Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Thuyết minh về di tích đền trần thương (1) doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.9 MB, 15 trang )

Bi d thi Võn dng kin thc liờn mụn gii quyt tỡnh hung thc tin

Bộ giáo dục & đào tạo
Sở giáo dục và đào tạo hà nam

Bài dự thi

Vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết
các tình huống thực tiễn

Trờng THCS Nhân Đạo
Địa chỉ: Xã Nhân Đạo huyện Lý Nhân tỉnh Hà
Nam
Email:
1. Họ và tên: Trần Anh Thành
Ngày sinh: 12/03/1999

Lớp 9B

2. Họ và tên: Trần Trung Hiếu
Ngày sinh: 09/03/1999

Lớp 9B

Ngày 31 tháng 12 năm 2013

1

Trng THCS Nhõn o- Lý Nhõn- H Nam



Bài dự thi Vân dụng kiến thức liên môn để giải quyết tình huống thực tiễn

BÀI DỰ THI VẬN DỤNG KIẾN THỨC LIÊN MÔN GIẢI QUYẾT CÁC
TÌNH HUỐNG THỰC TIỄN
Bài: THUYẾT MINH VỀ DI TÍCH LỊCH SỬ ĐỀN TRẦN
(Đền Trần Thương xã Nhân Đạo- huyện Lý Nhân- tỉnh Hà Nam)
1. Tình huống cần giải quyết là:
Một đoàn khách từ Thành phố Hà Nội về xã Nhân Đạo để thắp hương tưởng
nhớ vị anh hùng dân tộc Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn cũng là để
tham quan di tích lịch sử cấp quốc gia Đền Trần Thương. Những người khách
ấy muốn được nghe giới thiệu về di tích lịch sử đền Trần. Em được cử làm
người giới thiệu cho đoàn du khách ấy. Và nhiệm vụ em sẽ viết thành một bài
giới thiệu về di tích lịch sử đền Trần Thương.
2. Mục tiêu: Bài viết phải đảm bảo các yêu cầu về:
+ Nguồn gốc; vị trí địa lí.
+ Lịch sử hình thành.
+ Kiến trúc của đền.
+ Tâm thức về ngày “Giỗ cha”.
+ Nguồn gốc, ý nghĩa của lễ hội phát lương.
3. Tổng quan về các nghiên cứu liên quan đến việc giải quyết tình huống:
Cần kết hợp các tri thức khách quan ở địa phương:
- Lịch sử hình thành di tích lịch sử đền Trần Thương;
- Đặc điểm địa lý, địa hình di tích;
- Giá trị văn hóa - lịch sử- tâm linh đền Trần Thương.
4. Giải pháp giải quyết tình huống:
Vận dụng các kiến thức liên môn:
- Lịch sử: nguồn gốc, lịch sử đấu tranh;
- Ngữ văn: sử dụng từ ngữ, phương thức biểu đạt phù hợp cho bài văn;
- Địa lí: vị trí địa lí, địa hình;
- Giáo dục công dân: bài học về lòng yêu nước.

5. Thuyết minh tiến trình giải quyết tình huống:
Viết các ý chính → Tìm hiểu → Trao đổi → Viết thành bài.
* Tư liệu sử dụng: sách địa phương.
* Ứng dụng công nghệ thông tin: tìm kiếm google.

2

Trường THCS Nhân Đạo- Lý Nhân- Hà Nam


Bài dự thi Vân dụng kiến thức liên môn để giải quyết tình huống thực tiễn

THUYẾT MINH VỀ DI TÍCH LỊCH SỬ ĐỀN TRẦN THƯƠNG
Tôi được sinh ra và lớn lên ở Trần Thương- xã Nhân Đạo- huyện lý Nhântỉnh Hà Nam- mảnh đất hiền hòa, thiêng liêng. Nơi đây gắn liền với di tích
lịch sử đền Trần Thương- di tích lịch sử cấp quốc gia. Đền là di tích tiêu biểu
của tỉnh Hà Nam và cả nước, hội tụ nhiều giá trị lịch sử văn hóa nghệ thuật,
tâm linh, lâu nay được nhiều người biết tiếng.
Đền Trần Thương ở thôn Trần Thương, xã Nhân Đạo, huyện Lý Nhân, Hà
Nam. Từ Thị xã Phủ Lý, theo quốc lộ 62 về thị trấn Vĩnh Trụ 14km, tiếp tục đi
thẳng 2km về phía Cầu Không, đến cống làng Tróc rẽ trái tới đền Trần Thương.

Đền Trần Thương
Đền Trần Thương như tên gọi đã ghi rõ (Trần Thương: kho của nhà Trần)
được xây dựng trên một khu đất rộng, nằm biệt lập ở phía đầu làng, trên nền cũ
kho lương thực đời Trần trong cuộc chiến chống quân xâm lược lần thứ hai. Đền
được xây dựng trên thế đất "hình nhân bái tướng”. Bằng nhãn quan của nhà
quân sự, nhà chính trị lỗi lạc, Trần Quốc Tuấn chọn nơi cất giữ lương thảo, khí
giới với thế đất “Hình nhân bái tướng” và thuận tiện cho việc chi viện từ tổng
kho Thăng Long (do Bà Nguyễn Thị Duyên ở làng Giảng Võ xưa coi giữ, nay là
Quận Ba Đình, được nhân dân tôn vinh Bà Chúa Kho). Kho lương này có thể

tiếp ứng quân lương xuôi sông Hồng về hay từ biển qua cửa Tuần Vường vào,
chuẩn bị cho cuộc chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ 2 (1285). Cũng từ
vị trí này, có thể chi viện cho quân ta ở Nam Thanh (Hải Dương), Tiên Lãng
(Hải Phòng), Châu Hoan, Châu Ái (Nghệ An - Thanh Hóa). Địa thế này rất
thuận tiện cho việc vận chuyển lương thảo của triều đình đến hoặc quân lương,
khí giới của giặc tiếp viện đường biển quân ta cướp được đưa về. Địa thế vùng
chiêm trũng thì hiểm yếu và khó với giặc, nhưng quân binh nhà Trần giỏi sông
nước nên hợp ý quân. Vùng đất này có 6 con mương nhỏ gọi là “Lục đầu khê”
như 6 con rồng chầu về. Đi theo các mương này ra Long Xuyên, xuôi Xuân
Khê, ra sông Châu, xuống Tuần Vường ra biển. Hoặc từ đây ra sông Hồng chỉ
gần 2 km, rồi qua phố Hiến (Hưng Yên), hay về Thăng Long. Chính vì thế đất
quý nên Trần Hưng Đạo chọn làm kho và đặt tên là Trần Thương (nghĩa Hán,
3

Trường THCS Nhân Đạo- Lý Nhân- Hà Nam


Bài dự thi Vân dụng kiến thức liên môn để giải quyết tình huống thực tiễn

chữ thương là kho). Ông còn đặt tên các địa danh: “Đội Xuyên” (quân canh giữ
thường xuyên), “Khu Mật” (khu tối mật), “Khu Hoàng” (khu của các vị hoàng
tộc, vương tộc, quan tướng ở). Hiện nay, ở nơi đây vẫn còn giữ được tên cũ như
Trần Thương, Khu Hoàng, Đội Xuyên. Chính vì tích hội đủ các yếu tố “Thiên Địa - Nhân” ở đây nên nhân dân đã dựng đền thờ ông để tưởng nhớ công lao vị
tướng tài ba được người đời tôn vinh lên bậc Thánh.
Đền được dựng vào thời hậu Lê, sang thời Nguyễn thì làm lại. Năm 1893,
niên hiệu vua Thành Thái thứ năm thì trùng tu lần đầu. Với những nét đặc sắc và
độc đáo về kiến trúc, sắp xếp địa cơ theo phong thủy như: Phía trước cổng có hồ
nước gọi là “Huyền vũ” án cửa; cổng Tam quan chính Nam (theo kinh dịch là
Ly) gọi là “Ngọ Môn Quan”.


Tam quan ngoại đền Trần Thương
Qua tam quan là con đường chính lát gạch đỏ rộng rãi đi vào sân đền. Ngay
phía trước gian tiền tế là cổ lâu kê lư hương làm bằng đá quý với những hoa văn,
họa tiết được trạm trổ hết sức tinh tế.

Đường vào đền
4

Trường THCS Nhân Đạo- Lý Nhân- Hà Nam

Lư đá


Bài dự thi Vân dụng kiến thức liên môn để giải quyết tình huống thực tiễn

Tiếp theo là công trình chính. Ngôi đền được thiết kế theo kiểu chữ quốc:
Tòa tiền đường 5 gian, tiếp đến là hai dãy nhà khách chạy dọc, giữa là cái giếng
mà nhân dân gọi là hồ khẩu, tiếp đến là tòa đệ nhị 5 gian, sau cùng là hậu cung 3
gian nơi thờ tượng của ngài, hai bên có tả vu và hữu vu nối đệ tam và đệ nhị
trong tổng kiến trúc kiểu nội công ngoại quốc đậm nét kiến trúc thời Lý - Trần,
kết tụ văn hóa Lê - Nguyễn ở đây.

Tòa tiền đường
Phía trước gian giữa của tòa tiền đường có dựng một tòa cổ lâu 2 tầng, giữa
mái trên và mái dưới là bức đại tự "Phong vân trường hộ", ở giữa đặt một đỉnh
hương bằng đá có đôi nghê chầu. Tòa tiền đường được kiến trúc theo lối chồng
rường, hai đầu xây bít đốc dật cấp, mái lợp ngói nam, mắt trước là dãy cửa bức
bàn. Phía trên gian giữa có treo bức đại tự "Văn đức võ công". Nối với hai gian
đầu hồi của tòa tiền đường là hai dãy nhà khách chạy dọc nhìn ra hồ khẩu, mỗi
dãy 3 gian tạo thành hành lang nội từ tòa tiền đường vào tòa đệ nhị.


Hồ khẩu
Tòa đệ nhị 5 gian xây bằng gạch cao hơn tòa tiền đường và nhà khách, lợp
ngói ống cung đình đời Nguyễn, bờ nóc hai đầu hồi đắp hai con rồng lớn, phần
5

Trường THCS Nhân Đạo- Lý Nhân- Hà Nam


Bài dự thi Vân dụng kiến thức liên môn để giải quyết tình huống thực tiễn

giữa mái trên và mái dưới là các ô có đắp chữ Hán. Phần hậu cung 3 gian được
nối từ tường của tòa đệ nhị xuôi về sau, lợp ngói ống, bộ cửa bức bàn gồm 3 cửa
được sơn son thiếp vàng lộng lẫy.
Đền Trần Thương thờ vị anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo và song thân của
người. Là một vị anh hùng dân tộc đã hiển thánh. Trong tâm đức người dân, ông
là Đức Thánh Cha. Trần Hưng Đạo được thờ ở nhiều nơi ở Hà Nam mà Trần
Thương là ngôi đền quy mô, bề thế nhất, có thể so sánh vị trí của nó với những
nơi thờ tự Ngài lớn nhất trong cả nước. Dân gian có câu: "sinh Kiếp Bạc, thác
Trần Thương, quê hương Bảo Lộc" chính là để nói đến địa danh Trần Thương
này, bởi cách Trần Thương 3km về phía đông theo đường chim bay là khu Tam
Đường – nơi đặt khu lăng mộ nhà Trần, về phía nam khoảng 20km là Thiên
Trường (quê hương nhà Trần).

Tượng thờ anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo

Sơ đồ liên kết đền Trần Thương với các di tích, thắng cảnh trong không
gian du lịch nội và ngoại tỉnh
6


Trường THCS Nhân Đạo- Lý Nhân- Hà Nam


Bài dự thi Vân dụng kiến thức liên môn để giải quyết tình huống thực tiễn

Sau đền là phủ thờ Mẫu, tiếp đến có gò đất cao tạo sơn trạch vững chắc ở
chính Bắc (Khảm - Thủy) mang ý nghĩa thủy sinh mộc (trước có cây đa trên
trăm tuổi đã đổ, nay đã trồng cây khác). Cây đa (mộc) còn là biểu tượng sự
trường thọ, đặc trưng cho hướng Đông (Mão - Chấn), đứng cạnh chữ “Tiết”
thành chữ “Trần”. Phía trước đền cả bên tả bên hữu có 2 giếng nước tượng trưng
đôi vú, có hai giếng nhỏ cạnh phủ Mẫu là 2 tai. Như vậy, hồ nước trước cổng
với bốn giếng ngoài đền và hồ khẩu bên trong cộng lại là lục thủy đều nạp âm
trong tổng diện tích khu đền gần 19 ha. Điểm nổi trội là tư duy quân sự, kết hợp
với tư duy của triết thuyết Khổng giáo về kinh dịch mà Trần Hưng Đạo chọn thế
đất hình “Nhân bái tướng”, thế nước là “Lục vận” như: Lục hồ (ở đền); Lục đầu
khê (6 sông nhỏ bên ngoài); Lục đầu giang (ở Kiếp Bạc). Như theo Hậu Thiên
Bát quái thì Khảm (thủy) mang số 1; Kiền (Trời) mang số 6 là biểu tượng như
vậy.
Đền được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia năm 1989.
Năm 2009 được Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch cấp nguồn tôn tạo, trùng tu lại
ngôi đền và được Trung ương cấp ngân sách quy hoạch mở rộng, cho phép mở
Đại lễ kỷ niệm 710 năm ngày mất của Trần Hưng Đạo vào năm 2010. Được sự
quan tâm của Tỉnh ủy, UBND tỉnh, Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch cùng với
UBND huyện, Hội Đồng hương Hà Nam ở thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội,
nhân dân và khách thập phương xa gần tâm đức cúng tiến, đền đã được trùng tu
và xây dựng trong tổng diện tích là 25 ha để kịp cho Đại lễ.

Lễ tưởng niệm 710 năm ngày mất của anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo
Lại nói về ngày mất của Đức Thánh Trần. Dân gian có câu: “Tháng tám
giỗ Cha” là nói về ngày giỗ của ngài. Ngày “Giỗ Cha” là khi Trần Quốc Tuấn

qua đời, ngày 20/8 năm Canh Tý (tức năm Hưng Long thứ tám, ngày 5 tháng 9
năm 1300). Ông mất tại tư dinh ở Phủ Đệ Vạn Kiếp, nay là đền thờ Kiếp Bạc
thuộc xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Kiếp Bạc cùng với Bảo
Lộc (Nam Định - quê hương ông) và Trần Thương là 3 nơi chính tổ chức lễ hội
hàng năm đáp ứng tâm nguyện của nhân dân về chiêm bái và “Giỗ Cha”. Cũng
rất nhiều nơi lập đền thờ ông, song nhân dân về Trần Thương vừa “Giỗ Cha”
vừa bái yết xin “Lương”, xin lộc như ở đền Bà Chúa Kho vậy. Có câu: “Sinh
7

Trường THCS Nhân Đạo- Lý Nhân- Hà Nam


Bài dự thi Vân dụng kiến thức liên môn để giải quyết tình huống thực tiễn

Kiếp Bạc, thác Trần Thương, quê hương Bảo Lộc”. Chữ thác ở đây là gửi, là
phó thác. Ngay từ lúc sinh thời, Trần Hưng Đạo đã gửi gắm sinh phần ở Trần
Thương, chính vì vậy mà nhiều người cho rằng “thác Trần Thương” có nghĩa là
ông để phần mộ ở đây. Ngay cả một số nhà ngoại cảm hiện nay cũng cho là như
vậy. Theo truyền thuyết, Kiếp Bạc là nơi sau kháng chiến chống quân Nguyên Mông kết thúc thắng lợi (1288), ông xa giá hai Vua về Thăng Long (Trần Nhân
Tông và Trần Anh Tông) rồi trở về tư dinh tại Phủ Đệ, bên thung lũng Kiếp Bạc
cạnh Lục Đầu Giang. Đến khi lâm bệnh nặng, ông dặn con cháu: “Ta chết phải
hỏa táng, cho xương vào những ống tròn chôn ở vườn An Lạc rồi trồng cây như
cũ để người đời sau không biết đâu mà tìm”. Lời di chúc này liệu có gắn với
“Viên Lăng” (tức là vườn mộ của ông) mà dân gian thường gọi ở một quả đồi
nhỏ cách Kiếp Bạc 100m về phía Nam. Cho đến nay, các nhà khảo cổ, các nhà
nghiên cứu vẫn chưa xác định được mộ phần của Trần Hưng Đạo ở đâu. Theo
truyền thuyết, đám tang của ông có trên 70 chiếc quan tài từ tư dinh cùng một
lúc xuất phát và đưa tang rải đi khắp nơi, có vợ con ông chia ra đi cùng.
Niềm tin tín ngưỡng từ nhân dân cho thấy dù Trần Hưng Đạo nằm ở đâu đi
chăng nữa nhưng những ảnh hưởng của ông đối với nhân dân thực sự thiêng

liêng và sâu sắc. Có lẽ vì thế hàng gần nghìn năm nay dẫu tồn tại những câu
chuyện về sự có hay không thân xác của ngài ở cả ba địa danh: Kiếp Bạc, Trần
Thương, Bảo Lộc thì người dân nước Việt vẫn lập hàng nghìn ngôi đền, ngôi
điện lớn nhỏ từ trong nam ra ngoài Bắc để cung kính, thờ vọng ngài. Chỉ với
niềm tin vào sức mạnh tinh thần thôi cũng đủ để nhân dân Việt Nam tôn ngài là
thánh, biểu tượng thiêng liêng về bậc Đại Nhân, Đại Trí, Đại Dũng của trăm họ.
Hàng năm vào ngày 20/8 âm lịch, nhân dân và khách thập phương xa gần về
chiêm bái và tưởng niệm Đức Thánh Trần trong ý niệm thiêng liêng là “Tháng
tám giỗ Cha” đã từ lâu.
Ở Trần Thương, vào tháng tám âm lịch hàng năm, nhân dân tấp nập chuẩn bị
cho ngày lễ chính. Từ ngày mồng một đầu tháng, nhân dân đã đến cúng bái lấy
phúc. Đến mồng 10 là rước nước từ sông Hồng về. Các cụ kể lại là vừa “rước
nước” vừa “nhập lương”. Trong Lễ hội ở nhiều nơi có tục rước nước để thực
hiện nghi thức gọi là “Mộc Dục” (tẩy uế, hoặc rửa vật linh, tắm tượng). Nhưng ở
đền Trần Thương, rước nước về tức là giữ vận nước may mắn cho đời sau.
Không những thế, tục rước nước còn thể hiện là “nghinh lộc”, đón tinh khí của
trời đất đem đến cho mùa màng.

8

Trường THCS Nhân Đạo- Lý Nhân- Hà Nam


Bài dự thi Vân dụng kiến thức liên môn để giải quyết tình huống thực tiễn

Lễ rước nước
Còn có các nghi lễ cầu đảo, cúng tế đầu năm vào ngày tết Nguyên Đán, các
vụ chiêm - mùa thì cầu cho bội thu với tâm ý là nơi kho lương của Đức Thánh
Trần. Ngày mười rằm hương đăng hoa quả, ngày 18 là ngày cúng Hưng Nhượng
Vương Trần Quốc Tảng (con thứ 3 của ông). Ngày 20 là tổ chức dâng hương giỗ

chính, tiến hành phần “Lễ” gọi là phần thiêng, trong không khí thiêng hóa làm
lòng người cùng cộng cảm và cộng mệnh. Hương trầm ngát tỏa, tất cả như thấy
Hưng Đạo Đại Vương trên cao xanh, đang trầm tư vạch kế sách giữ nước với
những áng thiên cổ hùng văn bất hủ như: “Vạn Kiếp Bí Tông Truyền thư”,
“Binh Gia Diệu Lý Yếu lược” và “Hịch Tướng sỹ”.
Tại đền Trần Thương - xã Nhân Đạo - huyện Lý Nhân - tỉnh Hà Nam ngày
rằm tháng riêng hàng năm đã trở thành ngày hội truyền thống tổ chức lễ phát
lương Đức Thánh Trần. Tương truyền, xưa kia nơi đây (vùng Lý Nhân- Hà Nam
ngày nay) chỉ là một bãi sậy um tùm, rải rác một ít gò cao xen kẽ dân cư ở thưa
thớt nhưng có vị trí giao thông hết sức thuận lợi: có thể vào sông Châu, ra sông
Hồng ngược lên Thăng Long hoặc xuôi ra biển. Do đó, Quốc công Tiết chế
Hưng Đạo Vương đặt ở đây 6 kho lương thực với đội quân thường xuyên canh
gác để phục vụ cho cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông lần thứ hai
(1285). Địa điểm đền Trần Thương hiện nay là kho lương chính.
Sau khi chiến thắng trở về Ngài mới cắm sinh phần, lấy dân ở đây làm dân
“tạo lệ” (từ chỉ tầng lớp dân đinh và loại ruộng đất được triều đình phong kiến
cho phép miễn các khoản tô thuế, lao dịch để chuyên lo phục dịch các đền miếu
được triều đình xếp vào loại "quốc lễ" do nhà nước thờ cúng) và từ đó xuất hiện
thôn Trần Thương và các thôn khác như Đội Xuyên, Hoàng Xá, Khu
Mật….những tên cổ gắn với việc đồn trú của quân đội nhà Trần.

9

Trường THCS Nhân Đạo- Lý Nhân- Hà Nam


Bài dự thi Vân dụng kiến thức liên môn để giải quyết tình huống thực tiễn

Mô phỏng cảnh đoàn quân ăn mừng chiến thắng giặc Nguyên - Mông
Sử sách không ghi chép về kho lương thực của nhà Trần ở đây nhưng truyền

thuyết dân gian cùng với những dấu tích đậm đặc quanh khu vực đền Trần
Thương như mảnh gốm, sứ màu đen, men nâu, vàng ngà của bát đĩa vỡ có
phong cách trang trí của nghệ thuật gồm thời Trần, nhiều vỏ chóe hoa than… đã
củng cố thêm giả thuyết này.
Kể từ đó người dân nơi đây cứ vào dịp đầu năm đều làm lễ phát lương để
tưởng nhớ công lao của vị anh hùng năm xưa và giáo dục cho con cái sau này
biết tiết kiệm, xây dựng những kho lương để đề phòng khi bất trắc và cũng là lấy
cái may mắn đầu xuân. Vào những ngày diễn ra lễ hội, người dân nơi đây và rất
nhiều du khách phương xa đến đây làm lễ “xin lương”.

Kho lương Đức Thánh Trần
Nghi trình lễ phát lương có ba phần: Lễ rước lương thảo từ kho lương vào
trong đền làm lễ do bảy cô gái thanh tân mặc áo dài màu đỏ, đội khăn đỏ, đội
bảy mâm đựng những túi lương nhỏ, chín chàng trai tân mặc quần áo màu đỏ,
đầu đội nón lá cũng màu đỏ, thắt lưng khăn vàng, ống chân quấn xà cạp viền
10

Trường THCS Nhân Đạo- Lý Nhân- Hà Nam


Bài dự thi Vân dụng kiến thức liên môn để giải quyết tình huống thực tiễn

xanh, chân đi giày vải màu vàng có trách nhiệm khiêng kiệu, trên kiệu đặt ba túi
lương lớn (bên trong chứa những túi lương nhỏ). Đi đầu đoàn rước là đội múa
lân, dàn trống, chiêng, cờ ngũ sắc, bảy mâm lương thảo, đội tế nam, đội tế nữ
của xã, đoàn đại biểu Đảng, Nhà nước, tỉnh huyện, nhân dân và du khách thập
phương. Phần thứ hai là lễ châm đuốc và dâng hương của các đại biểu. Phần thứ
ba, bảy cô gái, chín chàng trai rước lương thảo vào hậu cung làm mật lễ.

Lễ rước lương thảo từ kho lương vào trong đền


Nghi thức trước khi rước lương thảo vào hậu cung làm mật lễ
11

Trường THCS Nhân Đạo- Lý Nhân- Hà Nam


Bài dự thi Vân dụng kiến thức liên môn để giải quyết tình huống thực tiễn

Du khách về với lễ hội phát lương sẽ nhận được một túi lụa màu đỏ ngoài ấn
và thẻ, bên trong túi lương của Đức Thánh Trần sẽ có ba trong các loại hạt chủ
lực của vùng đất Lý Nhân sản xuất là: hạt sen, đậu tương, nếp cái hoa vàng, ngô
đỏ.

Túi lương

Ấn “Hưng Đạo Đại Vương”

“Một tí lộc thánh bằng một gánh lộc trần” nhân dân đã trân trọng túi lương ở
đền Trần Thương, nó không chỉ mang ý nghĩa lịch sử mà còn chứa đựng những
giá trị tâm linh, tinh thần to lớn. Chỉ đơn giản là một túi lương nhưng nhân dân
luôn mong muốn có được để cho tâm an, niềm tin được củng cố vào sự bền
vững của xã tắc và trong năm ấy con người được phù hộ che chở bởi Đức Thánh
Trần linh thiêng. Túi lương đền Trần Thương được làm khá đơn giản nhưng lại
hàm chứa ý tứ sâu xa của cuộc sống và văn hóa. Hai chữ in trên túi lương là hai
chữ Hán cổ nghĩa là “Trần Thương”, túi mềm mại nhờ được làm từ vải điều,
màu sắc và các họa tiết trên túi cũng được làm một cách có chủ ý nhằm gửi gắm
quan niệm nhân sinh về sự tồn tại và ảnh hưởng của vũ trụ là âm dương đối với
tự nhiên và con người. Màu đỏ tượng trưng cho Hỏa, màu vàng tượng trưng cho
Thổ, các loại hạt tượng trưng cho Thổ. Khi cầm túi lương có tiếng kêu leng keng

là sự va chạm của những hạt với kim khí trong túi. Trong xã hội, ngũ hành
tượng trưng cho 5 chính giới: nông tương ứng với Thổ, phi nông bất phú nghĩa
là thiếu nông nghiệp thì xã hội không ổn định được; binh tương ứng với Kim,
phi binh thất quốc nghĩa là thiếu quân đội thì mất nước; Trí tương ứng với hành
Hỏa, phi trí bất hưng nghĩa là thiếu trí thức thì đất nước không hưng thịnh được.
Ở đây túi lương đã hội tụ đầy đủ những yếu tố của ngũ hành để gửi tới con
người một triết lí nhân sinh sâu sắc đó là sự vận động của ngũ hành trong đó có
giai đoạn này nối tiếp giai đoạn kia không thể dùng ý trí chủ quan mà đi tắt, mà
đốt cháy lịch sử. Đặc biệt muốn cho sự phát triển của Hỏa được bền vững thì
luôn phải tích Kim, tích Kim là cơ sở quan trọng bậc nhất cho mọi sự phát triển
và cũng là điểm khởi đầu của mọi sự phát triển, không có một sự vận động nào
của vũ trụ đi ra ngoài 5 bước vận động của ngũ hành được.
Trong tiết trời xuân ấm áp, trong hào khí Đông A truyền lại, nhân dân và
khách thập phương, đều vui mừng, phấn khởi khi được nhận những túi lương.
12

Trường THCS Nhân Đạo- Lý Nhân- Hà Nam


Bài dự thi Vân dụng kiến thức liên môn để giải quyết tình huống thực tiễn

Cầm túi lương trên tay, mong rằng mỗi gia đình sẽ có một năm no đủ, khỏe
mạnh, làm ăn phát tài. Đây chính là động lực tinh thần trong cả năm, giúp người
dân hăng hái thi đua lao động sản xuất, đoàn kết xây dựng nông thôn mới, xây
dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Lễ phát lương năm 2010

Lễ phát lương đền Trần Thương xuân Canh Dần (2010) có sự tham dự của
Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan

Lễ hội phát lương được diễn ra bắt đầu từ giờ Tý đêm ngày 14 đến hết ngày
16 tháng Giêng. Cùng đó, để tạo không khí hân hoan phấn khởi cho du khách
thập phương về dâng hương xin lộc, vãn cảnh đền, ngoài nghi trình trang
nghiêm của phần lễ còn có nhiều nội dung của phần hội, các trò chơi, diễn
xướng dân gian, thi đấu thể thao trong ba ngày từ 14 đến 16 tháng Giêng.
Việc phục dựng và duy trì tổ chức Lễ hội phát lương đầu năm đền Trần
Thương của tỉnh Hà Nam đã góp phần bảo tồn, phát huy những giá trị di sản văn
hóa, đồng thời tuyên truyền, giáo dục truyền thống yêu nước chống giặc ngoại
13

Trường THCS Nhân Đạo- Lý Nhân- Hà Nam


Bài dự thi Vân dụng kiến thức liên môn để giải quyết tình huống thực tiễn

xâm của ông cha ta, đặc biệt là thời Trần để động viên nhân dân phát huy truyền
thống uống nước nhớ nguồn.
Lễ hội phát lương đền Trần Thương còn là một trong ba lễ hội vùng của tỉnh
Hà Nam. Lễ hội có ý nghĩa là cuộc hành hương về cội nguồn không chỉ đối với
người dân địa phương mà đối với người dân cả nước. Đặc biệt lễ hội được tổ
chức vào dịp đầu xuân năm mới có ý nghĩa thiết thực trong việc động viên nhân
dân hăng hái thi đua lao động, sản xuất góp phần xây dựng quê hương ngày
càng giàu mạnh.
Đã nhiều năm trở lại đây, Lễ hội phát lương đền Trần Thương trở thành một
trong nhiều lễ hội lớn đầu Xuân của tỉnh Hà Nam được tổ chức thường niên./.
Đền Trần Thương- di tích lịch sử quê hương em là thế đó. Mong rằng với
sự quan tâm của Đảng và Nhà nước cùng với tâm đức của nhân dân cả nước,
biểu tượng thiêng của đền Trần Thương, nơi kho lương triều Trần sẽ mãi là
biểu tượng đẹp đẽ trong tâm thức của bao người./.


14

Trường THCS Nhân Đạo- Lý Nhân- Hà Nam


Bài dự thi Vân dụng kiến thức liên môn để giải quyết tình huống thực tiễn

6. Ý nghĩa của việc giải quyết tình huống:
*) Đối với thực tiễn học tập:
- Học sinh hiểu biết hơn về truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm của
ông cha ta, đặc biệt là thời Trần. Từ đó có ý thức giữ gìn và phát huy truyền
thống “Uống nước nhớ nguồn”.
- Học sinh hiểu biết hơn về các giá trị lịch sử, văn hóa, nghệ thuật, tâm linh
của địa phương mình cũng như các địa phương khác trong cả nước. Từ đó
có ý thức giữ gìn và phát huy các giá trị đó.
- Học sinh tiếp cận với kiến thức của các môn học một cách chủ động, sáng
tạo. Rèn khả năng vận dụng kiến thức của nhiều môn học vào giải quyết
những tình huống trong thực tiễn.
- Học sinh cảm thấy hứng thú hơn với các môn học. Từ đó xây dựng ý thức
học tập đúng đắn, học đều các môn, không học lệch, học phải đi đôi với
hành.
- Học sinh hiểu được việc kết hợp các kiến thức liên môn như Lịch sử, Địa lý
vào môn Ngữ văn rất quan trọng, giúp cho bài làm văn bao quát, đầy đủ ý
hơn. Từ đó bài làm có sức thuyết phục hơn nhất là đối với bài văn Thuyết
minh. Ngoài các kiến thức về Lịch sử, Địa lý, còn có thể kết hợp kiến thức
của các môn Sinh học, Vật lý, Hóa học,.. ở các dạng đề thuyết minh về đồ
vật, hiện tượng,…
*) Đối với đời sống kinh tế- xã hội:
- Việc giải quyết tình huống góp phần tuyên truyền, giáo dục cho các thế hệ
mai sau về truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm của ông cha. Từ

đó biết trân trọng, giữ gìn và phát huy các truyền thống quý báu của dân
tộc.
- Việc giải quyết tình huống góp phần tôn vinh giá trị lịch sử của địa danh
được coi là kho lương thời Trần.
- Giúp cho du khách thập phương hiểu hơn về di tích lịch sử đền Trần
Thương cùng các giá trị lịch sử, văn hóa, nghệ thuật, tâm linh của địa
phương.
- Giúp cho du khách thập phương hiểu hơn về ý nghĩa của lễ hội phát lương:
để tưởng nhớ công lao của vị anh hùng dân tộc và giáo dục cho con cái sau
này biết tiết kiệm, xây dựng những kho lương để đề phòng khi bất trắc và
cũng là lấy cái may mắn đầu xuân.
- Quảng bá được hình ảnh của địa phương tới du khách trong và ngoài nước.

15

Trường THCS Nhân Đạo- Lý Nhân- Hà Nam



×