Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

Xây dựng cụm sản xuất gắn với công nghệ xử lý ô nhiễm môi trường để phát triển bền vững làng nghề

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.39 MB, 97 trang )

MỤC LỤC
1.1.4. Vai trò của làng nghề........................................................................17
+ Tạo việc làm, tăng thu nhập cho lao động nông thôn:..............................18
+ Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông thôn:...........................19
- Phát triển du lịch và tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa..............................20
- Phát huy các giá trị văn hóa dân tộc.........................................................21
2.1. Thực trạng làng nghề tỉnh Hải Dương.........................................................44
2.1.1. Sự phát triển số lượng và phân bố các làng nghề trên địa bàn tỉnh.....44
2.1.2. Về loại hình tổ chức sản xuất tại các làng nghề trên địa bàn tỉnh.......47
2.1.3. Công nghệ, thiết bị và vốn sản xuất kinh doanh trong các làng nghề..48
2.1.4. Đánh giá kết quả trong sản xuất, kinh doanh của làng nghề..............51
2.1.5. Thực trạng lao động trong các làng nghề..........................................54
2.1.6. Về đào tạo nghề trong các làng nghề.................................................55
2.1.8. Thực trạng môi trường trong các làng nghề......................................59
2.1.9. Thực trạng hạ tầng làng nghề và thu hút đầu tư phát triển làng nghề 62
2.2.3. Hiện trạng môi trường làng nghề......................................................68
3.1.1. Định hướng......................................................................................73
3.1.3. Quan điểm phát triển làng nghề........................................................74
3.1.4. Dự báo các yếu tố tác động đến phát triển làng nghề trên địa bàn tỉnh
..................................................................................................................75

1


LỜI CẢM ƠN
Sau hai năm học tập chuyên ngành Quản lý Khoa học và Công nghệ,
được sự giảng dạy nhiệt tình, trách nhiệm, tâm huyết của các Thầy, các Cô
trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội, tôi
đã gặt hái được nhiều điều bổ ích, giúp đỡ tôi trong thực tiễn công tác và
trong cuộc sống. Đặc biệt, trong quá trình làm luận văn tốt nghiệp, tôi đã nhận
được sự giúp đỡ tận tình của Thầy giáo, Tiến sỹ Hoàng Văn Khanh, các Thầy


giáo, Cô giáo Khoa Khoa học Quản lý - Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn - Đại học Quốc gia Hà Nội và một số cơ quan, đơn vị thuộc tỉnh Hải
Dương và huyện Nam Sách. Tôi xin được bày tỏ lòng cảm ơn tới:
- Tiến sỹ Hoàng Văn Khanh - Nguyên Viện trưởng Viện Mỏ - Luyện
kim, Bộ Công thương, người trực tiếp hướng dẫn tôi.
- Thầy giáo, GS, TS Vũ Cao Đàm, thầy giáo, PGS, TS Trần Văn Hải và
các Thầy cô giáo Khoa Khoa học Quản lý - Đại học Khoa học xã hội và Nhân
văn - Đại học quốc gia Hà Nội.
- Sở Công thương, Sở Tài nguyên - Môi trường, Sở Khoa học và Công
nghệ, Phòng Tài nguyên - Môi trường, Phòng Tài chính - Kế hoạch, Phòng
Kinh tế và Hạ tầng, Công ty Cổ phần Gốm Chu Đậu, Uỷ ban nhân dân xã
Thái Tân, xã Nam Hưng, xã Lương Điền - huyện Cẩm Giàng,... đã tạo điều
kiện và giúp đỡ tôi trong việc điều tra, khảo sát, thu thập tài liệu phục vụ cho
việc viết luận văn tốt nghiệp;
- Các đồng nghiệp, bạn bè đã giúp đỡ, động viên tôi trong quá trình học
tập.
Trong quá trình học tập và xây dựng luận văn tốt nghiệp, mặc dù bản
thân tôi cũng đã rất cố gắng nhưng chắc chắn cũng không tránh khỏi thiếu sót,
rất mong được sự quan tâm giúp đỡ của các Thầy, Cô giáo và đồng nghiệp.
Xin trân trọng cảm ơn!

2


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT
1.
2.
3.
4.

5.
6.
7.
8.
9.
10.
11.

Ký hiệu
BVMT
CN-TTCN
CNH-HĐH
GTNT
HĐND
UBND
HTX
KT-XH
PTLN
SXKD
KH-CN

Nguyên nghĩa
Bảo vệ môi trường
Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp
Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá
Giao thông nông thôn
Hội đồng nhân dân
Uỷ ban nhân dân
Hợp tác xã
Kinh tế - Xã hội

Phát triển làng nghề
Sản xuất kinh doanh
Khoa học và công nghệ

DANH MỤC BẢNG

3


DANH MỤC BIỂU ĐỒ, HÌNH VẼ

Hình 1.1: Sơ đồ đánh giá mức độ ô nhiễm tại các làng nghề..............................13
Hình 1.2: Sơ đồ phân loại làng nghề Việt Nam theo ngành nghề sản xuất.......15
Hình 2.1: Biểu đồ số lượng các Làng nghề CN-TTCN trên địa bàn tỉnh..........44
Hình 2.2: Biểu đồ phân bố làng nghề theo đơn vị hành chính cấp huyện.........45
Hình 2.3: Tỷ trọng các làng nghề phân theo ngành nghề chủ yếu.....................46
Hình 2.4: Trình độ lao động tại các làng nghề tỉnh Hải Dương.........................57
(Nguồn: Số liệu tổng hợp của Sở Công Thương năm 2014)...............................57
Hình 2.5: Thu nhập của các làng nghề.................................................................59
Hình 2.6: Xử lý ô nhiễm môi trường tại làng nghề tỉnh Hải Dương..................61
Hình 2.9. Phun sơn trong làng nghề gỗ mỹ nghệ.................................................70
Hình 3.1: Bản đồ quy hoạch sử dụng đất xã Thái Tân, huyện Nam Sách.........85
Hình 3.2: Bản đồ quy hoạch sử dụng đất xã Nam Hưng, huyện Nam Sách......86

4


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Làng nghề là một trong những đặc thù của nông thôn Việt Nam. Đa số

làng nghề đã trải qua lịch sử hình thành và phát triển hàng trăm năm gắn liền
với sự phát triển kinh tế - xã hội. Phát triển làng nghề là một trong những nội
dung chủ yếu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và phát triển
nông thôn hiện nay ở nước ta.
Trong những năm qua, sự phát triển làng nghề đã đạt được những kết
quả tích cực, góp phần làm thay đổi bộ mặt nông thôn, đem lại hiệu quả to lớn
về nhiều mặt, không chỉ góp phần phát triển kinh tế, mà còn góp phần giữ gìn
bản sắc văn hoá dân tộc, bảo đảm an ninh - trật tự xã hội.
Trước yêu cầu thời kỳ mới, việc phát triển làng nghề và ngành nghề
nông thôn nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập ở nông thôn, góp phần xoá đói
giảm nghèo, góp phần thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn và
cũng là thực hiện mục tiêu "ly nông bất ly hương" đang là vấn đề đặt ra trong
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung, của tỉnh Hải
Dương nói riêng, góp phần đẩy nhanh tiến độ thực hiện chương trình mục tiêu
quốc gia về xây dựng nông thôn mới.
Tuy nhiên, hiện nay, vấn đề ô nhiễm môi trường trong các làng nghề là
rất bức thiết, làm ảnh hưởng xấu đến chính sức khoẻ của người dân (cả hộ
làm nghề và hộ không làm nghề); người làm nghề không có đủ kinh phí đổi
mới công nghệ giảm thiểu ô nhiễm môi trường hoặc không đầu tư kinh phí để
đổi mới công nghệ hoặc không quan tâm đến vấn đề môi trường; các hộ sản
xuất trong làng nghề "mạnh ai nấy làm", nên ô nhiễm môi trường ngày một
trầm trọng, làm ảnh hưởng đến nhiều vấn đề xã hội của cư dân làng nghề.
Do vậy, môi trường làng nghề bị ô nhiễm, mâu thuẫn giữa các hộ dân
làm nghề và các hộ dân không làm nghề sẽ tăng lên, làm mất trật tự an toàn
xã hội, ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ của người dân, như vậy phát triển sẽ
không ổn định, không bền vững.

5



Để giải quyết vấn đề này, đề tài "Xây dựng cụm sản xuất gắn với công
nghệ xử lý ô nhiễm môi trường để phát triển bền vững làng nghề" sẽ là cơ sở
đề xuất chính sách với các giải pháp nhằm phát triển bền vững làng nghề
thông qua các giải pháp cụ thể.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Vấn đề phát triển làng nghề ở nông thôn và phát triển nông nghiệp, nông
thôn theo hướng CNH, HĐH có ý nghĩa thực tiễn quan trọng đã được Đảng,
Nhà nước quan tâm; được nhiều tác giả, nhiều nhà khoa học, chính quyền các
cấp quan tâm, các sách chuyên khảo, các bài báo trên các tạp chí chuyên
ngành đề cập và đã đạt được những kết quả nhất định. Sau đây là tổng quan
tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài như sau:
Công trình "Phát triển làng nghề truyền thống vùng kinh tế trọng điểm
Bắc Bộ” (2010), Luận án Tiến sĩ kinh tế của Bạch Thị Lan Anh đã hệ thống
hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển bền vững làng nghề truyền
thống Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Đồng thời đề xuất quan điểm, định
hướng và các giải pháp đồng bộ để giải quyết mâu thuẫn giữa sản xuất, hiệu
quả xã hội, môi trường trong các làng nghề truyền thống đảm bảo sự phát
triển bền vững tại các làng nghề vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ.
Công trình "Một số chính sách chủ yếu phát triển bền vững làng nghề
Việt Nam" (2010), đề tài cấp Bộ do Thạc sĩ Đinh Xuân Nghiêm chủ nhiệm đã
tập trung phân tích sâu về một số chính sách hiện hành liên quan đến việc
phát triển làng nghề, đồng thời đề xuất phương hướng hoàn thiện các chính
sách nhằm phát triển làng nghề Việt Nam trong thời gian tới.
Công trình "Đánh giá thực trạng và đề xuất các chính sách, giải pháp
chủ yếu phát triển bền vững làng nghề Hà Nội đến năm 2020, tầm nhìn đến
năm 2030" (2011), đề tài cấp thành phố do Tiến sĩ Hoàng Hà chủ nhiệm đã đi
sâu phân tích thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của các làng nghề Hà
Nội và đề xuất một số chính sách, giải pháp chủ yếu nhằm phát triển bền
vững làng nghề Hà Nội đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.


6


Ngoài ra còn nhiều đề tài, luận văn thạc sĩ có giá trị như:
Đề tài "Nhận diện những rào cản trong đổi mới công nghệ tại các làng
nghề ở tỉnh Nam Định" của Nguyễn Quỳnh Trang (2011).
Đề tài "Quản lý xung đột môi trường trong phát triển làng nghề bằng
xây dựng khu sản xuất tách biệt và lập quỹ phòng chống ô nhiễm môi trường"
của Thân Trung Dũng (2009).
Đề tài "Chính sách thúc đẩy đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp
sản xuất gốm nhằm xây dựng cụm công nghiệp gốm tại thành phố Biên Hoà,
tỉnh Đồng Lai" của Lê Tuấn Anh (2014).
Luận văn thạc sĩ "Giải pháp xây dựng làng nghề trên địa bàn tỉnh Bắc
Ninh theo hướng phát triển bền vững" của Nguyễn Hữu Loan (2007).
Đánh giá chung: Tất cả những công trình nêu trên đã tiến hành nghiên
cứu làng nghề tập trung ở các lĩnh vực chính sau:
+ Một là, nghiên cứu tổng quan về tình hình hoạt động của công nghiệp
nông thôn; thực trạng CNH-HĐH nông nghiệp và phát triển nông thôn;
+ Hai là, nghiên cứu về tình hình phát triển tiểu thủ công nghiệp và
những vấn đề môi trường tác động đến làng nghề;
+ Ba là, nghiên cứu về tình hình SXKD của làng nghề, làng nghề truyền
thống từ lao động, công nghệ, vốn, thị trường tiêu thụ sản phẩm… trong bối
cảnh hội nhập quốc tế...
+ Bốn là, đề xuất một số giải pháp để phát triển làng nghề.
Các công trình nghiên cứu đã công bố của các tác giả về phát triển làng
nghề chủ yếu ở tầm vĩ mô. Ở đó có các giải pháp mang tính chung nhất. Việc áp
dụng vào các địa phương đơn vị lại rất cần quan tâm đến những nét đặc thù,
chưa thật sự được đầy đủ, cụ thể. Ví dụ như đất đai để xây dựng ở đâu, nguồn
vốn lấy ở đâu và tính khả thi trong thực hiện như thế nào còn chưa toàn diện,...
Luận văn này kế thừa chọn lọc kết quả nghiên cứu, xây dựng của các đề

tài nêu trên, đồng thời, tập trung nghiên cứu đối với các loại hình làng nghề
nói chung trong tỉnh Hải Dương, làng nghề gốm Chu Đậu - huyện Nam Sách
nói riêng. Tập trung theo các vấn đề cần nghiên cứu chủ yếu như sau:
7


- Giải pháp "đẩy" được hoạt động sản xuất của làng nghề ra khỏi địa bàn
dân cư.
- Phải quy hoạch và thực hiện được quy hoạch đất đai đã quy hoạch làm
cơ sở xây dựng làng nghề.
- Nhà nước không hỗ trợ cho làng nghề về đổi mới công nghệ mà dùng
kinh phí đó với kinh phí hỗ trợ xây dựng hạ tầng để xây dựng cụm sản xuất
gắn với công nghệ xử lý ô nhiễm môi trường, cho cư dân làng nghề vào sử
dụng miễn phí.
- Trên cơ sở người dân không phải đầu tư xử lý ô nhiễm môi trường,
kinh phí đó chuyển sang để đổi mới công nghệ của chính cơ sở sản xuất của
họ, nâng cao chất lượng, giá thành sản phẩm.
- Xử phạt các hộ hoạt động trong làng nghề gây ô nhiễm môi trường.
Có được các vấn đề nêu trên là tất yếu để làng nghề phát triển bền vững.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu chung
Xây dựng chính sách xây dựng cụm sản xuất gắn với công nghệ xử lý ô
nhiễm môi trường.
3.2. Mục tiêu cụ thể
Để đạt được mục tiêu chung của đề tài luận văn đặt ra mục tiêu cụ thể
như sau:
- Hệ thống hoá các khái niệm có liên quan đến đề tài, bao gồm: Cụm sản
xuất, công nghệ, đổi mới công nghệ, chính sách, chính sách khoa học và công
nghệ, ô nhiễm môi trường, xử lý ô nhiễm môi trường, làng nghề, phát triển
bền vững.

- Phân tích, đánh giá hiện trạng các làng nghề và công nghệ xử lý ô
nhiễm môi trường làng nghề tại tỉnh Hải Dương, khảo sát sâu hơn về làng
nghề Gốm Chu Đậu của huyện Nam Sách và làng nghề gỗ mỹ nghệ Đông
Giao, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương.
- Đề xuất chính sách xây dựng cụm sản xuất gắn với công nghệ xử lý ô
nhiễm môi trường.
8


4. Phạm vi nghiên cứu:
4.1. Phạm vi không gian: Tỉnh Hải Dương.
4.2. Phạm vi thời gian: Từ năm 2011 đến hết năm 2014.
4.3. Giới hạn nội dung: Nghiên cứu hoạt động của các làng nghề thuộc
tỉnh Hải Dương, trong đó, khảo sát, nghiên cứu thực tế làng nghề Gốm Chu
Đậu, huyện Nam Sách và làng nghề gỗ mỹ nghệ Đông Giao, huyện Cẩm
Giàng, tỉnh Hải Dương.
5. Mẫu khảo sát
Tác giả luận văn tiến hành khảo sát tại làng nghề Gốm Chu Đậu, huyện
Nam Sách và làng nghề gỗ mỹ nghệ Đông Giao, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải
Dương.
6. Câu hỏi nghiên cứu
Xây dựng chính sách gì để làng nghề phát triển bền vững?
7. Giả thuyết nghiên cứu
Giả thuyết nghiên cứu chủ đạo: Xây dựng cụm sản xuất gắn với công
nghệ xử lý ô nhiễm môi trường tách biệt khu dân cư là tất yếu để phát triển
bền vững làng nghề.
Giả thuyết nghiên cứu cụ thể:
- Quy hoạch chi tiết diện tích đất gần các làng nghề để xây dựng cơ sở hạ tầng.
- Không dùng ngân sách nhà nước để làng nghề đổi mới công nghệ, dùng
một phần ngân sách xây dựng đường giao thông nông thôn để xây dựng cơ sở

hạ tầng gắn với công nghệ xử lý ô nhiễm môi trường (đảm bảo có công trình
nhà xưởng, việc cấp, thoát nước, hệ thống điện, vệ sinh môi trường tại cụm
sản xuất).
- Cho phép các hộ dân làng nghề sử dụng miễn phí hạ tầng kỹ thuật của
cụm sản xuất đã đảm bảo các yếu tố nêu trên.
- Phạt vi phạm hành chính và thu phí môi trường đối với các hộ sản xuất
trong làng nghề mà gây ô nhiễm môi trường;
- Các hộ dân làng nghề không phải chi cho việc xây dựng hệ thống hạ
tầng, hệ thống cấp, thoát nước, hệ thống điện, vệ sinh môi trường,... từ đó giá
9


thành sản phẩm sẽ giảm, tính cạnh tranh thị trường sẽ cao, lợi nhuận tăng lên;
kinh phí để xử lý ô nhiễm môi trường không phải đầu tư nên hộ dân sẽ có
kinh phí để tự đổi mới công nghệ sản xuất;
- Do nhìn thấy thuận lợi, lại không bị xử phạt hành chính nên việc tuyên
truyền, vận động vào cụm sản xuất sẽ hiệu quả ngay.
8. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu và kế thừa các kết quả nghiên cứu của các nhà
nghiên cứu, các học viên trước trong vấn đề phát triển làng nghề;
- Phương pháp nghiên cứu phân tích tài liệu.
- Khảo sát thực tế tại một số làng nghề.
- Nghiên cứu và tìm hiểu các thông tin, tài liệu của các cơ quan, đơn vị
đã đánh giá, khảo sát tại địa bàn tỉnh Hải Dương.
9. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của Luận văn bao gồm 3 chương:
- Chương 1. Cơ sở lý luận về chính sách, đổi mới công nghệ, làng nghề
và môi trường;
- Chương 2. Thực trạng các làng nghề trong tỉnh Hải Dương, giai đoạn

2011 - 2014;
- Chương 3. Hình thành chính sách xây dựng cụm sản xuất gắn với công
nghệ xử lý ô nhiễm môi trường.

10


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LÀNG NGHỀ,
MÔI TRƯỜNG, CHÍNH SÁCH, ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ
1.1. Cơ sở lý luận về làng nghề
1.1.1. Khái niệm làng nghề
Theo PGS, TS Bùi Xuân Đính, "Làng là đơn vị tụ cư truyền thống của
người nông dân Việt, có địa vực riêng, cơ cấu tổ chức, cơ sở hạ tầng, các tục lệ
thờ cúng riêng (về cheo cưới, tang ma, khao vọng), tâm lý tính cách riêng và cả
"thổ ngữ" (tiếng làng) riêng, hoàn chỉnh và tương đối ổn định trong quá trình
lịch sử" 1.
Theo định nghĩa của Từ điển Tiếng Việt, "Làng là một khối người quây
quần ở một nơi nhất định trong nông thôn. Làng là một tế bào của xã hội của
người Việt, là một tập hợp dân cư chủ yếu theo quan hệ láng giềng. Đó là
một không gian lãnh thổ nhất định, ở đó tập hợp những người dân quần tụ lại
cùng sinh sống và sản xuất".
Trong quá trình đô thị hóa, khái niệm làng được hiểu một cách tương
đối.
Một số địa phương hiện nay không còn được gọi là làng mà thay vào đó
là những tên gọi khác như phố, khối phố. Tuy nhiên, dù tên gọi là có thay đổi
nhưng bản chất của cộng đồng dân cư đó vẫn gắn với nông thôn thì vẫn được
xem là làng.
Các làng ở nước ta được chia làm 4 loại chính:
- Làng thuần nông hay còn gọi là làng nông nghiệp, là những làng nghề

nông một cách thuần túy.
- Làng buôn bán, là làng làm nghề nông có thêm nghề buôn bán của một
số thương nhân chuyên nghiệp hoặc bán chuyên nghiệp.
- Làng nghề, là làng làm nghề nông nghiệp nhưng có thêm một số nghề
thủ công.
1

Bùi Xuân Đính, "Bàn thêm về mối quan hệ giữa làng và xã qua qui mô cấp xã thời phong kiến", Hà Nội,

NXB Thế Giới, 1998, tr. 97.

11


- Làng chài, là làng của các cư dân làm nghề chài lưới, đánh cá sống ở
ven sông, ven biển.
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia 2: "Làng nghề là một đơn vị
hành chính cổ xưa mà cũng có nghĩa là một nơi quần cư đông người, sinh
hoạt có tổ chức, có kỷ cương tập quán riêng theo nghĩa rộng. Làng nghề
không những là một làng sống chuyên nghề mà cũng có hàm ý là những
người cùng nghề sống hợp quần thể để phát triển công ăn việc làm. Cơ sở
vững chắc của các làng nghề là sự vừa làm ăn tập thể, vừa phát triển kinh tế,
vừa giữ gìn bản sắc dân tộc và các cá biệt của địa phương".
Tác giả Nguyễn Văn Đại, Trần Văn Luận cho rằng "Làng nghề là những
làng đã từng có từ 50 hộ hoặc từ 1/3 tổng số hộ hay lao động của địa phương
trở lên làm nghề chiếm phần chủ yếu trong tổng thu nhập của họ trong năm".3
Thông tư số 116/2006/TT-BNN của Bộ NN & PTNT hướng dẫn thực
hiện một số nội dung Nghị định số 66/2006/NĐ-CP của Chính phủ về phát
triển ngành nghề nông thôn: "Làng nghề là một hoặc nhiều cụm dân cư cấp
thôn, ấp, bản, làng, buôn, phum, sóc hoặc các điểm dân cư tương tự trên địa

bàn một xã, thị trấn có các hoạt động ngành nghề nông thôn, sản xuất ra một
hoặc nhiều loại sản phẩm khác nhau".
Như vậy, tên gọi "Làng nghề" được xuất hiện khá nhiều trên các phương
tiện thông tin đại chúng cả địa phương và trung ương, và những tác giả nêu
trên cũng có cách nhìn nhận khác nhau.
Trong luận văn này, khái niệm làng nghề được hiểu theo Quyết định số
13/2009/QĐ-UBND ngày 13/5/2009 của UBND tỉnh Hải Dương ban hành
Quy định về việc công nhận làng nghề Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp
(CN-TTCN) tỉnh Hải Dương,
Tại Điều 2, Chương 1, Giải thích từ ngữ nêu rõ: "Làng nghề công nghiệp
- tiểu thủ công nghiệp (gọi tắt là làng nghề) là làng (thôn, khu dân cư) có

2

/>3
/>
12


ngành nghề sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp phát triển ở các hộ
gia đình trở thành nguồn thu nhập cao của người dân trong làng".
1.1.2. Phân loại làng nghề
Làng nghề xuất hiện từ rất lâu đời (từ thời nhà Lê, nhà Lý). Các sản
phẩm của làng nghề phục vụ cho đời sống hàng ngày, đời sống tâm linh, cho
việc học tập, cho đời sống văn hóa.
Trên cơ sở tiếp cận vấn đề môi trường, phân loại làng nghề theo các kiểu
dạng sau là phù hợp hơn cả.
- Theo lịch sử hình thành và phát triển các làng nghề, có:
Làng nghề truyền thống: Theo Thông tư 116/2006/TT-BNN của Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: "Làng nghề truyền thống là làng nghề

có nghề truyền thống được hình thành từ lâu đời".
Làng nghề mới: Là làng có ngành nghề phát triển trong những năm gần
đây, chủ
hoặc do sự du nhập
Cácyếu
số liệudo
đặc sự lan tỏa từ làng nghề truyền thống

trưng môi trường

Có chất thải nguy

vượt
quá quy
trong quá
hội nhập giữahại
các
vùng
và giữa các nước.
trongtrình
dòng thải
của làng nghề

định

Ngay các làng nghề truyền thống cũng có sự đan xen giữa nghề mới và
nghề truyền thống.

Không


Ô nhiễm nặng

- Phân loại theo nguồn thải và mức độ ô nhiễm
Có ít nhất một thông

Để có căn cứ cho việc đánh
giá
mức
số môi
trường
đặc độ ô nhiễm tại các làng nghề, chúng
trưng cho làng nghề


cao hơn
5 lần TCCP
ta cần xem xét một số khía cạnh
như:
Điều kiện lao động,
những tác động, sự

phát triển các làng nghề song song với thay đổi nguyên vật liệu và chất thải
Không

đầu ra dẫn đến sự vượt quá sức tải dùng cho việc phân huỷ chất thải.
Theo cách phân loại này ta có làng nghề ô nhiễm nặng, làng nghề ô
nhiễm trung bình và làng

Có ít nhất một thông
số môi trường đặc

nghề
ô nhiễm nhẹ.
trưng cho làng nghề
từ 2 đến 5 lần TCCP



Ô nhiễm trung
bình

Không

Có ít nhất một thông
số môi trường đặc
trưng cho làng nghề
nhỏ hơn 2 lần TCCP

Ô nhiễm nhẹ

Hình 1.1: Sơ đồ đánh giá mức độ ô nhiễm tại các làng nghề
Không

13
Làng nghề không
gây ô nhiễm


- Phân loại theo ngành sản xuất và loại hình sản phẩm
Dựa trên các yếu tố tương đồng về ngành sản xuất, sản phẩm, nguyên vật
liệu có thể chia hoạt động làng nghề nước ta ra thành 6 nhóm làng nghề

chính:
+ Làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm, chăn nuôi và giết mổ:
Phần nhiều sử dụng lao động lúc nông nhàn, không yêu cầu trình độ cao, hình
thức sản xuất thủ công và gần như ít thay đổi về quy trình sản xuất so với thời
điểm khi hình thành nghề.
+ Làng nghề dệt nhuộm, ươm tơ, thuộc da: Nhiều làng có từ lâu đời, các
sản phẩm mang tính lịch sử, văn hoá, mang đậm nét địa phương. Quy trình
sản xuất không thay đổi nhiều, với nhiều lao động có tay nghề cao.
+ Làng nghề sản xuất vật liệu xây dựng và khai thác đá: Hình thành từ
hàng trăm năm nay, tập trung ở vùng có khả năng cung cấp nguyên liệu cơ
14


bản cho hoạt động xây dựng. Lao động gần như thủ công hoàn toàn, quy trình
công nghệ thô sơ, tỷ lệ cơ khí hoá thấp, ít thay đổi.
+ Làng nghề tái chế phế liệu: Chủ yếu là các làng nghề mới hình thành,
số lượng ít, nhưng lại phát triển nhanh về quy mô và loại hình tái chế. Ngoài
ra các làng nghề cơ khí chế tạo và đúc kim loại với nguyên liệu chủ yếu là sắt
vụn, sắt thép phế liệu cũng được xếp vào loại hình làng nghề này.
+ Làng nghề thủ công mỹ nghệ: Bao gồm các làng nghề gốm, sành sứ,
thuỷ tinh mỹ nghệ; chạm khắc đá, chạm mạ bạc vàng; sản xuất mây tre đan,
đồ gỗ mỹ nghệ, sơn mài, làm nón, dệt chiếu, thêu ren. Quy trình sản xuất gần
như không thay đổi, lao động thủ công, nhưng đòi hỏi tay nghề cao, chuyên
môn hoá, tỉ mỉ và sáng tạo.
+ Các nhóm ngành khác: Bao gồm các làng nghề chế tạo nông cụ thô sơ
như cày bừa, cuốc xẻng, liềm hái, đóng thuyền, làm quạt giấy, dây thừng, đan
vó, đan lưới, làm lưỡi câu... Lao động phần lớn là thủ công với số lượng và
chất lượng ổn định.
Hình 1.2: Sơ đồ phân loại làng nghề Việt Nam theo ngành nghề sản xuất


- Phân loại theo quy mô làng nghề
+ Làng nghề quy mô lớn, lan tỏa, liên kết nhiều làng làm cùng một nghề
hoặc cùng một không gian địa lí lãnh thổ, tạo thành vùng nghề hoặc xã nghề ở
đó các làng nghề, có quy mô lao động phi nông nghiệp rất lớn, không chỉ với
lực lượng lao động tại chỗ mà còn thu hút nhiều lao động đến làm thuê.
+ Làng nghề quy mô nhỏ, là trong phạm vi một làng theo địa giới hành
chính. Ở các làng nghề này thường hoạt động kinh doanh một ngành nghề phi
nông nghiệp, được truyền nghề theo phạm vi dòng tộc.
1.1.3. Các tiêu chí công nhận làng nghề
15


Làng nghề được công nhận (theo Thông tư 116/2006/TT-BNN của Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) phải đạt 03 tiêu chí sau:
(1) Có tối thiểu 30% tổng số hộ trên địa bàn tham gia các hoạt động
ngành nghề nông thôn;
(2) Hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính đến thời
điểm đề nghị công nhận;
(3) Chấp hành tốt chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Cụ thể hoá Thông tư của Bộ Nông nghiệp và PTNT, UBND tỉnh Hải
Dương ban hành Quy định để công nhận làng nghề gồm:
(1) Chấp hành tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
nhà nước; các quy định của chính quyền địa phương, có hình thức tổ chức
phù hợp; phát triển ngành nghề gắn với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội,
xây dựng làng văn hóa của địa phương, giữ gìn vệ sinh môi trường.
(2) Số hộ gia đình hoặc lao động làm nghề CN - TTCN ở làng đạt từ
25% trở lên so với tổng số hộ hoặc lao động của làng;
(3) Doanh thu từ sản xuất CN - TTCN ở làng chiếm tỷ trọng từ 30% trở
lên so với tổng doanh thu của làng trong năm;
(4) Thu nhập bình quân năm của một lao động ở làng nghề sản xuất CN TTCN phải cao hơn thu nhập bình quân của lao động trong xã từ 10% trở lên;

(5) Hoạt động sản xuất kinh doanh phải đảm bảo vệ sinh môi trường
chung, nhất là về hệ thống thoát nước, hệ thống xử lý rác thải và nước thải.
Làng nghề truyền thống và làng nghề cổ truyền sẽ được xem xét đề nghị
công nhận cho từng trường hợp cụ thể, chú trọng đến giá trị kinh tế và văn
hóa của sản phẩm;
Các tiêu chuẩn trên của làng đạt ổn định từ 3 năm trở lên sẽ được Ủy ban
nhân dân tỉnh xem xét công nhận làng nghề.

16


1.1.4. Vai trò của làng nghề
- Làng nghề TTCN là cơ sở xuất phát quan trọng đầu tiên trong quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế
Các làng nghề tiểu thủ công nghiệp phát triển sẽ thúc đẩy phân công lao
động xã hội ở nông thôn theo hướng CNH, HĐH; thu hút lao động dôi dư từ
nông nghiệp. Đây là yếu tố, điều kiện quan trọng để CNH, HĐH của toàn bộ
nền kinh tế.
Trong tình trạng nền kinh tế phát triển thấp, các làng nghề TTCN sử
dụng nguồn tài nguyên, lao động dồi dào ở nông thôn, khai thác nguồn vốn tự
có trong dân, mở rộng sản xuất ở những ngành, nghề, khu vực chưa hoặc
không thể cơ khí hoá được. Nhờ vậy, giải quyết được công ăn việc làm cho
người lao động và tích luỹ vốn cho CNH, HĐH.
Sự phát triển của làng nghề TTCN ở nông thôn góp phần tạo những yếu
tố ban đầu, hình thành đội ngũ những người thợ, nhà quản lý… tạo đà cho
CNH, HĐH tại địa bàn nông thôn. Bên cạnh đó, người thợ sẽ áp dụng mạnh
mẽ các tiến bộ khoa học, công nghệ vào việc cải tạo nghề truyền thống. Xây
dựng một nền thủ công hiện đại năng động, có khả năng cung ứng sản phẩm
mỹ nghệ cho những nhu cầu thị hiếu mới, kể cả xuất khẩu. Việc xuất khẩu
những sản phẩm thủ công mỹ nghệ, sẽ phát huy lợi thế so sánh nước ta với

các nước nhập khẩu, truyền bá văn hoá truyền thống, góp phần quảng bá du
lịch; thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.
- Phát triển làng nghề TTCN là sự bảo tồn và phát triển công nghiệp cổ
truyền trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Thực tế hiện nay, các ngành nghề TTCN truyền thống sẽ diễn ra ba chiều
hướng: một số nghề cổ truyền bị triệt tiêu dần và biến mất; một số nghề khác
tiếp tục tồn tại, phát triển thích ứng với hoàn cảnh mới; và sẽ có một số nghề
mới hình thành. Các làng nghề TTCN tiếp tục tồn tại và duy trì mối quan hệ
mật thiết với sản xuất công nghiệp theo quy mô lớn theo ba hướng:

17


Một là, các làng nghề sẽ hoạt động dựa trên việc sử dụng nguyên liệu,
các dụng cụ và trang thiết bị từ các nhà máy công nghiệp lớn để tổ chức sản
xuất. Thể hiện sự phân tầng trong sản xuất công nghiệp.
Hai là, các làng nghề TTCN cung ứng các công cụ sản xuất, hoàn tất sản
phẩm công nghiệp, làm dịch vụ cho công nghiệp tại các nhà máy lớn, vai trò
như nhà thầu phụ trong sản xuất công nghiệp.
Ba là, các làng nghề TTCN hoạt động song song với nhà máy công
nghiệp lớn. Các nhà máy chỉ xử lý nguyên liệu đến một khâu nhất định, sau
đó chuyển phần gia công cho ngành nghề thủ công tại các làng nghề; hoặc
nhà máy thoả mãn nhu cầu hàng loạt, còn thợ thủ công sẽ đáp ứng cho nhu
cầu riêng biệt cho từng công đoạn tạo sản phẩm. Đây là xu thế cần định
hướng phát triển trong tương lai, chính là sự phân công lao động xã hội
chuyên môn hóa cao, TTCN trở thành công nghiệp phụ trợ, vệ tinh cho công
nghiệp hiện đại.
Do vậy, làng nghề TTCN tồn tại và phát triển là một tất yếu khách quan
của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thông quá quá trình tồn tại và
hoạt động góp phần lưu giữ, bảo tồn công nghệ truyền thống của Việt Nam

trong quá trình hội nhập với kinh tế thế giới và khu vực.
- Làng nghề đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng nông
thôn mới
+ Tạo việc làm, tăng thu nhập cho lao động nông thôn:
Việc phát triển ngành nghề, làng nghề là hướng chủ yếu để tạo việc làm
cho lao động nông thôn. Với số lao động chưa đủ việc làm trong thời gian
nông nhàn (còn đến 35% thời gian lao động của nông dân), số lao động
không còn việc làm khi ruộng đất đã chuyển đổi mục đích sử dụng (phát triển
công nghiệp và đô thị),… sức ép về việc làm cho lao động ở nông thôn là rất
lớn. Các làng nghề sẽ là nơi thu hút lao động làm việc thường xuyên, ngoài ra,
còn tận dụng được số lao động trên và dưới độ tuổi, kể cả các trẻ em khuyết
tật vào những công đoạn thích hợp.

18


Làng nghề phát triển kéo theo sự phát triển của nhiều ngành nghề khác,
dịch vụ khác, qua đó tạo thêm việc làm, thêm thu nhập cho dân cư nhiều vùng
nông thôn, như nghề mây tre đan đã kéo theo sự phát triển những vùng trồng
cây làm nguyên liệu; ngành chế biến lương thực, thực phẩm đã thúc đẩy
ngành trồng trọt, chăn nuôi phục vụ cho chế biến.
Sản xuất, kinh doanh ngày càng tăng, các dịch vụ như tín dụng, ngân
hàng, các dịch vụ khoa học kỹ thuật phục vụ nâng cao năng suất lao động,
dịch vụ về đời sống,... cũng có thêm điều kiện phát triển, làm phong phú cuộc
sống ở nông thôn.
+ Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông thôn:
Phát triển ngành nghề nông thôn, làng nghề chính là con đường chủ yếu
để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng chuyển từ lao động nông
nghiệp năng suất thấp, thu nhập thấp sang lao động ngành nghề có năng suất
và chất lượng cao với thu nhập cao hơn.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, là việc đưa kinh tế nông thôn phát
triển cả về chất lượng và số lượng. Đó là làm thay đổi cơ cấu sản xuất, lao
động, sản phẩm, thu nhập…trong nông nghiệp. Làng nghề TTCN góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn vì các lý do sau đây:
Một là, sự phát triển của các làng nghề TTCN làm cho tỷ trọng công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tăng dần trong GRDP. Như vậy, có thể xoá bỏ
tình trạng độc canh cây lúa hoặc kinh tế thuần nông ở từng địa phương; làm
tăng nhanh khối lượng sản phẩm hàng hoá cho tiêu dùng, xuất khẩu, tăng thu
nhập cho các tầng lớp dân cư, góp phần xoá đói giảm nghèo ở nông thôn.
Hai là, Làng nghề TTCN cung cấp sản phẩm cho khu vực nông thôn,
nông nghiệp, đồng thời tạo vốn, phát triển ngành nghề. Thu nhập từ các ngành
phi nông nghiệp trong dân cư tăng nhanh; từ đó kích thích nông dân đầu tư
vốn vào mở xưởng để làm TTCN. Khi khối lượng sản phẩm hàng hoá ngày
càng tăng nhanh, thị trường mở rộng thì kinh tế dịch vụ phát triển. Khi đó, cơ
cấu kinh tế ở nông thôn chuyển dịch theo hướng tích cực.
- Góp phần tạo vốn, đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển công nghiệp
19


Các làng nghề TTCN tạo ra những điều kiện ban đầu về nhân lực, vốn,
thị trường cho CNH, HĐH. Do tính chất đặc trưng của sản xuất "tiểu, thủ
công nghiệp" là quy mô nhỏ, công cụ lao động thủ công; với mức đầu tư
không lớn, nên dễ dàng huy động các khoản vốn nhỏ nhàn rỗi trong dân, của
hộ gia đình, trong họ hàng, và đi vay từ các tổ chức tín dụng.
Trong các làng nghề TTCN truyền thống thường có sự truyền nghề với
những quy định khắt khe. Ông tổ nghề là người có công đầu đưa kỹ thuật
mới, công nghệ tiên tiến hơn từ nơi khác về địa phương, làm chấn hưng, phát
triển nghề. Chế độ học việc ở các làng nghề cổ truyền, đã đào tạo ra nhiều thợ
thủ công lành nghề. Việc thờ tổ nghề, là truyền thống tôn sư trọng đạo để giữ
gìn, phát triển các nghề truyền thống ở nông thôn.

Qua hoạt động công xưởng, người thợ thủ công được rèn thói quen, kỷ
luật và phương pháp làm việc công nghiệp. Theo đó từng bước hình thành thị
trường lao động có tổ chức, cung ứng đủ về số lượng và chất lượng nhân lực
cho công nghiệp. Đồng thời xây dựng và rèn luyện một đội ngũ cán bộ quản
lý sản xuất, chủ các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Sự lớn mạnh của các làng nghề
TTCN đồng nghĩa với việc dần hình thành tầng lớp doanh nhân phát triển đủ
sức đảm đương việc quản lý và điều hành những xí nghiệp công nghiệp ở khu
vực nông thôn.
- Phát triển du lịch và tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa
Phát triển du lịch làng nghề là phát triển loại hình du lịch văn hóa chất
lượng cao. Du lịch làng nghề khai thác các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể,
các sản phẩm thủ công mỹ nghệ do lao động làng nghề làm ra, như là một đối
tượng tài nguyên du lịch phục vụ cho việc tìm hiểu văn hóa, tham quan, vui chơi,
giải trí. Khách du lịch có thể trực tiếp xem và tham gia vào một số công đoạn sản
xuất sản phẩm đặc trưng của làng nghề. Du khách được tiếp cận với nét văn hóa,
phong tục tập quán, cốt cách của người thợ ở từng vùng quê.
Du lịch làng nghề được khai thác một cách bài bản, chuyên nghiệp, sẽ là
phương tiện giao lưu, quảng bá văn hóa, đất nước, con người Việt Nam một
cách sâu rộng và có hiệu quả, góp phần tôn vinh, bảo tồn và giới thiệu rộng
20


rãi các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Du lịch làng nghề được quảng
bá và thị trường các sản phẩm của làng nghề được mở rộng sẽ nâng cao thu
nhập của cư dân làng nghề, mang lại lợi ích kinh tế không nhỏ cho làng nghề
và cho địa phương có làng nghề.
Du lịch làng nghề thường được gắn chặt với du lịch tâm linh, du lịch
sinh thái và du lịch ẩm thực... góp phần thúc đẩy sự phát triển của hệ thống
kết cấu hạ tầng các làng nghề.
Bên cạnh đó, các sản phẩm làng nghề còn góp phần quan trọng vào tăng

trưởng kim ngạch xuất khẩu mỗi quốc gia, hoặc địa phương. Thực tế hiện
nay, nhiều nước ưa chuộng hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam vì những kiểu
dáng độc đáo như đồ gốm sứ, hàng thổ cẩm, mây tre đan trau chuốt bằng bàn
tay khéo léo của nghệ nhân, đến những sản phẩm nội thất bằng gỗ, sứ, gốm,
đá mỹ nghệ làm đẹp thêm những ngôi nhà và tôn thêm vẻ đẹp của những công
trình công cộng.
- Phát huy các giá trị văn hóa dân tộc
Làng nghề thủ công truyền thống còn là nơi lưu giữ kho tàng di sản văn
hóa vật thể và phi vật thể vô cùng phong phú; là nơi biểu hiện cụ thể, sinh
động bản sắc văn hóa Việt Nam. Từ nhiều năm nay, sản phẩm thủ công mỹ
nghệ đã tô đẹp thêm đời sống văn hóa và góp phần vào đời sống tâm linh của
mỗi gia đình người Việt, đồng thời giới thiệu tinh hoa văn hóa Việt Nam với
bạn bè khắp năm châu. Một số sản phẩm cụ thể của Hải Dương duy trì và
phát huy nét văn hóa quý báu đó như: Sản phẩm gốm Chu Đậu (Nam Sách) ở
thế kỷ XIV-XV, vàng bạc Châu Khê (Bình Giang), Giầy dép da Tam Lâm
(Hoàng Diệu, Gia Lộc)...
Giá trị văn hóa thể hiện rõ nét nhất trong các sản phẩm làng nghề gắn với
trí thông minh, bàn tay khéo léo và kỹ thuật tinh sảo của các nghệ nhân những người lưu giữ những tinh hoa văn hóa dân tộc trong các sản phẩm. Đó
là những hoa văn, những họa tiết được lưu giữ từ nhiều đời trong những sản
phẩm mỹ nghệ, những chi tiết quyết định giá trị của sản phẩm mang tinh hoa
của người thợ thủ công và sắc thái riêng của làng nghề truyền thống. Mỗi sản
21


phẩm thủ công mỹ nghệ truyền thống không chỉ là một sản phẩm hàng hóa
thông thường mà là nơi gửi gắm tâm hồn, tài năng, thể hiện khiếu thẩm mỹ,
sự thông minh, sáng tạo, tinh thần lao động của nghệ nhân, trở thành sản
phẩm văn hoá có tính nghệ thuật cao.
Một nét đặc trưng của văn hóa làng nghề Việt Nam là việc tôn vinh, thờ
cúng các vị Tổ nghề. Nhiều làng nghề đã tổ chức Lễ hội hàng năm thể hiện

lòng biết ơn, sự tôn vinh của làng nghề đối với người đã có công truyền bá và
sáng tạo ra nghề. Đây là nét văn hóa đẹp của dân tộc Việt Nam cần thiết được
phát huy trong quá trình hội nhập và phát triển.
Trong luận văn này, làng nghề gốm được hiểu là làng nghề sản xuất
sản phẩm gốm với một tỷ lệ số hộ gia đình, số lao động làm nghề nhất định,
đem lại thu nhập chính của người dân trong làng.
1.1.5. Phát triển làng nghề
1.1.5.1. Khái niệm về phát triển
Theo Triết học duy vật biện chứng, phát triển là một phạm trù Triết học
chỉ khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp lên cao, từ kém hoàn thiện
đến hoàn thiện hơn của sự vật.
Nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật. Phát triển
có các tính chất: tính phổ biến; tính đa dạng, phong phú; tính kế thừa; tính
khách quan và tính phức tạp.
Dưới góc độ kinh tế: Theo giáo sư Bùi Đình Thanh, một trong những cây
đại thụ của làng xã hội học Việt Nam, một nhà xã hội học có uy tín trong giới
nghiên cứu xã hội học thế giới: hiện nay khái niệm về phát triển vẫn còn tiếp
tục là vấn đề tranh luận giữa các nhà nghiên cứu khoa học và hoạch định
chính sách trên thế giới; qua nghiên cứu, ông khái quát lại khái niệm về phát
triển như sau: "Phát triển là một quá trình tiến hóa của mọi xã hội, mọi cộng
đồng dân tộc trong đó các chủ thể lãnh đạo và quản lý, bằng các chiến lược
và chính sách thích hợp với những đặc điểm về lịch sử, chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội của xã hội và cộng đồng dân tộc mình, tạo ra, huy động và quản
lý các nguồn lực tự nhiên và con người nhằm đạt được những thành quả bền
22


vững và được phân phối công bằng cho các thành viên trong xã hội vì mục
đích không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của họ".
1.1.5.2. Khái niệm phát triển làng nghề

Phát triển làng nghề có thể được hiểu là sự tăng lên về quy mô của các
loại hình tham gia sản xuất làng nghề, về số lượng các cơ sở sản xuất, các hộ
sản xuất nghề, đồng thời là sự tăng lên về giá trị sản lượng, về thu nhập của
người lao động cùng với sự tăng lên về doanh thu của các cơ sở, hộ sản xuất
ngành nghề và giữ vững sự ổn định, bền vững.
Hay phát triển làng nghề cũng được hiểu như sau: Phát triển làng nghề là
quá trình phát triển sản xuất kinh doanh của làng nghề nhằm thỏa mãn nhu
cầu đa dạng và ngày càng phát triển của thế hệ hiện tại, mà không làm tổn hại
đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của thế hệ tương lai.
1.1.5.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển làng nghề
- Nhân tố thị trường
+ Về nhu cầu thị trường: Nhu cầu thị trường là nhân tố chủ yếu tác động
đến sự hình thành, tồn tại và phát triển làng nghề. Bởi vì sản phẩm làng nghề
là hàng hoá, do đó phải được thị trường chấp nhận thì mới tiêu thụ được.
Trước hết, nhu cầu thị trường làm xuất hiện nghề và từ đó dần dần hình thành
nên làng nghề. Đối với các làng nghề, nhu cầu thị trường thay đổi yêu cầu sản
phẩm làng nghề thay đổi phù hợp. Điều này buộc các làng nghề phải thay đổi
chủng loại sản phẩm hoặc thay đổi mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm
đáp ứng nhu cầu thị trường và phải nâng cao sức cạnh tranh với các sản phẩm
cùng loại trên thị trường. Nhu cầu thị trường càng lớn, càng bền vững thì việc
sản xuất của các làng nghề càng ổn định và bền vững. Làng nghề nào thích
ứng với sự biến động của thị trường thì tồn tại và phát triển. Ngược lại làng
nghề nào không đáp ứng được sự thay đổi của nhu cầu thị trường thì sẽ bị mai
một dần, có làng bị mất đi.
+ Thị trường công nghệ: Được hình thành tự phát trên cơ sở các thiết bị
công nghệ truyền thống, một số người lao động, hộ thủ công đã tách ra
chuyên sửa chữa, cải tiến một số công đoạn cho hiệu quả hơn. Hoặc một số
23



hộ có số vốn dồi dào chuyển sang buôn bán máy móc, thiết bị trong phạm vi
làng. Vì vậy, nhìn chung thị trường công nghệ nhỏ hẹp, chắp vá chưa đáp ứng
nhu cầu hiện đại hóa làng nghề.
Hiện nay có thể nói chưa có nhiều tổ chức nghiên cứu, cơ quan có thẩm
quyền vào cuộc để nghiên cứu, giúp làng nghề thực hiện chuyển giao, tiếp
nhận công nghệ hiện đại.
+ Thị trường lao động: Được hình thành theo thời vụ, cơ cấu lao động
trong làng nghề được phân hóa như sau: Lực lượng cơ bản nhất ở tại địa
phương bao gồm lao động địa phương chuyên nghiệp; lao động địa phương
bán chuyên nghiệp là những người trong gia đình tham gia khi công việc cần
kíp hoặc công việc của hộ rỗi rãi; lao động làm thuê ở địa phương khác đến
làm việc với tư cách đi học việc, như các ngành chạm, khắc, thêu, ren... Thực
tế hiện nay tại một số làng nghề, lao động chuyên nghiệp là những người
trong độ tuổi trung niên hoặc là người đã lập gia đình, còn đối với lao động
trẻ thì quan niệm nghề truyền thống của cha ông chỉ là tạm thời.
- Nhân tố vốn
Muốn tiến hành sản xuất yếu tố đầu tiên cần có là vốn, vốn là yếu tố vật
chất đầu tiên, quyết định quy mô sản xuất của các chủ thể sản xuất kinh doanh
trong làng nghề. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, cạnh tranh khốc
liệt trên thị trường đòi hỏi các cơ sở sản xuất kinh doanh trong làng nghề phải
có lượng vốn lớn đầu tư công nghệ, đổi mới trang thiết bị ở một số công đoạn
sản xuất phù hợp để thay thế lao động thủ công, tăng năng suất lao động, nâng
cao chất lượng, đáp ứng nhu cầu mở rộng thị trường.
Vốn tồn tại dưới hai hình thức: Vốn tài chính và vốn hiện vật, trong đó
vốn tài chính trong làng nghề là tiền; còn vốn hiện vật tồn tại dưới hình thức
vật chất của quá trình sản xuất trong làng nghề như cơ sở vật chất của các hợp
tác xã thủ công trước kia, máy móc, nguyên liệu và đặc biệt còn có nguồn vốn
phi vật chất là kinh nghiệm bí quyết nghề nghiệp.
Cơ cấu nguồn vốn tại các làng nghề bao gồm nguồn vốn trong nước và
nguồn vốn nước ngoài. Về thu hút vốn đầu tư nước ngoài có thể nói ở làng

24


nghề là rất ít, còn nguồn vốn trong nước bao gồm: Vốn tự có của các chủ thể
sản xuất kinh doanh trong làng nghề được tích lũy lại; nguồn vốn tín dụng phi
chính thức vây giữa các hộ với nhau; nguồn vốn tín dụng chính thức vay từ
các ngân hàng thương mại. Hiện nay có một số làng nghề còn được nhận một
khoản vốn vay ưu đãi được trích ra từ các chương trình quốc gia xóa đói giảm
nghèo, vốn của các tổ chức xã hội, đoàn thể.
- Nhân tố khoa học công nghệ
Ngày nay khoa học công nghệ đang trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp, được xác định là động lực của CNH-HĐH, khoa học công nghệ là yếu tố
quyết định về chất để tăng năng suất lao động, quyết định lợi thế cạnh tranh
và tốc độ phát triển kinh tế nói chung và công nghiệp nói riêng của mỗi quốc
gia. Công nghệ tiên tiến phù hợp với tiềm năng nguồn lực, trình độ vận dụng,
khả năng quản lý sẽ là động lực mạnh mẽ cho sự phát triển kinh tế nhanh, bền
vững, nguồn khoa học công nghệ được biểu hiện trên nhiều mặt:
+ Trình độ người lao động, đội ngũ các nhà nghiên cứu;
+ Cơ sở vật chất tiến bộ phục vụ nghiên cứu, triển khai sản xuất;
+ Khả năng tiếp thu, ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ;
Có thể nói tất cả các làng nghề đều chưa đáp ứng được ba tiêu chí trên.
Đặc thù nghề thủ công truyền thống đòi hỏi công nghệ tùy thuộc từng công
đoạn làm sản phẩm mà áp dụng cho phù hợp để hạn chế ảnh hưởng môi
trường, tăng năng suất... Công nghệ hóa sản xuất, giảm bớt tính chất lao động
nặng nhọc nhưng phải đảm bảo tính độc đáo, tinh xảo của sản phẩm truyền
thống.
- Nhân tố nguồn nguyên liệu
Cũng như bất kỳ quá trình sản xuất, khối lượng, chủng loại nguyên vật
liệu và khoảng cách giữa nguồn cung cấp nguyên liệu có ảnh hưởng trực tiếp
đến chất lượng, giá thành, lợi nhuận của các doanh nghiệp. Nguồn nguyên

liệu chính tại địa phương trong nước, đây chính là lợi thế của làng nghề. Thị
trường nguyên liệu không chính thức, phương thức thanh toán do hai bên tự
thỏa thuận, phụ thuộc thời vụ do tư thương cung cấp nên giá cả lên xuống
25


×