Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

TÀI LIỆU HỘI THẢO ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM, CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỚI GIAI CẤP CÔNG NHÂN VÀ TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (386.25 KB, 43 trang )

/>topic=8&subtopic=30&leader_topic=103&id=BT1830041263
/>
NộI dung
TỔNG QUAN HỘI THẢO:
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM,
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỚI GIAI CẤP
CÔNG NHÂN VÀ TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN
Hội thảo tập trung những nội dung chính sau:
1. Vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp đổi
mới đất nước
Về lý luận, hội thảo nhất trí cho rằng, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là phạm trù
cơ bản nhất của chủ nghĩa xã hội khoa học. Nói một cách khái quát, nội dung sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân là: xóa bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo
nàn lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh. Trong thời đại ngày nay, mặc
dù có sự phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ của khoa học, công nghệ và kinh tế tri thức,
nhưng vai trò và sứ mệnh lịch sử nói chung của giai cấp công nhân vẫn không thay đổi.
Chúng ta cần phê phán và bác bỏ các quan điểm sai trái cho rằng, trong điều kiện của
cách mạng tin học, kinh tế tri thức, giai cấp công nhân bị hoà đồng, hoà tan và đánh mất
bản chất của mình, do đó không còn giữ được vai trò lãnh đạo cách mạng nữa.
Các tham luận cho rằng, ở thế kỷ XIX, C.Mác đã nói nhiều về giai cấp công nhân, nhưng
hiện nay, điều kiện lịch sử cũng như bản thân giai cấp công nhân có những thay đổi, nên
nhận thức của chúng ta về giai cấp công nhân hiện đại cũng phải có sự đổi mới để phù
hợp với sự thay đổi đó.
Một số tham luận đề cập đến việc, với sự phát triển của cách mạng khoa học - công nghệ
và kinh tế tri thức, giai cấp công nhân được tăng thêm tri thức, được trí thức hoá, nên đã
và đang xuất hiện một bộ phận công nhân mới được gọi là "công nhân tri thức". Giai cấp
công nhân hiện nay mặc dù được trí thức hóa nhưng vẫn là giai cấp trung tâm, là lực
lượng quyết định xu thế tiến hóa của nhân loại. Thực tế ngành Bưu chính viễn thông Việt
Nam cho thấy, đây là ngành có công nghệ cao trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước; công nhân có trình độ cao ngày càng chiếm tỷ trọng lớn.


Các tham luận nêu rõ, trong công cuộc xây dựng đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
đội ngũ công nhân Việt Nam là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, là cơ sở xã hội chủ yếu nhất của Đảng và Nhà nước, là hạt nhân vững chắc trong
liên minh công nhân – nông dân – trí thức, nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc.


Hội thảo khẳng định, công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã
thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng. Giai cấp công nhân đang đi đầu
trong công cuộc đổi mới đó, nhất là trong việc xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh. Đó là bằng chứng chỉ rõ năng lực lãnh đạo của giai cấp công nhân nước ta.
Các tham luận đi sâu phân tích bản chất giai cấp công nhân là gì và làm thế nào để phát
huy bản chất giai cấp công nhân. Có tham luận đi sâu phân tích một số nội dung chính
của bản chất giai cấp công nhân: tính cách mạng triệt để, tính tiền phong và tính trí tuệ.
Lại có tham luận đề cập đến tính bất biến và khả biến của các nội dung này và cho rằng,
sang thế kỷ XIX, bản chất giai cấp công nhân có những nét mới, đó là: một bộ phận đã
được trí thức hóa, làm chủ; đa số đã hữu sản... Mặc dù những khái quát về bản chất giai
cấp công nhân còn khác nhau, cần tiếp tục nghiên cứu làm rõ, nhưng vấn đề được khẳng
định tại Hội thảo là: giai cấp công nhân Việt Nam phải là người lao động sáng tạo, phải
mang bản chất cách mạng và khoa học thì mới lãnh đạo được sự nghiệp đổi mới của đất
nước.
2. Bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam
Các tham luận đi sâu phân tích bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam qua văn kiện các
kỳ đại hội, tư tưởng Hồ Chí Minh, và đều khẳng định: Bản chất giai cấp công nhân của
Đảng Cộng sản Việt Nam là bất di bất dịch và đây cũng là một trong những bài học thành
công của công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo trong gần 20 năm qua.
Nhiều ý kiến cho rằng, chúng ta nên thống nhất với tư tưởng của Hồ Chí Minh tại Đại hội
II của Đảng (năm 1951): Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công
nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc. Để hiểu rõ hơn
vấn đề này, các tác giả đã phân tích thêm: Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác

và Ph.Ăng - ghen đưa ra một luận điểm hết sức quan trọng là, trong quá trình phát triển
của mình giai cấp công nhân sẽ trở thành dân tộc. Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho
thấy, Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là đội tiền phong của giai cấp công nhân mà
còn là đội tiền phong của nhân dân lao động và của toàn thể dân tộc Việt Nam. Bởi vì,
Đảng Cộng sản Việt Nam là người duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi
này đến thắng lợi khác, trong đấu tranh giải phóng dân tộc và cũng như trong công cuộc
đổi mới đất nước. Thành tựu toàn diện về mọi mặt của gần 20 năm đổi mới vừa qua là
một trong những minh chứng hùng hồn cho điều đó. Không phải ngẫu nhiên mà trong
nhân dân, trong các tầng lớp xã hội, từ miền núi đến miền xuôi, từ nông thôn đến thành
thị khi nói về Đảng Cộng sản Việt Nam đều trân trọng gọi là "Đảng ta”…với hàm ý Đảng
là máu thịt, là hạt nhân lãnh đạo của mọi tầng lớp nhân dân. Điều đó càng chứng tỏ, nhân
dân lao động thừa nhận Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là người đại diện cho lợi ích
của giai cấp công nhân, mà còn là người đại diện cho lợi ích của chính mình và của toàn
thể dân tộc. Với cách diễn đạt này sẽ có lợi hơn cho việc đoàn kết dân tộc. Tất nhiên,
cách diễn đạt như vậy không hề hạ thấp bản chất giai cấp công nhân của đảng, bởi trên
thực tế, tính tiên phong của giai cấp công nhân trong mọi hoạt động của Đảng luôn được
đưa lên hàng đầu, luôn được nêu lên trước.


Có thể thấy, mặc dù có những cách diễn đạt khác nhau về bản chất của Đảng Cộng sản
Việt Nam, nhưng cuối cùng đều khẳng định rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn mang
trong mình bản chất giai cấp công nhân. Vấn đề đặt ra là, khi bàn về bản chất của Đảng
Cộng sản Việt Nam, chúng ta cần có cách diễn đạt sao cho phù hợp với điều kiện hiện
nay, để vừa không phủ nhận bản chất giai cấp công nhân của Đảng, vừa phát huy được
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp đổi mới đất nước.
3. Những chủ trương, giải pháp xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn
Thứ nhất, xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh tất yếu phải gắn với xây dựng tổ chức
Công đoàn vững mạnh. Các tham luận khẳng định: Công đoàn là tổ chức quần chúng
rộng lớn của giai cấp công nhân và người lao động. Bởi vậy, muốn xây dựng giai cấp
công nhân vững mạnh, trước hết phải xây dựng tổ chức Công đoàn vững mạnh. Các tổ

chức Công đoàn cần đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức hoạt động, kiên quyết khắc
phục những phương pháp hoạt động xơ cứng, trì trệ và hiện tượng "hành chính hoá, nhà
nước hoá". Công đoàn phải đa dạng hoá các hình thức tập hợp quần chúng để ngày càng
thu hút, động viên được đông đảo công nhân, lao động trong các thành phần kinh tế vào
tổ chức của mình. Hoạt động của công đoàn các cấp phải hướng về cơ sở, cụ thể là phải
lấy cơ sở làm địa bàn hoạt động; lấy công nhân, viên chức, lao động làm đối tượng vận
động; lấy việc chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân, viên
chức, lao động làm mục tiêu hoạt động. Các cấp công đoàn phải tăng cường công tác đào
tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ công đoàn;
chú trọng lựa chọn, bồi dưỡng cán bộ công đoàn trưởng thành từ phong trào công nhân,
nhằm không ngừng nâng cao năng lực, phẩm chất, đạo đức, bản lĩnh và sự nhiệt tình,
năng nổ của cán bộ công đoàn.
Thứ hai, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức Công đoàn. Các tham luận
nhất trí cho rằng, Công đoàn phải là một tổ chức có bản lĩnh chính trị vững vàng trong
mọi tình huống, mọi bước ngoặt, mọi giai đoạn của cách mạng. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng, Công đoàn biết giáo dục, động viên người lao động, đoàn kết tập hợp mọi lực
lượng, hoàn thành nhiệm vụ trong từng bước đường đi lên của cách mạng. Các cấp ủy
Đảng cần tạo điều kiện cho các tổ chức Công đoàn làm tròn vai trò, vị trí của mình trong
quan hệ với các cơ quan, tổ chức hữu quan, để qua đó, Đảng định hướng về mục đích
chính trị và tập hợp người lao động trong mặt trận thống nhất rộng rãi, nhằm thực hiện
vai trò chủ đạo của giai cấp công nhân trong hệ thống chính trị. Các cấp ủy đảng, các cán
bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng phải thường xuyên tiếp xúc, làm việc, lắng nghe ý kiến
của Công đoàn, của công nhân, viên chức, người lao động: tôn trọng và phát huy vai trò
chủ động, sáng tạo của Công đoàn. Tăng cường công tác kiểm tra của các cấp uỷ và xử lý
nghiêm những vi pham đối với việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước
trong xây dựng giai cấp công nhân, tổ chức Công đoàn vững mạnh.
Thứ ba, thường xuyên bảo đảm chất lượng hoạt động của tổ chức Công đoàn. Một số ý
kiến cho rằng, Công đoàn phải tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng cho công nhân,
viên chức và người lao động. Nội dung giáo dục là những vấn đề cơ bản của Chủ nghĩa
Mác-Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà

nước; mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; sứ mệnh lịch sử, bản chất


và truyền thống cách mạng của giai cấp công nhân; chủ nghĩa yêu nước. Trước mắt, công
tác giáo dục chính trị, tư tưởng của Công đoàn phải làm cho giai cấp công nhân và người
lao động nhận thức đầy đủ, đúng đắn bối cảnh thế giới và Việt Nam, với sự đan xen của
thời cơ và thách thức. Từ đó, Công đoàn phải tập hợp, động viên giai cấp công nhân và
toàn thể người lao động đi đầu trong công cuộc đổi mới đất nước; thực hiện bằng được
những mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã đề ra.
Mặt khác, Công đoàn cần phát huy vai trò của mình trong việc tham gia quản lý, bảo vệ
quyền lợi vật chất và tinh thần cho công đoàn viên. Ở đây, không có sự quản lý, bảo vệ
của Công đoàn cũng đồng nghĩa với không có dân chủ. Để làm tốt điều này, cần tập trung
vào việc xây dựng công đoàn cơ sở thực sự vững mạnh, gắn với việc xây dựng tổ chức cơ
sở Đảng và chính quyền trong sạch vững mạnh. Đồng thời, Công đoàn cần thường xuyên
phát huy vai trò làm chủ của công nhân và người lao động ở mỗi cơ sở, cụ thể là tăng
cường công tác kiểm tra và giám sát của quần chúng; nắm vững những tâm tư nguyện
vọng của quần chúng để giúp Đảng và Nhà nước hoạch định tốt đường lối, chính sách.
4. Trách nhiệm của Đảng và Nhà nước đối với việc xây dựng, phát huy vai trò của
giai cấp công nhân, tổ chức Công đoàn trong thời kỳ mới
Hội thảo khẳng định, giai cấp công nhân Việt Nam là cơ sở xã hội chủ yếu của Đảng và
Nhà nước ta, là lực lượng nòng cốt trong khối liên minh giai cấp công nhân, nông dân,
đội ngũ trí thức và khối đoàn kết toàn dân, là đội quân tiên phong trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Do vậy, chúng ta cần khẩn trương xây dựng và thực
hiện Chiến lược xây dựng, phát huy vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam trong giai
đoạn mới. Chiến lược đó chỉ có thể được thực hiện bằng hệ thống pháp luật, cơ chế,
chính sách đồng bộ của Nhà nước, bằng tổng hợp các biện pháp kinh tế, chính trị, tư
tưởng.
Một số ý kiến cho rằng, trước mắt cũng như lâu dài, Nhà nước cần chú trọng thể chế hoá
quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng giai cấp công nhân, tổ chức Công đoàn
thành các cơ chế, chính sách, pháp luật; xây dựng môi trường xã hội giải phóng lực lượng

sản xuất, tạo mọi điều kiện để công nhân được phát huy hết khả năng của mình; tăng
cường chỉ đạo, kiểm tra các cấp, các ngành, các thành phần kinh tế thực hiện nghiêm túc
những chủ trương, chính sách, pháp luật đối với giai cấp công nhân.
Đi vào cụ thể, Nhà nước cần ban hành và hoàn thiện một loạt chính sách mới như:
Một là, ban hành và hoàn thiện chính sách khuyến khích phát triển công nghệ tiên tiến và
đẩy mạnh đầu tư ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ mới vào sản xuất một cách đồng
bộ, giảm tình trạng lao động thủ công, nhất là đối với các ngành đòi hỏi công nghệ cao
nhằm tạo môi trường, điều kiện để công nhân phát triển.
Hai là, ban hành và hoàn thiện chính sách đào tạo và đào tạo lại công nhân; khuyến khích
tuyển chọn một bộ phận thanh niên ưu tú, nhất là con em công nhân nhiều đời, vào các
trường dạy nghề; ưu đãi trong tuyển chọn, sử dụng đối với những công nhân có kết quả
học tập cao, có tay nghề giỏi; khuyến khích, tạo điều kiện cho công nhân tự học tập nâng


cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ và tiếp thị; khuyến khích những
công nhân giỏi một nghề biết nhiều nghề; đãi ngộ đặc biệt đối với những công nhân có
sáng kiến, có kinh nghiệm, tài năng.
Ba là, ban hành và hoàn thiện một số chính sách về bảo đảm xã hội: chính sách việc làm,
chính sách thu nhập, chính sách nhà ở, chính sách bảo hiểm xã hội...
Bên cạnh đó, Nhà nước cần đẩy mạnh và thực hiện tốt chính sách cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nước để 100% công nhân trong các doanh nghiệp cổ phần mua được cổ phần;
tổ chức chỉ đạo, thực hiện tốt cơ chế dân chủ để phát huy đầy đủ quyền làm chủ trực tiếp
của các cổ đông, của công nhân trong các doanh nghiệp thông qua Công đoàn và hội
đồng quản trị; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật lao động,
bảo hộ lao động; chú trọng cải thiện điều kiện lao động, phòng chống có hiệu quả tai nạn
lao động và bệnh nghề nghiệp; xây dựng và tổ chức thực hiện tốt chính sách chăm sóc
sức khoẻ công nhân, nhất là đối với công nhân nữ, công nhân làm việc nặng nhọc, độc
hại…
Đảng và Nhà nước cần lãnh đạo các cấp, các ngành kết hợp hài hoà chính sách đảm bảo
xã hội với chính sách khuyến khích xã hội, để hai loại chính sách này bổ sung cho nhau,

tạo thành động lực mạnh mẽ khuyến khích mọi người, mọi tập thể công nhân trong các
thành phần kinh tế, các ngành nghề, các lĩnh vực phát triển tài năng trí tuệ.
Tổng kết Hội thảo, GS,TS Lê Hữu Nghĩa khái quát những vấn đề mà Hội thảo đã trao
đổi, và khẳng định, đây là hình thức thiết thực để kỷ niệm ngày thành lập Đảng và ngày
sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, góp phần đi sâu nghiên cứu nhận thức lý luận và thực
tiễn về giai cấp công nhân, về bản chất của Đảng Cộng sản, về xây dựng tổ chức Công
đoàn. Đồng thời, nhấn mạnh, bên cạnh những vấn đề đã được thống nhất, khẳng định rõ,
cũng còn có những vấn đề cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu. Chẳng hạn cần tiếp tục đi sâu
nghiên cứu một số vấn đề sau: vị trí, vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
hiện đại; tiêu chí, tiêu chuẩn giai cấp công nhân hiện đại; tính chất đảng, bản chất đảng
của giai cấp công nhân hiện đại; phương hướng xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức
công đoàn vững mạnh trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Trên cơ sở nghiên cứu đó,
chúng ta có thể đề xuất những giải pháp khả thi để xây dựng giai cấp công nhân xứng
đáng với vai trò lãnh đạo cách mạng; xây dựng xây dựng tổ chức Công đoàn ngày càng
vững mạnh, phát huy tốt vai trò của mình trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước./.
Hội thảo khoa học "Đảng cộng sản VN, Chủ tịch Hồ Chí Minh với giai cấp công nhân và tổ chức Công
đoàn Việt Nam":

Khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
17/01/2005 07:51
Diễn ra ngày 15.1 tại Hà Nội với sự phối hợp tổ chức giữa Tổng LĐLĐVN, Ban Tư tưởng Văn hoá
TƯ, Tạp chí Cộng sản (CS), hội thảo khoa học trên đã đặt ra một số vấn đề cần cấp bách thực hiện
để khẳng định vững chắc vai trò, sứ mệnh lịch sử của GCCN và bản chất GCCN của Đảng Cộng Sản.
Các đồng chí Cù Thị Hậu - UVTƯ Đảng, Chủ tịch TLĐ; GS.TS Lê Hữu Nghĩa - UVTƯ Đảng, Tổng Biên
tập Tạp chí Cộng sản và Đào Duy Quát - Phó Trưởng ban Tư tưởng Văn hoá TƯ chủ trì hội thảo.


Tới dự còn có GS-TS Đỗ Nguyên Phương - Uỷ viên TƯ Đảng,Trưởng ban Khoa giáo TƯ, GS-TS Đỗ Trung

Tá - Uỷ viên TƯ Đảng, Bộ trưởng Bộ Bưu chính Viễn thông - và đông đảo các nhà khoa học, các Phó Chủ
tịch TLĐ, Uỷ viên Đoàn Chủ tịch TLĐ... Hội thảo kết thúc nhưng có nhiều điều vẫn chưa kết thúc, đòi hỏi
phải tiếp tục nghiên cứu, có lý luận, có sức thuyết phục hơn để đấu tranh với quan điểm đi ngược lợi ích
của Đảng, của GCCN, của dân tộc hiện nay. Đây cũng là hoạt động kỷ niệm 75 năm thành lập Đảng CSVN.
Khẳng định vai trò, vị trí của GCCN:
Để khẳng định luận điểm này, các nhà khoa học đã đưa ra những luận điểm và dẫn chứng thực tiễn về
GCCN trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, đặc biệt là trong sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Giai đoạn hiện nay, trong công cuộc xây dựng đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đội
ngũ CN VN bao gồm những người LĐ chân tay và LĐ trí óc hoạt động SX trong các ngành công nghiệp và
dịch vụ công nghiệp thuộc các DNNN, HTX hay khu vực tư nhân, liên doanh với nước ngoài. Họ là lực
lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH-HĐH, là cơ sở xã hội chủ yếu nhất của Đảng và Nhà nước, là hạt nhân
vững chắc trong liên minh công nhân - nông dân - trí thức, nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc.
Điều này cho thấy điều kiện lịch sử thay đổi, với sự tiến bộ của công nghệ, KHKT, nền kinh tế tri thức đã
tạo ra đội ngũ CN tri thức. Ơ VN, đội ngũ CNLĐ ngày nay không đơn thuần chỉ là LĐ chân tay như trước
đây nhưng họ vẫn là giai cấp lãnh đạo cách mạng, đi đầu trong sự nghiệp đổi mới. Một trong những ngành
công nghệ cao, ứng dụng nhiều thành tựu khoa học tiến tiến nhất là bưu chính viễn thông, hiện có trên 9
vạn CB CNV. Đội ngũ này liên tục phát huy cao độ truyền thống cách mạng , trở thành một trong những
ngành đi đầu thực hiện sáng tạo đường lối đổi mới của Đảng, đi thẳng vào công nghệ hiện đại, tạo dựng đội
ngũ chuyên gia, CB kỹ thuật trẻ tuổi.
Ở một ngành nghề hoàn toàn khác với đội ngũ CNLĐ ra đời khá sớm, những LĐ ngành caosu đã khẳng
định vị thế của mình trong nền kinh tế quốc dân, lợi nhuận năm 2004 đạt trên 2.000 tỉ đồng, diện tích caosu
trải rộng hơn 220.000ha, góp phần tạo công ăn việc làm, thay đổi diện mạo kinh tế xã hội ở địa bàn... Với
những thay đổi thực tiễn hiện nay, đòi hỏi phải có những nhận thức mới về GCCN, không nên (và không
thể) bó hẹp, dừng lại ở những luận điểm được đưa ra cách đây vài thập kỷ.
Bản chất GCCN của Đảng CS:
Tất cả các tham luận tại hội thảo đều khẳng định bản chất của Đảng CS là GCCN. Vấn đề ở đây là nên diễn
đạt như thế nào cho đúng trong thời kỳ lịch sử có nhiều thay đổi. Trong xã hội từng có ý kiến đưa dân tộc
vào bản chất của Đảng CS. Song thực tế cho thấy, dân tộc chỉ là một phần của Đảng mà không thể lấn át
được GCCN. Theo Hồ Chí Minh, một trong những nhân tố chủ yếu đảm bảo cho GCCN VN giữ vững, phát
huy vai trò lãnh đạo đối với cách mạng VN là có những đặc tính mà các giai cấp, tầng lớp xã hội khác

không thể có. Đó là tính cách mạng kiên quyết, triệt để, tính tập thể, tổ chức và kỷ luật cao.
Theo PGS.TS Nguyễn Khánh Bật - Viện trưởng Viện Hồ Chí Minh, trong một số trường hợp khi Hồ Chí
Minh đề cập đến Đảng của dân tộc, của nhân dân, của toàn dân thì trước đó phải là của GCCN hoặc trước
hết là của GCCN. Điều để các nhà khoa học nghiên cứu, khẳng định chính là cách diễn đạt sao cho đầy đủ
ý nghĩa của bản chất của Đảng CS bởi hiện đang tồn tại 2 cách diễn đạt: "Đảng CSVN là đội tiên phong của
GCCN, là đại biểu trung thành của quyền lợi nhân dân LĐ" và " Đảng CSVN là đội tiên phong của GCCN
đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và dân tộc".
Đảng cần hoạch định chiến lược xây dựng, phát triển GCCN hiện đại:
Tại hội thảo, TS Dương Văn Sao - Viện trưởng Viện CN-CĐ (TLĐ) - đưa ra khuyến nghị: Phải khẩn trương
xây dựng và thực hiện chiến lược xây dựng, phát huy vai trò GCCN trong giai đoạn mới, nếu không sẽ là
quá muộn. Ông cũng nhấn mạnh phải coi xây dựng, phát huy vai trò GCCN là một chính sách quốc gia, một
chương trình phát triển của quốc gia hướng vào đối tượng GCCN, trên cơ sở đó tăng cường khối liên minh
giữa GCCN với GC nông dân và đội ngũ trí thức. Để thực hiện điều này, Đảng, Nhà nước cần tập trung đầu
tư thích đáng cả về vật chất lẫn tinh thần, cả về kinh tế và văn hoá, trước mắt cũng như lâu dài để GCCN
VN thực sự phát triển đột phá.
Một luận điểm, và cũng là một thực tế được các nhà khoa học ủng hộ là xây dựng GCCN vững mạnh tất
yếu phải gắn với xây dựng tổ chức CĐ vững mạnh. Điều này cần được quán triệt sâu sắc trong chủ trương,
đường lối, tổ chức chỉ đạo và trong hoạt động thực tiễn của Đảng, Nhà nước, CĐ, các tổ chức quần chúng
và của mỗi người. Muốn làm được vậy, ngoài các đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng cần hoàn thiện chính
sách đào tạo, đào tạo lại CN. Bên cạnh đó phải đẩy mạnh và thực hiện tốt chính sách cổ phần hoá DNNN
để 100% CN trong các DN cổ phần mua được cổ phần, quan tâm tổ chức chỉ đạo, thực hiện tốt cơ chế dân


chủ để phát huy đầy đủ quyền làm chủ trực tiếp của các cổ đông, của CN trong các DN và làm chủ thông
qua CĐ, hội đồng quản trị.
Bốn nội dung mà Chủ tịch Cù Thị Hậu đề nghị hội thảo tập trung làm rõ đã được các đại biểu là những nhà
khoa học thảo luận kỹ càng và đi tới một số kết luận. Tuy nhiên, như lời kết luận hội thảo của GS.TS Lê
Hữu Nghĩa - Tổng Biên tập Tạp chí CS, hội thảo góp phần đi sâu vào lý luận và thực tiễn của vấn đề; hội
thảo kết thúc nhưng các vấn đề không kết thúc và đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu, có lý luận, có sức thuyết
phục hơn để đấu tranh với quan điểm đi ngược lợi ích của Đảng, của GCCN, của dân tộc hiện nay.


HỘI THẢO:
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM,
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỚI GIAI CẤP
CÔNG NHÂN VÀ TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN
Lời Bộ Biên tập: Nhân dịp kỷ niệm 75 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và
115 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, vừa qua, tại Hà Nội, Tổng Liên đoàn Lao
động Việt Nam, Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương và Tạp chí Cộng sản đã phối hợp tổ
chức Hội thảo: "Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh với giai cấp công
nhân và tổ chức Công đoàn". Tham dự và chủ trì Hội thảo có các đồng chí: Cù Thị Hậu,
Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam; GS,TS Lê Hữu
Nghĩa, Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản; PGS,TS Đào Duy Quát, Phó Trưởng ban Ban
Tư tưởng - Văn hóa Trung ương. GS,TS Đỗ Nguyên Phương, Trưởng ban Khoa giáo
Trung ương; GS,TSKH Đỗ Trung Tá, Bộ trưởng Bộ Bưu chính viễn thông cùng hơn 100
nhà nghiên cứu khoa học, cán bộ công đoàn gắn bó, tâm huyết với giai cấp công nhân và
tổ chức Công đoàn Việt Nam đã tới dự. Tạp chí Cộng sản điện tử xin trân trọng giới thiệu
Báo cáo đề dẫn của đồng chí Cù Thị Hậu và bài Tổng quan Hội thảo.

BÁO CÁO ĐỀ DẪN
Cù Thị Hậu*

C. Mác và Ph. Ăng-ghen là những người đầu tiên vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng
và phương pháp luận biện chứng duy vật vào nghiên cứu sự phát triển của xã hội loài
người nói chung, của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và giai cấp công nhân nói
riêng. Khi nghiên cứu sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, hai ông
đã chỉ rõ nguồn gốc ra đời của giai cấp công nhân: Giai cấp vô sản là do cuộc cách mạng
công nghiệp sản sinh ra và phát triển cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp. Về
sự phát triển của các giai cấp trong xã hội, C.Mác khẳng định: Trong tất cả các giai cấp
hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách
mạng. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại

công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp. Theo
C.Mác và Ph.Ăng-ghen, bản chất tiên phong, cách mạng của giai cấp vô sản không phải
do giai cấp này nghèo khổ mà có, mà là do cuộc cách mạng công nghiệp sinh ra, phát


triển cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp và được nền đại công nghiệp rèn
luyện. Giai cấp vô sản có lợi ích đối lập trực tiếp với lợi ích giai cấp tư sản; là giai cấp
đại diện cho phương thức sản xuất mới, đại diện cho tính chất xã hội hóa sâu sắc của lực
lượng sản xuất.
Kế thừa quan điểm nói trên của C.Mác và Ph.Ăng-ghen, V.I.Lê-nin đã làm phong phú
thêm, hoàn chỉnh thêm lý luận về giai cấp vô sản bằng những luận điểm mới, trong điều
kiện lịch sử mới - điều kiện giai cấp vô sản đã giành được chính quyền. V.I.Lê-nin đã
khẳng định: Giai cấp vô sản là giai cấp thống trị về chính trị, giai cấp lãnh đạo toàn thể xã
hội trong cuộc đấu tranh lật đổ ách tư bản và lãnh đạo trong sự nghiệp sáng tạo ra xã hội
mới. Người còn chỉ rõ: Điểm chủ yếu trong học thuyết của C.Mác là ở chỗ, nó làm rõ vai
trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Thực
tiễn lịch sử thế giới đã chứng minh và khẳng định những kết luận của chủ nghĩa Mác Lê-nin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là hoàn toàn đúng đắn. Mặc dù thời
gian ngày càng lùi xa và nhiều biến cố của lịch sử diễn ra, nhưng quan điểm đó vẫn còn
nguyên giá trị.
Qua nhiều năm đi tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi đến kết luận rằng,
trên thế giới có nhiều học thuyết khác nhau, nhưng học thuyết Mác- Lê-nin đúng đắn
nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất. Cả cuộc đời của Người gắn bó với chủ nghĩa Mác
– Lê-nin. Người đã vận dụng và phát triển một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin vào
hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Người nói: "Thấm nhuần chủ nghĩa Mác – Lê-nin, Đảng
đã đề ra đường lối cách mạng đúng đắn”(1).
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trong lòng một dân tộc có truyền thống đấu tranh bất
khuất chống ngoại xâm. Ở giai cấp công nhân Việt Nam, nỗi nhục mất nước, cộng với
nỗi khổ vì ách áp bức bóc lột của giai cấp tư sản đế quốc đã làm cho lợi ích giai cấp và
lợi ích dân tộc kết hợp làm một. Giai cấp công nhân Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí
Minh-lãnh tụ vĩ đại của giai cấp công nhân, của dân tộc Việt Nam - lãnh đạo. Người đã

đề ra con đường cách mạng đúng đắn cho giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam - con
đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Mặt khác, giai cấp công nhân Việt Nam được
thừa hưởng những thành tựu của phong trào công nhân, cộng sản thế giới, khiến cho động
cơ, nghị lực và tính triệt để cách mạng của nó được nâng lên gấp bội.
Thực tế, trong suốt chặng đường cách mạng vẻ vang của dân tộc, dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp công nhân Việt Nam luôn là giai cấp tiên phong, đi
đầu trong cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, cũng như trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, và là lực lượng nòng cốt trong khối liên minh công - nông - trí. Bàn về
vai trò, vị trí của giai cấp công nhân Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Chỉ
có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn gan góc, đương đầu với
bọn đế quốc thực dân. Với lý luận cách mạng tiên phong và kinh nghiệm của phong trào
cách mạng vô sản quốc tế, giai cấp công nhân ta đã tỏ rõ là người lãnh đạo xứng đáng
nhất và đáng tin cậy nhất của nhân dân Việt Nam"(2). Sau chiến thắng Điện Biên Phủ,
cách mạng Việt Nam bước sang giai đoạn mới - giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Khi đến thăm và làm
việc với Tổng Công đoàn Việt Nam, Bác Hồ một lần nữa khẳng định về vai trò, vị trí của


giai cấp công nhân Việt Nam: "Để giành lấy thắng lợi, cách mạng nhất định phải do giai
cấp công nhân lãnh đạo. Vì nó là giai cấp tiền tiến nhất, giác ngộ nhất, kiên quyết nhất,
có kỷ luật nhất và tổ chức chặt chẽ nhất"(3).
Quán triệt sâu sắc chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về giai cấp công nhân,
trong suốt 75 năm qua, Đảng ta luôn xác định giai cấp công nhân là lực lượng nòng cốt
lãnh đạo cách mạng, thông qua đội tiên phong của mình là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ngày nay, trong thời kỳ đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng ta luôn khẳng định phải
giữ gìn và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng; xác định rõ vai trò, vị trí
của giai cấp công nhân và luôn quan tâm xây dựng, phát huy vai trò của giai cấp công
nhân, tổ chức Công đoàn. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7, khóa VII, ngày 25-7-1994,
khẳng định: Phải coi vấn đề xây dựng giai cấp công nhân và công tác công đoàn là một

nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng trong thời kỳ phát triển mới, bởi chỉ có giai cấp công
nhân trưởng thành về chính trị, có trình độ tổ chức, kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp
cao, mới có thể là nòng cốt để liên minh với nông dân, trí thức, tập hợp và đoàn kết các
thành phần khác, phấn đấu cho thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Văn kiện Đại hội VIII chỉ rõ: Phải giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân
của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ và đảng viên theo quan điểm của giai cấp công nhân.
Đặc biệt, tại Đại hội IX, Đảng ta rất chú trọng tới vấn đề xây dựng giai cấp công nhân
trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Văn kiện xác định: Đối
với giai cấp công nhân, coi trọng phát triển về số lượng và chất lượng, nâng cao giác ngộ
và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, thực hiện "tri thức hóa công nhân",
nâng cao năng lực ứng dụng và sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt năng suất, chất
lượng và hiệu quả ngày càng cao, xứng đáng là một lực lượng đi đầu trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và vai trò lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ mới.
Tuy nhiên, trước diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, khoa học- công nghệ đang
phát triển mạnh mẽ, toàn cầu hóa diễn ra như một xu thế khách quan, lôi cuốn nhiều nước
tham gia, lợi dụng chủ nghĩa xã hội trên thế giới đang thoái trào, các thế lực thù địch
đang tìm mọi âm mưu, thủ đoạn phá hoại sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và
lãnh đạo, muốn xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và lật đổ chế độ ta.
Trong bối cảnh đó, các thế lực thù địch và bọn cơ hội chính trị trong nước đang ra sức
tuyên truyền phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, phủ định học thuyết đấu
tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác-Lê-nin. Họ cho rằng, trong thời đại khoa học-công nghệ
và kinh tế tri thức hiện nay, lãnh đạo xã hội phải là tầng lớp trí thức chứ không phải là
giai cấp công nhân, v.v… Điều đó gây cho một số người hoài nghi về vai trò, vị trí và
năng lực lãnh đạo của giai cấp công nhân nói chung, giai cấp công nhân Việt Nam nói
riêng trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới. Trong hoạt động thực tiễn, có lúc, có nơi còn
có biểu hiện chỉ thấy vấn đề đại đoàn kết dân tộc mà không thấy vấn đề giai cấp – một
nội dung cốt lõi của liên minh giai cấp và đoàn kết dân tộc; chưa thực sự quan tâm và tạo
điều kiện để xây dựng, phát huy vai trò của giai cấp công nhân, tổ chức công đoàn.
Để luận chứng một cách có cơ sở khoa học vai trò, vị trí và sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân Việt Nam trong thời kỳ mới-thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa



đất nước, từng bước phát triển kinh tế tri thức, làm cơ sở cho việc đề xuất những giải
pháp xây dựng, phát huy vai trò của giai cấp công nhân, tổ chức Công đoàn, tại Hội thảo
này, chúng tôi đề nghị các nhà khoa học đã có nhiều năm gắn bó, tâm huyết với giai cấp
công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam, tập trung làm rõ những nội dung sau:
Một là, vai trò, vị trí và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam trong sự
nghiệp giải phóng dân tộc và đặc biệt là trong sự nghiệp đổi mới đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Hai là, vấn đề bản chất và tính chất của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ba là, những chủ trương, giải pháp xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn
Việt Nam trong thời kỳ mới.
Bốn là, trách nhiệm của Đảng và Nhà nước trong việc xây dựng, phát huy vai trò của giai
cấp công nhân, tổ chức Công đoàn Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Chúng tôi hy vọng, trong Hội thảo này, những ý kiến của các nhà khoa học sẽ là những
đóng góp quý báu, góp phần hoàn thiện lý luận về giai cấp công nhân và tổ chức Công
đoàn, làm cơ sở vững chắc để có những chủ trương, giải pháp xây dựng, phát huy vai trò
của giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam vững mạnh.
Định hướng xã hội chủ nghĩa với giai cấp công nhân Việt Nam và tổ chức Công đoàn

Ngày 18/3/2004. Cập nhật lúc 11h 28'
Định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề được nhiều người quan tâm, bởi nó có ý nghĩa cả về lý
luận - thực tiễn và thời sự. Đó là vấn đề của cả dân tộc. Đối với giai cấp công nhân và tổ chức
Công đoàn, nó càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
1-Để hiểu một cách cơ bản về định hướng xã hội chủ nghĩa, trước hết cần hiểu rõ hơn về quá độ lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Tiếp thu tư tưởng về thời kỳ quá độ của Lê nin, Chủ tịch Hồ
Chi Minh nêu hai phương thức quá độ lên chủ nghĩa xã hội: phương thức quá độ trực tiếp và phương
thức quá độ gián tiếp. Đối với các nước quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội chỉ là chuyển xã hội từ chế
độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa sang chế độ sở hữu công cộng xã hội chủ nghĩa, thì sẽ có chủ

nghĩa xã hội về cơ bản. Còn đối với các nước quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội, thì vô cùng khó
khăn, phức tạp và diễn ra trong một quá trình rất lâu dài. Điều đó thể hiện ở nội dung quá độ là phải cải
biến xã hội về nhiều mặt, nổi bật là ba mặt: quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất và tư tưởng - văn hóa,
trong đó, mặt lực lượng sản xuất là khó khăn và quan trọng nhất. Nhìn lại sự nghiệp quá độ lên chủ nghĩa
xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta từ 1954 đến nay, thực tế đã diễn ra qua ba giai đoạn:
từ 1954 đến 1975; từ 1975 đến 1986 và từ l986 đến nay. Giai đoạn đầu (từ 1954 đến 1975) là giai đoạn
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc trong tình hình đất nước khó khăn sau cuộc kháng chiến chống
Pháp và tiến hành kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Giai đoạn thứ hai (từ 1975 đến 1986) là giai đoạn cả
nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong tình hình hậu quả nặng nề của cuộc kháng chiến ác liệt kéo dài
gần 20 năm. Sự kiện có ý nghĩa lịch sử trọng đại vào tháng 12 – 1986 là Đại hội lần thứ VI của Đảng ta
quyết định đường lối đổi mới, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, khắc phục sai lầm chủ
quan, duy ý chí, nóng vội... Đại hội đã xác định đúng nội dung, hình thức, tốc độ và bước đi quá độ lên
chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Trên những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê
nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta hình thành một hệ thống quan điểm, đường lối, chính sách và luật
pháp đúng đắn, trong đó chủ trương có ý nghĩa đột phá về lý luận là xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
2-Tiến lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa là con đường của cả dân tộc. Song, mỗi tổ chức, mỗi lực


lượng, mỗi bộ phận trong cộng đồng dân tộc căn cứ từ vị trí, vai trò, chức năng riêng mà thực hiện nhiệm
vụ của mình theo định hướng nhằm tới mục đích chung. Với tư cách là lực lượng trung tâm của thời đại,
thông qua tổ chức công đoàn là môi trường hoạt động chính trị - xã hội của mình, giai cấp công nhân là
lực lượng hết sức quan trọng, sự lãnh đạo của Đảng, cùng toàn dân trong Mặt trận đoàn kết dân tộc, tích
cực thực hiện và thực hiện thành công sự nghiệp quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo định hướng xã hội
chủ nghĩa… Trải qua 17 năm đổi mới, giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn đã cùng toàn dân tộc
đưa đất nước vượt qua tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội và dành được những thành tựu hết sức
quan trọng.
Tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đưa đất nước tiến lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Văn kiện Đại hội đại
biểu lần thứ IX của Đảng ta nêu rõ: ''Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo
con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh ''. Thực hiện

đường lối của Đảng, tiến lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân và tổ chức Công
đoàn đã, đang và sẽ còn tiếp tục thực hiện những nội dung cơ bản đước đây:
Thứ nhất, giai cấp công nhân tiếp tục phát huy và không ngừng nâng cao vai trò sứ mệnh lịch sử của
mình là người lãnh đạo xã hội, quyết tâm đưa đất nước tiến lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thời
gian qua, nảy sinh một quan niệm cho rằng ''chất lượng giai cấp công nhân giảm sút, từ đó kéo theo sự
giảm sút về địa vị lịch sử của giai cấp công nhân''. Không phải như vậy, vấn đề chất lượng giai cấp công
nhân có thật sự giảm sút hay không là vấn đề còn phải được xem xét, phân tích và tranh luận. Quan
niệm đó chỉ là sự ngộ nhận, không thấy được chất lượng thực sự của giai cấp công nhân hiện nay, do nó
bị che lấp bởi quan niệm cũ về giai cấp công nhân. Ngay cả nếu giai cấp công nhân có tạm thời giảm sút
về mặt nào đó, thì cũng không vì thế mà giai cấp này mất đi sứ mệnh lịch sử của mình, bởi sứ mệnh ấy
được quy định khách quan của lịch sử, của thời đại. Chỉ riêng việc Đảng Cộng sản Việt Nam xác định
đường lối của mình dựa trên lập trường của giai cấp công nhân; lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hoạt động của Đảng chứng tỏ sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân vẫn tiếp tục được khẳng định. Song biểu thị về sứ mệnh lịch sử của mình, vấn đề
có ý nghĩa rõ rệt là mỗi công nhân cần đem hết tinh thần và nghị lực, trí tuệ và tài năng, đạo đức và tác
phong phục vụ sản xuất và công tác trong sự nghiệp phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Thứ hai, tổ chức Công đoàn là môi trường hoạt động chính trị - xã hội của công nhân, là thành viên của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nằm trong hệ thống chính trị của Đảng , đã và đang thể hiện vai trò tích cực
của mình. Từ bắt đầu đổi mới đến nay, tổ chức công đoàn đã động viên, cổ vũ và tổ chức chỉ đạo phong
trào công nhân thực hiện đường lối đổi mới, tiến lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng đề
xướng và lãnh đạo. Trong công cuộc đổi mới theo Nghị quyết của Đảng, giai cấp công nhân và tổ chức
Công đoàn quyết tâm cùng với toàn dân thực hiện thắng lợi mục tiêu ổn định tình hình kinh tế - xã hội,
tạo tiền đề tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, đưa đất nước thoát khỏi đói nghèo... Có thể nói rằng, giai
cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam đã và đang tiếp tục thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ
do các kỳ Đại hội Công đoàn đề ra, từ đó góp phần tích cực và hiệu quả vào sự nghiệp phát triển đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Những thắng lợi đạt được về nhiều mặt qua 17 năm đổi mới có
phần đóng góp rất to lớn của giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn nước ta.
Thứ ba, là lực lượng lao động cơ bản trong hệ thống sản xuất tiên tiến, trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, giai cấp công nhân phải tự nâng mình lên cho phù hợp với điều kiện sản xuất hiện

đại, trong đó nâng cao trình độ khoa học - công nghệ, nghiệp vụ chuyên môn và tay nghề có ý nghĩa hết
sức quan trọng. Có như vậy mới đáp ứng được nhiệm vụ song trùng là vừa công nghiệp hóa, vừa hiện
đại hóa trong quá trình đưa nước ta cơ bản thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm
2020. Cùng với sự nghiệp đào tạo xây dựng đội ngũ công nhân mới, trẻ tuổi với tri thức hiện đại, chúng
ta đẩy mạnh sự nghiệp đào tạo lại và đào tạo nâng cao cho đội ngũ công nhân hiện có. Gắn liền với sự
nghiệp đào tạo đó, chúng ta hình thành từng bước đội ngũ công nhân tri thức cùng với hình thành từng
bước nền kinh tế tri thức.
Tiến lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là tiếp tục quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa, điều chỉnh phù hợp với lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
thực tiễn Việt Nam. Đó là con đường quá độ hoàn toàn đúng đắn, nhưng cũng vô cùng khó khăn, phức
tạp và diễn ra lâu dài. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, giai cấp công nhân nước ta thông qua tổ chức Công
đoàn đã góp phần xứng đáng tạo ra những thành tựu rất quan trọng trong sự nghiệp đổi mới.

Mai Thanh


TOÀN CẦU HÓA VỚI CHỦ NGHĨA QUỐC TẾ
CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
Vũ Văn Hòa *

1 - Chủ nghĩa quốc tế vô sản là sự thống nhất hành động của giai cấp công nhân với đông
đảo các giai cấp, các tầng lớp nhân dân lao động trên thế giới trong cuộc đấu tranh chung
chống giai cấp tư sản, chủ nghĩa đế quốc, bảo vệ hòa bình, dân chủ, vì độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội. Tình đoàn kết quốc tế của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân
lao động thế giới được thể hiện trong thực tiễn đấu tranh nhằm giải quyết các nhiệm vụ
trước mắt cũng như những nhiệm vụ lâu dài vì sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội - chủ
nghĩa cộng sản; trong sự thống nhất tư tưởng - lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin làm nền tảng
tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động thực tiễn; trong quan niệm đúng đắn về mối quan
hệ biện chứng giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp; trong sự thống nhất lợi ích cơ bản
của giai cấp công nhân ở tất cả các quốc gia, các châu lục, các khu vực khác nhau trên thế

giới. Trên phương diện đạo đức, tình đoàn kết quốc tế vô sản được thể hiện ở hệ chuẩn
mực, hệ quy tắc thực sự nhân đạo chi phối quan hệ giữa những người lao động thuộc mọi
cộng đồng dân tộc, tôn giáo trên hành tinh. Chính điểm chung về lợi ích cơ bản của giai
cấp công nhân là yếu tố khách quan gắn kết, thống nhất giai cấp công nhân thuộc các dân
tộc khác nhau. Đây là cơ sở quan trọng nhất bảo đảm cho tình đoàn kết quốc tế của giai
cấp công nhân thế giới.
Chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân được thể hiện một cách cô đọng ở khẩu hiệu
nổi tiếng, do C. Mác và Ph. ăng-ghen nêu ra trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản: "Vô
sản tất cả các nước đoàn kết lại!". Các ông cũng chỉ rõ điểm khác biệt giữa các đảng cộng
sản và các tổ chức chính trị - xã hội khác của giai cấp công nhân là ở chỗ: trong cuộc đấu
tranh của giai cấp vô sản thuộc các dân tộc khác nhau, những người cộng sản xác định và
bảo vệ lợi ích chung của toàn bộ giai cấp vô sản thế giới, không phụ thuộc vào đặc thù
dân tộc. Lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân gắn liền với sứ mệnh lịch sử của nó là giải
phóng mình và các tầng lớp nhân dân lao động khỏi mọi hình thức bóc lột tư bản chủ
nghĩa, mọi sự áp bức chính trị thông qua việc thực hiện quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội; phù hợp với tiến trình phát triển khách quan của xã hội loài người,
thống nhất với nhu cầu, nguyện vọng, lợi ích căn bản của tất cả các tầng lớp nhân dân lao
động khác trên toàn thế giới. Với tư cách lực lượng tiên phong không chỉ trong nước, mà
còn trên trường quốc tế, giai cấp công nhân là đồng minh chiến lược triệt để, đáng tin cậy
nhất của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, của tất cả những ai đấu tranh chống lại
ách áp bức, đô hộ của chủ nghĩa thực dân, của các thế lực đế quốc hiếu chiến. Do vậy,
tình đoàn kết, sự ủng hộ, hỗ trợ của giai cấp công nhân thế giới đối với các dân tộc thuộc
địa là nhu cầu, trách nhiệm tất yếu của giai cấp công nhân. Tình đoàn kết, sự gắn bó hữu
cơ giữa giai cấp công nhân và các dân tộc thuộc địa trên thế giới được thể hiện sâu sắc,
đầy đủ trong khẩu hiệu mà V. I. Lê-nin đưa ra: "Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị
áp bức đoàn kết lại!".
Sự phát triển của chủ nghĩa quốc tế vô sản gắn liền với các sự kiện lịch sử vĩ đại, như
thắng lợi của Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga, sự ra đời và phát triển của
hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới ở nửa sau thế kỷ XX, sự phá sản của hệ thống thuộc
địa của chủ nghĩa thực dân cũ và mới.



Một hình thái phát triển điển hình của chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân nửa sau
thế kỷ XX là chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa. Nó thể hiện bản chất mối quan hệ hữu
nghị đoàn kết, tương trợ lẫn nhau giữa các quốc gia xã hội chủ nghĩa; được bảo đảm bởi
sự tương đồng về kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa giữa các nước trong hệ thống xã
hội chủ nghĩa thế giới, bởi nhu cầu, nhiệm vụ bảo vệ thành quả cách mạng và sự nghiệp
xây dựng chế độ xã hội mới ở tất cả các quốc gia xã hội chủ nghĩa; thể hiện trong quan hệ
hữu nghị, ủng hộ lẫn nhau giữa các đảng cộng sản, công nhân cầm quyền và nhân dân lao
động ở các nước xã hội chủ nghĩa với các đảng cộng sản, công nhân và nhân dân lao
động, bị áp bức, bóc lột ở các nước tư bản chủ nghĩa.
2 - Toàn cầu hóa với tư cách một xu thế vận động tất yếu, khách quan trong tiến trình
phát triển của lịch sử nhân loại mang nội dung cốt lõi là sự gia tăng mạnh mẽ tính tùy
thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia dân tộc, giữa các khu vực, châu lục, giữa các cộng đồng
cư dân thế giới trên tất cả mọi lĩnh vực đời sống xã hội, trước hết là trên lĩnh vực kinh tế,
thương mại. Xu thế vận động khách quan trên đây đang bị các nước tư bản phát triển, các
thế lực tư bản độc quyền toàn cầu chi phối nhằm phục vụ nhu cầu, lợi ích của họ, ít hoặc
không quan tâm tới, thậm chí đi ngược lại lợi ích, nhu cầu của người lao động. Tiến trình
toàn cầu hóa, như nó đang diễn ra trong thực tế hiện nay, cũng tác động mạnh đến mọi
tầng lớp nhân dân lao động trên thế giới, trong đó có giai cấp công nhân tại các quốc gia
tư bản phát triển. Tác động của nó đối với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân vừa
có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực. Nó vừa tạo cơ hội, vừa đặt ra thách thức không nhỏ
đối với mọi hoạt động chung, mọi nỗ lực thống nhất quan điểm, phối hợp hành động của
giai cấp công nhân, của các đảng cộng sản và các tầng lớp nhân dân lao động trên thế
giới.
Về tác động tích cực của toàn cầu hóa đối với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân:
Thứ nhất, toàn cầu hóa tạo điều kiện thuận lợi để giai cấp công nhân, các tầng lớp nhân
dân lao động ở mọi quốc gia, mọi khu vực, mọi châu lục nhận biết nhanh chóng, đầy đủ,
sát thực hơn về nhau. Sự phát triển mạnh mẽ và xu thế rút ngắn khoảng cách giữa phát
minh, sáng chế với việc ứng dụng chúng vào thực tiễn hoạt động sản xuất, hoạt động

sống của xã hội loài người, mà biểu hiện điển hình là sự phát triển, lan tỏa nhanh chóng
của công nghệ thông tin, viễn thông đã tạo cơ hội, làm đa dạng hóa các hình thức, kênh
trao đổi thông tin giữa các quốc gia, giữa các cộng đồng dân cư. Nhờ vậy, giờ đây mọi sự
kiện xảy ra ở bất cứ nơi nào trên thế giới đều nhanh chóng được truyền đi khắp toàn cầu.
Điều này cho phép mọi người dân, mọi tầng lớp xã hội, mọi cộng đồng người ở bất cứ
nơi nào trên thế giới có cơ hội theo dõi, nhanh chóng nắm bắt, hiểu được cuộc sống, hoạt
động của các cộng đồng khác. Điều này có tác dụng tăng cường sự hiểu biết, cảm thông,
chia sẻ, ủng hộ giữa những người lao động ở các quốc gia, khu vực khác nhau. Bằng
chứng rõ nhất là các phong trào, chiến dịch quyên góp, ủng hộ nạn nhân các vụ thiên tai ở
hàng loạt quốc gia, khu vực những năm vừa qua. Nhờ có chương trình truyền hình trực
tiếp, liên tục về các vụ thiên tai, về nạn nhân của chúng, người dân ở các quốc gia, khu
vực khác nhau, dù sống xa nơi xảy ra thảm họa hàng chục ngàn cây số, vẫn có thể theo
dõi một cách sát sao, vẫn cảm nhận một cách trực tiếp mức độ khủng khiếp, những gian
truân, nhọc nhằn, những khó khăn hiểm nguy mà cộng đồng dân cư nơi xảy ra thảm họa


phải chịu đựng, từ đó họ cảm thông, chia sẻ, hành động thiết thực để ủng hộ, giúp đỡ
những nạn nhân của thiên tai.
Thứ hai, toàn cầu hóa giúp cho giai cấp công nhân, các tầng lớp nhân dân lao động ở
những nước khác nhau ý thức đầy đủ, sâu sắc hơn về điểm chung trong lợi ích cơ bản của
giai cấp, tầng lớp mình, từ đó tăng cường đoàn kết, cùng nhau hành động, đấu tranh để
bảo vệ lợi ích chung đó. Tăng cường trao đổi thông tin, giao lưu, gặp gỡ tạo cơ hội để
giai cấp công nhân, nhân dân lao động ở các nước, trước hết ở những quốc gia, nơi nhà
nước không phải là đại diện cho lợi ích của người lao động, nhận thức đầy đủ hơn về
những điểm tương đồng trong nhu cầu, lợi ích của mình: đều là những lực lượng lao động
làm thuê, trực tiếp tạo ra của cải vật chất chủ yếu của xã hội, bị bóc lột, nguồn sống chính
là do bán sức lao động, trực tiếp phải gánh chịu mọi hậu quả, tác động tiêu cực do những
biến động kinh tế, chính trị, xã hội, sinh thái gây ra. Những điểm chung trong lợi ích cơ
bản của giai cấp công nhân, các tầng lớp nhân dân lao động thế giới đã được trình bày
một cách cô đọng, khúc triết trong học thuyết Mác - Lê-nin về sứ mệnh lịch sử của giai

cấp công nhân, về sự cần thiết, tính tất yếu của liên minh giai cấp trong cuộc đấu tranh
giai cấp của giai cấp công nhân thế giới. Tuy nhiên, trước đây, người công nhân, người
lao động ở các nước khác nhau mới chỉ hiểu, ý thức về điểm chung đó trên phương diện
lý thuyết. Giờ đây, nhờ sự phát triển của toàn cầu hóa, nhờ tăng cường giao lưu, trao đổi,
tiếp xúc... họ đã tiến tới mức cảm nhận, trải nghiệm cái chung đó trong hoạt động thực
tiễn. Đây là bước chuyển rất quan trọng về chất của phong trào công nhân thế giới.
Thứ ba, toàn cầu hóa tạo cơ hội cho người lao động - công dân của các nước khác nhau
trực tiếp cùng nhau làm việc trong một dây chuyền, xí nghiệp sản xuất nhất định. Một
trong những biểu hiện nổi bật của toàn cầu hóa là sự gia tăng luân chuyển các nguồn
nhân lực giữa các quốc gia, khu vực. Điều này đồng nghĩa với việc, người lao động có cơ
hội lớn hơn trong lựa chọn nơi, địa điểm làm việc. Về lý thuyết, giờ đây người lao động
có thể đến làm việc ở bất cứ nơi đâu, cho bất cứ công ty, xí nghiệp nào trên thế giới. Và
thực tế cho thấy, không ít công ty, xí nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh thu hút lao động
từ rất nhiều quốc gia, khu vực khác nhau. Thực tế này giúp cho công nhân, người lao
động mang quốc tịch khác nhau, với những giá trị văn hóa, tín ngưỡng khác nhau không
chỉ nhận thức sâu sắc hơn, mà còn trải nghiệm cái chung về lợi ích, cái chung về địa vị xã
hội của giai cấp mình, từ đó họ đoàn kết chặt chẽ hơn, hành động nhất quán hơn trong
cuộc đấu tranh bảo vệ lợi ích chung, vì mục tiêu chiến lược chung.
Bên cạnh những cơ hội mà toàn cầu hóa có thể tạo ra cho quá trình củng cố, tăng cường
tình đoàn kết quốc tế của giai cấp công nhân, thì nó cũng đặt ra không ít thách thức đối
với quá trình này.
Thứ nhất, toàn cầu hóa phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh hệ thống xã hội chủ nghĩa thế
giới bị lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng, đổ vỡ. Biến cố lịch sử này làm cho phong
trào cộng sản, công nhân quốc tế nói riêng, phong trào cách mạng thế giới nói chung lâm
vào thời kỳ thoái trào. Không ít các lý luận gia cố gắng biện luận cho cái gọi là "sự tất
yếu diệt vong" của phong trào cộng sản, công nhân quốc tế, về "sự lỗi thời" của chủ
nghĩa quốc tế vô sản của giai cấp công nhân. Trong bối cảnh các quốc gia tập trung phát
triển kinh tế, coi lợi ích kinh tế của quốc gia mình là ưu tiên số một trong quan hệ với thế



giới bên ngoài, khi mà chính phủ ở phần lớn các nước chủ trương và tiến hành thực hiện
đường lối đối ngoại đa dạng hóa, đa phương hóa trên nguyên tắc cùng có lợi, khi mà các
nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau, thậm chí đối lập nhau, tích cực triển khai
chính sách cùng tồn tại hòa bình, thì tình đoàn kết quốc tế truyền thống của giai cấp công
nhân quả thực phải đối mặt với không ít thử thách, cam go. Sự suy giảm mối quan hệ
giữa các nước xã hội chủ nghĩa, sự trầm lắng, lúng túng của phong trào cách mạng thế
giới cuối những năm 80, đầu những năm 90 thế kỷ XX là dấu hiệu rõ rệt nhất về những
thách thức, khó khăn mà chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân thế giới gặp phải.
Thứ hai, thực tế vận động, phát triển của toàn cầu hóa những thập niên vừa qua cho thấy,
các nước tư bản phát triển, các công ty tư bản độc quyền xuyên quốc gia, do nắm trong
tay những ưu thế về khoa học - công nghệ, về vốn, về kinh nghiệm, kỹ năng quản lý điều
hành hoạt động sản xuất, kinh doanh trong cơ chế thị trường hiện đại, đang là những chủ
thể nắm quyền chủ động đối với toàn cầu hóa. Họ ra sức lợi dụng toàn cầu hóa nhằm
phục vụ cho lợi ích, tham vọng ích kỷ của mình, coi nhẹ, thậm chí phớt lờ lợi ích của các
lực lượng xã hội khác, bỏ qua quyền lợi của các quốc gia dân tộc nghèo, kém phát triển.
Để thực hiện mục tiêu này, họ sẵn sàng thỏa hiệp, tạm thời gác lại những bất đồng, mâu
thuẫn nội bộ, hợp sức, cố kết với nhau trên quy mô khu vực và toàn cầu. Trong khi đó, vì
những nguyên nhân chủ quan và khách quan, bản thân các nước nghèo đang và kém phát
triển, bản thân các lực lượng cộng sản, công nhân thế giới lại có dấu hiệu suy giảm sự
phối hợp về quan điểm và hành động chung, đôi khi lâm vào tình trạng phân liệt về tư
tưởng, tổ chức, thiếu sự thống nhất, hợp tác trong hành động, lúng túng, bị động trước
những chuyển biến nhanh chóng của thế giới. Thực trạng bất lợi này ngày càng được các
đảng cộng sản, công nhân, các lực lượng cánh tả tiến bộ trên thế giới nhận ra. Do vậy,
những năm gần đây họ đang nỗ lực hành động để khắc phục tình hình tiêu cực đó.
Thứ ba, xu thế gia tăng mạnh mẽ các dòng lưu chuyển vốn, công nghệ và lao động trên
quy mô toàn cầu, bên cạnh tác động tích cực như đã phân tích ở trên, cũng có ảnh hưởng
tiêu cực, gây bất lợi cho tình đoàn kết quốc tế trong nội bộ giai cấp công nhân, nhân dân
lao động ở các quốc gia khác nhau. Tác động tiêu cực của các xu hướng này được biểu
hiện ở hai thực tế sau. Một là, triển khai đường lối đối ngoại đa dạng hóa, đa phương hóa
quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, đảng cộng sản cầm

quyền, nhà nước ở các nước xã hội chủ nghĩa đang nỗ lực thu hút vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài, trước hết và chủ yếu từ các nước tư bản phát triển, cố gắng xuất khẩu hàng
hóa, dịch vụ, lao động của mình ra nước ngoài. Trong khi đó, các đảng cộng sản, công
nhân, các lực lượng cánh tả tiến bộ ở các nước tư bản phát triển lại chỉ trích chính sách
của chính phủ nước mình trong việc mở cửa thị trường, xuất khẩu tư bản ra nước ngoài,
vì theo họ (các đảng cộng sản, công nhân, các lực lượng cánh tả tiến bộ ở khu vực các
nước tư bản phát triển) chính sách đó của chính phủ sẽ đe dọa nền sản xuất trong nước,
thu hẹp công ăn việc làm của người lao động. Do vậy, ở đây có nguy cơ nảy sinh mâu
thuẫn giữa người lao động đến từ các nước xã hội chủ nghĩa và người lao động ở các
nước tư bản phát triển. Hai là, sự tự do lưu chuyển nguồn nhân lực tạo điều kiện thuận lợi
để công nhân, người lao động từ các nước kém phát triển chuyển đến tìm việc làm với hy
vọng có thu nhập cao hơn ở các nước tư bản phát triển, làm nảy sinh xung đột giữa lao
động nước sở tại và lao động di cư từ nước khác tới. Những xung đột này là nguy cơ tiềm
ẩn phá vỡ tình đoàn kết quốc tế của giai cấp công nhân thế giới. Nó đã và đang bị các thế


lực dân tộc chủ nghĩa, cánh hữu cực đoan lợi dụng để kích động thái độ phân biệt chủng
tộc, bài ngoại trong nội bộ giai cấp công nhân, người lao động ở không ít quốc gia Tây
Âu, Bắc Mỹ, Đông - Bắc á những năm vừa qua.
Trước những tác động tích cực và tiêu cực, thời cơ và thách thức do toàn cầu hóa tạo ra,
giai cấp công nhân, các tầng lớp nhân dân lao động, các đảng cộng sản, công nhân, các
lực lượng cánh tả tiến bộ trên thế giới phải làm gì để củng cố, tăng cường tình đoàn kết
quốc tế của mình? Câu hỏi chưa có lời giải đáp thỏa đáng, triệt để. Song, những cố gắng,
nỗ lực của các đảng cộng sản, công nhân, các lực lượng cánh tả tiến bộ, của toàn bộ giai
cấp công nhân, các tầng lớp nhân dân lao động khắp thế giới những năm vừa qua nhằm
tìm kiếm phương thức, hình thức trao đổi ý kiến, phối hợp hoạt động phù hợp hơn, thích
ứng hơn với tương quan lực lượng mới, với bối cảnh mới của thế giới hiện nay là một
thực tế không thể phủ nhận. Dù còn muôn vàn khó khăn, thách thức, nhưng với tư cách
một lực lượng chính trị xã hội tiên phong của thời đại, người đại diện cho xu hướng phát
triển tiến bộ, hợp quy luật của lịch sử, với bản chất cách mạng và chủ nghĩa quốc tế, giai

cấp công nhân thế giới chắc chắn sẽ vượt qua những khó khăn, thử thách; tìm ra phương
thức, hình thức mới phù hợp với bối cảnh mới của thời cuộc để tiếp tục củng cố, phát huy
tình đoàn kết quốc tế của mình.

Sự ra đờI của đcs
Người tạo dựng “sự cường tráng của cơ thể” Đảng

Ngày 8/10/2004. Cập nhật lúc 21h 12'
Để làm tròn nhiệm vụ lãnh đạo thắng lợi Cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam phải
không ngừng lớn mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Mạnh về chính trị là đường lối chính
trị luôn luôn đúng, vừa được dẫn dắt bởi lý luận tiên phong là Chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng
Hồ Chí Minh vừa xuất phát từ thực tiễn, phản ánh thực tiễn và giải quyết được các vấn đề của
thực tiễn, có sức mạnh cổ vũ, động viên nhân dân tham gia cách mạng. Mạnh về tư tưởng là
mạnh về tinh thần và ý chí cách mạng, toàn Đảng trên dưới một lòng phấn đấu cho thắng lợi của
đường lối chính trị của Đảng, thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chống lại mọi
biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, sự giảm sút ý chí chiến đấu, sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức,
lối sống và các hành vi tiêu cực khác. Mạnh về tổ chức là có một tổ chức Đảng và đội ngũ cán bộ
ngang tầm với nhiệm vụ chính trị của Đảng, một tổ chức và đội ngũ cán bộ đoàn kết thống nhất, hoạt
động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, không bè phái, cục bộ, đủ sức lãnh đạo nhân dân thực hiện
thắng lợi đường lối và các nhiệm vụ chính trị của Đảng trong bất cứ thời kỳ nào của cách mạng.
Nếu chính trị, tư tưởng là linh hồn của Đảng thì tổ chức chính là bản thân cơ thể của Đảng. Xây dựng
Đảng về chính trị và tư tưởng phải luôn luôn gắn chặt với xây dựng Đảng về tổ chức. Các mặt xây dựng
đó có tác động qua lại mật thiết với nhau và trên thực tế, xây dựng về mặt này vừa là tiền đề, vừa là điều
kiện của xây dựng Đảng về mặt khác. Xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng hay xây dựng Đảng về tổ
chức đều là trách nhiệm chung của Đảng, trước hết là của ban chấp hành các cấp từ Trung ương đến cơ
sở.
Là người trực tiếp làm công tác tổ chức, ngành Tổ chức của Đảng có trách nhiệm to lớn trong việc nêu
gương các cấp uỷ Đảng xây dựng tổ chức Đảng và đội ngũ cán bộ của Đảng ngày càng mạnh, hoạt động
có hiệu quả và hiệu lực. Nói một cách dễ hiểu, ngành Tổ chức của Đảng là người góp phần tạo sự
cường tráng của cơ thể Đảng.

Tháng 10 năm nay, ngành Tổ chức của Đảng ta kỷ niệm lần thứ 74 năm ngày thành lập. Thật ra, công tác
tổ chức của Đảng xuất hiện đồng thời với sự ra đời của Đảng qua việc Đảng Cộng sản Việt Nam hợp
nhất các tổ chức Cộng sản nước ta tháng 2-1930 và công bố Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và


Điều lệ vắn tắt của Đảng. Trước đó, sự ra đời của Báo Thanh niên do Bác Hồ sáng lập vào năm 1925 và
tác phẩm Đường Kách Mệnh do Người khởi thảo cùng những lớp huấn luyện do Người tổ chức chính là
sự chuẩn bị về mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam sau này.
Trong 74 năm đó, từ mấy trăm đảng viên ngày Đảng mới thành lập, dù phải trải qua đấu tranh quyết liệt
và những cuộc khủng bố tàn khốc của kẻ thù, đến năm 1945, khi Cách mạng Tháng Tám thành công,
Đảng ta đã có tới năm nghìn đảng viên và ngày nay, trải qua hai cuộc kháng chiến cứu nước, bước vào
thời kỳ xây dựng đất nước quá độ lên CNXH, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng ta đã có hơn hai triệu
người, bao gồm những đại biểu ưu tú trong giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và
những người yêu nước và cách mạng khác.
Trong quá trình xây dựng và trưởng thành, với các tổ chức Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên không
ngừng lớn mạnh, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân giành được những thắng lợi vĩ đại, nổi bật nhất là thắng
lợi của Cách mạng Tháng Tám và sự thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, thắng lợi của các
cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc; thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và
từng bước đưa đất nước quá độ lên CNXH.
Công tác tổ chức và ngành Tổ chức của Đảng, thông qua nhiệm vụ xây dựng Đảng về mặt tổ chức, cũng
đã không ngừng lớn lên, đúc rút được nhiều kinh nghiệm phong phú, góp phần xứng đáng vào thắng lợi
chung và sự nghiệp lãnh đạo của Đảng.
Đặc điểm nổi bật nhất trong quá trình lãnh đạo của Đảng ta là từ năm 1945, với thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám và việc thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành
Đảng cầm quyền và liên tục là Đảng duy nhất lãnh đạo chính quyền ở nước ta. Nếu không kể Đảng Cộng
sản Liên Xô và các Đảng Cộng sản và công nhân các nước XHCN Đông Âu trước đây đã mất quyền lãnh
đạo đất nước và ở đó, chế độ XHCN cũng không còn thì cho đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng
cộng sản có thời gian cầm quyền lâu nhất trên thế giới và đang tiếp tục giữ vững quyền lãnh đạo ấy. Nói
đến đặc điểm của đảng cầm quyền cũng tức là nói đến công tác tổ chức và ngành Tổ chức của Đảng
không chỉ chăm lo cho riêng tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ của Đảng mà còn phải quán xuyến các tổ

chức và đội ngũ cán bộ của cả hệ thống chính trị, của các lực lượng trong nhân dân.
Văn kiện Đại hội IX của Đảng nhận định: Những thành tựu và yếu kém trong công cuộc đổi mới, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc gắn liền với trách nhiệm lãnh đạo của Đảng và những ưu điểm, khuyết điểm
trong công tác xây dựng Đảng. Trong khi khẳng định Đảng đã có nhiều cố gắng tiến hành nhiệm vụ then
chốt là xây dựng, chỉnh đốn Đảng và nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, Văn kiện cũng chỉ rõ: Trong
công tác xây dựng Đảng, bên cạnh những ưu điểm, đang nổi lên một số mặt yếu kém và khuyết điểm,
nhất là khuyết điểm về công tác giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, chưa ngăn chặn và đẩy lùi
được suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Một số tổ chức Đảng ở các cấp chưa được chỉnh
đốn; dân chủ bị vi phạm, kỷ luật, kỷ cương lỏng lẻo, nội bộ không đoàn kết, chất lượng sinh hoạt Đảng
giảm sút. Công tác tư tưởng, công tác lý luận còn yếu kém; bởi vậy, công tác tổ chức, cán bộ còn một số
biểu hiện trì trệ. Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng còn lúng túng, chưa đi sâu làm rõ đặc
điểm và yêu cầu về sự lãnh đạo của Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền, chưa phát huy đầy đủ hiệu
lực quản lý của các cơ quan nhà nước, tính tích cực của các đoàn thể và quyền làm chủ của nhân dân.
Tổ chức chỉ đạo thực hiện và kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà
nước còn yếu.
Bốn năm qua, trong việc thực hiện Nghị quyết Đại hội IX, công tác tổ chức và Ngành Tổ chức của Đảng
đã có những cố gắng, bước đầu tạo được những chuyển biến tốt, nhất là trong công tác cán bộ và trong
việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Tuy vậy, nhìn chung, Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn
Đảng chưa thực sự đạt được những yêu cầu đề ra. Vì vậy, Hội nghị lần thứ 9 vừa qua của Ban Chấp
hành Trung ương khoá IX đã quyết định: Chỉ đạo quyết liệt hơn Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn
Đảng tương xứng với vị trí là nhiệm vụ then chốt, tập trung vào một số việc trọng tâm sau:
1. Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, kiên quyết khắc phục sự suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên.
2. Đẩy mạnh xây dựng, kiện toàn và tăng sức chiến đấu cho tổ chức cơ sở Đảng gắn với xây dựng chính
quyền, Mặt trận và các đoàn thể cơ sở và phong trào cách mạng của quần chúng.
3. Tiếp tục đổi mới công tác cán bộ cả về quan điểm, nội dung, phương pháp, tổ chức quản lý, chế độ
trách nhiệm, bộ máy và con người làm công tác cán bộ, triển khai đồng bộ các mặt đánh giá, quy hoạch,
luân chuyển, đào tạo, bồi dưỡng và bố trí, sử dụng cán bộ.



4. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng.
Làm tốt cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng với một số việc trọng tâm nêu trên là góp phần quan
trọng làm tốt công việc chuẩn bị về mặt tổ chức cho Đại hội lần thứ X của Đảng.
Kỷ niệm lần thứ 74 Ngày thành lập Ngành Tổ chức cán bộ, những người làm công tác tổ chức của Đảng
nhận thức sâu sắc hơn vai trò, trách nhiệm, từ đó làm tốt hơn nữa các nhiệm vụ của mình, để Đảng ta
luôn luôn xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp
công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam.

Hà Đăng


Đảng cộng sản Việt Nam ra đời và cương lĩnh đầu tiên của Đảng

Ngày 10/6/2003. Cập nhật lúc 21h 11'
I- BỐI CẢNH LỊCH SỬ NƯỚC TA TRƯỚC NGÀY ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI
l- Việt Nam từ nước phong kiến độc lập trở thành nước thuộc địa
Dân tộc Việt Nam sớm hình thành trong quá trình dựng nước và giữ nước. Với truyền thống đoàn kết và
bất khuất, dân tộc ta từng đánh bại nhiều kẻ thù xâm lược lớn mạnh.
Từ đâu thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương Tây, trong đó có đế quốc Pháp, đã nhòm ngó, xâm lược
nước ta, mở đâu bằng việc khai thông buôn bán và truyền giáo.
Nǎm 1858, đế quốc Pháp vũ trang xâm lược nước ta. Vua quan triều đình nhà Nguyễn từng bước đầu
hàng chúng. Ngày 6 tháng 6 nǎm 1884, triều đình nhà Nguyên đã ký Hiệp ước Patơnốt, hoàn toàn dâng
nước ta cho đế quốc Pháp. Từ đó, Việt Nam trở thành thuộc địa của đế quốc Pháp. Dưới chế độ thống trị
của đế quốc Pháp và tay sai của chúng, xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi.
Về chính tri thực dân Pháp thi hành chính sách chuyên. Mọi quyền hành đêu nằm trong tay người Pháp,
vua quan nhà Nguyễn chỉ đóng vai trò bù nhìn. Chúng thi hành chính sách chia để trị. Chúng chia rẽ giữa
ba dân tộc trên bán đảo Đông Dương, rồi lập ra xứ Đông Dương thuộc Pháp nhằm xoá tên các nước Việt
Nam, Lào, Campuchia trên bản đồ thế giới. Đánh giá về chính sách này, đồng chí Nguyễn ái Quốc đã
viết: "Chủ nghĩa thực dân Pháp không hề thay đổi cái châm ngôn "chia để trị" của nó. Chính vì thế mà

nước An Nam, một nước có chung một dân tộc, chung một dòng máu, chung một phong tục, chung một
lịch sử, chung một truyền thống, chung một tiếng nói, đã bị chia nǎm sẻ bảy. Lợi dụng một cách xảo trá
sự chia cắt ấy, người ta hy vọng làm nguội được tình đoàn kết, nghĩa đồng bào trong lòng người An Nam
và tạo ra những mối xung khắc giữa anh em ruột thịt với nhau. Sau khi đẩy họ chống lại nhau, người ta
lại ghép một cách giả tạo các thành phần ấy lại, lập nên một "Liên bang" gọi là Liên bang Đông Dương"...
Về kinh tế tư bản Pháp không phát triển công nghiệp ở nước ta, mà chỉ mở mang một số ngành trực tiếp
phục vụ cho bộ máy thống trị và khai thác tài nguyên để cung cấp nguyên liệu cho nền công nghiệp của
nước Pháp.
Chính sách độc quyền kinh tế Pháp đã biến Việt Nam thành thị trường của chính quốc, nơi vơ vét tài
nguyên và bóc lột nhân công rẻ mạt.
Bên cạnh sự bóc lột nhân công và cướp đoạt tài nguyên, đất đai, bọn thực dân Pháp còn duy trì chế độ
phong kiến để giúp chúng bóc lột địa tô, lợi tức và các hình thức thuế khoá rất nặng nề.
Các mâu thuẫn xã hội ngày càng trở nên sâu sắc. Mâu thuẫn giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân, với
giai cấp phong kiến địa chủ chưa được giải quyết, thì mâu thuần giữa dân tộc ta với bọn đế quốc Pháp
thống trị và phong kiến tay sai của chúng lại phát sinh, càng đẩy nhanh quá trình cách mạng của nhân
dân ta.
Đánh giá về hiện tượng xã hội nói trên, đồng chí Nguyễn ái Quốc viết: "Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản
đã chuẩn bị đất rồi: chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng
nữa thôi"
Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa của tư bản Pháp trùm lên phương thức sản xuất phong kiến lỗi
thời đã làm phân hoá các giai cấp cũ, tạo ra kết cấu giai cấp mới.
2. Giai cấp địa chủ phong kiến bị phân hoá, giai cấp công nhân ra đời
Giai cấp địa chủ phong kiến trong những thế kỷ trước đã từng giữ vai trò tiến bộ nhất định trong lịch sử.
Từ khi triều đình nhà Nguyễn đầu hàng đế quốc Pháp thì bản thân giai cấp này cũng bị phân hóa. Một bộ
phận can tâm làm tay sai cho đế quốc Pháp để duy trì quyền lợi của bản thân, một bộ phận không ít tiếp
tục truyền thống dân tộc, đề xướng và lãnh đạo các phong trào Vǎn thân, Cần vương chống đế quốc
Pháp xâm lược, khôi phục triều đình phong kiến. Một số trở thành những lãnh tụ của phong trào quần
chúng nông dân, vừa đấu tranh chống đế quốc Pháp, vừa chống lại triều đình bán nước.



Một bộ phận nhỏ chuyển sang kinh doanh theo lối tư bản chủ nghĩa.
Giai cấp tư sản Việt Nam xuất hiện từ trong thời gian Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918), vừa
ra đời đã bị sự chèn ép của tư bản Pháp và phân hoá thành hai bộ phận. Một số ít ôm chân đế quốc,
tham gia vào các cơ quan chính trị và kinh tế của đế quốc Pháp, trở thành lớp tư sản mại bản. Một bộ
phận khác tuy có mâu thuẫn nhất định với tư bản Pháp và triều đình phong kiến, nhưng thế lực kinh tế
yếu ớt, què quặt, phụ thuộc, khuynh hướng chính trị cải lương. Do vậy, giai cấp tư sản dân tộc Việt Nam
tuy có tinh thần yêu nước, chống phong kiến và đế quốc, nhưng họ không có khả nǎng lãnh đạo cách
mạng. Họ chỉ có thể tham gia cuộc đấu tranh ấy trong điều kiện nhất định.
Tầng lớp trí thức và tiểu tư sản là những người vốn được chế độ phong kiến và thực dân đào tạo. Nhưng
do truyền thống yêu nước chi phối, họ khao khát độc lập, tự do, dân chủ, nên cũng bị phân hoá. Một số ít
cam tâm làm tay sai. Số đồng vẫn giữ được khí tiết dù ở hoàn cảnh nào cũng không nguôi lòng cứu
nước. Khi có điều kiện, những trí thức yêu nước thường đóng vai trò truyền bá những tư tưởng mới và là
ngòi pháo của các cuộc đấu tranh chống thực dân, phong kiến.
Giai cấp nông dân khao khát độc lập và ruộng đất, hǎng hái chống đế quốc và phong kiến. Sau phong
trào Vǎn thân, Cần vương, nhất là sau thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên thế (1913), phong trào nông dân
bị phân tán. Nông dân là một lực lượng đông đảo, yêu nước, nhưng không thể tự vạch ra đường lối đúng
đắn để tự giải phóng và không thể đóng vai trò lãnh đạo cách mạng.
Giai cấp công nhân Việt Nam là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa của thực dân
Pháp. Lớp công nhân đầu tiên xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp xây dựng một số cơ sở
công nghiệp, đôn trại và thành phố phục vụ cho cuộc xâm lược và binh định nước ta. Trước Chiến tranh
thế giới lần thứ nhất (1914-1918), giai cấp công nhân còn ít, chỉ 10 vạn người và trình độ còn thấp. Qua
thời kỳ khai thác thuộc địa lần thứ hai (1924-1929), số lượng công nhân chuyên nghiệp đã có 22 vạn
người, chiếm 1,2% số dân. Nếu tính số người làm thuê trong các hãng kinh doanh tư nhân vừa, nhỏ và
số người vô sản, nửa vô sản sống ở thành thị và nông thôn, thì đội quân vô sản ở Việt Nam trước nǎm
1930 có đến hàng triệu người.
Sinh trưởng trong một nước thuộc địa, nửa phong kiến, cũng như nông dân và các tầng lớp lao động
khác, giai cấp công nhân Việt Nam bị ba tầng áp bức, bóc lột của đế quốc, phong kiến và tư sản, phần
lớn xuất thân từ nông dân. Đó là cơ sở khách quan thuận lợi cho hai giai cấp cơ bản này có sự liên minh
tự nhiên từ khi ra đời và phát triển trong quá trình đấu tranh cách mạng.
Ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, không có cơ sở xã hội cho chủ nghĩa công đoàn và chủ nghĩa cải

lương thâm nhập, lũng đoạn từ bên trong, do vậy, giai cấp công nhân Việt Nam) tuy còn trẻ, số lượng ít,
trình độ vǎn hoá, kỹ thuật còn thấp, nhưng ở nước ta đó là giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất tiến
bộ nhất, sống tập trung, có ý thức kỷ luật, có nǎng lực cách mạng triệt để và có tinh thần quốc tế vô sản.
Là con đẻ của một dân tộc anh hùng, lớn lên trong thời đại mới, khi mà giai cấp công nhân Nga dưới sự
lãnh đạo của Đảng cộng sản Bônsêvích đã giành được chính quyền, Quốc tế cộng sản đã thành lập, lại
được lãnh tụ Nguyễn ái Quốc giác ngộ, giai cấp công nhân Việt Nam đã từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ
giai cấp, nhanh chóng phát triển từ tự phát đến tự giác. Tháng 11 nǎm 1922, 600 thợ nhuộm ở Chợ Lớn
(Nam Bộ) đã bãi công. Từ nǎm 1920 đến nǎm 1925, có đến 25 cuộc bãi công trong cả nước. Nổi bật nhất
là cuộc bãi công của công nhân Ba Son nổ ra từ ngày 4 tháng 8 đến ngày 28 tháng 11 nǎm 1925 để "kìm
chân" chiếc tàu J.Misơlê của đế quốc Pháp chuẩn bị đưa quân sang đàn áp cách mạng Trung Quốc.
Cuộc đấu tranh này có tổ chức, chỉ đạo và biểu hiện tinh thần quốc tế cao cả. Tuy vậy, chỉ đến những
nǎm 1928-1929, khi Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội chủ trương "vô sản hoá" mới tạo điều
kiện cho phong trào công nhân chóng trưởng thành, phát triển lên trình độ tự giác.
3- Cuộc khủng hoảng đường lối giải phóng dàn tộc, nhiều đảng phái xuất hiện
Lịch sử nước ta từ khi đế quốc Pháp xâm lược đến những nǎm hai mươi của thế kỷ này đã chứng kiến
hơn 300 cuộc đấu tranh hết sức anh dũng của dân tộc ta chống đế quốc Pháp xâm lược. Nhưng cuối
cùng đều không giành được thắng lợi vì không có một đường lối cứu nước đúng đắn.
Trước kia, chế độ phong kiến khi đang ở giai đoạn hưng thịnh, giai cấp phong kiến đã từng lãnh đạo dân
tộc đánh thắng bọn phong kiến phương bắc lớn mạnh xâm lược. Nhưng khi chế độ phong kiến đã suy
tàn và phải đối phó với một kẻ thù mới, một đế quốc thuộc loại cường quốc thế giới, thì giai cấp phong
kiến bất lực và trở thành phản động.


Thất bại của phong trào Cần vương là do thiếu đường lối đúng, thiếu một tổ chức cách mạng có khả
nǎng dắt dẫn dân tộc đến thắng lợi. Thất bại của phong trào này đánh dấu sự chấm dứt thời kỳ dấu tranh
chống ngoại xâm trong khuôn khổ hệ tư tưởng phong kiến. Thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Thế dưới
sự lãnh đạo của cụ Hoàng Hoa Thám cũng chứng tỏ đó không phải là con đường giành thắng lợi.
Khi các phong trào trên chấm dứt thì cuộc khủng hoảng đường lối cứu nước ở nước ta bộc lộ sâu sắc.
Sau khi từng bước ly khai con đường giải phóng dân tộc theo hệ tư tưởng phong kiến, nhiều người yêu
nước Việt Nam hướng ra nước ngoài, tìm đến nhưng con đường mới để mưu sự nghiệp giải phóng dân

tộc như: con đường Duy Tân của Nhật Bản (1860), con đường Cách mạng tư sản Pháp (1789), con
đường Cách mạng Tân Hợi của Trung Quốc (1911)...
Vào đâu thế kỷ này, nước Nhật từ sau cuộc vãn động Duy Tân đã trở thành nước đế quốc chủ nghĩa, đã
đánh bại Nga Hoàng trong cuôc chiến tranh Nga - Nhật (1905). Cách mạng 1905 ở Nga nổ ra nhưng
không thắng lợi. Cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc (nǎm 1911) đã đánh đổ triều đình Mãn Thanh, lập ra
nước Trung Hoa dân quốc. Những sự kiện trên đây đã ảnh hưởng đến phong trào yêu nước Việt Nam.
ý thức hệ tư sản phương Tây đã thâm nhập vào Việt Nam. Một số sĩ phu tiến bộ tiếp thu tràn lưu tư
tưởng này, mong muốn nước mạnh, dân giàu theo con đường tư bản chủ nghĩa. Họ muốn noi theo con
đường phát triển của Nhật Bản, dựa vào Nhật để đánh Pháp. Tiêu biểu cho khuynh hướng này là hội Duy
Tân do cụ Phan Bội Châu sáng lập, với mục đích cổ động phong trào, tổ chức lực lượng chống Pháp
theo tôn chỉ "mở mang dân trí, chấn hưng dân khí, vun trồng nhân tài". Số khác như các cụ: Lương Vǎn
Can, Nguyễn Quyền... mở trường Đông Kinh Nghĩa Thục ở Hà Nội nhằm cổ động tinh thần yêu nước, bài
xích chính sách cai trị của thực dân Pháp, khuyến khích cải cách, chế diễu lũ phong kiến, cường hào v.v..
Là một nhà yêu nước nhiệt thành, nhưng chủ trương của cụ Phan Chu Trinh khác hẳn với cụ Phan Bội
Châu. Cụ Phan Chu Trinh tiêu biểu cho xu hướng cải cách dân chủ tư sản (1789), phản đối việc vũ trang
bạo động chống Pháp. Cụ nói: "Bất bạo động, bạo động tắc tử, bất vọng ngoại, ngoại vọng tất vong". Đó
là lời tuyên bố của cụ Phan Chu Trinh sau khi đi Nhật về (15-8-1906). Sau này trong thư "thất trảm" gửi
vua Khải Định khi y sang Pháp (1922), cụ Phan Chu Trinh viết: "Mau mau quay đâu lại mà thoái vị đi, đem
chính quyền trả lại cho quốc dân để quốc dân được trực tiếp với chính phủ Pháp mà làm việc đặng mưu
lợi ích sau này". Phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, chống đi phu, nộp thuế ở Trung Kỳ là kết
quả của khuynh hướng tư tưởng tư sản.
Tính chất phong trào dân tộc ở thời kỳ này có chuyển biến khác trước Một số tổ chức yêu nước ra đời
như hội Duy Tân (1904), trường Đông Kinh Nghĩa Thục (1907), hội Đông á đồng minh (1908), Việt Nam
quang phục Hội (1912-1924) v.v.. Song, vì đường lối chính trị của các tổ chức này không rõ ràng, nhất là
không dựa vào quần chúng lao động, mà dựa vào uy tín cá nhân, nên không tạo ra được sự thống nhất
trong những người đề xướng phong trào. Vì vậy, khi những người thủ lĩnh bị đế quốc Pháp bắt thì phong
trào cũng tan rã theo. Cách mạng tháng Mười Nga thành công (1917) đánh dấu bước phát triển mới
trong lịch sử nhân loại. Quốc tế cộng sản, bộ tham mưu của giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức
toàn thế giới được thành lập. ở Trung Quốc, sau phong trào Ngũ Tứ, Đảng cộng sản Trung Quốc ra đời
(1921). ở Pháp, Đảng cộng sản Pháp được thành lập (1920), sự kiện lịch sử này không chỉ là thắng lợi

của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Pháp, mà còn là thắng lợi của các dân tộc thuộc địa Pháp.
Đồng thời, với những chuyển biến trên thế giới, cách mạng Việt Nam lúc này cũng bắt đâu có những
chuyển biến mới.
Đồng chí Nguyễn ái Quốc thay mặt tổ chức những người Việt Nam yêu nước ở Pháp đưa bản "yêu sách
8 điểm" đến Hội nghị các nước đế quốc thắng trận ở thành phố Vécxây (6-1919); đồng chí Nguyễn ái
Quốc bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế cộng sản tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng xã hội Pháp ở thành
Tua và tham gia thành lập Đảng cộng sản Pháp (1920).
Đồng chí Nguyễn ái Quốc được bầu vào đoàn chủ tịch Hội nông dân Quốc tế (l0-1923), và dự Đại hội lần
thứ V Quốc tế cộng sản (1924). Tiếng bom Phạm Hồng Thái mưu sát toàn quyền Méclanh (6-1924) ở
Quảng Châu (Trung Quốc) v.v.. Tất cả như sự báo hiệu bước chuyển biến mới về chất của phong trào
cách mạng Việt Nam.
Tháng 4 nǎm 1921, trên Tạp chí Cộng sản của Đảng cộng sản Pháp, đồng chí Nguyễn ái Quốc viết:
"Người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi
thời cơ đến".


Đúng như nhận xét của đồng chí Nguyễn ái Quốc, từ những nǎm 1920 trở đi, phong trào cách mạng Việt
Nam có những chuyển biến mạnh mẽ. Bên cạnh những đảng cách mạng theo xu hướng tư tưởng tư sản,
đã xuất hiện những tổ chức yêu nước tiếp thu tư tưởng tiến bộ mới. Đặc biệt là chủ nghĩa Mác-Lênin - hệ
tư tưởng của giai cấp công nhân ngày càng có tác động mạnh mẽ vào phong trào yêu nước và phong
trào công nhân.
ở Việt Nam, giai cấp tư sản dân tộc chưa bao giờ giương được ngọn cờ giải phóng dân tộc. Đảng lập
hiến của Bùi Quang Chiêu (1919) về cǎn bản là một tập đoàn địa chủ "tư sản hoá".
Nǎm 1926, họ đưa ra thuyết "Pháp Việt đề huề" thì mặt nạ làm tay sai cho đế quốc Pháp lộ rõ. "Thuyết
trực trị" của Nguyễn Vǎn Vĩnh, "Thuyết bảo hoàng lập hiến" của Phạm Quỳnh đã bộc lộ chân tướng ôm
chân đế quốc Pháp. Xu hướng quốc gia cải lương của nhóm Huỳnh Thúc Kháng cũng ít tiếng vang.
Phong trào đấu tranh trong những nǎm 1923-1927, đòi tự do, dân chủ theo kiểu cách mạng tư sản,
nhưng động lực của nó là những người tiểu tư sản chứ không phải do đảng của giai cấp tư sản lãnh đạo.
Biểu hiện của phong trào này là nhiều hội, đảng yêu nước của thanh niên trí thức kế tiếp nhau ra đời: Tân
Việt thanh niên đoàn - tức Tâm tâm xã (1923-1925), hội Phục Việt (1925), Đảng thanh niên của Trần Huy

Liệu (1926), Thanh niên cao vọng đảng của Nguyễn An Ninh (1926-1929), Tân Việt cách mạng đảng
(1926-1930), Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội (1925-1929), Việt Nam quốc dân đảng (19251930) v.v... Những tổ chức yêu nước cách mạng nói trên đã có tác dụng nhất định trong việc truyền bá tư
tưởng mới, giáo dục lòng yêu nước và tập hợp số quần chúng thanh niên trí thức, tiểu tư sản. Nhưng, họ
chưa vạch ra được một đường lối cách mạng phù hợp với yêu cầu của dân tộc. Tâm tâm xã nêu cao
quyết tâm "khôi phục quyền làm người của người Việt Nam", nhưng "chưa bàn đến chính thể". Tân Việt
cách mạng đang nhận rõ mục đích giải phóng dân tộc, nhưng chưa thấy vị trí lịch sử của giai cấp công
nhân, Việt Nam quốc dân đảng chủ trương chống đế quốc, chống phong kiến, nhưng lại sao chép rập
khuôn chủ nghĩa Tam dân của Tôn Dật Tiên (Trung Quốc).
Nhìn chung, các hội và đảng yêu nước nói trên có tinh thần chống đế quốc, nhưng chưa nhận thức được
xu thế phát triển khách quan của thời đại sau Cách mạng tháng Mười Nga, nên không thấy được giải
phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng nhân dân lao động, giải phóng xã hội, chủ nghĩa yêu nước
chân chính phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế vô sản, chưa thấy độc lập dân tộc phải gắn liền với chế
độ mới để đi đến xoá bỏ mọi sự bất công và áp bức bóc lột. Những người trong các tổ chức này cũng
không thấy hết bản chất của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc, không nhận thức được vai trò lãnh
đạo của giai cấp công nhân, vai trò của quần chúng nhân dân, trước hết là nông dân trong cách mạng.
Bởi những hạn chế đó, những người yêu nước trong các tổ chức này chưa thể xác định được một đường
lối cách mạng đúng đắn.
Riêng Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội do đồng chí Nguyễn ái Quốc sáng lập, là một tổ
chức cách mạng, phần lớn gồm những người trí thức, tiểu tư sản, sớm tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin,
sớm có khuynh hướng cộng sản chủ nghĩa. Đảng Tân Việt, sau những nǎm 1926-1927 đã chịu ảnh
hưởng về đường lối của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội.
Cuộc đấu tranh về ý thức hệ và về đường lối cứu nước giữa Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí
Hội và các tổ chức yêu nước nói trên đã diễn ra từ những ngày đầu đồng chí Nguyễn ái Quốc trực tiếp
chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập đảng vô sản kiểu mới ở Việt Nam, từng
bước khắc phục sự khủng hoảng về đường lối cứu nước.
II- ĐỒNG CHÍ NGUYỄN ÁI QUỐC TRUYỀN BÁ CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN CHUẨN BỊ THÀNH LẬP
ĐẢNG
l- Đồng chí Nguyễn ái Quốc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin
Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, nhiều nhà yêu nước đương
thời tiếp tục con đường cứu nước theo lối cũ, thì đồng chí Nguyễn ái Quốc đã ra đi tìm đường cứu nước

theo phương hướng mới.
Gần mười nǎm bôn ba khắp các châu lục (1911-1920), Người đến những nước thuộc địa và những nước
đế quốc như Anh, Mỹ, Pháp... quan sát, nghiên cứu, suy nghĩ, đã phát hiện một chân lý: chủ nghĩa tư
bản, chủ nghĩa đế quốc, thực dân là cội nguồn của mọi đau khổ của giai cấp công nhân với nhân dân lao
đồng ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa...
Dưới ánh sáng Cách mạng tháng Mười, Đề cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin và ảnh


hưởng của cuộc đấu tranh thành lập Đảng công sản Pháp..., chủ nghĩa Mác - Lênin, chân lý cách mạng
của thời đại đã sớm được khẳng định trong nhận thức tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc.
Tháng 12 nǎm 1920, tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng xã hội Pháp họp ở Tua, đồng chí Nguyễn ái Quốc
đã bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế cộng sản và chủ trương thành lập Đảng cộng sản Pháp. Giải
thích việc làm đầy ý nghĩa đó, đồng chí Nguyễn ái Quốc viết: "Đệ tam Quốc tế nói sẽ giúp đỡ các dân tộc
bị áp bức giành lại tự do và độc lập của họ. Còn Đệ nhị Quốc tế không hề nhắc đến vận mạng các thuộc
địa. Vì vậy, tôi đã bỏ phiếu tán thành Đệ tam Quốc tế. Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi,
đây là tất cả những điều tôi muốn."
Sự kiện này đánh dấu bước chuyển biến quyết định trong tư tưởng và lập trường chính trị của đồng chí
Nguyễn ái Quốc.
Từ đó Người xác định con đường giải phóng đúng đắn cho dân tộc Việt Nam là: giải phóng giai cấp vô
sản mới thực sự giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp cua chủ
nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới .
Từ khi trở thành người cộng sản, đồng chí Nguyễn ái Quốc đã xúc tiến mạnh mẽ việc truyền bá chủ
nghĩa Mác - Lênin vào phong trào giải phóng dân tộc và phong trào vô sản ở các nước thuộc địa, trong
đó có Việt Nam.
Cuối nǎm 1921, tại Đại hội lân thứ nhất của Đảng cộng sản Pháp, đồng chí Nguyễn ái Quốc đã trình bày
dự thảo nghị quyết về vấn đề "chủ nghĩa cộng sản và thuộc địa", và kiến nghị thành lập Ban nghiên cứu
thuộc địa của Đảng. Nǎm 1922, Ban nghiên cứu thuộc địa của Đảng cộng sản Pháp được thành lập
Đồng chí Nguyễn ái Quốc được cử làm trưởng tiểu ban nghiên cứu về Đông Dương. Với cương vị này,
đồng chí đã tích cực tuyên truyền, giáo dục và giới thiệu cho Đảng cộng sản Pháp nhiều chiến sĩ cách
mạng của các nước thuộc địa ở châu á châu Phi...

Cũng nǎm 1921, nhờ sự giúp đỡ của Đảng cộng sản Pháp, Người đã cùng với một số chiến sĩ cách
mạng ở các nước Angiêri, Mađagátxca, Xênêgan, Tuynidi, Marốc, Đahômây v.v..sáng lập ra Hội liên hiệp
thuộc địa. ở Pari, trong đó Hội người Việt Nam yêu nước ở Pháp làm nòng cốt. Thông qua tổ chức này
và báo Người cùng khổ, diễn đàn của các dân tộc bị áp bức, chủ nghĩa Mác - Lênin đã đến với các dân
tộc thuộc địa, đồng thời tình hình các nước thuộc địa đã đến với nhân dân Pháp. Cùng với báo Người
cùng khổ mà đồng chí Nguyễn ái Quốc làm chủ nhiệm, kiêm chủ bút và quản lý, Người còn viết nhiều bài
đǎng trên các báo Nhân đạo (L'humanité), cơ quan Trung ương của Đảng cộng sản Pháp, Đời sống thợ
thuyền (La Vie Ouvrière), tiếng nói của giai cấp công nhân, Tạp chí Cộng sản (La Revue communiste), cơ
quan lý luận của Đảng cộng sản Pháp v.v.. Hầu hết bài viết của Người đều tập trung lên án chủ nghĩa
thực dân.
Nǎm 1925, được sự giúp đỡ của những người cộng sản Pháp, tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp
của đồng chí Nguyễn ái Quốc viết bằng tiếng Pháp được xuất bản lần đầu tiên ở Pari. Tư tưởng, quan
điểm cơ bản của Người về chiến lược và sách lược cách mạng thuộc địa đã bước đầu thể hiện trong tác
phẩm.
Bản án chế độ thực dân Pháp tố cáo trước nhân dân Pháp và thế giới những tội ác của bọn thực dân
không chỉ ở Việt Nam, Angiêri mà ở khắp các thuộc địa. Bằng biểu tượng "con đỉa hai vòi", Nguyễn ái
Quốc đã làm cho người đọc thấy rằng: chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của giai cấp
vô sản và nhân dân lao động bị áp bức, bị bóc lột ở các nước chính quốc và các dân tộc thuộc địa. Bản
án chế độ thực dân Pháp đã góp phần vào việc thiết lập sự liên minh giữa cách mạng vô sản ở chính
quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở các thuộc địa, phải thực hiện sự liên minh chật chẽ với nhau để
chống kẻ thù chung, vì "chỉ có sự hợp tác này mới bảo đảm cho giai cấp công nhân quốc tế giành được
thắng lợi cuối cùng".
Nhân dân các dân tộc thuộc địa có khả nǎng cách mạng to lớn. Phải làm cho các dân tộc thuộc địa từ
trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một Liên minh
phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản".
Bản án chế đô thực dân. Pháp đã phê phán thái độ "cầu cạnh xin xỏ thay đổi quốc tịch" của một số người
mang tư tưởng cải lương tư sản, đồng thời đề cao tinh thần tự lực, tự cường, tự mình giải phóng cho
mình: "công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em" và
hướng cách mạng thuộc địa phát triển theo con đường cách mạng của Quốc tế cộng sản.



Bản án chế độ thực dân Pháp là tác phẩm lý luận đầu tiên của cách mạng nước ta, góp phần truyền bá
chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam. Nhờ tác phẩm đó và các bài viết của đồng chí Nguyễn ái Quốc,
nhân dân ta, trước hết là những người trí thức tiểu tư sản yêu nước, tiến bộ đã hướng về và tiếp thụ chủ
nghĩa Mác - Lênin.
Tháng 6 nǎm 1923, đồng chí Nguyễn ái Quốc rời nước Pháp đến Mátxcơva để tham dự Hội nghị nông
dân quốc tế tân thứ nhất (10-1923); đồng thời trực tiếp học tập, nghiên cứu kinh nghiệm Cách mạng
tháng Mười Nga và chủ nghĩa Lênin. Ngày 17-6-1924, đồng chí được Trung ương Đảng cộng sản Pháp
uỷ nhiệm tham gia Đại hội lần thứ V Quốc tế cộng sản. Sau đó, đồng chí còn tham gia các đại hội Quốc
tế công hội đỏ, Quốc tế phụ nữ, Quốc tế thanh niên, Quốc tế cứu tế đỏ Tại các Đại hội quốc tế nói trên,
đồng chí Nguyễn ái Quốc tiếp tục làm rõ những quan điểm của mình về vai trò lịch sử của giai cấp vô sản
thuộc địa, về mối quan hệ giữa phong trào cách mạng ở thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc và
nêu rõ sự cần thiết phải thủ tiêu hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc trước khi xoá bỏ chế độ thối
nát này trên toàn thế giới.
2. Đồng chí Nguyễn ái Quốc trực tiếp chuẩn bị thành lập Đảng
Giữa tháng 12 nǎm 1924, với tư cách là uỷ viên Bộ phương Đông của Quốc tế cộng sản, trực tiếp phụ
trách Cục phương Nam, đồng chí Nguyễn ái Quốc đã từ Liên Xô đến Quảng Châu (Trung Quốc) để hoạt
động, xây dựng phong trào và đào tạo cán bộ cách mạng cho một số nước ở Đông Nam á. Tại đây, đồng
chí đã cùng với các nhà lãnh đạo cách mạng Trung Quốc, Triều Tiên, ấn Độ, Thái Lan, Inđônêxia,
Malaixia, v.v..sáng lập ra Hôi liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở á - Đông.
Tháng nǎm 1925, đồng chí Nguyễn ái Quốc thành lập Việt Nam thanh niên cách mang đồng chí Hội,
trong đó có tổ chức trung kiên là cộng sản đoàn làm nòng cốt để trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào Việt Nam, chuẩn bi điều kiện cho việc thành lập chính đảng của giai cấp vô sản Việt Nam.
Người đã trực tiếp mở nhiều lớp huấn luyện, đào tạo được hơn 200 cán bộ cách mạng. Trong số này,
nhiều người được chọn đi học trường Đai học phương Đông ở Liên Xô (Trần Phú, Lê Hông Phong, Hà
Huy Tập, v.v..), một số được cử Vào học quân sự ở trường Hoàng Phố (Trung Quốc) như Trương Vân
Lệnh, Phùng Chí Kiên. Còn phần lớn đưa về nước hoạt động. Người cho ra tờ báo Thanh niên làm cơ
quan tuyên truyền của Hội.
Đầu nǎm 1927, cuốn Đường cách mệnh gồm những bài giảng của Người trong các lớp đào tạo cán bộ ở
Quảng Châu, được Bộ tuyên truyền của Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở á - Đông xuất bản.
Trong tác phẩm quan trọng này, đồng chí Nguyễn ái Quốc nêu ra những tư tưởng cơ bản về chiến lược

và sách lược của cách mang Việt Nam.
Đường cách mệnh đề cập đầu tiên đến vấn đề tư cách người cách mang, nhắc nhở cán bộ phải vị công
vong tu, nói thì phải làm,... giữ chủ nghĩa cho vững,... ít lòng tham muốn về vật chất,... hy sinh,... giữ bí
mật,... phục tùng đoàn thể v.v..
Tác phẩm nêu ra ba loai tư tưởng về cách mạng và chia ra hai thứ cách mạng là "dân tộc cách mạng" và
"thế giới cách mạng", rồi khẳng định tuy có khác nhau "nhưng 2 thứ cách mệnh ấy vẫn có quan hệ với
nhau". "Tất cả dân cày, người thợ trong thế giới bất kỳ nước nào, nòi nào đều liên hợp nhau lại như anh
em một nhà, để đạp đổ tất cả tư bản trong thế giới, làm cho nước nào, dân nào cũng được hạnh phúc,
làm cho thiên hạ đại đồng - ấy là thế giới cách mệnh".
Tác phẩm phân tích những hạn chế của cách mạng tư sản ở Mỹ (1776), ở Pháp (1789) và khẳng định chỉ
có Cách mạng tháng Mười Nga là cuộc cách mạng triệt để.
Đường cách mệnh chỉ rõ đối tượng đấu tranh của cách mạng Việt Nam là tư bản đế quốc chủ nghĩa,
phong kiến địa chủ; đồng thời, chỉ rõ động lực và lực lượng cách mạng: "công nông là gốc cách mệnh
còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ... chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông". Trong khi kêu gọi
sự đồng tâm, nhất trí làm cách mạng, giải phóng dân tộc, tác phẩm đã phê phán hành động ám sát cá
nhân và những khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa khác chỉ xúi dân bạo động mà không bày cách tổ chức;
hoặc làm cho dân quen tính ỷ lại mà quên tính tự cường.
Quần chúng một khi đã được giác ngộ, có tổ chức và lãnh đạo sẽ là lực lượng cách mạng vô địch: "dân
khí mạnh thì quân lính nào súng ống nào cũng không chống lại".
Đường cách mệnh chỉ rõ cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Tác phẩm còn


nhấn mạnh ý thức tự lực tự cường, muốn người ta giúp cho thì mình phải tự giúp mình trước.
Đồng chí Nguyễn ái Quốc đã thấy khả nǎng cách mạng thuộc địa có thể giành thắng lợi trước, không thụ
động chờ đợi cách mạng vô sản chính quốc thắng lợi để được giải phóng.
Người viết: "An Nam dân tộc cách mệnh thành công thì tư bản Pháp yếu, tư bản Pháp yếu thì công nông
Pháp làm giai cấp cách mệnh cũng dễ" .
Tác phẩm khẳng định: muốn đưa cách mạng đến thắng lợi, trước hết phải có đảng cách mạng. Đảng ấy
phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm kim chỉ nam: "Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ
nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin" Tác phẩm đã giới thiệu các

tổ chức chính trị quốc tế, các hình thức làm ǎn hợp tác và hướng nhân dân ta tham gia các tổ chức đó.
Đường cách mệnh chỉ rõ: "Ai làm cách mệnh trong thế giới đều là đồng chí của dân An Nam".
Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội và tác phẩm Đường cách mệnh đã trực tiếp chuẩn bị về tư
tưởng, lý luận chính trị và tổ chức cho việc thành lập Đảng vô sản kiểu mới ở Việt Nam.
3- Vai trò của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội
Những nǎm trước, các cuộc đấu tranh của công nhân đòi tự do dân chủ, đòi cải thiện đời sống, tuy đã có
ý thức giai cấp nhưng vẫn nằm trong phong trào dân tộc nói chung, Công nhân đấu tranh đòi thả nhà
cách mạng Phan Bội Châu, để tang nhà chí sĩ Phan Chu Trinh, hay đình công đòi thả Nguyễn An Ninh
(1925-1926), thể hiện lập trường tư tưởng của họ chủ yếu là yêu nước, giải phóng dân tộc. Những nǎm
1928-1929, khi Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội thực hiện chủ trương "vô sản hoá" thì
phong trào công nhân đã có những bước phát triển rõ rệt. Những cuộc đình công hay chống đi phu đi lính
vẫn nhằm vào bọn tư bản thực dân và tay sai của chúng, nhưng đã có tổ chức, có kỷ luật hơn.
Phản ánh bước phát triển này, đồng chí Tôn Đức Thắng, một chiến sĩ cách mạng vô sản đã từng kéo cờ
phản chiến trên hạm đội của Pháp ở Hắc Hải để bảo vệ Cách mạng tháng Mười Nga, đã viết: Từ chỗ
phong trào rời rạc, nhờ ảnh hưởng của cuốn Bản án chế độ thực dân Pháp, báo Người cùng khổ, và mấy
tờ Việt Nam hồn, mà bước đâu lan rộng, bước đâu có tổ chức, để đầu nǎm 1927 công nhân đi vào phong
trào Thanh niên cách mạng đồng chí Hội một cách sâu rộng.
Từ hình thức các hội hữu ái, tương tế, giai cấp công nhân đã tự tổ chức ra công hội. Từ công hội nhà
máy Ba Son (1925) đã ra đời các công hội nhà máy xe lửa Trường Thi (Vinh - Nghệ An), công hội nhà
máy xi mǎng Hải Phòng, công hội nhà máy dệt Nam Định, công hội các mỏ than Mạo Khê, Hồng Gai v. v..
Ngày 28 tháng 4 nǎm 1929, Tổng công hội Bắc Kỳ được thành lập. Tiếp đó, tháng 10 nǎm 1929, Tổng
công hội Nam Kỳ cũng ra đời.
Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội cũng hoạt động và phát huy ảnh hưởng mạnh mẽ trong
phong trào nông dân và có vai trò quyết định trong việc làm cho phong trào nông dân ngày càng xích lại
gần phong trào công nhân.
Thực tế lịch sử Việt Nam chứng minh rằng, trong cuộc đấu tranh giành quyền lãnh đạo cách mạng giữa
giai cấp công nhân và giai cấp tư sản, phần quyết định là giai cấp nào nắm được nông dân. Cương lĩnh
của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội đã đề ra: "Tịch ký và đem về công tất cả ruộng đất của
tụi đồn điền nhà chung và quý tộc, vua chúa. Tịch ký và đem về công tất cả ruộng đất của địa chủ trên
100 mẫu. Đất ruộng tịch ký về phân phối cho dân cày cày cấy chung". Khẩu hiệu đấu tranh của Việt Nam

thanh niên cách mang đồng chí Hội có nói: "Miễn thuế ruộng nǎm mất mùa" "Đất bồi, đất hoang về dân
cày. Phản đối sự cưỡng chiếm những đất ấy", "Thực hành 1/4 lúa ruộng cho địa chủ, đồn điền", "miễn
góp lúa ruộng nǎm mất mùa", "Đóng góp tạp dịch bình đẳng, phản đối sự miễn sưu, miễn dịch cho quý
tộc và nhà giàu" Trái lại, tất cả các đảng và tổ chức yêu nước khác, kể cả Việt Nam quốc dân Đảng,
ngoài chủ trương giải phóng dân tộc đều không có chủ trương đấu tranh cho quyền lợi của công nhân và
nông dân.
Đánh giá sự trưởng thành của phong trào công nông trong những nǎm 1928-1929, Dự thảo Luận cương
chính trị (l0-1930) của Đảng viết: "Vô sản giai cấp Đông Dương tuy chưa đông đúc, nhưng số thợ thuyền
càng ngày càng thêm, nhứt là thợ đồn điền. Sự đấu tranh của thợ thuyền càng ngày càng hǎng hái. Dân
cày cũng đã tỉnh dậy chống đế quốc và địa chủ rất kịch liệt. Những cuộc bãi công trong nǎm 1928-1929,
những cuộc đấu tranh rất dữ dội của thợ thuyền và dân cày trong nǎm nay (1930) đã chứng tỏ rằng, sự
đấu tranh của giai cấp ở Đông Dương ngày càng bành trướng. Điều đặc biệt và quan trọng nhất trong
phong trào cách mạng ở Đông Dương là sự đấu tranh của quần chúng công nông có tính chất độc lập rõ


×