Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

luận án CHẤT ĐỒNG QUÊ TRONG THƠ lục bát VIỆT NAM HIỆN đại (qua thơ lục bát nguyễn duy và đồng đức bốn)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (328.87 KB, 26 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------

PHẠM MAI PHONG

CHẤT ĐỒNG QUÊ TRONG
THƠ LỤC BÁT VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
(Qua thơ lục bát Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn)

Chuyên ngành : Lý luận văn học

Mã số

: 60.22.32

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Hà Nội - 2008

1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Về thơ lục bát Việt Nam hiện đại:
Từ lâu, thơ lục bát đã ăn sâu vào tiềm thức, tâm hồn và cả lối sống của
người Việt Nam ta. Một trong những giá trị làm nên điệu tâm hồn Việt của
thể thơ lục bát, đó chính là chất đồng quê đậm đà vẫn không ngừng chảy
trong lòng thể loại. Tìm hiểu về chất đồng quê trong một thể thơ đặc trưng
cho tâm hồn Việt qua những thời kì, giai đoạn khác nhau luôn là một yêu


cầu cấp thiết, giúp chúng ta hiểu rõ hơn về thể loại thơ ca dân tộc và những
thành tựu của thơ lục bát Việt Nam hiện đại.
Về Nguyễn Duy
Nguyễn Duy bước vào làng thơ và góp một tiếng nói quan trọng làm
nên diện mạo riêng của một thế hệ thơ trẻ thời kháng chiến chống Mĩ cứu
nước. Sau chiến tranh, trở về với đời thường, Nguyễn Duy vẫn chứng tỏ
được bút lực dồi dào của mình. Theo thời gian, sức sống của thơ Nguyễn
Duy dường như mỗi lúc một mãnh liệt và toả sáng, được bạn đọc đón nhận
nhiệt liệt hơn.
Nguyễn Duy làm thơ với nhiều thể loại khác nhau, nhưng chủ yếu và
thành công hơn cả vẫn là thơ lục bát. Sẽ rất thiếu xót nếu chúng ta bỏ qua
chất đồng quê như một sức sống tiềm ẩn trong thơ lục bát Nguyễn Duy. Đi
sâu tìm hiểu về chất đồng quê trong thơ Nguyễn Duy sẽ cho chúng ta cái
nhìn toàn diện hơn về nhà thơ này. Đồng thời, phần nào thấy rõ hơn về
một đặc điểm quan trọng của thơ lục bát Việt Nam hiện đại.
Đồng Đức Bốn và chất đồng quê trong thơ ông
Đồng Đức Bốn nổi lên như một hiện tượng lạ trong làng thơ Việt. Là kẻ
đến sau, nhưng Đồng Đức Bốn lại liều lĩnh đến mức dám chen chân vào
mảng thơ lục bát về đồng quê, chỗ tưởng như các tác giả trước đó đã gặt
hái hết những thành tựu có thể có được. Nhưng cũng chính cái sự khác
2


người ấy đã góp phần tạo nên một Đồng Đức Bốn đầy cá tính giữa lòng
thời đại.
Thơ Đồng Đức Bốn được đánh giá là giàu chất đồng quê. Đây được coi
là nguồn nhựa sống quí báu nhất nuôi dưỡng hồn thơ Đồng Đức Bốn. Có
thể nói, đến Đồng Đức Bốn, thơ lục bát thêm một lần nữa khẳng định được
vị trí và sức sống lâu bền của mình. Tìm hiểu về chất đồng quê trong thơ
lục bát Viêt Nam sẽ trở nên rất khó khăn nếu như chúng ta bỏ qua thơ lục

bát của Đồng Đức Bốn.
Đi vào tìm hiểu đề tài: Chất đồng quê trong thơ lục bát Việt Nam hiện
đại (Qua thơ lục bát Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn) là một yêu cầu cấp thiết
để làm rõ hơn đặc điểm thể loại của thơ lục bát, thấy rõ hơn giá trị thơ ca
Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn cũng như sự đóng góp của họ cho văn học
nước nhà. Đồng thời, công việc này cũng khẳng định thêm một lần nữa
những giá trị đặc trưng của thơ ca dân tộc Việt Nam.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
2.1. Các công trình nghiên cứu liên quan tới chất đồng quê trong
thơ Việt Nam hiện đại
Công việc nghiên cứu về dòng thơ đồng quê ở mức độ khái quát với
những tác giả chính, những thi phẩm tiêu biểu vẫn là một công việc còn bỏ
ngỏ. Tuy nhiên, nghiên cứu về chất đồng quê trong thơ của một tác giả cụ
thể hoặc một số tác giả trong thế đối sánh với nhau thì đã có khá nhiều
công trình có giá trị.
Khởi đầu cho công việc này, có thể kể đến Thi nhân Việt Nam của Hoài
Thanh và Hoài Chân. Tiếp sau Thi nhân Việt Nam, có rất nhiều các công
trình nghiên cứu về chất đồng quê trong thơ các tác giả riêng lẻ. Đặc biệt
là về Nguyễn Bính, người được coi là chủ soái của dòng thơ đồng quê.
Năm 1995, giáo sư Hà Minh Đức cho ra mắt cuốn Nguyễn Bính- thi sĩ của
đồng quê. Phần thứ nhất của cuốn sách được coi là một chuyên luận có giá
trị cao. Tác giả Đoàn Đức Phương hoàn thành luận án tiến sĩ về thơ
3


Nguyễn Bính vào năm 1997. Luận án đã nhìn nhận Nguyễn Bính đầy đặn
hơn với một cái “tôi” đầy bản sắc đồng quê trong phong trào thơ mới . Gần
đây nhất, nhà nghiên cứu Chu Văn Sơn cũng cho ra mắt cuốn sách Ba đỉnh
cao thơ mới: Xuân Diệu-Nguyễn Bính-Hàn Mặc Tử. Tác giả đã đặt
Nguyễn Bính trong thế đối sánh với hai nhà thơ mới tiêu biểu là Xuân

Diệu và Hàn Mặc Tử...
Bên cạnh các công trình nghiên cứu về thơ Nguyễn Bính, còn có các bài
viết về chất đồng quê trong thơ của các tác giả khác như Anh Thơ, Đoàn
Văn Cừ, Tế Hanh...
2.2. Các công trình nghiên cứu về tác giả Nguyễn Duy
Luận văn chủ yếu đi vào khảo sát các công trình nghiên cứu liên quan
tới chất đồng quê trong thơ lục bát Nguyễn Duy.
Năm 1972, những bài thơ đăng báo lần đầu của Nguyễn Duy đã thu hút
được sự chú ý của Hoài Thanh. Bằng cảm nhận tinh tế, sắc sảo, ông đã
nhận ra vị quê mùa đằm thắm, chân chất trong thơ Nguyễn Duy. Giáo sư
Hà Minh Đức trong bài viết Về một số cây bút trẻ gần đây trong quân đội
nhận ra sự ảnh hưởng của màu sắc dân gian tới thơ Nguyễn Duy. Cũng về
thơ lục bát, Lê Quang Trang nhận ra đây là thế mạnh của Nguyễn Duy:
“anh vốn là người sở trường về sử dụng thơ lục bát- một thể thơ có phần
tĩnh và biến hoá không nhiều”. Nhà thơ Tế Hanh, với tâm hồn nhạy cảm
luôn gắn bó với quê hương cũng đã cảm nhận sâu sắc về hồn quê, tình quê
trong thơ Nguyễn Duy.
Tiếp đến, người viết còn khảo sát các bài viết của các tác giả như Lê
Quang Hưng, Lại Nguyên Ân, Nguyễn Quang Sáng, Đỗ Ngọc Thạch,
Phạm Thu Yến, Vũ Văn Sĩ, Trần Hoà Bình…Các bài viết hoặc mang tính
chất đánh giá chung về thơ Nguyễn Duy, hoặc thẩm bình về những bài lục
bát đặc sắc, tiêu biểu trong đời thơ Nguyễn Duy.
Các công trình nghiên cứu, các bài viết về thơ Nguyễn Duy đã phần nào
xác định được giá trị thơ lục bát của Nguyễn Duy và hơi hướng của chất
4


đồng quê trong thơ ông. Tuy nhiên, hầu như vẫn chưa có một công trình đi
sâu nghiên cứu cụ thể, toàn diện về chất đồng quê trong thơ lục bát
Nguyễn Duy và vị trí của nó trong hành trình thơ lục bát Việt Nam.

2.3. Các công trình nghiên cứu về thơ Đồng Đức Bốn
Phần lớn các bài viết chúng tôi khảo sát được rút từ phần hai cuốn sách
Chim mỏ vàng và hoa cỏ độc do chính nhà thơ Đồng Đức Bốn đã tập hợp.
Trước hết, phải kể đến chùm bài viết của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp,
người bạn văn chương của nhà thơ Đồng Đức Bốn. Trong bài viết Đồng
Đức Bốn- Vị cứu tinh của thơ lục bát, tác giả nhận định: “Đồng Đức Bốn
là người tự dưng đốn ngộ với riêng thể thơ lục bát”. Nguyễn Huy Thiệp
còn nhìn nhận Đồng Đức Bốn từ vai trò một nhà thơ của đồng quê, của
con trâu, cái diều. Nhà thơ, nhà phê bình văn học Đỗ Minh Tuấn có bài
viết Đồng Đức Bốn- Kẻ mượn bút của trời đã nhận thấy “Sự xuất hiện của
Đồng Đức Bốn đã đem lại cho thơ lục bát, thơ truyền thống một niềm tự
tin đáng kể”. Bài viết Đồng Đức Bốn- Phiêu du vào lục bát của nhà phê
bình văn học Nguyễn Đăng Điệp thêm một lần nữa cho thấy rõ hơn vị trí
của thơ lục bát trong đời thơ Đồng Đức Bốn. Tiến sĩ Đoàn Hương cũng
thấy được hình ảnh quê mùa trong thơ Đồng Đức Bốn qua bài Những câu
thơ tình tang quê mùa. Nhà thơ Phạm Tiến Duật với giọng điệu tự nhiên,
pha chút ngang tàng trong bài Đóng gạch nơi nao đã khẳng định: “một
mình Đồng Đức Bốn tự làm một cuộc trường chinh. Gã xông thẳng vào
trận địa lục bát và chỉ một thời gian ngắn Đồng Đức Bốn trở thành ông vua
trẻ của thể loại này”…Tuy nhiên, hầu như các công trình trên đây đều
chưa nhìn nhận chất đồng quê trong thơ lục bát Đồng Đức Bốn một cách
toàn diện và chưa đặt đặc điểm này trong dòng chảy của văn học Việt
Nam.
3. GIỚI HẠN ĐỀ TÀI
Chúng tôi chú ý tới toàn bộ thơ lục bát Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn
trong khả năng cao nhất có thể. Riêng về thơ của Đồng Đức Bốn, chủ yếu
5


là các bài lục bát trong phần một tập sách Chim mỏ vàng và hoa cỏ độc.

Bên cạnh các bài thơ lục bát của Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn, chúng tôi
cũng liên hệ so sánh với thơ lục bát ca dao và của một số tác giả văn học
Việt Nam khác.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, chúng tôi sẽ phối hợp chặt chẽ giữa
ba phương pháp: Phương pháp phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại;
Phương pháp đối chiếu so sánh; Phương pháp thống kê- phân loại để luận
văn có tính khoa học và hệ thống, đạt được những hiệu quả cao nhất.
4.

MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ.

Mục đích nghiên cứu của luận văn
Đi sâu vào đề tài này, mục đích của chúng tôi là hướng vào tìm hiểu
những biểu hiện cụ thể về chất đồng quê trong thơ lục bát Nguyễn Duy và
Đồng Đức Bốn. So sánh đối chiếu chất đồng quê trong thơ hai ông với
nhau và với các tác giả khác, đặc biệt là các tác giả có thế mạnh về thơ lục
bát để tìm ra những đặc điểm chung nhất và bản sắc, đặc trưng riêng của
thơ ca mỗi người. Bên cạnh đó, luận văn cũng mong đạt được một hiệu
quả cao hơn, đó là có được cái nhìn khái quát về sự tồn tại, biến đổi của
chất đồng quê trong thơ lục bát Việt Nam hiện đại.
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn.
- Sơ lược tìm hiểu đặc trưng của thể loại thơ lục bát và sự vận động của
nó trong tiến trình thơ ca dân tộc.
- Tìm hiểu các văn bản thơ của Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn, cụ thể
là thơ lục bát để tìm ra những nét nổi bật trong nôị dung, nghệ thuật gắn
liền với chất đồng quê trong thơ họ.
- Đối sánh thơ lục bát Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn với thơ ca truyền
thống, thơ ca các tác giả khác, tìm ra những sự kế thừa và đổi mới của hai
tác giả này.

5. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
6


Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn được triển khai theo ba
chương.
Chương một: Chất đồng quê và thơ lục bát về đồng quê trong thơ ca dân
tộc.
Chương hai: Cảnh quê và tình quê trong thơ lục bát Nguyễn Duy và
Đồng Đức Bốn.
Chương ba: Tính chất dân gian và hiện đại trong thơ lục bát về đồng quê
của Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn.
Chương một
CHẤT ĐỒNG QUÊ VÀ THƠ LỤC BÁT VỀ ĐỒNG QUÊ
TRONG THƠ CA DÂN TỘC
1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THƠ LỤC BÁT
Cấu trúc thể loại
Niêm, vần, luật.
* Hệ thống phổ biến
- Trường hợp một:
Dòng/ti

1

2

3

4


5

6

-

B

-

T

-

B

-

B

-

T

-

B

7


8

-

B

ếng
Dòng
lục
Dòng
bát
- Trường hợp hai:
Các tiếng thứ tư, thứ sáu, thứ tám nhất định phải theo vần bằng, riêng
tiếng thứ hai có thể linh động, hoặc bằng hoặc trắc.
* Hệ thống đặc biệt: Các loại biến thể.
- Biến thể vần trắc: Tiếng thứ sáu câu câu sáu và câu tám đều là vần
trắc.
7


- Biến thể cách gieo vần: tiếng thứ sáu dòng lục lại hiệp vần với tiếng
thứ tư dòng bát:
Về nhịp
Trong thơ lục bát, cách ngắt nhịp rất uyển chuyển nhưng thường là nhịp
hai. Đôi khi lại là nhịp ba hoặc phối hợp nhiều nhịp cho phù hợp với nội
dung nào đó tạo ra ngữ điệu đặc biệt.
Đối
Thơ lục bát không quy định nhất thiết phải có đối. Tuy vậy, đặc trưng
phổ biến của lục bát lại là tiểu đối. Khi thì đối ý, đối thanh, có khi lại đối
cả ý và thanh.

Một số biến thể trong cấu trúc của thể lục bát
Thể lục bát có nhiều biến thể ở nhiều phạm vi khác nhau như: phạm vi
câu thơ, phạm vi bài thơ… Như vậy, thể lục bát là một thể thơ linh hoạt,
sinh động chứ không hề khô khan và cứng nhắc.
Nguồn gốc sinh thành
Các công trình nghiên cứu về thơ lục bát và nguồn gốc sinh thành của
nó xuất phát từ nhiều hướng khác nhau. Tuy nhiên, cuối cùng đều đi đến
điểm chung khẳng định thể lục bát ra đời vào khoảng thế kỉ XV và là thể
thơ thuần tuý dân tộc Việt.
Tiến trình thể loại
1.3.1. Lục bát từ cuối thế kỉ XV đến trước Truyện Kiều.
Thơ lục bát ở giai đoạn này còn trong tình trạng chưa hoàn chỉnh, hình
hài chưa cụ thể, còn xô bồ, tự do và có đôi chút lỏng lẻo.
1.3.2. Lục bát trong Truyện Kiều
Truyện Kiều của Nguyễn Du đã đánh dấu son cho sự mẫu mực, cổ điển
của thể loại lục bát.
1.3.3. Lục bát trong phong trào thơ mới (1932-1945)
Bước vào thế kỉ XX, thơ lục bát dần chuyển sang tập trung vào khả
năng chính của một thể thơ ca: chức năng trữ tình. Lục bát trong Thơ

8


Mới(1932-1945) đã có nhiều cách tân đa dạng về cả hình thức thể hiện
cũng như nội dung biểu đạt.
1.3.4. Lục bát từ sau 1945.
Thơ lục bát vẫn kế tục được truyền thống, đồng thời có những cách tân,
đổi mới để ngày càng phù hợp hơn. Đến nay, thể lục bát vẫn được người
say thơ, yêu thơ ưa chuộng. Đằng sau những giây phút ồn ã, sôi động của
cuộc sống mới đang hiện đại hoá, hồn thơ lục bát vẫn là những người bạn

tâm tình, san sẻ với con người Việt những tâm sự sâu lắng.
2. CHẤT ĐỒNG QUÊ, MỘT ĐẶC ĐIỂM TẠO NÊN BÍ QUYẾT
SINH TỒN CỦA THỂ THƠ LỤC BÁT.
Chất đồng quê không chỉ là kết quả của sự mô tả, sự phản ánh, sự thể
hiện các cảnh quê, tình quê như là chất liệu của nghệ thuật, của thơ ca mà
nó còn đòi hỏi một quan niệm nhân sinh và thẩm mĩ đặc thù, đòi hỏi sự thể
hiện và khẳng định đồng quê như cội nguồn của các giá trị nhân văn tích
cực như cái đẹp, cái thiện. Có thể hiểu: Chất đồng quê trong thơ ca là kết
quả của quan niệm nhân sinh và thẩm mĩ đặc thù kết tinh từ những giá trị
nhân văn tích cực của cuộc sống con người đồng quê, mà sự mô tả, phản
ánh, thể hiện các cảnh quê, tình quê chính là những biểu hiện cụ thể nhất.
Nói như thế, chất đồng quê trong thơ ca phải được nhìn nhận và đề cập
đến từ hai khía cạnh: Nhận thức luận và giá trị luận. Một nền nghệ thuật
thấm đượm chất đồng quê không chỉ đơn thuần lấy đồng quê làm đối
tượng mô tả, phản ánh mà còn bởi nó biết chắt lọc ra từ cuộc sống đồng
quê những giá trị nhân sinh và thẩm mĩ tích cực được nâng lên thành một
quan niệm sống, một cách nhìn thế giới và con người.
So với các thể thơ khác, thể lục bát có thế mạnh hơn cả trong việc thể
hiện chất đồng quê. Ngay từ cấu trúc âm luật sáu- tám nhẹ nhàng, mượt
mà, giản dị, hài hoà, dễ phối thanh, thể lục bát vốn dĩ đã rất gần gũi lối nói
9


của người dân quê, dễ nghe, dễ nhớ. Phù hợp với cảm xúc, lối sống của
con người Việt Nam ta. Thể lục bát lại có khả năng biến hoá linh hoạt chứ
không khô cứng. Nó có thể duy trì hình thức chuẩn mực cổ điển, có thể trở
về với dân gian hoặc tiến lên theo thi pháp hiện đại. Trên bình diện thưởng
thức, thơ lục bát cũng được dân ta ưa chuộng, gìn giữ.

Chương hai

CẢNH QUÊ VÀ TÌNH QUÊ TRONG THƠ LỤC BÁT NGUYỄN
DUY VÀ ĐỒNG ĐỨC BỐN
1. CẢNH QUÊ TRONG THƠ LỤC BÁT NGUYỄN DUY VÀ
ĐỒNG ĐỨC BỐN
Cảnh quê đượm hồn quê trong thơ ca Việt Nam
Làng quê đi vào thơ văn từ bao đời nay và làm nên không ít những giá
trị đặc sắc. Làng quê hiện lên trong thơ ca Việt luôn là những hình ảnh
giản dị, mộc mạc, nghèo khó nhưng giàu truyền thống văn hoá. Nơi ấy,
con người gắn bó nghĩa tình với nhau, văn hoá làng thôn đã trở thành nét
văn hoá không thể thiếu trong đời sống xã hội Việt Nam. Nhiều nhà thơ
Việt đã thành công khi khắc họa nét mặt quê hương như Nguyễn Bính,
Hoàng Cầm...: Quê hương là gì hở mẹ/Mà sao cô giáo dạy phải yêu(Quê
hương-Đỗ Trung Quân); Quê hương ta lúa nếp thơm nồng/ Tranh Đông
Hồ gà lợn nét tươi trong/Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp…(Bên kia
sông Đuống-Hoàng Cầm)...
Cảnh quê trong thơ lục bát Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn
1.2.1. Bức tranh với những hình ảnh đượm chất đồng quê
Thiên nhiên đồng quê trong thơ lục bát Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn
hiện lên trước nhất với hình ảnh của những khu vườn quê, những cánh
đồng quê có những đặc trưng riêng mang cảm xúc, tâm hồn quê mùa của
10


thi sĩ. Đó là cây tre, cây bồ kết cây mận…Vườn quê là nơi khơi lên những
cảm xúc từ trong sâu thẳm tâm hồn tác giả. Không chỉ yêu, nhà thơ còn
say mê đối với đồng quê.. Họ thường cảm nhận và đưa vào thơ lục bát của
mình những gì đời thường, mộc mạc, đôi khi là nhỏ bé thoáng qua nhưng
lại mang giá trị sâu sắc. (). Đó là những hình ảnh được kế thừa từ thơ ca
truyền thống dân tộc nhưng cũng là những hình ảnh mang sắc diện mới mẻ
của cuộc sống đô thị hoá thời hiện đại(Cỏ dại, Nhớ bạn, Hoa lúa, Hoa dạiNguyễn Duy; Về lại chốn xưa; Đi qua bến lở sông bồi-Đồng Đức Bốn).

Lục bát Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn ngoài sự bình dị, mượt mà còn
gợi ra sự gai góc, sắc nhọn của những chìm nổi đời người. Đặc điểm này
nổi bật hơn ở thơ Đồng Đức Bốn. Có lẽ vì thế mà gai quê là một hình ảnh
lặp lại nhiều lần trong thơ lục bát của nhà thơ. Những cây bồ kết lắm gai,
những hoa có gai, bụi tre gai, rồi xéo gai, gai rào ngõ quê… là những gì
mang đậm sắc thái quê mùa. Trước những gai góc sắc nhọn của cuộc sống
hiện đại, nhà thơ vẫn muốn dấn thân vào để thử thách bản lĩnh của mình:
Xéo gai anh chẳng sợ đau/ Bởi yêu ruộng lúa vườn cau trước nhà.
Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn quan niệm, cái làm nên cá tính, bản
lĩnh, sức mạnh của con người trong cuộc sống ngày hôm nay phần lớn là ở
cái hồn quê, ở những giá trị truyền thống ngàn đời kết tinh trong mỗi
người quê. Qua hình ảnh những con vật, Nguyễn Duy quan niệm, những gì
là truyền thống, là văn hoá sẽ mãi mãi lưu dấu, lâu mà không cũ, xưa mà
không nhàm (Khúc dân ca I; Khúc dân ca II). Thảng đôi lúc, trong những
giây phút tĩnh lặng của đời người, nhà thơ vẫn nơm nớp lo sợ sự đổi mới
ấy sẽ phá vỡ đi những gì chân thật, giản dị nhất của làng quê(Lời ru con cò
biển).
Trong thơ lục bát Đồng Đức Bốn, thế giới những con vật cũng là những
hình ảnh thơ đặc sắc. Những hình ảnh ấy đều mang theo vào thơ sự day
dứt, hoang mang như đang chìm trong một cơn khủng hoảng về lối đi,

11


cách sống. Đó phải chăng chính là trạng thái tâm hồn tác giả (Đi đò;
Chuồn chuồn cắn rốn biết bơi; Vỡ đê).
Một hình ảnh của thiên nhiên được nhắc tới rất nhiều trong thơ của
nhiều thi sĩ, đó là hình ảnh của con sông quê hương. Đó là những dòng
sông nơi quê hương nhà thơ hoặc trên các miền đất mà họ đã đi qua.
Những dòng sông mang danh hoặc không mang danh cụ thể vẫn mang

cảnh vật của muôn đời quê kệch nhưng ít nhiều đã chứa đựng sự vật vã
của cuộc sống mới (Chiều mận hậu; Hàng châu; Sông Cấm(ND); Sông
Thương; Viết ở bờ sông(ĐĐB)). Con sông còn là hình ảnh để nhà thơ thể
hiện niềm tin hi vọng, thể hiện bản lĩnh con người mình. Cùng nói về sông
quê trong thơ lục bát của mình, nhưng Nguyễn Duy thiên hơn về miêu tả
cảnh vật. Những tâm sự gửi gắm vào đó có phần nhẹ nhàng, kín đáo hơn
trong thơ lục bát Đồng Đức Bốn.
Trong thơ lục bát của Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn, còn phải nhắc tới
hình ảnh núi non, rừng đồi. Nguyễn Duy từng là một người lính từng hành
quân qua nhiều khu rừng thời chiến tranh, bằng tâm hồn nhà quê tinh tế,
nhà thơ nhận ra nét đẹp, sự bí ẩn và cả sức mạnh của rừng (Trăng; Nắng).
Khác với Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn thường khắc hoạ những khu rừng
của cuộc sống hiện đại. Nhà thơ thường gửi vào đó những khắc khoải, day
dứt trước những thay đổi xót xa của núi rừng quê nhà(Đám cháy rừng).
Khi khắc họa hình ảnh những khu rừng quê hương, ngoài sự kế thừa bút
pháp ước lệ trong thơ ca xưa, những hình ảnh mà Nguyễn Duy và Đồng
Đức Bốn đưa vào thơ lục bát của mình còn mang tính tả thực. Đây cũng là
một xu hướng nổi bật của thơ lục bát hai nhà thơ này nói riêng và thơ ca
văn học hiện đại nói chung.
Khung cảnh thiên nhiên trong khu vườn quê của thơ lục bát Nguyễn
Duy, Đồng Đức Bốn còn được tô điểm, làm đẹp thêm nhiều bởi hình ảnh
của các hiện tượng tự nhiên. Họ thấy ở thiên nhiên, tự nhiên sự gần gũi, có
mối liên hệ mật thiết với con người làng quê. Vởy nhưng, các hiện tượng
12


tự nhiên ấy cũng có chút ít sự xâm nhập của cái chất đô thị hoá trong cuộc
sống hôm nay(Võng trăng; Sao(Nguyễn Duy); Đã đành ngang dọc sơn
hà; Những câu thơ dại (Đồng Đức Bốn)).
Trong bức tranh thiên nhiên bằng thơ lục bát, cả Nguyễn Duy và Đồng

Đức Bốn không ít lần khắc hoạ những cảnh vật giữa nơi phố thị. Tuy
nhiên, những cảnh vật đó đa phần đã được quê mùa hoá, được khắc hoạ
dưới cách nhìn, cách cảm của một người quê. Thêm nữa, đó cũng đều là
những hình ảnh làm nổi bật đặc trưng chất đồng quê trong thơ lục bát của
hai tác giả này và trong thơ lục bát Việt Nam hiện đại.
Sau bức tranh thiên nhiên làng quê, phải kể tới bức tranh đời sống thôn
dã trong thơ lục bát Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn. Cảnh sinh hoạt đặc
trưng nhất của cuộc sống miền đồng ruộng ấy là cảnh lao động cần mẫn
của những con người nơi đây. Nguyễn Duy sắc sảo khi khắc hoạ niềm vui
lao động, sự hăng say của những con người đang xây dựng cuộc đời
mới(Bài hát người làm gạch). Đồng Đức Bốn cũng là người thấu hiểu
cảnh sống con người quê mùa. Ông gọi đó là cảnh nhà quê, luôn phải
“chân lấm tay bùn” quanh năm bươn trải nơi ruộng lúa, vườn rau(Nhà
quê).
Chúng ta khó có thể bỏ qua một mảng đời sống rất đẹp, giàu truyền
thống của làng quê, đó là những hoạt động cộng đồng mang tính văn hoá
như quang cảnh những buổi họp chợ, những hội hè đình đám …Quang
cảnh ấy trong thơ lục bát Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn giản dị, gần gũi
nhưng cũng có nhiều nét riêng ảnh hưởng từ cuộc sống hôm nay(Lạng
Sơn; Chợ Thương).
Không chỉ có cảnh đời sống sinh hoạt của những con người các làng
quê, Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn còn khắc hoạ trong thơ mình những
bức tranh đời sống nơi đô thị. Những tên phố, tên đường, những cảnh sống
nhộn nhịp của con người cũng được họ đưa vào thơ thật ngọt, thật êm. Đó
cũng là những gì tạo nên những sắc thái rất riêng trong chất đồng quê của
13


những nhà thơ đồng quê hiện đại(Cơm bụi ca- Nguyễn Duy; Nhớ Thuỵ
Khuê- Đồng Đức Bốn).

1.2.2.Âm thanh đồng quê
Gần gũi với thiên nhiên làng quê, những âm thanh của cảnh vật ấy đã đi
vào thơ lục bát Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn tự nhiên, giản dị. (Võng
trăng; Nắng). Không chỉ là lắng nghe, cảm nhận, tâm hồn Nguyễn Duy
còn hoà nhập, hoá thân vào những cảnh vật thiên nhiên, cất lên những
tiếng nói tình nghĩa, sâu sắc của thiên nhiên cây cỏ(Lời của cây…; …- Và
lời của quả). Trong thơ lục bát Đồng Đức Bốn, mỗi âm thanh vang lên lại
nặng trĩu một nỗi lòng đắng cay, ngang trái của một chàng lãng tử đang
bước thấp, bước cao giữa cuộc đời(Chợ Thương; Cái đêm em ở với chồng;
Cuốc kêu).
Với làng quê, nhiều khi thế giới âm thanh còn là sự im ắng, yên tĩnh,
thanh bình. Nhiều bức tranh quê bằng thơ lục bát được Nguyễn Duy và
Đồng Đức Bốn xây dựng mà không có sự hiện diện của âm thanh. Giúp
người đọc liên tưởng tới quang cảnh đặc trưng, thân thuộc của làng quê
Việt Nam được nhìn từ phía xa xa(Xuồng đầy- Nguyễn Duy; Chăn trâu
đốt lửa- Đồng Đức Bốn). Nhiều khi, cái lặng yên trong thơ lục bát của họ
lại trở thành “lặng câm”. Nó mang theo những thái độ chua xót, hoang
mang đáng sợ của tác giả: Trăm năm tưởng gỗ hoá trầm/ Nào ngờ lại đá
lặng câm đứng chờ (Đồng Đức Bốn).
1.23. Hương vị đồng quê
Trước hết, đó là hương vị toát ra từ cảnh vật, từ cuộc sống dân dã, quê
mùa. Cảm nhận hương vị đồng quê như thế nào, Nguyễn Duy và Đồng
Đức Bốn thể hiện trong thơ lục bát của mình như thế ấy. Họ đều là những
con người quê có tâm hồn và giác quan tinh tế. Những câu thơ lục bát mà
họ viết nên xuất phát trước hết từ tâm hồn, giác quan ấy (Bát nước ngô;
Thuốc lào(Nguyễn Duy); Mùa xuân đi phủ Tây Hồ; Đi qua bến lở sông
bồi(Đồng Đức Bốn)). Khứu giác tinh tế của thi sĩ còn cảm nhận được
14



những sự vật, hiện tượng tưởng như không có hương vị(Ca dao vọng về
4(Nguyễn Duy); Muôn vàn sông chảy về đây(Đồng Đức Bốn)).
Tiếp đến, chúng ta phải nói đến những hương vị mang tính tượng trưng,
những ngọt bùi, đắng cay trong kinh nghiệm của nghững người dân quê.
Chúng ta có thể tạm gọi đó là những dư vị của cuộc sống, của đời người.
Đó là những gì thuộc về hiện thực cuộc sống được chuyển hoá vào trong
kinh nghiệm những người dân lao động nông nghiệp từ rất lâu nay(Về
làng; Được yêu như thể ca dao(Nguyễn Duy); Chín xu đổi lấy một
hào(Đồng Đức Bốn)).
Cả Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn đều cảm nhận sâu sắc những hương
vị quen thuộc của chốn đồng nội. Dù đó là những hương vị toát lên từ cảnh
vật hay từ cuộc sống của người dân quê đều được hai nhà thơ này thể hiện
đặc sắc trong thơ lục bát bằng cảm xúc trong sáng, tinh tế. Những ai đã
từng sống ở quê, hẳn sẽ hiểu và dễ đồng cảm với suy nghĩ, trải nghiệm
trong thơ lục bát của họ.
2. NGƯỜI QUÊ, TÌNH QUÊ
Người quê, tình quê trong Việt Nam hiện đại
Nhìn chung về thơ ca Việt Nam, những bài thơ nói về con người thuần
chất Việt, tình cảm thuần Việt vẫn là những thi phẩm để lại ấn tượng cho
người đọc. Những con người lam lũ trên mảnh đất mang nền văn hoá nông
nghiệp lúa nước khi đi vào thơ ca ân tình và đẹp biết chừng nào. Những
người ông, người bà, người cha, người mẹ, người chị…trong thơ gần gũi
với tình cảm tươi sáng, cao đẹp lạ thường. Chúng ta có thể điểm danh và
tập hợp đầy đủ các khuôn mặt, hình ảnh những người dân lao động của
làng quê trong thơ Việt Nam hiện đại. Chúng ta có thể kể tới thơ của rất
nhiều các tác giả như Nguyễn Bính, Bằng Việt, Tế Hanh, Tố Hữu… Ở mỗi
tác giả, mỗi hình ảnh đều mang một dáng vẻ đặc sắc khác nhau. Nhưng dù
thế nào chăng nữa, Đó đều là những hình ảnh bắt nguồn từ tâm tình, phẩm
chất của những người làng quê. Người quê, tình quê là những tiêu chí quan
15



trọng để xếp một nhà thơ có hoặc không có mặt trong đội ngũ những thi sĩ
đồng quê Việt Nam.
2.2. Người quê, tình quê trong thơ lục bát Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn
2.2.1. Tấm lòng đối với quê hương
Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn yêu hơn cả là cái làng quê cụ thể, nơi
chôn rau cắt rốn của mình. Họ nhận ra những vẻ đẹp bình dị mà tinh tế của
quê hương. Khi ở giữa quê hương, họ trải hết lòng mình để được tắm
những dòng sữa ngọt ngào chảy giữa đồng quê. Khi xa quê rồi, tình cảm
trong họ lại chuyển hoá ngay thành nỗi nhớ nhung da diết. Nỗi nhớ làng
quê đã hoà chung làm một với nỗi lòng thương nhớ đất nước. Nỗi nhớ, tâm
trạng ấy là mạch cảm xúc bắt nguồn từ trong ca dao nhưng cũng là tiếng
thơ bật lên từ đáy lòng thi sĩ(Nhìn từ xa…Tổ Quốc-Nguyễn Duy; Nhà quêĐồng Đức Bốn)
Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn sống ở cả nông thôn và thành. Nhiều
khi, nỗi nhớ đòng quê đã hoà chung với nỗi nhớ thành thị. Tuy nhiên, cảnh
vật, cuộc sống đô thị hiện lên trong nỗi nhớ của ông thường không ồn ào
mà man mác, nhẹ nhàng sắc quê. Họ cũng không chỉ nhớ quê khi ngăn
cách về không gian mà còn nhớ làng quê khi có sự ngăn cách về thời gian.
2.2.2. Người quê, tình quê trong thơ lục bát của Nguyễn Duy và của
Đồng Đức Bốn
Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn đều là những con người của xứ đồng.
Họ gắn bó, gần gũi, yêu thương những con người đồng quê. Mà trước hết,
phải nhắc tới hình tượng những người phụ nữ cùng những tình cảm, cảm
xúc rất thân thương. Đó là những người bà, người mẹ, người chị, những cô
thôn nữ, những “em”- nàng thơ, những vợ của thi sĩ… Dù họ là những
người phụ nữ ở chốn quê mùa hay giữ nơi thành thị, là người phụ nữ thời
chiến hay thời bình thì đều hiện lên thân thương, quen thuộc. Những hình
ảnh ấy được tiếp sức từ vẻ đẹp của thơ ca truyền thống, in đậm dấu ấn của


16


thơ ca Việt Nam hiện đại nhưng cũng mang nét riêng trong điệu tâm hồn,
cảm xúc của mỗi tác giả.
Hình ảnh những người đàn ông, những người con trai bình dân khác
trong thơ lục bát Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn cũng là những hình ảnh
đẹp, kết tinh từ những tình cảm cao đẹp trong tâm hồn nhà thơ. (Người
cha, Về làng(Nguyễn Duy); Bố tôi, nhà quê(Đồng Đức Bốn)). Họ là
những con người làng quê đôi khi ngộc nghệch nhưng giàu phẩm chất
đáng quí. Họ đồng thời cũng là những người anh hùng cao đẹp mà giản dị
khi đất nước lâm nguy.
Làng quê Việt Nam và những tình cảm ấm áp tình người trong thơ lục
bát Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn còn hiện lên qua nhiều hình ảnh con
người khác. Đó là bà bán nước đầu làng, người hát rong, người ăn mày, cô
hàng xén, những ông lã quê mùa bình tâm giản dị…Tất cả đã hợp lại để
tạo nên bức tranh quê gần gũi, thân thương. Họ là những con người của
các miền quê, các xứ đồng trên khắp dải đất Việt Nam. Gương mặt họ,
dáng hình họ là những gì đặc trưng của quê hương Việt.
Bên cạnh những điểm tương đồng, chúng ta có thể thấy một số điểm
khác nhau khá rõ ràng khi thể hiện tình quê, người quê trong thơ lục bát
của Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn. Cơ bản có thể thấy như sau:
Khi khắc hoạ con người, tình người quê mùa, Đồng Đức Bốn thường ấn
tượng sâu sắc với những con người xứ Bắc. Đôi lúc có xuất hiện hình ảnh
những con người của các miền đất khác nhau nhưng đa phần đều được
khắc hoạ mang đậm tính cách, bóng dáng con người quê Bắc. Còn Nguyễn
Duy tỏ ra đa dạng, linh hoạt hơn. Thơ lục bát của ông có gương mặt của
những con người ở các vùng quê Bắc, bên cạnh đó còn có bóng dáng của
con người các vùng quê khác như xứ Huế thơ mộng, Đà Lạt nên thơ, hay
vùng Châu Đốc, Đồng Tháp Mười, An Giang…

Một điều nữa, thời điểm bước vào làng thơ của Nguyễn Duy và Đồng
Đức Bốn là khác nhau, do vậy, thế giới quê mùa trong thơ ca của họ sẽ
17


không thể giống nhau. Nguyễn Duy thiên về khắc hoạ, thể hiện những gì
thuộc về thời chiến. Đồng Đức Bốn lại thiên về những cảm quan quen
thuộc trong cuộc sống đời thường.
Đọc thơ lục bát Nguyễn Duy, chúng ta thường cảm nhận và liên tưởng
đến những cảm xúc êm ái, mượt mà, có da diết, băn khoăn thì cũng rất nhẹ
nhàng. Thơ lục bát Đồng Đức Bốn lại mang lại những cảm giác bất ổn,
day dứt, khắc khoải sâu đậm về cuộc sồng hiện tại. Nhiều khi, dòng cảm
xúc trong thơ trở nên quằn quại, đau đáu không ngờ. Trong thơ Đồng Đức
Bốn, chúng ta luôn thấy một cái “tôi” đang cố vẫy vùng mong thoát khỏi
tình cảnh hiện tại. Nhưng trớ trêu thay, nhà thơ càng vùng vẫy thì lại càng
chìm sâu hơn vào nỗi đời lận đận, nổi nênh.
Có thể nói, Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn là những đại diện tiêu biểu
cho thơ lục bát Việt Nam hiện đại. Là những đứa con quê, Nguyễn Duy và
Đồng Đức Bốn đã đóng góp vào làng thơ nước nhà những giá trị thơ đặc
sắc, tinh tuý của mình. Tiếp tục thổi lên nguồn sống mãnh liệt ngàn đời
chảy xuyên qua các thế hệ của dân tộc.
3. MỐI QUAN HỆ GIỮA THÀNH THỊ VÀ ĐỒNG QUÊ TRONG
THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI QUA THƠ LỤC BÁT NGUYỄN DUY
VÀ ĐỒNG ĐỨC BỐN
Trong thế giới thơ Nguyễn Bính và nhiều tác giả cùng thời, sự đối lập,
tương phản thẩm mĩ giữa thiên nhiên thành thị là khá rõ. Với họ, sự xâm
nhập của những giá trị mang tính chất hiện đại của thành thị là những gì
làm mai một đi cái chất quê mùa đáng quí của những con người đồng
ruộng chân lấm tay bùn(Chân quê). Từ thơ đồng quê Nguyễn Bính và
những tác giả trong phong trào thơ mới tới thơ lục bát Nguyễn Duy, Đồng

Đức Bốn là cả một chặng đường khá dài của thơ ca Việt Nam. Những giá
trị thơ kia vẫn được kế thừa. Tuy nhiên, cũng có nhiều biến thái cho thấy
bước đi mới của thơ ca Việt Nam trong buổi hiện đại.

18


Quả thực mà nói, quê mùa và thành thị vẫn luôn là hai thế giới đối lập
nhau, khó có thể dung hoà, hẳn Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn ý thức rất
rõ điều đó. Không khó để họ nhận ra rằng, cái hồn quê thuần chất nay đang
bị đổi thay bởi sự chi phối của các yếu tố thuộc về cuộc sống đô thị hoá
(Được yêu như thể ca dao, Thi sĩ B-Nguyễn Duy; Gửi Tân Cương-Đồng
Đức Bốn).
Ngoài sự đối lập và tương phản của thành thị- nông thôn như chúng ta
đã thấy, thơ lục bát Việt Nam hiện đại còn cho thấy một sự thay đổi rất lớn
trong quan điểm, thái độ của những nhà thơ hiện đại trong cuộc sống đô thị
hoá. Thành thị không chỉ là một giá trị gây ra sự biến thái của hồn quê,
chất đồng quê nữa, nó đã mang thêm một sắc thái nữa là sự tương hỗ,
tương trợ cho chất đồng quê trong thơ ca. Trong cuộc sống hiện nay, bóng
dáng của cuộc sống thành thị đã len lách vào từng ngõ nhỏ của cuộc sống.
Sự ngăn cách giữa thành thị-nông thôn ngày càng trở nên mờ nhạt.
Cả Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn đều là những con người có gốc gác
quê mùa nhưng lại gắn bó nhiều với cuộc sống thành thị. Sống giữa cuộc
sống ấy, họ dần hiểu ra rằng, có nhiều cái rất quê, rất đẹp và thi vị. Những
cảnh quan của cuộc sống phố thị được họ khắc hoạ nhiều khi lại mang
nguồn gốc quê mùa và có chức năng thể hiện chất đồng quê. (Cơm bụi ca,
Hồ Tây-Nguyễn Duy; Nhớ Thuỵ Khuê, Buổi sáng đường Lê Thánh TôngĐồng Đức Bốn).
Chương ba
TÍNH DÂN GIAN VÀ HIỆN ĐẠI TRONG THƠ LỤC BÁT VỀ ĐỒNG
QUÊ CỦA NGUYỄN DUY VÀ ĐỒNG ĐỨC BỐN

1. NGÔN NGỮ
1.1. Ngôn ngữ của đời sống và ngôn ngữ của ca dao
Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn không chỉ là những người đóng góp
thành tựu mà còn được coi là những đại diện tiêu biểu cho thơ lục bát Việt
19


Nam hiện đại. Trước hết, ngôn ngữ thơ Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn
nói chung và ngôn ngữ thơ lục bát của họ nói riêng là thứ ngôn ngữ rất gần
gũi lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân quê. Tiếp đến, đó là thứ ngôn
ngữ được gọt giũa và sử dụng nhiều trong ca dao(Thuốc lào- Nguyễn
Duy; Chăn trâu đốt lửa-Đồng Đức Bốn). Những bài thơ lục bát mà họ
sáng tác như những lời nói bộc phát từ sự ngẫu hứng trong cuộc sống hàng
ngày. Chúng ta có thể thấy tính khẩu ngữ và sự gần gũi ca dao trong thơ
lục bát Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn thông qua cách sử dụng đại từ nhân
xưng của họ. Những đại từ như tôi, ta, mình, ai, người ấy, người dưng, đó,
đây…là những từ được người dân quê sử dụng nhiều trong giao tiếp. Đó
cũng là là những đại từ phổ biến trong ca dao bình dân. Đặc biệt là đại từ
tôi. Đại từ này được dùng nhiều trong thơ lục bát Nguyễn Duy nhưng
thanh bình, nhẹ nhàng, có vương chút bụi đời chứ chưa nổi cộm, ngang
tàng như Đồng Đức Bốn. Sống trong đời sống của hiện thực đời thường, ý
thức về cái tôi của người ta dễ trở nên nổi bật(Tôi viết tặng tôi; Đời tôi).
Những thán từ, tình thái từ… được sử dụng nhiều trong thơ lục bát
Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn thêm lần nữa khẳng định tính khẩu ngữ và
tiếp nối ca dao của thơ ca hai nhà thơ này. Ngoài những ngôn từ vốn đã
quen thuộc từ lâu, còn có nhiều lời ăn tiếng nói mà chỉ ở cuộc sống thời
hiện đại mới có(Được yêu như thể ca dao).
1.2. Cách nói quê, lề lối quê
Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn là những người làm thơ lục bát nhuần
cách nói quê, lề lối quê. Trong thơ Nguyễn Bính và nhiều tác giả đồng quê

trước đây, điệu nói đã chiếm một vị trí khá quan trọng. Càng về sau này,
điệu nói càng được sử dụng tăng lên cả ở số lượng và chất lượng. Đến
Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn, thơ điệu nói đã trở nên khá linh hoạt (Thi
sĩ B-Nguyễn Duy; Đám cháy rừng-Đồng Đức Bốn). Rồi cách sử dụng
những câu hỏi rất thật, rất quê, những thành ngữ, tục ngữ hay nói theo lối

20


thành ngữ, tục ngữ...đều thể hiện lề lối quê khá rõ ở thơ lục bát hai tác giả
này.
2. GIỌNG ĐIỆU
Giọng điệu là sự hoà hợp giữa nội dung cảm xúc và hệ thống chất liệu,
mà trước hết là hệ thống sắc thái ngữ điệu. Như thế, giọng điệu là sự hoà
hợp, đan xen, thẩm thấu của nhiều yếu tố khác nhau trong cùng một thi
phẩm. Thơ ca dân gian Việt Nam thường có hai dạng biểu hiện nổi bật hơn
cả cho giọng điệu thơ ca dân tộc đó là giọng điệu than vãn và chòng ghẹo.
Điệu than
Thơ lục bát của Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn đều có âm hưởng của
điệu than, nhưng nếu đem ra so sánh, ở thơ lục bát của Đồng Đức Bốn,
điệu than được sử dụng nhiều hơn và ở một cung bậc đậm đà hơn thơ lục
bát Nguyễn Duy. Trong thơ Nguyễn Duy, lời than không đau đớn, da diết
đến quặn lòng như lời than trong thơ Nguyễn Bínhvà Đồng Đức Bốn.
Nhưng đó cũng là lời than vãn của một người quê mang nặng tâm sự. Kể
và than trong thơ ông đã hoà quyện, đôi lúc khó có thể tách bạch(Lạng
Sơn, 1989; Về làng). Trong Đồng Đức Bốn tồn tại một nghịch lí: vừa yêu
đời, vừa chán chường trước những biến động, những xoay vần của thời
đại. Giọng thơ ông thường trầm buồn, day dứt, quặn xé lòng người. Nhà
thơ thương cho chính cuộc đời nhiều biến động, gian nan của mình(Đời
tôi).

Điệu ghẹo
Nhìn nhận một cách khách quan, nếu như Đồng Đức Bốn trong thơ lục
bát than nhiều hơn Nguyễn Duy thì ở phạm vi này, Nguyễn Duy lại ghẹo
nhiều hơn Đồng Đức Bốn(Trên sân trường, Xẩm ngọng). Tuy nhiên, trong
ghẹo ấy chúng ta vẫn nhận ra giọng than chất chứa sự xót xa, buồn thương
sâu lắng. Đó mới chính là giọng điệu của một thi sĩ quê mùa đích thực.
Trong lục bát Đồng Đức Bốn cũng có ghẹo. Đó là cái ghẹo thấp thoáng từ
trong những lời than. Cái ghẹo chứa đựng sự hoang mang, đau đời nhiều
21


hơn là đùa vui hóm hỉnh. Ghẹo ở thơ Đồng Đức Bốn thường pha chút ít sự
liều lĩnh, ngang tàng của con người qua nhiều thăng trầm, biến cố(Hoa
dong riềng).
Giọng ghẹo trong thơ lục bát Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn là giọng
điệu của những con người quê. Trong giọng điệu ấy còn pha chút bụi bặm,
lãng tử của những con người nghệ sĩ thời hiện đại khi đã từng qua nhiều
lận đận của cuộc đời. Giọng ghẹo ấy ít khi thuần chất mà thường pha lẫn
với xót xa, nhớ thương. Than và ghẹo đã đan xen, hô ứng và làm nên
những giá trị thơ đặc sắc. Là giọng điệu tiêu biểu cho thơ lục bát Việt Nam
hiện đại.
3. LỤC BÁT QUÊ MÙA: NHỮNG ĐỔI MỚI VÀ CÁCH TÂN
TRONG THƠ LỤC BÁT NGUYỄN DUY, ĐỒNG ĐỨC BỐN
Qui mô, cấu trúc khổ thơ, bài thơ
Bên cạnh những kế thừa, thơ lục bát Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn
vẫn có nhiều cách tân mới lạ. Nhiều khổ thơ trong các bài lục bát của
Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn chỉ gồm có hai câu thơ, tức là một cặp sáutám. Mỗi cặp thơ như vậy lại có nội dung tương đối độc lập, giống như
những bài ca dao(Lời ru con cò biển- Nguyễn Duy; Sông thương ngày
không em-Đồng Đức Bốn). Ở phạm vi bài thơ, những bài lục bát của
Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn thường ở qui mô vừa và nhỏ, có khi là cực

nhỏ. Lục bát trong văn học viết trước đây thường dài. Ngắn gọn hoá dung
lượng bài thơ lục bát là một biểu hiện của sự hiện đại hoá trong thơ lục bát
Việt Nam hiện đại. Thi sĩ chân quê Nguyễn Bính cũng chỉ có bài Hoa cỏ
may là cực ngắn với một cặp lục bát, nhưng đến Nguyễn Duy và Đồng
Đức Bốn thì những bài thơ như thế không chỉ còn là con số một. Đó là các
bài: Gặp ma, Thiền sư, Gói…của Nguyễn Duy; Khóc một dòng sông, Lời
ru cho cỏ buồn…của Đồng Đức Bốn.Thậm chí, Đồng Đức Bốn còn cố
gắng rút ngắn dung lượng bài thơ đến mức tối đa. Cả phần tiêu đề bài thơ

22


lẫn phần nội dung bài thơ mới là một cặp sáu- tám(Chiều nay hồ Tây có
giông).
Trong thơ lục bát, Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn còn có lối bắt vần
nối tiếp từ câu thơ tiêu đề. Câu thơ đầu tiên của bài thơ vì thế cũng là tiêu
đề của bài thơ. Mới nhìn, chúng ta dễ lầm tưởng đây là những bài lục bát
biến thể bắt đầu từ câu bát(Đám mây dừng lại trên trời-ND; Thăm mộ
Nguyễn Du, Cuối cùng vẫn còn dòng sông-Đ ĐB).
Thơ lục bát hiện đại có nhiều bài kết thúc theo lối mở. Dấu hiệu nhận
biết thường là các dấu câu đặc biệt. Tiêu biểu là dấu hỏi, dấu ba chấm và
dấu chấm than. Lục bát Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn đã kế thừa trọn
vẹn những cách tân ấy (Bát nước ngô-ND; Ngõ nhỏ mưa dầm-Đ ĐB).
Ở cấp độ câu thơ
3.2.1. Về ngắt nhịp
Từ thơ lục bát Nguyễn Duy đến thơ lục bát Đồng Đức Bốn đều tuân thủ
theo lối ngắt nhịp của lục bát truyền thống. Cách ngắt nhịp này phần nào
tạo nên âm hưởng ca dao trong thơ của hai tác giả đồng quê. Bên cạnh
những kế thừa, cách ngắt nhịp trong thơ lục bát Nguyễn Duy và Đồng Đức
Bốn cũng có nhiều khác lạ. Là những đổi mới trong tư duy thơ. Những đổi

mới đó là sự làm giàu thêm cho lục bát truyền thống chứ hoàn toàn không
phải là sự vẫy vùng chối bỏ những giá trị đã có. Từ những cung bậc tình
cảm khác nhau, họ tạo ra nhiều cách ngắt nhịp linh hoạt trong các bài thơ
lục bát của mình. Có thể kể ra đây một số cách ngắt nhịp tiêu biểu, phổ
biến trong thơ lục bát của ông. Cách ngắt nhịp 1/5; 1/7, 2/6…(Ca dao vọng
về, Nét và hình-Nguyễn Duy; Cái đêm em ở với chồng-Đồng Đức Bốn).
3.2.2. Về gieo vần
Riêng về gieo vần trong thơ lục bát, Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn đã
triệt để tận dụng những thành tựu của lục bát truyền thống. Gieo vần bằng
tại tiếng thứ sáu của câu lục, tiếng thứ sáu và tiếng thứ tám của câu bát.
Trong lục bát Đồng Đức Bốn vẫn có hiện tượng gieo vần ở tiếng thứ 4
23


nhưng chỉ là hiện tượng đơn lẻ. Thực ra, hiện tượng này đã có ở thơ lục bát
từ trước Truyện Kiều. Đó là cách gieo vần ở tiếng thứ tư câu bát(Tận cuối
cơn mưa).
3.2.3. Về phối thanh
Về cách phối thanh, cả hai nhà thơ luôn có ý thức tuân thủ truyền thống
nhưng cũng có nhiều sáng tạo riêng. Để thơ mình trở nên mới lạ, có sức
hấp dẫn hơn, họ cũng cố gắng tận dụng tối đa sự tự do của các tiếng không
qui định bằng- trắc cố định. Lục bát Nguyễn Duy luôn có số thanh trắc
ngang bằng hoặc nhiều hơn thanh bằng. Sự đan xen hay thiên lệch ấy luôn
cho thấy chất tình tang, chất bụi, chất ghẹo trong thơ ông (Áo trắng má
hồng). Lục bát của nhà thơ Chăn trâu đốt lửa có vẻ hợp hơn với giọng
trầm buồn, day dứt, đôi khi là tâm trạng nặng nề của con người qua nhiều
gió sương chìm nổi với sự lấn áp của những thanh bằng (Chín xu đổi lấy
một hào).
1.2.2. Vài nét về thời gian nghệ thuật trong thơ lục bát Nguyễn Duy
và Đồng Đức Bốn.

Trong thơ lục bát của Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn, thời gian hiện
lên trong thơ họ trước hết là thời khắc khách quan, khắc hoạ theo những
cách riêng, mang cá tính, cảm xúc mỗi tác giả. Ở thơ lục bát hai tác giả
này, chúng ta dễ nhận ra cách cảm nhận thời gian quen thuộc của những
người dân quê. Người dân quê có thói quen lấy đời người với những tần
tảo, lo toan làm thước đo thời gian riêng(Người cha-Nguyễn Duy; Ở quán
bán thịt chó về chiều-Đồng Đức Bốn).
Những người dân lao động nông nghiệp là những người biết coi trọng,
nâng niu quá khứ, ngày xưa, thuở trước. Trong thơ ca Việt Nam, đặc biệt
là những bài thơ mang khí sắc hương đồng gió nội, thời trước, thời xưa đã
trở thành một nguồn cảm hứng dạt dào. Hoài niệm về một thời, một thuở
trong thơ lục bát Nguyễn Duy rất ý vị, ngọt ngào(Sông Thao). Còn ở Đồng

24


Đức Bốn, quá khứ luôn hiện lên trong sự đối lập với hiện tại phảng phất
nỗi buồn(Em không còn như ngày xưa).
KẾT LUẬN
1. Kể từ khi ra đời vào khoảng thế kỉ XV, XVI, thể lục bát vẫn luôn
khẳng định vai trò là thể thơ có nhiều ưu thế trong việc thể hiện điệu tâm
hồn dân tộc. Trải qua bao biến cố thăng trầm, thể thơ này ngày càng trở
nên hoàn thiện hơn và được nhiều người yêu thơ Việt trân trọng. Chất
đồng quê chính là một yếu tố tạo nên bí quyết sinh tồn cho thể loại.
2. Như một định mệnh, cả Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn đều tìm đến
với thể lục bát để rồi nổi danh cùng những bài lục bát dung dị, mượt mà.
Trong thơ họ nói chung, chất đồng quê giữ một vị trí đặc biệt. Chất đồng
quê đã chi phối và tác động sâu sắc tới cả nội dung và hình thức nghệ thuật
của thơ lục bát Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn. Họ đưa vào thơ những
cảm quan cùng những cảnh vật đậm chất quê mùa. Không gian, thời gian

trong thơ cùng những khu vườn với cây cỏ, hoa lá, những con vật, các hình
ảnh thiên nhiên, tự nhiên luôn được khắc hoạ, cảm nhận dưới cái nhìn, sự
suy ngẫmvà sự thương mến của con người xứ đồng. Bức tranh quê ấy còn
được làm giàu thêm rất nhiều bởi hình ảnh những con người với tình cảm
mộc mạc, chân thành: Những người bà, người mẹ, người chị, người ông,
người cha, và đặc biệt là hình ảnh những cô gái quê mùa, những người
tình- “Nàng Thơ” của thi sĩ...
Khi xây dựng bức tranh quê bằng thơ lục bát, cả hai nhà thơ này đều kế
thừa, tiếp thu rất nhiều những hình ảnh, giá trị đặc sắc của ca dao, thơ ca
truyền thống. Đó là những ngôn từ, hình ảnh được mượn trực tiếp hay gián
tiếp, những cách nói gần gũi ngôn ngữ đời thường đậm chất dân gian. Rồi
giọng điệu than vãn, chòng ghẹo trong câu thơ, cách phối thanh, cách vận
dụng những thế mạnh của thơ lục bát cổ truyền ở cả phạm vi bài thơ, khổ
thơ, câu thơ…đều được Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn phát huy, sử dụng
25


×