Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Pháp luật đại cương Ôn tập thi kết thúc môn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.61 KB, 20 trang )

Pháp luật đại cương
Bản chất và vai trò của pháp luật:
* Bản chất của Pháp luật:
-

-

-

-

-

Bản chất của giai cấp của pháp luật : pháp luật là những
quy tắc thể hiện ý chí của giai cấp thống trị. Giai cấp nào
nắm quyền lực nhà nước thì trước hết ý chí của giai cấp đó
được phản ánh trong pháp luật.
Ý chí của giai cấp thống trị thể hiện trong pháp luật không
phải là sự phản ánh một cách tùy tiện. Nội dung của ý chí
này phải phù hợp với quan hệ kinh tế xã hội của nhà nước.
Tính giai cấp của pháp luật còn thể hiện ở mục đích của nó.
Mục đích của pháp luật là để điều chỉnh các quan hệ xã hội
tuân theo một cách trật tự phù hợp với ý chí và lợi ích của
giai
cấp
nắm
quyền
lực
của
nhà
nước.


* Vai trò của pháp luật:
Pháp luật là phương diện để nhà nước quản lý mọi mặt đời
sống xã hội. Duy trì thiết lập củng cố tăng cường quyền lực
nhà nước.
Pháp luật là phương tiện thực hiện và bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của mỗi công dân. Pháp luật góp phần tạo dựng
mối quan hệ mới tăng cường mối quan hệ bang giao giữa
các quốc gia.
1


-

-

-

Bảo vệ và quyền lợi ích hợp pháp của mọi người dân trong
xã hội
Pháp luật được xây dựng dựa trên hoàn cảnh lịch sử địa lý
của dân tộc
Nhà nước thực hiện nghĩa vụ của mình trong việc bảo vệ
các quyền của công dân, ngăn ngừa những biểu hiện lộng
quyền, thiếu trách nhiệm đối với công dân. Đồng thời đảm
bảo cho mỗi công dân thực hiện đầy đủ quyền và các nghĩa
vụ đối với nhà nước và các công dân khác.
 Như vậy, bằng việc quy định trong pháp luật các
quyền và nghĩa vụ của công dân mà pháp luật trở thành
phương tiện để công dân thực hiện và bảo vệ các quyền
và lợi ích hợp pháp của mình khỏi sự xâm hại của người

khác, kể cả từ phía nhà nước và các cá nhân có thẩm
quyền trong bộ máy nhà nước.
Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức:
Đạo đức được hình thành trong quá trình giáo dục của xã
hội, gia đình và mọi mối quan hệ khác. Thông thường mang
dấu ấn của nền văn quá của các dân tộc, và của riêng từng
quốc gia, mang sắc thái tôn giáo khác nhau.Đặc trưng của
đạo đức là mang tính cá nhân, nó điều chỉnh hành vi của
từng người tham gia vào hoạt động XH. Các hành xử của
từng cá thể đều chịu ảnh hưởng quy ước xã hội nơi họ sinh
tồn, mọi mức độ đều được đánh giá qua các hoạt động tự
nguyện
mang
tính
trào
lưu.
Còn pháp luật là một hệ thống các quy tắc, chế định mang
tính nâng cao của các ảnh hưởng của đạo đức xã hội, và
theo nó là bắt buộc các thành viên trong XH đó phải tuân
theo.
Về một khía cạnh nào đó thì Đạo đức là gốc của Pháp luật.
Những định chế được tạo nên từ những quy ước XH có
nguồn
gốc
từ
đạo
đức.
Luật pháp khác ở chỗ nó được thể hiện qua các ràng buộc
XH mà xã hội có tổ chức càng cao, quan hệ càng rộng, thì
2



-

-

-

-

-

-

-

các định chế bắt buộc là luật pháp càng phức tạp. Thậm chí
có những chi tiết vượt ra ngoài tầm ảnh hưởng của đạo đức
truyền thống.
Ví dụ: Một dân tộc thiểu số (sống hợp quần với một số
lương người nhỏ trong một khu vực biệt lập thì ở đấy không
cần đến luật pháp) các quy ước người ta hiểu theo giá trị
đạo
đức
gia
đình
hoặc
dòng
tộc).
Nhưng khi nó là một quốc gia gồm nhiều dân tộc thì luật

pháp phải tổng hợp các quy ước XH của các nơi đó để nâng
lên thành quy ước chung của XH có điều hành bằng bộ máy
chung nhà nước.
Mọi hành vi của cá thể trong xã hôi của Nhà nước đó, phải
tuân thủ pháp luật chung và đồng thời phải duy trì đạo đức
theo truyền thống của tộc mình.
Chẳng hạn, các loại tôn giáo cùng chung sống trong một
đất nước, không thể lấy đạo đức tôn giáo mình để bắt người
khác tuân theo.
Do vậy, trong chừng mực nào đó Luật pháp không hẳn đã
là đại diện cho đạo đức. Nếu so sánh sẽ khập khiễng và mối
quan hệ cũng sẽ không nhiều khi hành xử trên công
đường !
Đạo đức và pháp luật có mối liên hệ khăng khít với nhau.
Pháp luật sẽ bị vi phạm nếu xã hội có môi trường đạo đức
tha hóa. Ngược lại, pháp luật không nghiêm chỉnh cũng ảnh
hưởng xấu đến đời sống môi trường đạo đức.
Trong xã hội có giai cấp: thì pháp luật thể hiện ý chí của
giai cấp cầm quyền, do vậy giai cấp cầm quyền tiến bộ thì
luật pháp cũng tiến bộ, vì tính nhân văn, nhân đạo thống
nhất với đạo đức. Trong xã hội càng phát triển thì những
chuẩn mức càng được luật pháp hóa. Vì vậy mà giữa đạo
đức càng chặt chẽ hơn.
Trong xã hội có giai cấp đối kháng: khi giai cấp cầm quyền
tiến bộ thì luật pháp đề ra cũng phù hợp với xã hội. Hoặc
ngược lại, khi giai cấp cầm quyền mà bảo thủ lạc hậu thì
luật pháp nó chỉ bảo vệ lợi ích cho giai cấp thống trị.
3



Mối quan hệ giữa pháp luật và nhà nước:
-

-

-

-

-

-

Nhà nước là một tổ chức quyền lực chung của xã hội bao
gồm một lớp người tách ra khỏi quá trình sản xuất để
chuyên thực thi quyền lực nhà nước nhằm quản lý xã hội
phục vụ lợi của giai cấp thống trị và lợi ích chung của toàn
xã hội
Pháp luật là hệ thống quy tắc xử sự chung mang tính chất
bắt buộc chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận
nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội theo mục
tiêu, định hướng cụ thể
Pháp luật và nhà nước là hai thành tố của thượng tầng
chính trị-pháp lý, luôn có mối quan hệ khăng khít, không
thể tách rời. Cả hai hiện tượng pháp luật và Nhà nước đều
có chung nguồn gốc cùng phát sinh và phát triển.
Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị,
nhưng quyền lực đố chỉ có thể được triển khai và phát huy
có hiệu quả trên cơ sở của pháp luật. Pháp luật là hệ thống
các quy tắc ứng xử do nhà nước ban hành, luôn phản ánh

những quan điểm và đường lối chính trị của lực lượng nắm
quyền lực nhà nước và bảo đẩm cho quyền lực đó được
triển khai nhanh, rộng trên quy mô toàn xã hội. Với ý nghĩa
đó nhà nước không thể tồn tại và phát huy quyền lực nếu
thiếu pháp luật; ngược lại pháp luật chỉ phát sinh, tồn tại và
có hiệu lực khi dựa trên cơ sở sức mạnh của quyền lực nhà
nước.
Vì vậy không thể nói pháp luật đứng trên hay nhà nước
đứng trên pháp luật. Đồng thời khi xem xét các vấn đề nhà
nước và pháp luật, phải đặt chúng trong mối quan hệ lẫn
nhau.
Khi xem xét mối quan hệ giữa pháp luật và nhà nước phải
xem xét đến một khía cạnh thứ hai, đó là cần xuất phát từ
tính chất đặc thù về giá trị xã hội của mỗi hiện tượng để
4




luật giải. Pháp luật mặc dù do nhà nước banh hành, nhưng
khi nó được công bố thì nó trở thành một hiện tượng có sức
mạnh công khai, bắt buộc đối với mọi chủ thể, trong đó có
nhà nước. Nhà nước nói chung và mỗi cơ quan của nó nói
riêng đều phải tôn trọng pháo luật. Nhà nước có quyền ban
hành pháp luật, nhưng pháp luật bên cạnh việc thể hiện
bản chất giai cấp còn phản ánh những nhu cầu khách quan
phổ biển cúa các mối quan hệ xã hội.
Vì vậy nhà nước cũng không thể ban hành pháp luật 1 cách
chủ quan, duy ý chí không tính đề những nhu cầu tâm lý xã
hội. Khi một bộ phận của pháp luật không còn phù hợp với

thực tiễn nữa thì nhà nước phải tiến hành sửa đổi bổ sung
hoặc ban hành hủy bỏ để ban hành pháp luật mới.
2. Phân biệt khách thể của quan hệ pháp luật và
khách thể của vi phạm pháp luật
Khách thể của quan hệ pháp luật là những "giá trị" mà
các chủ thể hướng đến, mong muốn đạt được khi tham
gia vào một quan hệ pháp luật. VD: trong quan hệ mua
bán tài sản dân sư, khách thể là quyền sở hữu tài sản.
- Khách thể của vi phạm pháp luật là những quan hệ xã
hội được pháp luật bảo vệ nhưng lại bị hành vi vi phạm
xâm hại.
VD: Tội giết người có khách thể là sự an toàn tính mạng,
quyền sống của công dân được pháp luật bảo vệ.
Như vậy, cần chỉ ra sự khác nhau giữa hai cái này:
+ Một bên là cái mà các chủ thể hướng đến khi tham gia
vào quan hệ pháp luật một bên là bản thân cái quan hệ
pháp luật đấy.
+ Khách thể của vi phạm pháp luật thì bị hành vi phạm
xâm hại,...
5


-

3. Pháp nhân là gì, các loại hình pháp nhân:
Pháp nhân là một định nghĩa luật pháp về một thực thể
mang tính hội đoàn, thường dùng trong luật kinh tế.
Về pháp nhân có rất nhiều quan điểm và học thuyết như:
có thuyết cho pháp nhân là một chủ thể giả tạo, có thuyết
cho nó là một chủ thể thực sự...vv nhưng quan trọng

nhất pháp nhân chỉ ra được các thực thể hội đoàn có những
biểu hiện tương tự như thể nhân. pháp nhân có nhiều định
nghĩa, song theo pháp luật Việt Nam thì pháp nhân là
những tổ chức có tư cách pháp lý độc lập để tham gia các
hoạt động pháp lý khác như kinh tế, xã hội...

Điều 100. Các loại pháp nhân
1. Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân.
2. Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội.
3. Tổ chức kinh tế.
4. Tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ
chức xã hội - nghề nghiệp.
5. Quỹ xã hội, quỹ từ thiện.
6. Tổ chức khác có đủ các điều kiện quy định tại Điều
84 của Luật Dân Sự 2005.

Chương 3 Thực hiện PL, Vi phạm PL và pháp lí
I.

Khái niệm, các hình thức và các giai đoạn thực
hiện pháp luật
1. K/n thực hiện pháp luật
- THPL là quá trình hoạt động có mục đích làm cho
những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở
thành hành vi hợp pháp của các cá nhân , tổ chức.

6


2.

-

-

Các hình thức thực hiện pháp luật
Các hình thức thực hiện pháp luật là: tuân thủ pháp
luật,thi hành pháp luật,sử dụng pháp luật, áp dụng
pháp luật.
Tuân thủ pháp luật là một hình thức thực hiện pháp
luật,trong đó chủ thể pháp luật kiềm chế không tiến
hành những hoạt động mà pháp luật ngăn cấm.

VD: Không buôn bán chất ma túy. (những điều không được
làm )
-

Thi hành pháp luật là hình thức thực hiện pháp
luật,trong đó chủ thể pháp luật phải thực hiện những
hành vi nhất định nhằm thi hành các nghĩa vụ pháp lý
của mình bằng hành động tích cực.

VD: người kinh doanh phải có nghĩa vụ đóng thuế cho nhà
nước.
-

Sử dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật,
trong đó chủ thể pháp luật phải thực hiện quyền chủ
thể của mình.

VD: cán bộ có thẩm quyền cấp đất sai đối tượng khi phát

hiện cần phải thực hiện quyền khiếu nại tố cáo để người có
thẩm quyền cấp đất sai ấy phải thực hiện đúng nghĩa vụ
của họ.
-

Áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật,
trong đó nhà nước thông qua các cơ quan có thẩm
quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các chủ thể
pháp luật thực hiện những qui định của pháp luật.

VD: cơ quan có thẩm quyền ra quyết định xử phạt vi phạm
hành chính đối với chủ thể đã có hành vi phạm hành chính.

7


II.

Vi phạm pháp luật
1. K/n VPPL :
- Vi phạm pháp luật là hành vi trái luật và có lỗi
do chủ thể có năng lực hành vi thực hiện làm xâm hại
đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
2. Các yếu tố cấu thành VPPL :

a. Mặt khách quan của vi phạm pháp luật là những
dấu hiệu biểu hiện ra bên ngoài thế giới khách quan của vi
phạm pháp luật. Nó bao gồm các yếu tố: hành vi trái pháp
luật, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả
giữa hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã hội, thời gian,

địa điểm, phương tiện vi phạm.
-

Hành vi trái pháp luật hay còn gọi là hành vi nguy
hiểm cho xã hội là hành vi trái với các yêu cầu của
pháp luật, nó gây ra hoặc đe doạ gây ra những hậu
quả nguy hiểm cho xã hội.

-

Hậu quả nguy hiểm cho xã hội: là những thiệt hại
về người và của hoặc những thiệt hại phi vật chất khác
do hành vi trái pháp luật gây ra cho xã hội.

-

Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả
nguy hiểm cho xã hội tức là giữa chúng phải có mối
quan hệ nội tại và tất yếu với nhau. Hành vi đã chứa
đựng mầm mống gây ra hậu quả hoặc là nguyên nhân
trực tiếp của hậu quả nên nó phải xảy ra trước hậu
quả về mặt thời gian; còn hậu quả phải là kết quả tất
yếu của chính hành vi đó mà không phải là của một
nguyên nhân khác.
Thời gian vi phạm pháp luật là giờ, ngày, tháng,
năm xảy ra vi phạm pháp luật.
Địa điểm vi phạm pháp luật là nơi xảy ra vi phạm
pháp luật.
Phương tiện vi phạm pháp luật là công cụ mà chủ
thể sử dụng để thực hiện hành vi trái pháp luật của

mình.

-

8




Khi xem xét mặt khách quan của vi phạm pháp luật thì
hành vi trái pháp luật luôn là yếu tố bắt buộc phải xác
định trong cấu thành của mọi vi phạm pháp luật, còn
các yếu tố khác có bắt buộc phải xác định hay không
là tuỳ từng trường hợp vi phạm. Có trường hợp hậu
quả nguy hiểm cho xã hội và mối quan hệ nhân quả
giữa hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã hội cũng là
yếu tố bắt buộc phải xác định, có trường hợp địa điểm
vi phạm cũng là yếu tố bắt buộc phải xác định.

b. Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật là trạng thái
tâm lý bên trong của chủ thể khi thực hiện hành vi trái
pháp luật. Nó bao gồm các yếu tố: lỗi, động cơ, mục đích vi
phạm pháp luật.
-

Lỗi là trạng thái tâm lý hay thái độ của chủ thể đối với
hành vi của mình và đối với hậu quả của hành vi đó gây ra
cho xã hội được thể hiện dưới hai hình thức: cố ý hoặc vô ý.
+ Lỗi cố ý lại gồm 2 loại: cố ý trực tiếp và cố ý gián
tiếp.

• Cố ý trực tiếp là lỗi của một chủ thể khi thực
hiện hành vi trái pháp luật nhận thức rõ hành vi
của mình là trái pháp luật, thấy trước được hậu
quả của hành vi đó và mong muốn cho hậu quả
đó xảy ra.

Cố ý gián tiếp là lỗi của một chủ thể khi thực
hiện một hành vi trái pháp luật nhận thức rõ hành
vi của mình là trái pháp luật, thấy trước được hậu
quả của hành vi đó, tuy không mong muốn song
có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra.
+ Lỗi vô ý cũng gồm 2 loại: vô ý vì cẩu thả và vô ý vì
quá tự tin
• Vô ý vì cẩu thả là lỗi của một chủ thể đã gây ra
hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng do cẩu thả
nên không thấy trước hành vi của mình có thể
gây ra hậu quả đó, mặc dù có thể thấy trước và
phải thấy trước hậu quả này.

9


Vô ý vì quá tự tin là lỗi của một chủ thể tuy
thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu
quả nguy hiểm cho xã hội song tin chắc rằng hậu
quả đó sẽ không xảy ra hoặc cỏ thể ngăn ngừa
được nên mới thực hiện và có thể gây ra hậu quả
nguy hiểm cho xã hội.
Động cơ vi phạm pháp luật là động lực tâm lý bên trong
thúc đẩy chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật.

Mục đích vi phạm pháp luật là cái đích trong tâm lý hay
kết quả cuối cùng mà chủ thể mong muốn đạt được khi
thực hiện hành vi trái pháp luật.


-

c.

Chủ thể của vi phạm pháp luật là cá nhân, tổ chức có
năng lực trách nhiệm pháp lý và đã thực hiện hành vi trái
pháp luật.
Năng lực của chủ thể bao gồm :
-

-

-

Năng lực pháp luật : là khả năng hưởng các quyền
và nghĩa vụ pháp lí mà nhà nước quy định cho cá nhân
hoặc tổ chức. Thông thường năng lực pháp luật có khi
người đó sinh ra và mất đi khi người đó chết. Đó là
thuộc tính không tách rời của mỗi công dân và nó xuất
hiện trên cơ sở pháp luật của mỗi nước.
Năng lực hành vi là khả năng của cá nhân được Nhà
nước thừa nhận , với khả năng này họ có thẻ tự mình
tạo ra và thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lí đồng
thời cũng tự mình gánh chịu những hậu quả pháp lí
nhất định.

Hành vi trái pháp luật là những xử sự của con người
không phù hợp với các quy định của pháp luật, được
thể hiện dưới dạng hành động hoặc không hành
động+ Trong mặt khách quan của vi phạm pháp luật
hành chính, hành vi được coi là một dấu hiệu bắt buộc.
Có nghĩa là, hành vi tổ chức, cá nhân thực hiện là hành
vi xâm phạm các quy tắc quản lí nhà nước và đã bị
pháp luật hành chính cấm. Việc bị ngăn cấm được thể
hiện rõ ràng trong các văn bản pháp luật quy định về
10


xử phạt hành chính, theo đó, pháp luật quy định rằng
các hành vi này sẽ bị xử phạt bằng các hình thức, biện
pháp xử phạt hành chính.Như vậy, khi xem xét, đánh
giá hành vi của cá nhân, tổ chức có vi phạm hành
chính hay không, bao giờ cũng phải có những căn cứ
rõ ràng xác định hành vi đó phải được pháp luật quy
định là sẽ xử phạt bằng các biện pháp xử phạt hành
chính. Cần tránh áp dụng “ nguyên tắc suy đoán” hoặc
áp dụng : tương tự pháp luật” trong việc xác định vi
phạm hành chính đối với các cá nhân.


Hành vi trái pháp luật và có lỗi phải được một văn
bản pháp luật quy định là vi phạm hành chính và
phải chịu trách nhiệm hành chính

-


Hành vi có lỗi của chủ thể, tức là khi thực hiện hành vi
trái pháp luật, chủ thể có thể nhận thức được hành vi của
mình và hậu quả của hành vi đó, đồng thời điều khiển được
hành vi của mình. Như vậy, chỉ những hành vi trái pháp
luật mà có lỗi của chủ thể thì mới bị coi là vi phạm pháp
luật. Còn trong trường hợp chủ thể thực hiện một xử sự có
tính chất trái pháp luật nhưng chủ thể không nhận thức
được hành vi của mình và hậu quả của hành vi đó gây ra
cho xã hội hoặc nhận thức được hành vi và hậu quả của
hành vi của mình nhưng không điều khiển được hành vi của
mình thì không bị coi là có lỗi và không phải là vi phạm
pháp luật.

d.

Khách thể của vi phạm pháp luật là quan hệ xã hội
được pháp luật bảo vệ nhưng bị hành vi trái pháp luật xâm
hại tới.

Chương 4 : Luật dân sự
11


Thừa kế theo pháp luật
- Theo quy định của Bộ luật dân sự, Thừa kế theo pháp
luật là việc dịch chuyển tài sản của người chết cho
những người còn sống theo hàng thừa kế, điều kiện và
trình tự thừa kế do pháp luật quy định.
- Những người được hưởng di sản thừa kế theo pháp luật
không phụ thuộc vào mức độ năng lực hành vi. Mọi

người đều bình đẳng trong việc hưởng di sản thừa kế
của người chết, thực hiện nghĩa vụ mà người chết chưa
thực hiện trong phạm vi di sản nhận. Vợ, chồng; Con
nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi; Con riêng và bố dượng, mẹ
kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như
cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau.
Những người thừa kế theo pháp luật được quy định
theo thứ tự sau đây:
-

-

-

-

Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ,
cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.
Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà
ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột
của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại,
bà ngoại.
Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người
chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người
chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột,
chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết
mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản
bằng nhau. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được
hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do

đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền
hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản. Thủ tục khai nhận di
sản thừa kế được thực hiện theo quy định của pháp luật
Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước
hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu
được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được
12


hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng
một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng
phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn
sống.
Thừa kế theo di chức
- Theo quy định của Bộ luật dân sự, Thừa kế theo di
chúc là việc dịch chuyển tài sản của người đã chết cho
người khác còn sống theo quyết định của người đó
trước khi chết được thể hiện trong di chúc. Cá nhân có
quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình.
- Nội dung cơ bản của thừa kế theo di chúc là chỉ định
người thừa kế và phân định tài sản, quyền tài sản và
giao nghĩa vụ tài sản cho những người thừa kế. Người
lập di chúc là cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi dân
sự.
Người lập di chúc có các quyền sau đây:
- Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của
người thừa kế;
- Phân định phần di sản cho từng người thừa kế;
- Dành một phần tài sản trong khối Di sản thừa kế để di
tặng, thờ cúng;

- Giao nghĩa vụ cho người thừa kế trong phạm vi di sản;
- Chỉ định người giữ, người quản lý di sản, người phân
chia di sản;
- Sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc.

-

Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều
kiện sau đây:
Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di
chúc; không bị lừa dối, đe doạ hoặc cưỡng ép;
Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình
thức di chúc không trái quy định của pháp luật.
Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười
tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ
hoặc người giám hộ đồng ý. Di chúc của người bị hạn chế
13


-

-

-

về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người
làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng
thực.
Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ
được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện theo quy

định của pháp luật. Di chúc miệng được coi là hợp pháp,
nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình
trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó
những người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm
chỉ. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày người di chúc
miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công
chứng hoặc chứng thực.
Vợ, chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản
chung; Vợ, chồng có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ
di chúc chung bất cứ lúc nào. Khi vợ hoặc chồng muốn sửa
đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung thì phải được
sự đồng ý của người kia; nếu một người đã chết thì người
kia chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần
tài sản của mình. Di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực
từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ,
chồng cùng chết.
Theo quy định pháp luật, con chưa thành niên, con đã
thành niên mà không có khả năng lao động, cha, mẹ, vợ,
chồng vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất
của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia
theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập
di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít
hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối
nhận di sản hoặc họ là những người không có quyền hưởng
di sản theo quy định. Thủ tục khai nhận di sản thừa kế được
thực hiện theo quy định của pháp luật về thừa kế.
Điều kiện để trở thành người thừa kế
a. Cá nhân, tổ chức có quyền thừa kế
b. Người thừa kế đó phải còn sống (Đ 635 BLDS)
c. Không tự mình từ chối hưởng di sản (Đ 637 , Đ 642)


14


Các trường hợp thừa kế theo Pháp Luật
a. Không có di chúc
b. Có di chúc nhưng không hợp pháp
c. Người thừa kế chết trước hoặc cùng thời điểm với
người để lại di sản (D643, D637,D642)
Thừa kế thế vị : D677 BLDS
Các bước để làm BT thừa kế :
a. Xác định thời điểm chia di sản thừa kế
b. Xác định di sản để lại và trừ đi các nghĩa vụ, khoản nợ
c. Kiểm tra TH có vi phạm điều 669 BLDS không. Để xác
định chia theo PL hay chia theo Di chúc.
Điều 677. Thừa kế thế vị
Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước
hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu
được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được
hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng
một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng
phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn
sống.
Điều 643. Người không được quyền hưởng di sản
1. Những người sau đây không được quyền hưởng di sản:
a) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng,
sức khoẻ hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ
người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân
phẩm của người đó;
b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người

để lại di sản;
c) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng
người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ
phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;
15


d) Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người
để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa
chữa di chúc, huỷ di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn
bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
2. Những người quy định tại khoản 1 Điều này vẫn được
hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của
những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di
chúc.
Điều 637. Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết
để lại
1. Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện
nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại,
trừ trường hợp có thoả thuận khác.
2. Trong trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài
sản do người chết để lại được người quản lý di sản thực
hiện theo thoả thuận của những người thừa kế.
3. Trong trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa
kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương
ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận,
trừ trường hợp có thoả thuận khác.
4. Trong trường hợp Nhà nước, cơ quan, tổ chức hưởng di
sản theo di chúc thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do
người chết để lại như người thừa kế là cá nhân.

Điều 642. Từ chối nhận di sản
1. Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường
hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ
tài sản của mình đối với người khác.
2. Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản;
người từ chối phải báo cho những người thừa kế khác,
người được giao nhiệm vụ phân chia di sản, cơ quan công
16


chứng hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có
địa điểm mở thừa kế về việc từ chối nhận di sản.
3. Thời hạn từ chối nhận di sản là sáu tháng, kể từ ngày mở
thừa kế. Sau sáu tháng kể từ ngày mở thừa kế nếu không
có từ chối nhận di sản thì được coi là đồng ý nhận thừa kế.

Điều 669. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội
dung của di chúc
Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai
phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di
sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không
được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho
hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là
những người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 642
hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo
quy định tại khoản 1 Điều 643 của Bộ luật này:
1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
2. Con đã thành niên mà không có khả năng lao động.
Điều 22. Loại hợp đồng lao động
1.


Hợp đồng lao động phải được giao kết theo một trong các
loại sau đây:
a.

Hợp đồng lao động không xác định thời hạn;

Hợp đồng lao động không xác định thời hạn là hợp đồng mà
trong đó hai bên không xác định thời hạn, thời điểm chấm
dứt hiệu lực của hợp đồng.
b.

Hợp đồng lao động xác định thời hạn;

Hợp đồng lao động xác định thời hạn là hợp đồng mà trong
đó hai bên xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực
17


của hợp đồng trong khoảng thời gian từ đủ 12 tháng đến 36
tháng.
c.

2.

Hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công
việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng.

Khi hợp đồng lao động quy định tại điểm b và điểm c khoản
1 Điều này hết hạn mà người lao động vẫn tiếp tục làm việc

thì trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày hợp đồng lao động
hết hạn, hai bên phải ký kết hợp đồng lao động mới; nếu
không ký kết hợp đồng lao động mới thì hợp đồng đã giao
kết theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều này trở thành
hợp đồng lao động không xác định thời hạn và hợp đồng đã
giao kết theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều này trở
thành hợp đồng lao động xác định thời hạn với thời hạn là
24 tháng.
Trường hợp hai bên ký kết hợp đồng lao động mới là hợp
đồng xác định thời hạn thì cũng chỉ được ký thêm 01 lần,
sau đó nếu người lao động vẫn tiếp tục làm việc thì phải
ký kết hợp đồng lao động không xác định thời hạn.

3.

Không được giao kết hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc
theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng để
làm những công việc có tính chất thường xuyên từ 12
tháng trở lên, trừ trường hợp phải tạm thời thay thế người
lao động đi làm nghĩa vụ quân sự, nghỉ theo chế độ thai
sản, ốm đau, tai nạn lao động hoặc nghỉ việc có tính chất
tạm thời khác.

18



×