ít biến động; một hoặc nhiều đối thủ không hài lòng với vị trị
hiện tại, có những động thái mãnh liệt để thu hút khách hàng, đối thủ có chiến
lược và mục tiêu đa dạng, hoạt động tại các nước khác nhau, các tổ chức mua
lại đối thủ cạnh tranh yếu và cố gắng củng cố vị thế của mình, rào cản ra khỏi
ngành lớn.
 Yếu tố các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn
Đối thủ tiềm năng là những doanh nghiệp chưa xuất hiện trên thị trường
nhưng có nguy cơ trở thành đối thủ cạnh tranh nếu họ đưa ra quyết định ra
nhập ngành. Đây là một đe dọa với doanh nghiệp hiện tại, vì họ có khả năng
mở rộng hoạt động chiếm lĩnh thị trường của doanh nghiệp, họ có thể là yếu
tố làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn xuất
hiện làm tăng đối thủ cạnh tranh trong ngành làm tăng mức độ cạnh tranh.
Đối với những doanh nghiệp có lợi thế cạnh tranh trong ngành lớn, việc ra
nhập của đối thủ sẽ là không ảnh hưởng đáng kể, nhưng đối thủ tiềm ẩn ra
nhập thị trường với tiềm lực kinh tế lớn mạnh có thể là mối đe dọa với các
doanh nghiệp hiện tại. Các doanh nghiệp hiện tại luôn cố gắng xây dựng
những rào cản nhằm ngăn cản sự ra nhập ngành của các đối thủ cạnh tranh
tiềm ẩn như:
+ Ưu thế tuyệt đối về chi phí: Có lợi thế về công nghệ và sản phẩm, lợi
thế về nguồn cung cấp nguyên vật liệu, lợi thế về vị trí địa lý, hay kinh

nghiệm và kĩ năng trong sản xuất tạo điều kiện giảm chi phí.
+ Tính kinh tế của quy mô: Các doanh nghiệp chiếm lĩnh thị trường
thường có lợi thế giảm chi phí sản xuất khi tăng sản lượng do chi phí cố
22


định không đổi, mà các doanh nghiệp chuẩn bị ra nhập ngành thường phải
đầu tư ban đầu lớn, làm chi phí cố định tăng cao, không có lợi thế kinh tế
theo quy mô.
+ Mạng lưới kênh phân phối: với việc thiết lập mạng lưới kênh phân
phối rộng khắp, chiết khấu cao cho các nhà phân phối, các chính sách ràng
buộc cũng là một rào cản đối với các đối thủ tiềm năng muốn ra nhập ngành.
 Yếu tố thuộc về nhà cung cấp:
Những nhà cung cấp nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, tiền vốn, lao
động là một trong những nhân tố làm tăng giá cho các đầu vào hoặc giảm chất
lượng các sản phẩm dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp trên thị trường. Qua
đó, có thể làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Nhà cung cấp thường gây
sức ép trong những trường hợp như sau:
+ Họ độc quyền cung cấp vật tư.
+ Khi các vật tư được cung cấp không có khả năng thay thế
+ Không có điều khoản ràng buộc hoặc bảo đảm trong các hợp đồng
kinh tế đã kí kết.
+ Khi vật tư đó quan trọng, quyết định trong sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp
+ Khi họ có khả năng khép kín sản xuất.
Chính vì vậy, doanh nghiệp cần thiết lập một mối quan hệ lâu dài với các
nhà cung cấp và đưa ra các chính sách ràng buộc với nhà vật tư để giảm bớt
các ràng buộc họ có thể gây nên với mình.
 Yếu tố thuộc về sản phẩm thay thế:
Sự ra đời của các sản phẩm thay thế làm giảm sức cạnh tranh của các sản

phẩm bị thay thế. Sản phẩm thay thế ra đời sẽ giảm khả năng tiêu thụ sản
phẩm, giảm lợi nhuận của doanh nghiệp do hạn chế về khả năng đạt giá bán.
Phần lớn các sản phẩm thay thế được tạo ra nhờ sự đổi mới công nghệ,
sự tìm tòi phát triển ý tưởng mới. Nếu doanh nghiệp không chú ý tới các sản
phẩm thay thế doanh nghiệp rất dễ mất thị phần.
Tóm lại, năm yếu tố trên có tác động một cách tương hỗ nhau và tác
động trực tiếp tới khả năng cạnh tranh doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có

23


thể hoạt động thu lợi nhuận cao khi trong ngành đó có các rào cản xâm nhập
thị trường cao, mức độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hiện có là thấp,
không có sản phẩm thay thế, khả năng thương lượng của khách hàng yếu và
áp lực của nhà cung cấp cũng yếu. Ngược lại, một doanh nghiệp tiến hành
kinh doanh trong một ngành hàng có các rào cản xâm nhập thấp, cạnh tranh
mạnh mẽ, có một số sản phẩm thay thế, áp lực của khách hàng và nhà cung
cấp mạnh thì doanh nghiệp có lợi nhuận thấp. Các nhà quản trị cần phải phân
tích và hiểu rõ được các yếu tố trong môi trường cạnh tranh, từ đó tận dụng cơ
hội và tìm vị trí có lợi nhất cho doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh của
doanh nghiệp.
b. Yếu tố môi trường vĩ mô
Doanh nghiệp là một thực thể hoạt động trong một môi trường hệ thống
mà ở đó các nhân tố ảnh hưởng phức tạp tới quá trình cạnh trạnh của doanh
nghiệp. Đó là môi trường vĩ môi. Môi trường đó bao gồm các yếu tố chủ yếu:
Kinh tế, chính trị và pháp luật, văn hóa - xã hội và công nghệ.
 Kinh tế:
Các điều kiện về môi trường kinh tế ảnh hưởng tới các quyết định sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong điều kiện kinh tế phát triển các
doanh nghiệp dễ dàng mở rộng khả năng sản xuất kinh doanh nhờ sự huy

động và sử dụng dễ dàng nguồn đầu vào cũng như giảm lượng hàng tồn kho,
quá trình quay vòng vốn nhanh. Ngược lại kinh tế khó khăn làm cho các
doanh nghiệp gặp nhiều trở ngại trong quá trình sản xuất kinh doanh. Việc tất
dụng các chỉ số kinh tế để dự đoán cơ hội cũng như các mối đe dọa từ môi
trường kinh tế cũng ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Có
hai loại thay đổi kinh tế:
+ Thay đổi cấu trúc của nền kinh tế là những thay đổi chủ yeus, hoặc là
cố định hoặc tạm thời trong mối quan hệ giữa các khu vực khác nhau của nền
kinh tế và các biến kinh tế.
+ Sự thay đổi theo chu kì của kinh tế.
Tuy nhiên, chỉ có sự thay đổi theo chu kì có ảnh hưởng tới chiến lược
kinh doanh, chiến lược để nâng cao năng lực cạnh tranh. Cần phân biệt những
thay đổi theo chu kì và theo cấu trúc.
 Chính trị và pháp luật:

24


Chính trị và pháp luật là tạo ra môi trường pháp lí, một sân chơi với
những luật chơi cho những doanh nghiệp có thể tham gia cạnh tranh lành
mạnh, công bằng trong thị trường. Không có sự ổn định về chính trị thì sẽ
không có một nền kinh tế ổn định và bền vững được. Luật pháp có tác động
điều chỉnh trực tiếp đến hoạt động của mỗi doanh nghiệp trong nền kinh tế.
Mỗi thị trường đều có hệ thống pháp luật, quy tắc riêng. Luật pháp rõ ràng,
chính trị ổn định tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động kinh doanh. Nhất là
đối với từng doanh nghiệp tham gia vào hoạt động xuất khẩu chịu ảnh hưởng
của quan hệ giữa các chính phủ, các hiệp định, hiệp ước kinh tế quốc tế. Các
doanh nghiệp này cũng đặc biệt quan tâm tới sự khác biệt về pháp luật giữa
các quốc gia. Sự khác biệt này có thể sẽ làm tăng hoặc giảm năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp những điều này sẽ ảnh hưởng chiến lược phát triển,

loại hình sản phẩm danh nghiệp sẽ cung cấp cho thị trường. Vì vậy, các doanh
nghiệp luôn luôn cần một môi trường pháp luật chặt chẽ, rõ ràng, bảo vệ lợi
ích cho các doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức ... trong nền kinh tế để khuyến
khích phát triển, tham gia khả năng cạnh tranh.
 Văn hóa - Xã hội:
Nhân tố văn hóa- xã hội thường biến đổi hoặc thay đổi dần dần theo thời
gian và không gian nên đôi khi khó nhận biết nhưng lại qui định các đặc tính
của thị trường mà bất cứ doanh nghiệp nào cũng phải tính đến khi tham gia
vào thị trường đó cho dù có muốn sống hay không. Các yếu tố văn hóa quan
trọng bao gồm niềm tin, quan điểm, quy tắc, các giá trị, phong tục tập quán lối
sống… Hiểu biết nhân khẩu hoặc và văn hóa là cơ sở cho việc xây dựng đội
ngũ lao động và người tiêu dùng.
Thay đổi về mặt xã hội có tác động một cách tích cực hay tiêu cực tới
các đối thủ cạnh tranh phụ thuộc vào việc họ thích nghi với nó như thế nào.
Ví dụ, doanh nghiệp xuất khẩu khi xuất sang thị trường nước ngoài đó có
được thị trường đó chấp nhận hay không cũng như việc liệu doanh nghiệp đó
có đủ khả năng đáp được yêu cầu của thị trường mới hay không phụ thuộc
vào khả năng thích ứng của doanh nghiệp trên thị trường mới, và khách hàng
có chấp nhận sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp hay không. Vì vậy các
doanh nghiệp phải nghiên cứu kỹ các yếu tố xã hội tại thị trường mới cũng
như thị trường truyền thống để từ đó tiến hành phân đoạn thị trường, đưa ra
được những giải pháp riêng. Đáp ứng thị trường tốt nhất yêu cầu của thị
25


×