Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Bài tập hình sự đề 3 đại học Luật Hà Nội (2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.36 KB, 10 trang )

MỤC LỤC

MỞ BÀI
Trong cuộc sống, bộ luật hình sự được áo dụng rất nhiều lần, từ những tội
A.

nhỏ như trộm tài sản đế những tội lớn như giết người. CÁc quy phạm pháp
luạt của Luật Hình Sự đều quy định rất nghiêm và cụ thể từng khung hình
phạt cho từng loại tội phạm và mức độ nguy hiểm. Hôm nay em xin trình
bày về tội phạm cố ý giết người thông qua một tình huống cụ thể được nêu
trong đề 3, Đề bài tập học kì môn Luật Hình Sự.
B. NỘI DUNG
I.
TÌNH HUỐNG
Thắng (22 tuổi, trú tại Khoái Châu, Hưng Yên) là tài xế xe tải, có xích mích
với phụ xe là Toán (37 tuổi, cùng quê). Ngày 26/10/2011, khi xe đến địa phận
Thanh Hóa thì Thắng và Toàn cãi nhau gay gắt. Thắng đuổi Toán xuống xe, Toán
1


đuổi theo và bám vào cửa xe ( bên phía Thắng đang cầm lái). Thắng xô cửa xe làm
Toán ngã xuống đường. Toán bị xe cán ngang qua người.
Chạy thêm chừng 300m, Thắng bỏ xe chạy trốn. Toán bị dập nát hai chân và
chết. Tôi phạm mà Thắng đã thực hiệm được quy định tại khoản 2 điều 93 Bộ Luật
Hình Sự.
a)

Cấu thành tội phạm ở khoản 2 điều 93 là cấu thành tội phạm cơ bản, tăng nặng hay

b)
c)



giảm nhẹ? Tại sao?
Lỗi của Thắng trong trường hợp này là gì? Tại sao?
Phát biểu sau đây về vụ án là đúng hay sai? Nêu Thắng không bỏ trốn mà đến ngay
cơ quan công an gần nhất để khai báo thì coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc

d)

phạm tội.
Giả sử Thắng đã phạm tội cố ý gây thương tích, bị phạt tù 2 năm cho hưởng án
treo và thời gian thử thách là 4 năm. Sau khi chấp hành 3 năm thử thách, Thắng
phạm tôi giết người nêu trên và bị phạt tù 10 năm, tổng hình phạt của Thắng là
bao nhiêu năm tù?
II. GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG
Câu 1:
Cấu thành tôi phạm ở khoản 2 điều 93 Bộ Luật Hình Sự 2005 là cấu thành tội
phạm giảm nhẹ.
Khoản 2 điều 93 Bộ Luật Hình Sự 2005 quy định:
“Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị
phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.”
Xét về mặt định nghĩa, ta thấy:
Cấu thành tội phạm là tổng hợp những dấu hiệu chung có tính đặc trưng cho
loại tội phạm cụ thể được quy định trong luật hình sự.
Phân loại theo mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội được cấu thành tội
phạm phản ánh thì cấu thành tội phạm phân thành:
+ Cấu thành tội phạm cơ bản: là cấu thành tội phạm chỉ có dấu hiệu định tội dấu hiệu mô tả tội phạm và cho phép phân biệt tội này với tội khác.

2



+ Cấu thành tội phạm tăng nặng: là cấu thành tội phạm mà ngoài dấu hiệu
định tội còn có thêm dấu hiệu phản ánh tội phạm có mức độ của tính nguy hiểm
cho xã hội tăng lên một cách đáng kể (so với trường hợp bình thường).
+ Cấu thành tội phạm giảm nhẹ: là cấu thành tội phạm mà ngoài dấu hiệu
định tội còn có thêm dấu hiệu phản ánh tội phạm có mức độ của tính nguy hiểm
cho xã hội giảm xuống một cách đáng kể (so với trường hợp bình thường).
Trong trường hợp này, tội phạm được quy định ở khoản 2 điều 93 là cố ý giết
người, đó là hành vi cố ý tược đoạt tính mạng của người khác trái pháp luật.
Xét chung điều 93, không mô tả các dấu hiệu của tội giết người, nhưng về mặt
lý luận thì từ định nghĩa trên có thể thấy cấu thành tội phạm cơ bản của tội này
cũng chỉ đơn giản là hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người khác một cách
trái pháp luật. Tức là chỉ cần người phạm tội thực hiện hành vi tước đoạt tính mạng
của người khác thì đã đủ các yếu tố cấu thành tội phạm, mà cụ thể là cấu thành tội
phạm cơ bản.
Hơn thế nữa, khoản 1 điều 93, bộ Luật Hình Sự không chỉ mô tả hành vi
tước đoạt tính mạng của người khác mà còn có các dấu hiệu như giết nhiều người,
giết phụ nữ mà biết là có thai, giết trẻ em...... Đây chính là những dấu hiệu phản
ánh mực độ của tính nguy hiểm cho xã hội tăng lên một cách đáng kể. Những tình
tiết đó làm tăng nặng trách nhiệm hình sự một cách đáng kể so với khoản 2 của
điều luật.
Hơn thế nữa, nếu giết người không thuộc một trong những trường hợp ở
khoản 1 điều 93, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2
Điều 93 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ bảy năm đến mười lăm năm tù.
Khoản 2 không quy định thêm về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ nào mà đơn giản
chỉ là dung phương pháp loại trừ để xác định tội phạm. Có thể thấy, đây là trường
hợp giết người thông thường, không có các tình tiết tăng nặng hay giảm nhẹ, định
khung tăng nặng hay giảm nhẹ. Lẽ ra phải quy định cấu thành tội phạm cơ bản

3



trước nhưng do kỹ thuật và truyền thống lập pháp nên đối với tội giết người nhà
làm luật xây dựng cấu thành tăng nặng trước, sau đó mới đến cấu thành cơ bản.
Như vậy có thể khẳng định lại một lần nữa, khoản 1 điều 93 chính là cấu
thành tôi phạm tăng nặng và do đó, khoản 2 chính là cấu thành tội phạm cơ bản.
Câu 2:
Lỗi là thái độ tâm lí của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của
mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố ý
hoặc vô ý.
Lỗi của Thắng trong trường hợp này là lỗi cố ý gián tiếp.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 9 Bộ Luật Dân Sự, lỗi cố ý gián tiếp được
định nghĩa là:
“ Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội,
thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn
có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra ”.
Tức là khi xét xem lỗi đó có phải lỗi có ý gián tiếp hay không ta phải dựa vào
hai đặc điểm: có nhận thức được hành vi nguy hiểm cho xã hội hay không? Có
mong muốn hậu quả xảy ra hay không? Có ý thức để mặc hậu quả xảy ra hay
không? Đây chính là các điểm chính để phân biieetjlooix cố ý gián tiếp với các lỗi
khác.
Xét dấu hiệu về mặt lý trí, người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm
cho xã hội của hành vi của mình, thấy trước hành vi đó có thể gây ra hậu quả nguy
hiểm cho xã hội.
Thắng là một tài xế lái xe tải, hiển nhiên biết được rằng rơi từ trên cửa xe
xuống nhất định sẽ gây nguy hiểm cho Toán vì cửa xe tải ở cao hơn các cửa xe
khác, Hơn nữa xe đang lưu thông trên đường, việc đẩy cửa cho Toàn rơi khỏi xe là
vô cùng nguy hiểm, khả năng bị tai nạn là rất cao. Nhưng không giống như lỗi cố ý
trực tiếp, Thắng không chắc chắn rằng Toán sẽ chết khi rơi xuống, hậu quả chết
người có thể xảy ra hoặc cũng có thể không xảy ra. Như vậy, Thắng nhận thức rõ
mức độ nguy hiểm của hành vi xô mạnh cửa xe nơi Toán bám vào và ý thức được

hành vi đó có thể gây nên cái chết cho Toán.
4


Xét về dấu hiệu ý chí, người phạm tội không mong muốn hậu quả nguy hiểm
cho xã hội xảy ra. Hậu quả nguy hiểm cho xã hội mà người phạm tội đã thấy trước
không phù hợp với mục đích của họ. Người phạm tội thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội là nhằm mục đích khác. Chính vì để thực hiện mục đích này mà người
phạm tội dù không mong muốn hậu quả nguy hiểm mà họ có thể thấy trước nhưng
đã có ý thức để mặc đối với hậu quả nguy hiểm cho xã hội đó xảy ra. Đối với
người có lỗi cố ý gián tiếp thì dù hậu quả có xảy ra hay không đều không có ý
nghĩa gì, không xảy ra cũng được và xảy ra cũng chấp nhận.
Xét trong tình huống này, không có căn cứ để nói Thắng mong muốn giết
chết Toán. Mục đích của Thắng chỉ là đẩy Toán xuống khỏi xe, không cho Toán
đi cùng mình nữa. Như vậy, việc Toán chết không nằm trong chủ ý của Thắng.
Nhưng vì đang mâu thuẫn gay gắt, Thắng không quan tâm đến sống chết của
Toán, dù biết rằng có thể hành vi của mình gây nguy hiểm cho tính mang của
người khác nhưng vẫn để mặc nó xảy ra và lựa chọn hành động đẩy cửa xe. Trong
lúc nóng giận, tính mạng Toán không còn là điều đáng bận tâm, Toán không chết
cũng được, chết cũng chấp nhận.
Có ý kiến cho rằng đây là lỗi vô ý do quá tự tin vì Thắng tin là hậu quả sẽ
không xảy ra.
Không giống với lỗi vô ý do quá tự tin, Thắng không hề cân nhắc hay tin
tưởng rằng Toán sau khi ngã xuống sẽ không sao bởi trên thực tế, không có căn cứ
để tin tưởng vào điều đó. Rõ ràng, thái độ của Thắng là bỏ mặc sự sống chết của
Toán sau khi rơi xuống khỏi xe.
Có thể nói, hậu quả Toán bị dập nát hai chân, bị xe đè qua người và chết là
hậu quả mà anh Thắng có thể dự đoán được khi anh thực hiện hành vi nguy hiểm
của mình, dù để mặc hậu quả xảy ra nhưng hậu quả đó nằm ngoài mong muốn và
mục đích của anh Thắng.

Qua phân tích trên, có thể khẳng định lại một lần nữa lỗi của anh Thắng là
lỗi cố ý gián tiếp.
Câu 3:
5


“Nếu Thắng không bỏ trốn mà đến ngay cơ quan công an gần nhất để khai
báo thì sẽ được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội.”
Phát biểu này sai. Nếu Thắng không bỏ trốn mà đến ngay cơ quan công an
gần nhất để khai báo thì sẽ được coi là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm o
khoản 1: “ người phạm tội tự thú ” khi bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được quy định tại Điều 19 BLHS:
“ Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực hiện tội
phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản.
Ngay trong điều luật đã ghi rõ “tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự
mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản”. Điều kiện
này đòi hỏi người phạm tội đang còn điều kiện thực hiện tội phạm như công cụ,
phương tiện phạm tội có hiệu nghiệm, người phạm tội không bị phát hiện hoặc
điều kiện thuận lợi khác để thực hiện tội phạm trót lọt. Trong trường hợp này,
Thắng hoàn toàn có đủ điều kiện thực hiện tội phạm, không bị ai ngăn cản, phát
hiện hay bất cứ can thiệp nào về mặt khách quan vào hành vi của Thắng. Như vậy,
vấn đề ở đây là Thắng có tự nguyện trong việc chấm dứt việc phạm tội không?
Trên thực tế, việc chấm dứt tội phạm phải xảy ra ở giai đoạn chuẩn bị phạm
tội hoặc ở giai đoạn phạm tội chưa đạt, chưa hoàn thành.
Chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt, chưa hoàn thành là những trường
hợp người phạm tội mới tìm kiếm, sửa soạn công cụ phương tiện hoặc chưa thực
hiện hết các hành vi khách quan được quy định trong cấu thành tội phạm, do vậy
hậu quả của tội phạm chưa xảy ra cho xã hội. Trong lúc này người phạm tội không
tiếp tục thực hiện tội phạm nữa, là điều kiện tiên quyết của tự ý nửa chừng chấm
dứt việc phạm tội.

Thế nhưng ở trong trường hợp này, Thắng đã thực hiện xong hành vi đẩy cửa
xe làm Toán rơi xuống đường, tức là đã cố ý gián tiếp xâm phạm tính mạng Toán
và hậu quả đã xảy ra: Toán xe cán ngang người, nát chân và tử vong. Nếu trong
trường hợp, Thắng có ý định nhưng kiềm chế bản thân không đẩy của xe, hậu quả
chưa xảy ra thì có thể xem là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội.
6


Ở giả định này, sau khi thực hiện xong hành vi đẩy của xe và Toán đã bị tai
nạn tử vong, Thắng mới đến ngay cơ quan công an gần nhất để khai báo. Hơn thế
nữa, Thắng cũng không có bất cứ hành động cứu giúp nào mà để mặc Toán chết.
Như vậy, không thể nói Thắng mong muốn ngăn chặn hậu quả đáng tiếc xảy ra .
Tại điều 19 quy định “Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được
miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm” Trên thực tế, hành động của Thắng
mang tính chất đầu thú chứ không nhằm chấm dứt việc phạm tội. Và như vậy, về
mặt pháp lí Thắng sẽ vẫn chịu trách nhiệm hình sự về tội cố ý giết người quy định
ở khoản 2 điều 93 Bộ Luật Hình Sự, nhưng có thêm tình tiết giảm nhẹ.
Kết luận lại:
Tội phạm của Thắng đã hoàn thành, hậu quả nguy hại cho xã hội đã xảy ra,
Thắng cũng không có ý thức ngăn chặn hậu quả ấy hay dừng việc phạm tội giữa
chừng. Có nghĩa là Thắng gây nguy hiểm cho xã hội và sẽ phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội phạm đã làm. Như vậy, khẳng định lại, Thắng không bỏ trốn mà
đến ngay cơ quan công an gần nhất để khai báo không được coi là tự ý nửa
chừng chấm dứt việc phạm tội mà là một tình tiết giảm nhẹ.
Câu 4:
Ở giả thiết nêu trên: Thắng đã phạm tội cố ý gây thương tích, bị phạt tù 2
năm cho hưởng án treo và thời gian thử thách là 4 năm. Sau khi chấp hành 3 năm
thử thách, Thắng phạm tôi giết người nêu trên. Điều kiện thử thách của án treo là
nghĩa vụ luật định mà người được hưởng án treo phải thực hiện trong thời gian thử
thách. Như vậy, Thắng đã vi phạm vào điều kiện thử thách có tính răn đe nên phải

chịu những hậu quả pháp lí bất lợi của mình.
Hậu quả pháp lí bất lợi này được quy định tại khoản 5 điều 60 BLHS:
“Đối với người được hưởng án treo mà phạm tội mới trong thời gian thử
thách, thì Tòa án quyết định buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước và
tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại điều 51 của Bộ luật này.”
Như vậy, đối chiếu theo quy định trên, Thắng buộc phải chấp hành hình phạt
2 năm tù cho tội cố ý gây thương tích và tổng hợp với hình phạt của bản án mới.
7


Hình phạt lúc này đặt ra đối với Thắng sẽ là tổng hợp hình phạt của nhiều
bản án được quy định tại khoản 2 điều 51 BLHS:
“ Khi xét xử một người đang phải chấp hành một bản án mà lại phạm tội
mới, Tòa án quyết định hình phạt đối với tội mới, sau đó tổng hợp với phần hình
phạt chưa chấp hành của bản án trước rồi quyết định hình phạt chung theo quy
định tại điều 50 của Bộ luật này.”
Trong tình huống này, Toàn quyết định tuyên Thắng 10 năm tù cho tội cố ý
giết người. Dựa vào hai điều luật trên đây, hình phạt của Thắng sẽ là hình phạt
chung được quy định tại điều 50. Cụ thể, Thắng đã phạm hai tội khác nhau nên
căn cứ vào mục b khoản 2 điều 50 Bộ Luật Hình Sự quy định:
“Nếu các hình phạt đã tuyên là khác loại thì người bị kết án phải chấp hành
tất cả các hình phạt đã tuyên.”
Như vậy,sau khi tổng hợp các hình phạt cuối cùng của nhiều bản án thì hình
phạt đối với Thắng sẽ là 10 năm tù của bản án mới đã tuyên cho tội giết người và
cộng với 2 năm tù của bản án trước đó cho tội cố ý gây thương tích. Tổng hợp bản
án là 12 năm tù đối với Thắng.
Như vậy, Quyết định cuối cùng của Tòa án sẽ là tuyên Thắng 12 năm tù.

KẾT LUẬN:
Câu 1: Khoản 2 điều 93 Bộ Luật Hình Sự là cấu thành tội phạm căn bản.

Câu 2: Lỗi của Thắng là lỗi cố ý gián tiếp.
Câu 3: Thắng không bỏ trốn mà đến ngay cơ quan công an gần nhất để khai báo
không được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội mà là một tình tiết giảm
nhẹ.
Câu 4: Quyết định cuối cùng của Tòa án sẽ là tuyên Thắng 12 năm tù
Đây chỉ là một trường hợp trong vô số trường hợp áp dụng Bộ Luật Hình Sự trong
cuộc sống. Việc quy định rõ ràng các khung hình phạt không chỉ góp nhần thực thi
nghiêm và đúng pháp luật mà còn đảm bảo tính nhân văn trong đó. Bộ Luật Hình

8


Sự đươc xây dựng và phát triển rất sớm, ngày càng được hoàn thiện và đi sâu vào
thực tế đời sống thường ngày.

9


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam tập I – Đại học Luật Hà Nội, NXB CAND,
năm 2007.
2.

BLHS của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam – NXB Chính trị

Quốc gia năm 2000.
3.

BLHS năm 1999 và toàn bộ các văn bản hướng dẫn thi hành án đến năm


2005 , NXB tư pháp 2005.
4.

Từ điển pháp luật hình sự - PGS.TS Nguyễn Ngọc Hòa và PGS.TS Lê Thị

Sơn, NXB tư pháp 2006.
5.

Luận án thạc sỹ học – Đôc Đức Hồng Hà (Trường Đại học Luật Hà Nội)

năm 2006. Tội giết người trong luật hình sự và đấu tranh phòng chống tội này.
6.

/>
cham-dut-viec-pham-toi-trach-nhiem-hinh-su-doi-voi-nguoi-tu-y-nua-chung-chamdut-viec-pham-toi-ra-sao-.aspx
7.

/>
10



×