Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Đa dạng các loài cá và tác động làm thay đổi cấu trúc thành phần cũng như nguồn lợi cá các thủy vực thuộc tỉnh Sơn La

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (319.05 KB, 19 trang )

Đa dạng các loài cá và tác động làm thay đổi cấu trúc thành phần cũng như nguồn lợi cá
các thủy vực thuộc tỉnh Sơn La
Phan Văn Mạch, Nguyễn Kiêm Sơn
Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật
Tóm tắt
Tài nguyên nước mặt của toàn tỉnh Sơn La hàng năm vào khoảng 19 tỷ m3 chủ yếu từ
nguồn nước mưa tích trữ vào hai hệ thống sông chính là: Sông Đà (đoạn chảy qua Sơn La dài 250
km); Sông Mã (đoạn chảy qua Sơn La dài 93 km). Bên cạnh 2 sông chính, tỉnh Sơn La còn có 35
con suối lớn, hàng trăm con suối nhỏ nằm trên địa hình dốc với nhiều thác nước. Thành phần loài
cá trong hệ thống sông suối, hồ ao tỉnh Sơn La rất đa dạng và phong phú với khoảng có 157 loài
thuộc 23 họ, 10 bộ. Tuy nhiên, việc nghiên cứu khu hệ cá cũng như nuôi trồng và khai thác thủy
sản tại đây còn rất hạn chế. Do khai thác tài nguyên thủy sản quá mức, do các sông suối bị ngăn
cách bởi các đập thủy điện lớn nhỏ, tác động của biến đổi khi hậu làm thay đổi mực nước các
sông, suối mà các loài cá quý hiếm có giá trị kinh tế ngày một ít, giảm về số lượng cũng như kích
cỡ cá thể. Các loài cá tự nhiên ưa nước chảy bị thay thế bởi các loài cá nuôi và cá ưa nước chảy
chậm hoặc nước tĩnh.
I. Mở đầu
Thành phần loài cá trong hệ thống sông suối, hồ ao trong tỉnh rất đa dạng và phong phú.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu khu hệ cá ở đây cũng như phát triển nuôi trồng thủy sản (NTTS) và
khai thác thủy sản (KTTS) còn rất hạn chế, ngay cả hồ Sơn la và hồ Hòa Bình thuộc địa phận Sơn
La cũng chưa phát triển. Do khai thác tài nguyên thủy sản quá mức, do các sông suối bị ngăn
cách bởi các đập thủy điện lớn nhỏ, tác động của biến đổi khi hậu làm thay đổi mực nước các
sông, suối mà các loài cá quý hiếm có giá trị kinh tế ngày một ít, giảm về số lượng cũng như kích
cỡ cá thể. Các loài cá tự nhiên ưa nước chảy bị thay thế bởi các loài cá nuôi và cá ưa nước chảy
chậm hoặc nước tĩnh.
II. Tài liệu và phương pháp
Dựa trên các chuyến đi khảo sát thực địa ở hồ Hòa Bình (1989 -1991) và khảo sát đánh
giá tác động môi trường của thủy điện Bản Chát, Huội Quảng năm 2001, 2003 (Nguyễn Kiêm
Sơn,1991, 2001, 2003), và tham khảo tư liệu của các tác giả khác như Mai Đình Yên về khu hệ
cá sông Đà trước khi xây đập thủy điện Hòa Bình, Nguyễn Thị Hoa (luận án tiến sỹ sinh học năm
2011..,, cũng như các chuyến khảo sát tháng 8/2011 và tháng 11/2012 qua tỉnh Hòa Bình, các


huyện Phù Yên, Bắc Yên, Mai Sơn, Mường La, Sông Mã, Sốp Cộp, Tp.Sơn La, Mộc Châu tỉnh
Sơn La.... Thông qua phỏng vấn người dân địa phương, ngư dân đánh bắt cá trên sông, suối và
quan sát thành phần cá ở các chợ để biết rõ thêm về thành phần loài và sự suy giảm nguồn lợi cá.
III. Kết quả nghiên cứu


III.1. Thành phần khu hệ cá ở các thủy vực thuộc tỉnh Sơn La
III.1.1. Hệ thống sông ngòi tỉnh Sơn La
Tài nguyên nước mặt của toàn tỉnh Sơn La hàng năm vào khoảng 19 tỷ m3 chủ yếu từ
nguồn nước mưa tích trữ vào hai hệ thống sông chính là: Sông Đà bắt nguồn từ tỉnh Vân Nam
Trung Quốc có lưu vực ở thuộc tỉnh Sơn La là 9.844 km2, đoạn chảy qua Sơn La dài 250 km,
tổng lượng nước đến công trình thủy điện Sơn La là 47,6.109m3; Sông Mã bắt nguồn từ huyện
Điện Biên và Tuần Giáo - Lai Châu. Đoạn chảy qua Sơn La dài 93 km, có diện tích lưu vực 3.978
km2. Bên cạnh 2 hệ thống sông chính tỉnh Sơn La còn có 35 con suối lớn, hàng trăm con suối nhỏ
nằm trên địa hình dốc với nhiều thác nước. Với mật độ sông suối lớn ( 1,8 km/ km2) trên địa bàn
tỉnh có 2 con sông lớn chảy qua là sông Đà và Sông Mã cùng hàng chục con suối lớn trải dài trên
địa hình có độ dốc cao, là tiềm năng lớn để phát triển các công trình thuỷ điện lớn, vừa và nhỏ.
Bên cạnh các công trình thủy điện lớn, có diện tích mặt nước hồ nhân tạo rộng như thủy
điện Hòa Bình, Thủy điện Sơn La, thủy điện Nậm Chiến và thủy điện Huội Quảng. Tỉnh Sơn là
còn có tiềm năng về thủy điện vừa và nhỏ, tạo ra các hồ chứa với diện tích mặt nước trung bình
và nhỏ. Theo số liệu tính toán của Viện Năng lượng, tại Sơn La có thể xây dựng 103 nhà máy
thủy điện vừa và nhỏ. Trong đó, 18 công trình nằm trong quy hoạch toàn quốc và 95 điểm theo
quy hoạch của tỉnh, tổng công suất lắp máy khoảng 480MW, sản lượng điện hằng năm 2 tỷ kwh.
Tuy nhiên, các suối lớn đã đang bị cắt khúc mạnh mẽ bởi các đập thủy điện, nguồn nước
bị tích lại trên các hồ chứa nhân tạo theo kiểu bậc thang, rừng xung quanh công trình thủy điện bị
chặt hạ, về lâu dài sẽ xảy ra hiện tượng sạt lở đất, lòng hồ bị lấp đầy dần. Hiện tượng lũ quét, lũ
lụt xảy ra do biến đổi khí hậu có thể tác động mạnh, ảnh hưởng đến các công trình thủy điện, mất
nguồn lợi cá thiên nhiên do dòng chảy tự nhiên và chế độ thủy văn thay đổi. Các dòng sông, suối
nguyên sơ, không bị tác động hầu như không còn.
III.1.2. Khu hệ cá sông suối, ao hồ tỉnh Sơn La

Kết quả thống kê các tư liệu đã có từ trước đến nay thì khu hệ cá vùng lưu vực sông Đà
cứ tăng dần lên. Ban đầu mới thu thập được 10 loài (Vaillant, 1891), Mai Đình Yên mô tả 16 loài
vào năm 1978. Trong các đợt khảo sát trước khi xây đập thủy điện Hòa Bình ghi nhận được 80
loài ở lưu vực sông Đà và vùng phụ cận; 28 loài cá suối ở vùng gần đập thủy điện Hòa Bình (thử
đánh giá hậu quả sinh thái hồ sông Đà, báo cáo năm 1985). Tham khảo tài liệu điều tra ở hồ Hòa
Bình sau khi ngập nước vào năm 1989-1990 trong báo cáo Hệ sinh thái hồ chứa nhân tạo Hòa
Bình và quy hoạch sử dụng hợp lý (báo cáo vào năm 1991) phối hợp với phỏng vấn người dân
địa phương đã lập được danh lục cá lên tới 112 loài.
Vùng lòng hồ Hòa Bình sau khi tích nước chỉ thu thập được 25 loài cá trong thời gian
1989-1990. Trong số này chỉ có 5 loài ghi nhận được trên các suối là cá Chép (Cyprinus carpio),
cá Trôi (Cirrhina molitorella), cá Bỗng (Spinibarbichthys denticulatus), cá Lăng (Hemibagrus
elongatus), cá Chát (Lissochilus krempfi) và có thể cả cá Chiên (Bagarius rutilus). Người dân cho
biết là vào mùa đẻ, loài cá Chiên ngược dòng nước lên các suối để đẻ trứng. Đây là những loài có

2


phân bố rộng, thích nghi được với chế độ thủy vực vừa có dòng chảy như ở suối và cả vùng nước
chảy yếu hoặc nước đứng như vùng lòng hồ.
Trong chuyến khảo sát tháng 8/2011 và tháng 11/2012 thì vùng chân đập hồ Hòa Bình
người dân khu vực đánh bắt được chủ yếu là các loài cá Chép (Cyprinus carpio) và cá Rô phi
(Oreochromis mossambicus). Cá Chiên (Bagarius rutilus), cá Lăng (Hemibagrus elongatus) hầu
như rất hiếm gặp. Chỉ có một số hộ dân thường xuyên làm nghề cá có đánh bắt được cá Lăng
(Hemibagrus elongatus) cỡ 1,5- 2kg/con (4 con) đem bán cho nhà hàng đặc sản, với giá khá cao
(600.000 đồng/kg), cá Nheo (Silurus asotus) cỡ 3-4 kg/con (7 con) và 2 con cỡ 8-10 kg/con, còn
lại là cá Chép và cá Trắm cỏ.
Đã ghi nhận có 80 loài cá ở lưu vực sông Đà xuống đến đập Hòa Bình trước khi ngập nước
(1985), và 25 loài cá ở lòng hồ Hòa Bình sau khi tích nước vào năm 1989-1990 (Nguyễn Kiêm
Sơn, 1991); 174 loài ở các nhánh sông suối thuộc hai tỉnh Sơn La và Lai Châu (Nguyễn Hữu Dực
và nnk, 2001). trong đó có tới 123 loài có được mẫu nghiên cứu hoặc ghi nhận được trong 2 năm

khảo sát thực địa (1999-2000). Trong số 174 loài ghi nhận được, 99 loài sống ở sông, 102 loài
sống ở suối, nhưng chỉ có 29 loài sống ở cả sông lẫn suối, vì thế thực chất chỉ có 75 loài cá chỉ
sống trong suối và 70 loài chỉ sống ngoài sông. Đến năm 2011, Nguyễn Thị Hoa đưa ra danh sách
242 loài cá trên lưu vực sông Đà, thống kê riêng các thủy vực thuộc tỉnh Sơn La có 116 loài.
Dòng Nậm Mu có hai bậc thang thủy điện là Bản Chác và Huội Quảng. Phần mặt nước hồ
thủy điện Huội Quảng chủ yếu thuộc địa phận huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu, nhưng phận cuối
hồ vẫn nằm trên ranh giới Mường La, tỉnh Sơn La, vì thế khu hệ cá Nậm Mu trước khi tích nước
vẫn là cá sông, cá suối. Cá vùng này chủ yếu là cá thuộc khu hệ cá sông Đà, mà hiện nay thuộc
lòng hồ Hòa Bình, hồ Sơn La bao gồm một số loài như cá Trôi, cá Chép, cá Diếc, cá Cháo, cá
Xảm, cá Mương, cá Thiểu gù (cá Ngão), cá Dầu sông gai dài, cá Chày mắt đỏ, cá Hỏa, cá Dầm
xanh, cá Đo, cá Sứt môi, cá Lun, cá Mọm, cá Sỉnh, cá Đát, cá Chát, cá Cấy, cá Bỗng, cá Rai, cá
Đục đanh chấm hải nam, cá Chiên, cá Lăng, cá Huốt, cá Chốt, cá Ngạnh, cá Chạch bùn, cá Chạch
hoa, cá Chạch suối, cá Chạch đá sa pa, cá Bám đá có khuyết, cá Chạch sông, cá Bống. Ngoài các
loài cá sông, cá suối còn có các loài cá nuôi như cá Trắm cỏ, cá Trê, cá Trê lai, cá Trôi ấn mrigal,
rohu, cá Mè trắng, cá Mè hoa, cá Rô phi vằn, cá Chim trắng nước ngọt. Toàn vùng Nậm Mu phần
phía trên Huội Quảng (Khoen On) có 50 loài cá.
Sau khi tích nước, trong thời gian từ 1989 đến 1991 chỉ bắt gặp có 25 loài cá trong tổng
số 94 loài cá thuộc khu vực sông Đà thống kê được trước khi xây dựng đập thủy điện, nhưng 3
loài chỉ ghi nhận được ở phần dưới chân đập thủy điện Hòa Bình, nên hiện tại chỉ tính 91 loài.
Điều này cũng diễn ra tương tự đối với hồ chứa nhân tạo thủy điện Sơn La sau khi tích nước. Đó
là các loài cá Chép (Cyprinus carpio), Cá Măng (Elopichthys bambusa) cá Sỉnh gai
(Onychostoma laticeps), cá Anh vũ (Semilabeo obscurus), cá Dầm xanh (Bangana lemassoni), cá
Bỗng (Spinibarbichthys denticulatus), cá Chát (Poropuntius krempfi), cá Măng nhồng
(Luciobrama macrocephalus), cá Trắm đen (Mylopharyngodon piceus), cá Chày (Squaliobarbus

3


curriculus), cá Măng đậm (Elopichthys bambusa), cá Chày chàng (Ochetobius elongatus), cá Dầu
sông gai dài (Pseudohemiculter serrata), cá Thiểu gù (cá Ngão) (Erythroculter recurvirostris), cá

Mương (Hemiculter leucisculus), cá Tép dầu (Pseudohemiculter hainanensis), cá Mè trắng
(Hypophthalmichthys harmandi), cá Nheo (Silurus asotus), cá Lăng (Hemibagrus elongatus), cá
Chiên (Bagarius bagarius), cá Bống suối đầu ngắn (Philypnus chalmersi), cá Chạch sông
(Mastacembelus armatus), cá Mè hoa (Aristichthys nobilis), cá Trắm cỏ (Ctenopharyngodon
idella), cá Ngạnh (Cranoglanis henrici). Nhưng trong đợt khảo sát tháng 8/2011 trên hồ Hòa
Bình chỉ thấy 7 loài chính là cá Chép (Cyprinus carpio), cá Trắm cỏ (Ctenopharyngodon idella),
cá Rô phi thường (Oreochromis mossambicus), cá Nheo (Silurus asotus), cá Lăng (Hemibagrus
elongatus), cá Bò (Pelteobagrus fulvidraco), cá Ngạnh (Cranoglanis henrici). Trên vùng lòng hồ
Sơn La tại huyện Quỳnh Nhai sau khi nhập nước bắt gặp chủ yếu là các loài cá nổi như cá Tép
dầu sông gai dài, cá Thiểu gù (cá Ngão), cá Mương, cá Tép dầu với số lượng lớn. Cá Chiên trước
đây thường xuyên khai thác được bán nhiều tại các chợ trong khu vực thì nay hầu như không bắt
gặp thấy. Cá Lăng đôi khi vẫn còn bắt gặp, cá Ngạnh và cá Bò có xu hướng tăng lên so với thời
kỳ đầu ngập nước. Sự sụt giảm nguồn lợi cá ở hồ Hòa Bình, cũng như hồ Sơn La có nhiều
nguyên nhân nhưng chủ yếu là do khai thác quá mức và xây dựng các bậc thang thủy điện trên
thượng nguồn, làm mất đi đường di cư, ngăn chặn quá trình sinh sản hoặc mất các bãi kiếm ăn và
bãi đẻ. Nhận thấy rõ nhất là không thấy cá Trôi và cá Chiên. Trước đây, đoạn sông Đà chảy qua
địa phận xã Liệp Tè, huyện Thuận Châu nhiều cá Lăng, cá Chiên. Vào mùa lũ lớn, nước sông Đà
đặc quánh bùn đất, lại chảy như thác, khiến các loài cá yếu cứ trương bụng nổi lều phều vì sặc,
thế là người dân Liệp Tè chỉ việc mang vợt ra đón lõng ở bờ sông để xúc. Có ngày đồng bào xúc
được cả tấn cá, đổ trắng bãi cát. Những loài cá quý ở khúc sông này như nhồng, quất, dầm xanh,
lăng, chiên nhiều vô kể.
Như vậy khu hệ cá sống trong các thủy vực sông, suối, ao, hồ của tỉnh Sơn La có 157 loài
thuộc 23 họ, 10 bộ (bảng 1). Số loài đang phát triển nuôi và tương lai có thể phát triển NTTS lên
tới 20 loài, nhưng hiện nay đang nuôi 11 loài. Số loài cá kinh tế có khoảng 36 loài, nhưng số
lượng và sản lượng giảm đi đáng kể. Trên lưu vực sông Đà (Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình) cá tự
nhiên bị giảm 30% về thành phần loài trong tổng số 144 loài và giảm 50% sản lượng cá tự nhiên
(Ngô Sỹ Vân, Phạm Anh Tuấn, 2005).
Bảng 1. Khu hệ cá các thủy vực thuộc tỉnh Sơn La
Stt


1
2

Tên Việt Nam
Bộ cá Tầm
Họ cá Tầm
Cá Tầm xi bê ri
Cá Tầm sterlet
Bộ cá Chình
Họ cá Chình

Tên khoa học
Acipenseriformes
Acipenseridae
Acipenser baerii Brandt, 1869
Acipenser ruthenus Linnaeus, 1758
Anguilliformes
Anguillidae

Mức độị đe
dọa

EN (IUCN)
VU (IUCN)

4


3


4

5

Cá Chình hoa
Bộ cá Nhái
Họ cá Sóc
Cá Sóc, tép lá mạ
Bộ cá Hồng nhung
Họ cá Hồng nhung
Cá Chim trắng nước
ngọt
Bộ cá Chép
Họ cá Chạch suối

6

Cá Chạch suối

7
8

10
11
12
13

Cá Vây bằng nà rì
Cá Bám đá vân nam
Cá Bám đá có khuyết

sông Đà
Cá Bám đá có khuyết
Cá Chạch đá
Cá Chạch sa pa
Cá Chạch đá spilo

14

Cá Chạch trần sơn la

15

Cá Chạch trần ba sọc

16

Cá Vây bằng cao bằng

17
18

23

Cá Vây bằng vẩy nhỏ
Cá Vây bằng bốn thùy
Họ cá Chạch
Cá Chạch hoa
Cá Chạch đốm hoa tròn
Cá Chạch bùn
Cá Chạch bùn núi

Họ cá Chép
Cá Diếc

24

Cá Rưng

25
26
27

Cá Chép
Cá Lợ thân cao
Cá Măng

28

Cá Mọm phong thổ

29

Cá Pin, cá Mọm

30
31
32

Cá Sỉnh
Cá Khính, cá Sỉnh
Cá Pang


9

19
20
21
22

Anguilla marmorata Quoy & Gaimard,1824
Beloniformes
Adrianichthyidae
Oryzias latipes (Temminck & Schlegel, 1846)
Characiformes
Characidae

VU (SĐVN)

Colossoma branchypomum (Cuvier,1818)
Cypriniformes
Balitoridae
Micronemacheilus taeniatus (Pellegrin &
Chevey, 1936)
Homaloptera disparis (Lin, 1934)
Homaloptera yunnanensis Chen, 1978
Beaufortia daon (Mai, 1978)
Beaufortia leveretti (Nichols & Pope, 1927)
Schistura fasciolata (Nichols và Pope, 1927)
Schistura chapaensis (Rendahl, 1944)
Schistura spiloptera (Valenciennes, 1846)
Oreias sonlaensis Nguyen T.H, Nguyen V.H,

T.T.Hoang, 2010
Oreias trilineatus Nguyen T.H, Nguyen V.H,
T.T.Hoang, 2010
Vanmanenia caobangensis V.H.Nguyen,
2005
Vanmanenia microlepis V.H.Nguyen, 2005
Vanmanenia tetraloba (Mai, 1978)
Cobitidae
Acantopsis arenae (Lin, 1934)
Cobitis taenia Linnaeus, 1758
Misgurnus anguillicaudatus (Cantor, 1842)
Misgurnus tonkinensis Rendahl, 1937
Cyprinidae
Carassius auratus Linnaeus, 1758
Carassioides cantonensis cantonensis
(Heincke,)
Cyprinus carpio Linnaeus, 1758
Cyprinus hyperdorsalis Hảo, 1969
Elopichthys bambusa (Richardson, 1844)
VU (SĐVN)
Scaphiodonichthys microcorpus (V.H.Nguyen
& L.H. Doan, 1969)
Scaphiodonichthys acanthopterus (Fowler,
1934)
Onychostoma gerlachi (Peters, 1881)
Onychostoma fangi, Kottelat, 2000
Scaphiodonichthys macracanthus (Pellegrin

5



33

Cá Sỉnh gai

34

Cá Phao

35

Cá Đát đỏ

36
37
38
39
40

Cá Đo
Cá Sứt môi
Cá Mỡ
Cá Mỡ mõm ngắn
Cá Mỡ miệng tròn

41

Cá Lun

43

44

Cá Mỡ giác miệng
vuông
Cá Anh vũ
Cá Anh vũ

45

Cá Dầm xanh

46
47
48

Cá Rô hu
Cá Vân nam
Cá Dầm đất

49

Cá Trôi

50
51
52
53

Cá Trôi mrigal
Cá Chày đất

Cá Chày
Cá Bỗng

54

Cá Hỏa

55

Cá Pạo

56

Cá Cấy

57

Cá Cầy chấm

58

Cá Hoa

59

Cá Chát sô

60
61


Cá Chát sọc
Cá Chát vạch

62

Cá Rai

63

Cá Mi

64

Cá Chát

65

Cá Chát vằn

42

& Chevey, 1936)
Onychostoma laticeps Gunther, 1868
Varichorhinus (Scaphestes) lepturus
(Boulenger, 1899)
Varichorhinus (Scaphestes) erythrogenys
V.H.Nguyen & L.H.Doan, 1969
Garra poilanei (Petit & Chang, 1933)
Garra bourreti Pellegrin, 1928
Garra laichowensis Hảo và Hoa, 1969

Garra obturostris Yen, 1978
Garra cyclostoma Yen, 1978,
Garra caudofasciata (Pellegrin và Chevey,
1936)
Garra angulostoma Yen, 1978
Semilabeo notabilis Peters, 1880
Semilabeo obscurus Lin, 1933
VU (SĐVN)
Bangana lemassoni (Pellegrin & Chevey,
VU (SĐVN)
1936)
Labeo rohita (Hamilton,1822)
Labeo yunnanensis Chaudburhi, 1911
Osteochilus salsburyi Nichols và Pope, 1927
Cirrhina molitorella (Cuvier và Valenciennes,
1844)
Cirrhinus mrigala (Hamilton, 1822))
Spinibarbus hollandi Oshima, 1919
Squaliobarbus curriculus (Richardson, 1846)
Spinibarbichthys denticulatus Oshima, 1926
Bangana tonkinensis (Pellegrin & Chevey,
1934)
Labeo graffeuilli (Pellegrin và Chevey, 1936)
Parator macracanthus (Pellegrin và Chevey,
1936)
Tor zonatus (Lin, 1935)
Cyclocheilichthys iridescens Nichols và Pope,
1927
Acrossocheilus brevispinus (V.H.Nguyen &
L.H.Doan, 1969)

Lissochilus laocaiensis Hảo và Hoa, 1969,
Acrossocheilus clivosius (Lin, 1935)
Neolissochilus benasi (Pellegrin & Chevey,
1969)
Neolissochilus namlenensis (V.H.Nguyen &
L.H.Doan, 1969)
Poropuntius krempfi (Pellegrin & Chevey,
1934)
Acrossocheilus microstomus (Pellegrin và

6


66
67
68
69
70
71
72
73
74

Cá Đong chấm
Cá Đòng đong
Cá Ngộ
Cá Lổ
Cá Linh
Cá Măng nhồng
Cá Trắm đen

Cá Cháo
Cá Xảm mắt to

75

Cá Xảm mắt bé

76

Cá Xảm sét

77

Cá Dầm suối thường

78

Cá Chuôn

79

Cá Mại sọc

80
81
82
83
84

Cá Mại bạc

Cá Măng đậm
Cá Chày chàng
Cá Thiên hô sông
Cá Dầu sông gai dài

85

Cá Thiểu mắt to

86
87
88
89
90
91

Cá Thiểu gù
Cá Thiểu trung hoa
Cá Thiểu
Cá Dầu hồ
Cá Mương
Cá Mại, cá Mại bầu

92

Cá Tép dầu

93

Cá Dầu sông thân

mỏng

94

Cá Vền dài

95
96
97
98
99
100
101
102

Cá Vền
Cá Vền
Cá Nhác
Cá Nhàng
Cá Mần
Cá Mè trắng Việt Nam
Cá Mè trắng trung hoa
Cá Mè hoa

103 Cá Trắm cỏ

Chevey, 1936)
Puntius ocellatus Mai, 1978
Puntius semifasciolatus (Gunther, 1868)
Hemibarbus maculatus Bleeker, 1871

Hemibarbus lehoai V.H.Nguyen, 2001
Hemibarbus cf. umbrifer (Lin, 1931)
Luciobrama macrocephalus Lacepede, 1803.
Mylopharyngodon piceus (Richardson, 1846)
Opsarichthys uncirostris (Schlegel, 1842)
Barilius macropterus Hảo và Hoa
Barilius nammuensis (V.H.Nguyen &
L.H.Doan, 1969)
Opsarius pulchellus (Smith, 1931)
Nicholsicypris normalis (Nichol & Pope,
1927)
Parazacco spilurus (Gunther, 1868)
Rasbora cephalotaenia steineri Nichols và
Pope, 1927
Rasborinus formosae Oshima, 1920
Elopichthys bambusa (Richardson, 1844)
Ochetobius elongatus (Kner, 1867)
Pseudolaubuca sinensis Bleeker, 1864
Pseudohemiculter serrata (Koller, 1927)
Ancherythroculter daovantieni (Banarescu,
1967)
Culter flavipinnis Tirant,1883
Erythroculter ilishaeformis (Bleeker, 1871)
Culter erythropterus (Basilewskii, 1855)
Toxabramis swinhonis Gunther, 1873
Hemiculter leucisculus (Basilewskii, 1855)
Rasborinus lineatus (Pellegrin, 1907)
Pseudohemiculter hainanensis (Nichols và
Pope),
Pseudohemiculter dispar (Peters, 1880)

Megalobrama hoffmanni Herre và Myers,
1931
Megalobrama terminalis (Richardson, 1846)
Megalobrama skolkovii Dybowsky, 1872
Sinibrama affinis (Vaillant, 1891)
Xenocypris argentea Gunther, 1868
Xenocypris davidi Bleeker, 1871
Hypophthalmichthys harmandi Sauvage, 1884
Hypophthalmichthys molitrix (Sauvage, 1884)
Aristichthys nobilis (Richardson, 1844)
Ctenopharyngodon idella (Cuvier và
Valenciennes, 1844)

7


104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114

115
116


117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135

Rhodeus ocellatus (Kner, 1867)
Acheilognathus aff. meridianus (Wu, 1939)
Acanthorhodeus tonkinensis Vaillant, 1892
Sarcocheilichthys nigripinnis (Gunther, 1873)
Squalidus argentatus (Sauvage & Dabry,
Cá Đục trắng mỏng
1874)
Squalidus chankaensis vietnamensis P.
Cá Đục trắng dày

Banarescu và T. Nalbant, 1964
Cá Đục đanh chấm đại Microphysogobio giganteus (Mai, 1978)
Cá Đục đanh chấm hải Microphysogobio kachekensis (Oshima,
nam
1926)
Microphysogobio labeoides (Nichol & Pope,
Cá Đục đanh chấm râu
1927)
Cá Đục đanh đốm
Saurogobio dabryi Bleeker, 1871
Gobiobotia kolleri Banarescu & Nalbant,
Cá Đục râu
1966
Cyprinodontiformes
Bộ cá Bạc đầu, cá Sóc
Họ cá ăn muỗi
Poecilidae
Cá ăn muỗi
Gambusia affinis (Gaird & Birard, 1853)
Cá Bảy màu
Poecilia reticulata Peters, 1860
Siluriformes
Bộ cá Nheo
Họ cá Lăng
Bagridae
Cá Lăng chấm
Hemibagrus guttatus (Lacepede, 1803)
Cá Lăng
Hemibagrus hongus Yen, 1978,
Cá Huốt

Hemibagrus vietnamicus Yen, 1978
Cá Chốt
Hemibagrus pluriradiatus (Vaillant, 1904)
Cá Mầm
Pseudobagrus vachelli (Richardson, 1846)
Cá Bò, cá Bò vàng
Pelteobagrus fulvidraco (Richardson, 1846)
Cá Mịt
Pseudobagrus virgatus Oshima, 1926
Họ cá Trê
Clariidae
Cá Trê
Clarias fuscus (Lacepede, 1803)
Cá Trê phi
Clarias gariepinus Burchell, 1882
Họ cá Ngạnh
Cranoglanidae
Cá Ngạnh
Cranoglanis henrici (Vaillant, 1893)
Họ cá Nheo
Siluridae
Cá Nheo
Silurus asotus Linnaeus, 1758
Cá Nheo lạng sơn
Silurus meridionalis Chen, 1977
Cá Thèo
Pterocryptis cochinchinensis (C-V, 1839)
Cá Niết thường
Pterocryptis gilberti (Hora, 1938)
Họ cá Chiên

Sisoridae
Pareuchiloglanis macrotrema (Norman,
Cá Chiên bẹt
1925)
Cá Chiên
Bagarius rutilus Ng. & Kottelat, 2000
Cá Chiên thác
Pseudecheneis paviei (Vaillant, 1904)
Cá Chiên suối sọc trắng Glyptothorax pallozonum (Lin, 1934)
Cá Chiên suối
Glyptothorax hainanensis (Nichols và Pope,
Cá Bướm
Cá Thè be
Cá Thè be thường
Cá Nhọ chảo

VU (SĐVN)

VU (SĐVN)

8


1927)
Glyptothorax minutum (Mai, 1978)
Glyptothorax quadriocellatum (Mai, 1978)
Pareichiloglanis brevicaudatus V.H.Nguyen,
138 Cá Chiên bẹt đuôi ngắn
2005
139 Cá Chiên bẹt thường

Pareichiloglanis macrotrema (Norman, 1925)
140 Cá Chiên thác bẹt
Oreoglanis delacouri (Pellegrin, 1936)
Bộ cá Vược
Perciformes
Họ cá Rô
Anabantidae
141 Cá Rô, pa Rô phi nam
Anabas testudineus (Bloch, 1782)
Họ cá Chuối
Channidae
142 Cá Chuối suối
Channa orientalis (Bloch và Schneider, 1822)
143 Cá Chuối
Channa maculata (Lacepede, 1802)
EN (SĐVN)
144 Cá Xộp, cá Quả, cá Lóc Channa striata (Bloch, 1793)
Họ cá Rô phi
Cichlidae
145 Cá Rô phi thường
Oreochromis mossambicus (Peters, 1852)
146 Cá Rô phi vằn
Oreochromis niloticus (Linnaeus, 1758)
147 Cá Diêu hồng
Oreochromis niloticus X O. mossambicus
Họ cá Bống đen
Eleotridae
148 Cá Bống suối đầu ngắn Philypnus chalmersi (Nichols và Pope, 1927)
Họ cá Bống trắng
Gobiidae

Glossogobius giuris (Hamilton & Buchanan,
149 Cá Bống trắng
1822)
150 Cá Bống đá
Rhinogobius giurinus (Rutters, 1897)
Họ cá Tai tượng, cá
Osphronemidae
Sặc
151 Cá Đuôi cờ, pa Đí
Macropodus opercularis Linnaeus, 1758
152 Cá Sặc bướm
Trichogaster trichopterus (Pallas, 1770)
Họ cá Rô mo
Percichthyidae
153 Cá Rô mo thân cao
Siniperca chuatsi (Basilewskii, 1855)
154 Cá Rô mo thường
Coreoperca whiteheadi Boulenger, 1899
Bộ cá Hồi
Salmoniformes
Họ cá Hồi
Salmonidae
155 Cá Hồi vân N
Oncorhynchus mykiss (Walbaum, 1792)
Bộ cá mang liền
Synbranchiformes
Họ cá Chạch sông
Mastacembelidae
156 Cá Chạch sông
Mastacembelus armatus (Lacepede, 1800)

Họ Lươn
Synbranchidae
157 Lươn
Monopterus albus (Zuiew, 1793)
Tổng
Ghi chú: - Cột Mức độ đe dọa theo sách đỏ Việt Nam năm 2007: EN (Endangered) - Nguy cấp;
VU (Vulnerable) - Sẽ nguy cấp.
Trong thành phần cá các thủy vực tỉnh Sơn La, thống kê có 9 loài cá quý hiếm ghi trong
sách đỏ Việt nam năm 2007 và danh lục đỏ của IUCN năm 2009. Trong đó, theo sách đỏ Việt
Nam năm 2007 có 6 loài gồm 1 loài bậc EN (Endangered) - Nguy cấp (cá chuối hoa Channa
136 Cá Chiên suối con
137 Cá Chiên suối bốn mắt

9


maculatua); 6 loài bậc VU (Vulnerable) - Sẽ nguy cấp (Cá Măng Elopichthys bambusa, cá Chình
hoa Anguilla marmorata, Cá anh vũ Semilabeo obscurus, Cá rầm xanh Semilabeo lemassoni, Cá
lăng Hemibagrus guttatus và Cá chiên Bagarius rutilus. Theo danh lục đỏ của IUCN có hai loài là
Cá Tầm xi bê ri Acipenser baerii, cá Tầm sterlet Acipenser ruthenus là cá nuôi nhập nội trong
thời gian mới đây.
III.1.3. Khả năng khai thác, nuôi trồng và bảo vệ đa dạng thành phần loài cá của tỉnh Sơn
La
Sơn La có trên 3 vạn ha mặt nước để phát triển nuôi trồng thủy sản, trong đó hồ Hòa Bình
là gần 9.000 ha, hồ chứa thủy điện Sơn La 22.400 ha, hồ thủy điện Huội Quảng 870 ha… Đất
sông suối, mặt nước chuyên dụng là 20.747 ha.
Hồ Tiền Phong, một địa danh hấp dẫn khách du ngoạn trên mặt hồ bằng thuyền chèo tay,
thuyền đạp chân hay thuyền máy và cũng là nơi câu cá giải trí. Nhiều loài cá có mặt tại hồ như cá
Chép, cá Trắm cỏ, cá Trắm đen, cá Trôi, cá Mè.
Hồ Chiềng Khoi rộng 40 ha cũng là nơi du ngoạn hấp dẫn. Tại đây có các loài cá tự nhiên

như cá Chép, cá Mương, cá Quả, cá Trê, cá Diếc và nhiều loài tôm, cua, ếch.
Sơn La đã phát triển nuôi trồng thủy sản (NTTS) từ nhiều năm nay, nhưng đối tượng
chủ yếu vẫn là một số loài thủy sản nước ấm thông thường như cá Mè, cá Trôi, cá Trắm, cá
Chép, cá Rô phi... Cũng giống như phần lớn địa phương miền núi khác trong cả nước, nghề cá
vẫn bị coi là hoạt động kinh tế thứ yếu, là “nghề phụ”. Năm 2010, tổng sản lượng thủy sản của
cả tỉnh ước đạt 5.500 tấn, trong đó có 4.800 tấn thủy sản nuôi, 700 tấn thủy sản khai thác tự
nhiên. Thực tế sản lượng thủy sản năm 2010 đạt 5252,17 tấn.
Diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản của tỉnh Sơn La đạt 2.420 ha (đất nuôi trồng thủy
sản 2.589 ha) với sản lượng nuôi trồng và đánh bắt năm 2011 đạt 5.343 tấn, tăng 1,7% so với
năm 2010. Nhiều mô hình nuôi các loại thủy sản có hiệu quả kinh tế cao đang được tiếp tục nhân
rộng như mô hình nuôi cá Hồi, tôm Càng xanh, nuôi cá trong ruộng lúa….(báo điện tử Sơn La,
ngày 26/12/2011).
Hiện nay, Hiệp hội chế biến và xuất khẩu Việt Nam (VASEP) đánh giá, rằng hồ thủy điện
Sơn La có điều kiện tốt nhất Việt Nam để phát triển cá nước lạnh và các loại cá đặc hữu phục vụ
cho xuất khẩu có giá trị kinh tế cao như cá Tầm. Hiện nay, đã có 2 đơn vị đầu tư nuôi cá Tầm
trên vùng lòng hồ thủy điện Sơn La đó là : HTX Hạnh Lợi đầu tư 24 lồng, diện tích 18m2/lồng,
nuôi gần 3.000 con cá Tầm, ở khu vực gần cầu Pá Uôn, sau gần 1 năm, trọng lượng bình quân đạt
từ 2 đến 2,5kg/con và Công ty cổ phần đầu tư phát triển Lai Châu đã thả 10 lồng cá diện tích
177m2/lồng, bước đầu thả gần 2.000 cá Tầm giống. Dự kiến trong năm 2012, Công ty sẽ đầu tư
tiếp 200 lồng tròn trên hồ thủy điện Sơn La khu vực gần đập thủy điện Sơn La. Trên đỉnh 30
thượng nguồn Nậm Păm cũng có một cơ sở đang nuôi thử nghiệm 2.700 con cá Hồi cỡ 0,2-0,5
kg/con trong bể xi măng nhân tạo với dòng nước suối tự chảy.
Cùng với sự hình thành hồ thuỷ điện Sơn La, chính quyền huyện Quỳnh Nhai và các địa
phương khác của Sơn La đã hướng dẫn người dân nuôi cá lồng để tăng thu nhập. Mới đây, tại xã

10


Mường Chiến đã có 5 hộ bắt đầu nuôi thử nghiệm cá Trắm cỏ bằng lồng bè trong lòng hồ, mỗi
lồng thả 250 cá giống cỡ 0,2 kg/con, người nuôi sẽ thu hoạch khoảng 200 kg cá thịt, có được hơn

10 triệu đồng tiền lãi.
Kết quả khảo sát của các chuyên gia thủy sản đã cho thấy nghề cá ở vùng hồ nước mênh
mông này còn có tương lai xán lạn hơn thế rất nhiều lần. Mặt hồ thủy điện Sơn La, với diện tích
lên tới 224 km2, độ sâu trung bình 215m và dung tích toàn bộ 9,26 tỷ m3 nước, nguồn nước có
nhiệt độ tương đối thấp và ổn định quanh năm, hứa hẹn một tiềm năng, mà nếu được khai thác
hợp lý, sẽ đem lại cho địa phương nhiều lợi ích kinh tế xã hội. Ngoài tổ chức nuôi một số loài
cá bản địa có giá trị rất cao như cá Lăng, cá Nheo, cá Chiên, cá Anh vũ,... việc di nhập một số
loài mới thích nghi với điều kiện khí hậu vùng núi, và đặc biệt là cá Hồi vân, cá Tầm nuôi trong
các hồ chứa nhân tạo có bình độ cao trên 700-800 m so với mặt nước biển ví dụ như hồ thủy điện
Nậm Chiến 1, ... kết hợp với những mô hình tổ chức sản xuất đa canh, liên hoàn, sẽ tạo nên
những loại hình sản xuất mới nhiều hứa hẹn cả về giá trị kinh tế lẫn an sinh xã hội.
NTTS chỉ mới phát triển trong khoảng 2.420-2589 ha, có thể phát triển NTTS trong các ao,
hồ nhỏ và nuôi cá trong lồng bè ở trên hồ chứa Hòa Bình, hồ chứa Sơn La, hồ chứa Nậm Chiến...
Chỉ có phát triển NTTS mới giảm được áp lực lên KTTS ngoài tự nhiên trên hồ chứa Hòa Bình,
hồ chứa Sơn La, hồ chứa Nậm Chiến… và trong các sông, suối nhỏ, từ đó mới có thể phục hồi
nguồn lợi cá tự nhiên. Đáng lưu ý là NTTS có tiềm năng xóa đói giảm nghèo, tăng thu nhập khá
tốt so với chăn nuôi và trồng trọt.
Các loài cá phát triển NTTS lại chủ yếu là các loài cá nhập nội như như cá Trắm cỏ, cá
Trôi mrigal và rohu, cá Mè trắng và cá Mè hoa, cá Rô phi Đài Loan, cá Trê phi Trường Giang, cá
Chim trắng nước ngọt, cá Tầm, cá Hồi. Chúng ta quên mất việc phát triển nuôi các loài cá bản địa
như cá Trôi, cá Chép, cá Trắm đen, cá Mè trắng việt nam, cũng như phát triển thuần hóa nuôi các
loài cá khác như cá Chiên, cá Lăng…
III.1.4. Các tác đông làm suy thoái đa dạng thành phần loài cá tỉnh Sơn La
III.1.4.1. Nguyên nhân làm suy thoái đa dạng thành phần loài cá nói riêng và thủy sinh vật nói
chung có thể tóm tắt như sau:
- Khai thác với cường độ cao và mang tính hủy diệt do sức ép gia tăng dân số, nhu cầu khai thác
nguồn lợi thủy sản tăng cao (ngư cụ và phương thức khai thác). Hiện nay theo kết quả điều tra
cho thấy nhân dân sử dung lưới kích thước mắt nhỏ để khai thác kể cả các loài có kích thước nhỏ.
Trong đó có tôm, cá con; Sử dụng một số ngư cụ mang tính hủy diệt cao với nhiều loài thủy sinh
vật trên sông như kích điện, nổ mìn, các loại chất độc như lá cơi, hạt thàn mát, sử dụng xyanua để

khai thác vàng đầu độc các dòng sông, suối... Khai thác, đánh bắt không theo mùa vụ với nhiều
loài cá di cư tìm bãi đẻ làm gia tăng suy giảm nguồn lợi. Vớt cá bột trên sông với kỹ thuật lọc ép
gây chết hàng loại các đối tượng thủy sinh vật ngoài nhóm cá bột phục vụ ương nuôi.
- Phá hoại rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ là điều rõ nét nhất, gây ra mưa lũ tăng nguy cơ xói
mòn, đảo lộn các dịch vụ hệ sinh thái, gây tổn thất lớn cho các loài thủy sinh vật nước ngọt.

11


- Xây dựng các đập chắn, hồ chứa làm thay đổi chất lượng nước, phân tầng nhiệt độ, thành phần
hóa học và dinh dưỡng dẫn đến thay đổi sinh thái quần thể động thực vật vùng hỗ chứa. Làm mất
đi một số loài ưa nước chảy, nước nông dẫn đến thành phần loài giảm nhất là một số loài cá có ý
nghĩa kinh tế; Làm mất bãi đẻ một số loài cá kinh tế di cư lên thượng nguồn. Các bãi đẻ của cá
phía hạ nguồn cũng bị tác động, thu hẹp và khó hình thành bãi đẻ mới dẫn đến số lượng cá bố mẹ
lên các bãi đẻ giảm, lượng cá bổ sung cho sông và hồ chứa giảm nhanh chóng.
- Làm thay đổi chế độ dòng chảy, đảo lộn các hoạt động của thủy sinh vật nhất là cá vùng hạ du
không ổn định, tổn thất lượng phù sa dinh dưỡng từ thượng nguồn chảy ra vùng cửa sông qua đó
làm nghèo đi nguồn lợi thủy sản, gây xói lở bờ sông và các bãi đẻ tự nhiên.
- Ảnh hưởng cúa các biện pháp thủy lợi đến nguồn lợi thủy sinh vật như Làm mất nhiều diện tích
ngập nước thường xuyên trong khu vực. Các cống chủ động điều tiết nước làm thay đổi chế độ
thủy văn thông thường gây đảo lộn các hoạt động sinh thái thủy vực. Ngăn chặn giòng suối làm
phân cách mạng lưới hệ sinh thái thủy vực, ảnh hưởng đến giòng chảy sinh học, dẫn đến các quần
xã sinh vật không được bổ sung và trao đổi cho nhau.
- Ô nhiễm môi trường nước do các hoạt động sản xuất nông nghiệp như sử dụng không hợp lý
phân bón, thuốc trừ sâu gây tổn hại khá lớn đến thủy sinh vật do độc tố phát sinh từ nguồn thuốc
trừ sâu, thậm chí lại gây hiện tượng phú dưỡng cho thủy vực từ phân bón.
- Các chất thải sinh hoạt chưa được xử lý từ khu vực dân cư đổ ra sông hàng ngày làm sông bị
mất cân bằng sinh thái và mất khả năng tự làm sạch làm thủy sinh vật không thể sống được, đặc
biệt là các loại con non, ấu trùng..
- Các chất thải trong hoạt động sản xuất công nhiệp, làng nghề với nhiều loại độc tố gây chết

hàng loạt hoặc ức chế quá trình sống và sinh thưởng của thủy sinh vật.
- Các loài thủy sinh vật lạ nhập nội đang tác động lên hệ sinh thái thủy vực của Việt Nam nói
chung và của tỉnh Sơn La nói riêng. Số liệu thủy sinh vật lạ nhập nội vào Việt Nam rất khác
nhau. Việt Nam đã nhập 41 loài động vật thủy sinh lạ trong vòng hơn 50 năm qua với nhiều mục
đích khác nhau. Điều tra của Bộ Thủy sản (nay thuộc Bộ NN & PTNT) cho thấy có 7 loài cần
phải được theo dõi nghiêm ngặt do tác hại của chúng đối với cân bằng sinh thái ở Việt Nam.
Trong số 41 loài, có 32 loài được nhập để sản xuất thực phẩm, có 6 loài nhập về làm cảnh nhưng
đã thoát ra ngoài tự nhiên. Qua điều tra thực tế tại 6 vùng nông nghiệp cùng với hồ sơ nhập nội
giống thủy sản tại Bộ NN & PTNT cho thấy Đồng bằng Bắc Bộ là nơi có mặt nhiều động vật
thủy sinh lạ nhất, với 34 loài. Các loài động vật thủy sinh lạ nhập nội vào Việt Nam đáng quan
tâm nhất là tôm He chân trắng, ốc Bươu vàng, cá Mrigan, cá Trắm cỏ, cá Mè trắng trung quốc, cá
Rô hu, cá Trê phi, cá Chim trắng nước ngọt bụng đỏ, cá Rô phi đen, cá Rô phi vằn...
Số liệu đáng tin cậy nhất là của Cục khai thác và bảo vệ nguồn lợi Thủy Sản (2005), Phạm
Mạnh Tuấn (2002), Nguyễn Công Dân và nnk (2005). Từ trước đến nay cũng đã nhập nội tới 33
loài cá, 2 loài tôm, 1 loài ốc, 1 loài động vật nổi làm thức ăn cho tôm, cá (Cục khai thác và bảo vệ
nguồn lợi Thủy Sản, 2005). Theo Phạm Mạnh Tuấn (2002) thì chúng ta đã nhập vào nước ta 114

12


loài thuỷ sinh vật lạ, trong đó có 17 loài cá nước ngọt, 10 loài cá nước lợ – nước mặn, 40 loài cá
cảnh, 3 loài tôm nước ngọt, 5 loài tôm biển và Artemia, 4 loài lưỡng cư, 4 loài nhuyễn thể, 14
loài thực vật phù du nước ngọt, 15 loài thực vật phù du nước mặn, 2 loài động vật phù du nước
mặn. Các loài thủy sản nhập nội này cũng gây ra nhiều vấn đề tranh luận, vì trong đó một số loài
đã góp phần làm tăng sản lượng nuôi trồng thủy sản (NTTS) nước ngọt như cá Mè trắng trung
quốc, cá Mè hoa, cá Trắm cỏ, cá Mrigan, cá Rô hu, cá Chép các dòng khác nhau, cá Rô phi vằn,
cá Rô phi đơn tính đực dòng GIFT (Phạm Anh Tuấn (2002), Nguyễn Công Dân và nnk (2005).
Nhưng cũng không ít loài không có thể sống được trong các thuỷ vực nước ta do nhiều nguyên
nhân. Đó là vấn đề đồng hoá khí hậu để thích ứng với môi trường. Một số loài gây nhức nhối vì
bị coi là xâm hại, phá vỡ hệ sinh thái (HST), gây sức ép lên nơi sống đối với các loài thuỷ sinh

vật bản địa như ốc Bươu vàng, cá Rô phi thường, cá Chim trắng bụng đỏ, cá Piranha, cá Tỳ bà,
tôm Thẻ chân trắng, được đánh giá ở mức “đen”. Gần đây Bộ Tài nguyên và Môi trường và Bộ
NN & PTNT đang có những ý kiến trái chiều nhau về hai loài tôm Thẻ chân trắng và loài Hầu
thái bình dương.
Việc nhập nội các loài động vật thủy sinh lạ thời gian qua đã có biểu hiện gây ra một số
ảnh hưởng bất lợi đối với đa dạng sinh học (ĐDSH) trong các thủy vực. Một số loài bản địa trở
nên khan hiếm do khả năng cạnh tranh thức ăn và nơi ở kém hơn các loài nhập nội như cá Mè
trắng việt nam, cá Trôi, cá Chép. Một số loài khác, chẳng hạn cá Trê, đã có biểu hiện bị lai tạp.
Ở nước ta, sự xâm nhập của các sinh vật lạ, nhất là những loài mới xâm nhập còn ở mức độ
chưa lớn, nhưng đang tiềm ẩn nguy cơ phát triển gây ảnh hưởng trực tiếp cho sản xuất nông
nghiệp.
Có thể chỉ ra các biểu hiện ban đầu sau: Ốc bươu vàng Pomacea canaliculata được nhập
khẩu vào nước ta trong khoảng hơn 10 năm nay, với khả năng sinh sản rất nhanh và thức ăn chủ
yếu là cây cỏ thực vật thủy sinh, lá lúa nên đã gây nên đại dịch phá hoại lúa ở nhiều tỉnh Đồng
bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đang phát triển dần ra các tỉnh miền Trung, miền Bắc. Nạn dịch
này không chỉ làm giảm sản lượng lúa của các địa phương mà hàng năm Nhà nước đã phải chi
hàng trăm triệu đồng để tiêu diệt loài ốc này, nhưng chưa đem lại kết quả mong muốn. Tuy nhiên,
ở ĐBSCL do nuôi cá Tra và cá Ba sa, nên người dân vẫn có thể bắt ốc bươu vàng về làm thức ăn
cho cá.
Cũng trong khoảng 1996-1998, trên thị trường cá cảnh xuất hiện loại cá hổ pirana, hay còn
gọi là cá kim cương, cá răng Serralmus nattereri. Đây là loài cá có nguồn gốc từ lưu vực sông
Amazon (Nam Mỹ), thuộc loài ăn thịt, hung dữ. Nhiều nước đã có quy định nghiêm ngặt đối với
việc nhập loài cá này. Nếu loài này lọt ra sống trong môi trường tự nhiên chúng sẽ tiêu diệt hết
các động vật thuỷ sinh, khi đó khó lường hết những thiệt hại về kinh tế thuỷ sản, đồng thời cũng
gây nguy hiểm cho con người. Vì vậy Bộ NN & PTNT đã có chỉ thị nghiêm cấm nhập khẩu, phát
triển loài cá này. Mới đây, loài cá Tỳ bà (hay còn gọi là cá dọn bể hay cá lau kính) Hypostomus
punctatus là loài cá cảnh, đang phát triển mạnh ngoài tự nhiên, cạnh tranh nguồn thức ăn và sinh
cảnh của cá bản địa.

13



III.1.3.2. Dự báo diễn thế đa dạng thành phần loài cá tỉnh Sơn La
Theo tốc độ phát triển kinh tế-xã hội như hiện nay, đặc biêt do yêu cầu chuyển đổi cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiêp hóa đang diễn ra mạnh mẽ như ở Sơn La. Theo kết quả phân tich
so sánh các tác động của phát triển thì tới năm 2025, những tác động tự nhiên, tác động của biến
đổi khí hậu là có nhưng không mạnh bằng chính tác động của các hoạt động do con người. Bởi
vậy, xu thế diễn biến đa dạng sinh học ở Sơn La nói chung và đa dạng thành phần loài cá tỉnh
Sơn La nói riêng phụ thuộc chủ yếu vào các áp lực môi trường (mức độ ô nhiễm môi trường, xây
dựng cơ sở hạ tầng, đô thị hóa làm suy thoái, chia cắt hoặc mất đi nơi sinh cư của sinh vật) và
mức độ khai thác sử dụng tài nguyên sinh vật. Sau năm 2025, xu thế biến đổi đa dạng sinh học
của tỉnh Sơn La thể hiện là số lượng cá thể động, thực vật quý hiếm giảm đến mức nguy cấp; Số
lượng các loài thuỷ sinh vật, đặc biệt các loài tôm, cá có giá trị kinh tế bị giảm sút nhanh chóng.
Số lượng cá thể các loài cá nước ngọt tự nhiên quý hiếm, có giá trị kinh tế, các loài có tập tính di
cư bị giảm sút, thậm chí một số loài như cá Anh vũ sẽ bị tuyệt chủng trong tự nhiên. Số lượng
các loài nguy cấp tăng .Mặt khác, việc nổ lực thực hiện có hiệu quả các giải pháp bảo vệ và phát
triển đa dạng sinh học cũng có vai trò tác động tích cực đến chiều hướng diễn biến của đa dạng
sinh học.
Xu thế biến đổi đa dạng sinh học trong các hệ sinh thái ở tỉnh Sơn La nếu tính đến khả
năng nguyên nhân/áp lực môi trường, sẽ xảy ra theo hai kịch bản: Được bảo vệ và phát triển khi
tài nguyên được sử dụng bền vững, tình trạng môi trường (đất, nước) được cải thiện và càng suy
giảm khi năng lực quản lý yếu kém, tài nguyên bị khai thác quá mức, môi trường bị ô nhiễm nặng
nề hơn.
Bên cạnh áp lực môi trường, phương thức sử dụng các hệ sinh thái và tài nguyên sinh vật
một cách hợp lý, mở rộng và tăng cường các biện pháp quản lý tốt các khu BTTN, rừng phòng
hộ, rừng đầu nguồn cũng là những yếu tố rất quan trọng tác động đến diễn biến đa dạng sinh học.
Nếu giải quyết các vấn đề nêu trên một cách hợp lý thì xu thế diễn biến đa dạng sinh học sẽ phát
triển theo hướng tích cực và nếu không sẽ ngược lại.
Dưới góc độ sinh thái học, đã thấy rõ các hậu quả tiêu cực về môi trường, đa dạng sinh
học và các hệ sinh thái do chuyển đổi chức năng và thuộc tính của một số hệ sinh thái tự nhiên

sang một hệ sinh thái khác như chuyển đổi đất nông nghiệp thành khu công nghiệp, xây dựng đập
thủy điện, thủy lợi. Tuy nhiên, việc chuyển đổi này vì mục tiêu kinh tế đang trở thành một thực tế
trong xã hội. Diện tích các hệ sinh thái tự nhiên vốn có, là nơi cư trú của nhiều loài sinh vật bản
địa với thuộc tính đa dạng sinh học cao bị giảm đi rõ rệt cùng với sự suy thoái về chất lượng các
hệ sinh thái này:
- Các công trình làm thay đổi địa hình, có thể dẫn đến sự sụt lở đất, trượt đất, xói mòn nhất là đất
vùng đồi núi, làm ảnh hưởng tới đa dạng sinh học.
- Suy giảm diện tích thảm thực vật, nhất là khi mở rộng các khu đô thị, xây dựng hạ tầng cơ sở,
thủy điện, Khu công nghiệp. Việc giảm diện tích thảm thực vật sẽ làm giảm độ đa dạng sinh học,
giảm khả năng giữ nước, giảm tài nguyên nước ngầm, làm đảo lộn chế độ thủy văn, tăng quá

14


trình xói mòn, trượt lở đất, gia tăng cường độ lũ lụt và thay đổi khí hậu. Nếu việc mở rộng các
đường giao thông, khu đô thị, khu du lịch dẫn đến xâm phạm vào diện tích các khu bảo tồn thiên
nhiên, diện tích rừng đặc dụng, rừng phòng hộ thì tác hại về đa dạng sinh học, về môi trường và
văn hoá còn nghiêm trọng hơn.
- Thâm canh nông nghiệp, cây công nghiêp, đồng nghĩa với gia tăng lượng thuốc bảo vệ thực vật,
phân bón hóa học, du nhập sử dụng các giống mới làm xói mòn nguồn gen bản địa. Các thành
phần hóa học từ phân bốn, thuốc bảo vệ thục vật nếu không được sử dụng hết, lượng dư thừa sẽ
gây ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường đất, nước, đến đa dạng sinh học và sức khỏe con người.
Như vậy, nếu xem xét về bản chất thì hầu hết sự chuyển đổi chức năng và thuộc tính của một số
hệ sinh thái tự nhiên sang một hệ sinh thái khác đã dẫn tới sự xung đột về mục tiêu sử dụng chức
năng của cùng một hệ sinh thái, giữa các các ngành kinh tế Nông, Lâm và Ngư nghiệp.
- Ngoài ra, trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội ở Sơn La, vấn đề môi trường còn tác động tới
môi trường tự nhiên, các hệ sinh thái, đa dạng sinh học và du lịch sinh thái. Do phát triển kinh tếxã hội, lượng chất thải không được xử lý tăng dẫn tới ô nhiễm môi trường. Các hệ sinh thái và
các dịch vụ hệ sinh thái, hệ thống sông, suối, hồ ở hầu hết các vùng đô thị tập trung, khu công
nghiệp và cả khu vực nông thôn cũng là đối tượng bị tác động do chất thải, do bị san lấp, do ô
nhiễm. Nước thải chứa hàm lượng cao các chất hữu cơ, các hoá chất độc hại có thể gây chết tôm,

cá; các chất dinh dưỡng (N, P) ở nồng độ cao có thể gây phú dưỡng nước sông, suối, ao hồ, dẫn
đến ảnh hưởng xấu đến đời sống của các loài sinh vật thủy sinh.
- Nguồn nước bị ô nhiễm do chất thải (ô nhiễm do hữu cơ, hoá chất nguy hại, ô nhiễm nhiệt, độ
đục…) có thể làm suy giảm đáng kể sản lượng thuỷ sản, thậm chí gây chết hàng loạt tôm, cá và
các đông vật thủy sinh khác trong các sông, suối, hồ, ao.
- Các dự án khai thác khoáng sản tay đổi sinh cảnh tự nhiên, gây ô nhiễm bới các chất độc tố, độ
đục... làm suy giảm chất lượng nước và các hệ sinh thái và ĐDSH.
- Quy hoạch xây dựng giao thông sẽ góp phần làm thay đổi diện tích đất tự nhiên. Diện tích đất tự
nhiên bị phá để dành cho giao thông và diện tích đất, rừng, mặt nước tự nhiên bị ảnh hưởng do
hoạt động giao thông sẽ tăng cao.
- Kế hoạch triển khai đề án xây dựng khu du lịch quốc gia Mộc Châu trong giai đoạn tới sẽ gây ra
nhiều tác động có hại đến môi trường và đa dạng sinh học tại các địa điểm du lịch, các khu bảo
tồn thiên nhiên nhưng ở mức độ nguy hiểm hơn. Với số lượng lớn chất thải do các hoạt động du
lịch này, nếu các cấp chính quyền, cơ quan chức năng không có biện pháp thu gom, xử lý thích
hợp, chất lượng môi trường, đa dạng sinh học tại các địa điểm du lịch sẽ bị suy giảm, tàn phá
nghiêm trọng.
- Tỉnh Sơn La đã quy hoạch, dự kiến thu hút đầu tư để xây dựng khoảng 54 dự án công trình thuỷ
điện vừa và nhỏ. Việc xây dựng các nhà máy thuỷ điện Sơn La, Huổi Quảng, Nậm Chiến và các
công trình thuỷ lợi, thuỷ điện khác tác động mạnh đến toàn bộ hoạt động kinh tế, xã hội của tỉnh
trong thời gian tới. Sau khi các hồ chứa của các công trình này tích nước để phát điện có thể dự
báo, xác định được một số biến động lớn sau:

15


+ Tổng diện tích đất của tỉnh bị ngập do tác động của các công trình thuỷ điện khoảng 16.400 ha,
trong đó:
* Đất nông nghiệp bị ngập khoảng 9.400 ha;
* Đất phi nông nghiệp bị ngập khoảng 700 ha;
* Đất chưa sử dụng bị ngập khoảng 6.300 ha.

Diện tích ngập vùng lòng hồ tăng lên làm thay đổi một số yếu tố theo hướng có lợi cho
sản xuất và đời sống như: tiểu khí hậu sẽ ôn hòa hơn, độ ẩm tăng lên, có thêm diện tích mặt nước
rất lớn để nuôi trồng thuỷ sản.
+ Tỉnh phải tổ chức ổn định đời sống và phát triển sản xuất cho khoảng trên 13.000 hộ dân thuộc
diện tái định cư thuỷ điện Sơn La và các dự án khác triển khai trên địa bàn tỉnh trong thời gian
qua. Đây được xác định là công việc trọng tâm của tỉnh trong thời gian tới.
Quá trình xây dựng và hoạt động của các hồ chứa này chắc chắn sẽ tác động nhiều đến
cảnh quan, chất lượng môi trường và đa dạng sinh học trong vùng. Các tác động chính bao gồm:
* Phá rừng để xây dựng, mở rộng lòng hồ làm thu hẹp diện tích đất tự nhiên, thu hẹp vùng sinh
sống của động vật, chim, thực vật...
* Tập trung một số lượng lớn phương tiện xây dựng gây ô nhiễm môi trường.
* Di dân tới các khu định cư mới tăng nguy cơ phá rừng để canh tác, sinh sống.
* Tập trung dân cư, các hoạt động kinh tế ven hồ trong giai đoạn hoạt động gây ô nhiễm môi
trường, làm gia tăng sự khai thác rừng tự nhiên, phá rừng làm khu dân cư, chặt rừng lấy củi, săn
bắt thú...
* Thay đổi chế độ thủy văn, diện tích mặt nước làm ảnh hưởng tới vi khí hậu, hệ sinh thái nước;
gia tăng các tai biến thiên nhiên: sụt lở, xói mòn.
* Gia tăng lượng nước tưới, làm thay đổi các hệ sinh thái khô hạn trong mùa khô của khu vực hạ
lưu.
* Tăng lưu lượng dòng chảy tại khu vực hạ lưu, làm thay đổi hệ sinh thái nước, đất và nông
nghiệp tại khu vực hạ lưu.
* Do qui mô của hệ thống các hồ chứa này nên các tác động mang tính toàn khu vực không chỉ
của Sơn La mà cả các tỉnh khác ở phía Đông Bắc Bộ. Đặc biệt, các hồ chứa được xây dựng tại
các khu vực rừng đầu nguồn nên các tác động đến hệ sinh thái tự nhiên rất lớn.
Do khai thác quá mức, do ô nhiễm và các tác nhân khác như xây dựng các đập thủy điện
trên dòng chính sông Đà mà hiện nay có tới 14 loài có nguy cơ tuyệt chủng và bị đe dọa ở các
mức độ khác nhau, chiếm tới 8,97% tổng số loài cá ở khu vực này, nếu trừ 2 loài cá Tầm nhập
nội, còn 12 loài chiếm 7,69%.
Như vậy, sáu nguyên nhân chính được các tổ chức quốc tế (WRI/ IUCN/UNEP, 1992) cho
là gây nên sự suy thoái đa dạng sinh học (ĐDSH) toàn cầu. Tỉnh Sơn La cũng không nằm ngoài

các nguyên nhân dưới đây:
- Tốc độ tăng dân số thế giới cao và nhu cầu tiêu dùng cũng cao theo.

16


- Các mặt hàng thương mại từ nông nghiệp và lâm nghiệp giảm liên tục, hẹp dần, quá trình nhập
nội các giống cây, con ngoại vào phục vụ cho nghề nông nghiệp, nghề rừng và nghề thủy sản cao.
- Hệ thống kinh tế và hệ thống chính sách không đánh giá hết giá trị của môi trường và nguồn lợi
của môi trường.
- Không thống nhất được quyền sở hữu và đánh giá nguồn lợi thiên nhiên bao gồm cả lợi nhuận
từ việc sử dụng và bảo vệ nguồn lợi đa dạng sinh học.
- Không đồng đều về tri thức và sử dụng không hiệu quả thông tin về đa dạng sinh học.
- Hệ thống chính sách và pháp luật không ngăn chặn được việc khai thác đa dạng sinh học không
bền vững.
III.1.3.2. Các giải pháp và đề xuất bảo tồn, phát triển đa dạng thành phần loài cá tỉnh Sơn La
Trên thế giới vẫn dùng 2 biện pháp chính là bảo vệ tại chỗ (in situ) và đưa đến một nơi
nào khác để bảo vệ, bảo quản (ex-situ). Bảo vệ tại chỗ (in situ) bao gồm hệ thống mạng lưới các
KBTTN và VQG cả ở trên cạn lẫn dưới nước: các khu rừng nhỏ trong các thung lũng, các hồ, các
khu dự trữ sinh quyển, các VQG, các KBTTN hoang dã. Bảo vệ bảo quản ở nơi khác (ex situ)
bao gồm bảo vệ các loài cây quý hiếm, các nhà vườn, lập quỹ gen các giống cây, giống con, lập
các cánh đồng để nuôi giữ quỹ gien, giữ giống bằng phương pháp đông lạnh.
Biện pháp quản lý các loài động vật thuỷ sinh lạ nhập nội, nên đánh giá và sắp xếp chúng
vào các danh mục Trắng, Xám, Ðen (Trắng có nghĩa là động vật thuỷ sinh lạ đã đưa ra nuôi ở
diện rộng, thời gian tương đối dài nhưng hầu như không có ảnh hưởng gì; Xám là loài động vật
thuỷ sinh lạ chưa rõ nguy cơ hoặc còn có ý kiến khác nhau; Ðen là các loài động vật thuỷ sinh lạ
cần có các biện pháp phòng ngừa chặt chẽ để huỷ bỏ, tiêu diệt, đồng thời áp dụng biện pháp
phòng ngừa là cấm nhập). Theo cách phân chia này, Việt Nam có 9 loài động vật thuỷ sinh lạ loại
Trắng, 25 loại Xám và 7 loại Đen. Như vậy, có 7 loài động vật thuỷ sinh lạ cần kiểm soát gắt gao
là ốc Bươu vàng, cá Tỳ bà, cá Nheo Âu, cá Hổ, rùa Tai đỏ, cá Sấu Cuba, chuột Hải ly.

Duy trì dòng chảy sinh thái ở mức tối thiểu trên các dòng sông tự nhiên đã và đang bị
chặn dòng làm hồ chứa thủy điện; Giảm ô nhiễm do công nghiệp và chất thải, rác thải từ các hoạt
động của con người.
Kết luận và đề xuất kiến nghị
- Thành phần loài cá trong các thủy vực thuộc tỉnh Sơn La có 157 loài thuộc 23 họ, 10 bộ. Trong
đó có 9 loài cá quý hiếm kể cả 2 loài cá Tầm nhập nội.
- Một số loài sinh vật bản địa có giá trị kinh tế (9 loài cá quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng) đang
bị giảm về số lượng và kích thước.
- Phát triển kinh tế cần đi đôi với bảo vệ môi trường, bảo vệ đa dạng sinh học, chú ý nhất là sử lý
chất thải rắn, nước thải để giảm thiểu ô nhiễm nguồn nước.
- Dựa vào các cộng đồng để bảo vệ các KBTTN và thành lập mới khu bảo tồn vùng nước và đảo
trên lòng hồ Hòa Bình, lòng hồ Sơn La...
- Nghiên cứu thuần dưỡng các loài động vật hoang dã để mở rộng đối tượng nuôi nhằm giảm áp
lực lên nguồn lợi tự nhiên và tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân.

17


Tài liệu tham khảo

1. Mai Đình Yên, 1978. Định loại cá nước ngọt các tỉnh phía Bắc Việt Nam. Nxb. KH-KT, Hà
Nội.

2. Mai Đình Yên, 1985. Thử đánh giá hậu quả sinh thái hồ sông Đà (báo cáo).
3. Nguyễn Kiêm Sơn và nnk, 1991. Hệ sinh thái hồ chứa nhân tạo Hòa Bình và quy hoạch sử
dụng hợp lý (báo cáo).

4. Nguyễn Hữu Dực, Nguyễn Văn Hảo, Nguyễn Thị Hoa, Nguyễn Văn Chiến, 2001. Kết quả
bước đầu khảo sát khu hệ cá sông Đà thuộc địa phận các tỉnh Lai Châu và Sơn La.
International Workshop on Biology, Hanoi-Vietnam 2-5 July 2001:77-85.


5. Nguyễn Văn Hảo và Ngô Sỹ Vân, 2001. Cá nước ngọt Việt Nam, tập I. Họ cá Chép
(Cyprinidae). NXB. Nông nghiệp, 622 tr.

6. Phạm Anh Tuấn, 2002. Hiện trạng du nhập thuỷ sinh vật ngoài lãnh thổ vào Việt Nam.
TCTS số 6/2002: 15 – 16.

7. Nguyễn Kiêm Sơn, 2003. Đánh giá hiện trạng điều kiện tự nhiên, môi trường, sinh vật và diễn
biến sau khi xây dựng đập thủy điện Huội Quảng trên sông Nậm Mu (báo cáo)

8. Cục khai thác và bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, 2005. Các loài động vật thuỷ sinh lạ xâm nhập
thuỷ vực Việt Nam. Hà Nội. 8/2005. 63 tr.

9. Nguyễn Văn Hảo, 2005. Cá nước ngọt Việt Nam. Tập II. Lớp cá Sụn và liên bộ của nhóm cá
xương (liên bộ cá Thát lát, liên bộ cá dạng Trích, tổng bộ cá dạng Chình và liên bộ cá dạng
Chép). Nxb. Nông nghiệp. Hà Nội-2005. 760 tr.

10.Nguyễn Văn Hảo, 2005. Cá nước ngọt Việt Nam. Tập III. Ba liên bộ của lớp cá xương (Liên
bộ cá dạng mang ếch, liên bộ cá dạng suốt và liên bộ cá dạng vược). Nxb. Nông nghiệp. Hà
Nội-2005. 759 tr.

11. Ngô Sỹ Vân, Phạm Anh Tuấn, 2005. Hiện trạng và các giải pháp phát triển nguồn lợi cá tự
nhiên ở một số tỉnh phía Bắc Việt Nam. Kỷ yếu hội thảo toàn quốc bảo vệ môi trường và
nguồn lợi thủy sản. Hải Phòng, ngày 14-15/01/2005. Nxb.Nông nghiệp, 2005: 292-319.

12.Sách Đỏ Việt Nam, 2007. Phần 1. Động vật, NXB Khoa học và Công nghệ, Hà Nội.
13.Nguyễn Thị Hoa, 2011. Góp phần nghiên cứu cá lưu vực sông Đà thuộc địa phận Việt Nam.
Luận án tiến sỹ sinh học.

14.Đắc Văn, 2012. Nuôi cá tầm - hướng mở cho vùng hồ thủy điện Sơn La (Nguồn:

baosonla.org.vn, ngày 21/09/2012)

Abstract
Diversity of fish species and the impact that changed the structure components, as well as
fish and aquatic resources in Son La province
Phan Van Mach, Nguyen Kiem Son

18


Institute of Ecology and Biological Resources
Surface water resources of Son La province about 19 billion m3 annually mainly from
rain water stored in two main river systems: Da river (the flow through Son La 250 km long); Ma
river (the flow through Son La 93 km long). Besides the two main rivers, Son La province has
also 35 large streams, hundreds of small stream locating on sloping terrain with many waterfalls.
Fish composition in river and stream system, lakes and ponds in Son La province is diverse and
abundance with about 157 species belonging to 23 families, 10 orders. However, studies of fish
fauna as well as aquaculture and fisheries here are very limited. Due in over exploit fish resources
excessively, due to the rivers are separated by large and small hydro power dams, the impacts of
climate change alter the water level of rivers and streams, rare and economic species decrease
both in number and individual size. Natural fish preferred flowing water has been replacing by
aquaculture fish and fish species adapted to slow or static water.

19



×