Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

Tư tưởng cách tân đất nước của phan bội châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (267.22 KB, 48 trang )

A. mở đầu
Trong mọi hoàn cảnh, mọi bớc ngoặt của lịch sử, luôn luôn cần
những con ngời tài trí, vững vàng, kiên định để chèo lái con thuyền cách
mạng vợt qua ghềnh thác. Trong những năm tháng đen tối của đất nớc, trớc
khi xuất hiện ngôi sao Bắc thần ngời sáng là chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại,
quốc dân đồng bào ta đã gửi gắm niềm hi vọng vào Phan Bội Châu và
phong trào giải phóng dân tộc mà ông là ngời đứng đầu. Cuộc đời hoạt
động cách mạng của Phan Bội Châu tuy ngắn ngủi nhng để lại tấm gơng
cách mạng sáng ngời. Phan Bội Châu tấm gơng yêu nớc thơng nòi, xả
thân suốt đời vì độc lập cho quốc gia, vì quyền sống cho đồng bào, một nhà
tổ chức và chỉ đạo lỗi lạc, một nhà chính trị có bản lĩnh, một nhà chỉ đạo
chiến lợc và sách lợc tài tình. Là chiến sĩ cách mạng, là lãnh tụ một thế hệ
bôn ba hải ngoại tìm đờng cứu nớc, Phan Bội Châu là một nhà văn hoá lớn
mà tầm vóc làm đầy đặn những thập kỉ đầu thế kỉ XX trên lịch sử văn hoá
nớc nhà. Ông đã để lại một di sản trớc tác đồ sộ và có giá trị gồm tới số
nghìn áng văn thơ bao quát nhiều lĩnh vực: lịch sử, triết học, chính trị, xã
hội Chủ nghĩa yêu nớc, chủ nghĩa anh hùng, tinh thần tự tôn dân tộc, khí
phách chiến đấu, tinh thần bình đẳng công dân, hoài bão duy tân và tinh
thần lạc quan lịch sử thấm nhuần trong di sản văn hoá Phan Bội Châu làm
nên sức sống và giá trị nhân văn bất hủ cho văn hoá Việt Nam đầu thế kỉ
XX. Với nhân cách lớn của Phan Bội Châu tiêu biểu cho một thế hệ cách
mạng đơng thời. Vì vậy, tác giả chọn đề tài T tởng canh tân đất nớc của
Phan Bội Châu để góp phần tìm hiểu những nét tiêu biểu về thân thế, sự
nghiệp của nhà yêu nớc Phan Bội Châu; Đặc biệt góp phần làm sáng tỏ
những cống hiến của ông trên lĩnh vực t tởng chính trị đối với sự nghiệp
cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân ta.

1


2




B. Nội dung
Chơng I: Cơ sở hình thành t tởng canh tân
đất nớc của Phan Bội Châu
1. Điều kiện kinh tế xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX
Cuối thế kỉ XIX, phong trào Cần Vơng thất bại. Toàn bộ đất nớc ta bị
đặt dới sự thống trị của thực dân Pháp. Chúng bắt đầu thực hiện kế hoạch
khai thác thuộc địa. Xã hội Việt Nam đình trệ từ lâu, nay đã bị phá vỡ,
chuyển thành một xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Quá trình chuyển biến
này đã tạo ra một giai đoạn giao thời kéo dài trong khoảng vài chục năm
đầu thế kỉ XX.
Nhà nớc bảo hộ thi hành nhiều chính sách thực dân nhằm biến nớc ta
thành một thị trờng tiêu thụ hàng hoá và bóc lột công nhân để thu về lợi nhuận
cao nhất cho t bản Pháp, đồng thời kìm hãm xã hội Việt Nam trong tình trạng
tối tăm của một nớc nông nghiệp lạc hậu để dễ bề thống trị.
Trên lĩnh vực chính trị, chúng thi hành một chính sách chuyên chế
triệt để, mọi quyền trong nớc đều thâu tóm trong tay ngời Pháp, vua quan
Nam triều chỉ là những tên bù nhìn tay sai ngoan ngoãn thi hành mọi mệnh
lệnh của bọn thực dân nớc ngoài. Nhân dân ta không đợc hởng chút quyền
tự do dân chủ nào, mọi hành động chống đối, yêu nớc đều bị thẳng tay đàn
áp khủng bố. Thực hiện chính sách chia để trị, đế quốc Pháp chia Việt
Nam thành 3 kì với ba chế độ khác nhau (Nam Kì là thuộc địa, Trung Kì là
bảo hộ, Bắc Kì là nửa bảo hộ) nhng trong thực tế thì tất cả đều là đất của
Pháp. Đồng thời, chúng còn chia rẽ các dân tộc đa số với thiểu số, lơng với
giáo. Chúng làm cho dân tộc Việt Nam lâm vào cảnh ngột ngạt về chính trị.
Trên lĩnh vực văn hoá, giáo dục, chúng triệt để thi hành chính sách
văn hoá nô dịch, cốt gây tâm lí tự ti, phục tùng, vong bản, ra sức khuyến
khích các hoạt động mê tín, dị đoan, các tệ nạn xã hội nh cờ bạc, rợu chè
3



trong nhân dân, nhằm làm cho nhân dân Việt Nam đoạn tuyệt với những giá
trị truyền thống tốt đẹp. Đồng thời, chúng phục hồi những mặt lạc hâu,
phản động trong văn hoá phong kiến. Chúng khuyến khích việc truyền bá
văn chơng yêu đơng uỷ mị, đa văn hoá phơng Tây, trớc hết là đa văn hoá
Pháp vào nớc ta để chống lại văn hoá truyền thống và nhằm làm cho nhân
dân ta tởng thù là bạn. Trờng học đợc mở nhỏ giọt, hầu hết là các trờng tiểu
học, trờng trung học chỉ mở ở các thành phố lớn (Hà Nội, Sài Gòn, Huế ).
Cùng với việc hạn chế, chúng tiến tới thủ tiêu Nho học, thực dân Pháp đào
tạo những ngời Tây học để phục vụ bộ máy thống trị của thực dân Pháp.
Sách báo xuất bản công khai cũng đợc lợi dụng triệt để vào việc
tuyên truyền chính sách khai hoá của bon thực dân và gieo rắc ảo tởng
hoà bình hợp tác với bọn thực dân cớp nớc và vua quan bù nhìn bán nớc.
Tuy vậy, cùng với chế độ thuộc địa nửa phong kiến ra đời và thay thế
chế độ phong kiến vốn đã tàn lụi, xã hội Việt Nam cũng có những bớc
chuyển nhất định. Sự thay đổi này không chỉ do hoàn cảnh lịch sử trong nớc
mà còn do ảnh hởng, tác động của trào lu cách mạng thế giới.
ở Châu á vào đầu thế kỉ XX, sau khi Minh Trị thiên hoàng cải cách
duy tân, Nhật Bản trở thành một nớc t bản chủ nghĩa tơng đối phát triển về
mọi mặt. Đặc biệt, thắng lợi của Nhật Bản trong cuộc đấu tranh với Nga
1904 1905 càng làm cho thanh thế Nhật Bản càng vang dội, và Nhật Bản
đợc xem nh là một tấm gơng đáng học tập.
Còn ở Trung Quốc, cuối thế kỉ XIX, Khang Hữu Vi và Lơng Khải
Siêu đã tổ chức Cờng học hội, chủ trơng duy tân. Trong quá trình ấy ở
Trung Quốc xuất hiện nhiều Tân th, trong đó có một số sách dịch các tác
phẩm của các nhà t tởng dân chủ t sản, và đợc đa vào nớc ta làm ảnh hởng
đến t tởng các sĩ phu yêu nớc lúc bấy giờ.Khác với tuyệt đại bộ phận sĩ phu
của giai cấp phong kiến, hoặc đầu hàng thực dân, hoặc than vãn, bi quan,
những sĩ phu yêu nớc này ý thức đợc trách nhiệm trớc lịch sử, biết dựa vào

nhân dân và cố gắng tìm con đờng cứu nớc, cứu dân. Vừa lúc đó, họ lại tiếp
4


thu đợc nguồn t tởng mới từ các cuộc cách mạng dân chủ t sản phơng Tây,
công cuộc cải cách thành công ở Nhật Bản đã làm cho họ có thêm niềm tin
vào con đờng giải phóng dân tộc.
Cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp, tay sai phong kiến và đa đất nớc thoát ra khỏi khủng hoảng làm xuất hiện những khuynh hớng sau: Hoặc
lấy cờng quốc Nhật Bản làm tấm gơng để canh tân đất nớc; hoặc dựa vào
văn minh Pháp để xây dựng, phục hng dân tộc. Những đề nghị cải cách này
thể hiện một lối t duy mới trong xử lí tình hình thực tiễn đất nớc, chứa đựng
những yếu tố mới trong nhận thức hiện thực. Hoàn cảnh đất nớc là một
trong những tiền đề quan trọng góp phần hình thành t tởng cứu nớc của
Phan Bội Châu. Theo Phan Bội Châu, canh tân đất nớc lúc này là vấn đề cấp
thiết. Canh tân đất nớc là con đờng duy nhất để tiến tới độc lập.
Canh tân đất nớc là những t tởng nhằm sửa đổi đờng lối, chính sách
cai trị, phát triển đất nớc, thay thế chúng bằng những đờng lối, chính sách
tiến bộ hơn, nhằm khắc phục tình trạng lạc hậu, lỗi thời, đáp ứng đợc yêu
cầu bảo vệ độc lập dân tộc và phát triển đất nớc.
2. Quê hơng và gia đình những ảnh h ởng đối với quá trình hình
thành t tởng chính trị của Phan Bội Châu
Phan Bội Châu sinh ngày 26/12/1867 trong một gia đình nhà Nho
nghèo yêu nớc ở xã Xuân Hoà, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
Làng Sà Nam (nay là thị trấn Nam Đàn), quê ngoại Phan Bội Châu,
cũng nh làng Đan Nhiễm (nay là xã Xuân Hoà), quê nội Phan Bội Châu
cách nhau khoảng 3km, đều nằm trên tả ngạn sông Lam dọc theo hớng
Đông Nam của con đê 42 thuộc huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
Trong bản đồ ngày xa, Hoan Diễn (tức Nghệ An) là một góc rừng
biển xa xôi đối với kinh đô Thăng Long. Nghệ Tĩnh dân nghèo, con ngời
cần kiệm mà hiếu học. Dới các triều đại phong kiến, Nghệ Tĩnh đợc coi là

chốn biên viễn hiểm yếu. Nhng trải qua nhiều thời kì lịch sử, Nghệ Tĩnh
5


lại là tuyến phòng ngự ngoại xâm khá kiên cố. Nghệ Tĩnh từng là địa bàn
chiến lợc của nhà Trần thời kì chống Nguyên Mông, là căn cứ địa của Trần
Quý Khoáng và của Lê Lợi trong trong cuộc kháng chiến chống Minh. Dới
triều Lê Trịnh, Nghệ Tĩnh cũng là chỗ dựa của Nguyễn Kim, Trịnh
Kiểm để chống nhà Mạc, khôi phục nhà Lê. Rồi sau đó, việc Trịnh
Nguyễn chia cắt đất nớc để lại nhiều ảnh hởng quan trọng trong sự phát
triển lịch sử vùng này. Một mặt, nhiều ngời theo Lê Trịnh chống Mạc,
theo Trịnh chống Nguyễn trở thành danh tớng lơng thần, thành những dòng
họ quyền quý gần gũi vua chúa ở Thăng Long. Mặt khác, dân Nghệ Tĩnh đợc tin cậy làm chỗ chọn lính tam phủ thân binh của vua chúa. Trong
cuộc phân tranh giữa chúa Trịnh và chúa Nguyễn, Nghệ Tĩnh là cửa ngõ đờng ống đi lại giữa Nam Bắc. Dới thời Tự Đức, trớc đờng lối đầu hàng
của vua quan nhà Nguyễn, văn thân Nghệ Tĩnh đã dâng biểu cho nhà vua
từng điểm một bác bỏ những ý kiến thánh chỉ, họ chỉ ra sai làm của vua
quan triều đình.
Sau khi mất nớc, phong trào chống Pháp ở Nghệ Tĩnh là phong trào
sâu rộng và kéo dài lâu hơn cả. Dới sự lãnh đạo của Nguyễn Xuân Ôn và
Phan Đình Phùng huyện nào cũng lập quân thứ và tổ chức kháng chiến.
Ngay trên các cánh đồng và thôn xóm vùng Sa Nam và Đan Nhiễm năm
1874, nghĩa quân của Trần Xuân, Vơng Thúc Mậu cũng từng mấy phen đọ
sức với giặc Pháp. Phan Đình Phùng mất rồi phong trào chống Pháp ở
Nghệ Tĩnh vẫn dai dẳng. Do tinh thần đấu tranh bền bỉ nh thế chính quyền
thực dân đã có lúc phải cấm ngời Nghệ Tĩnh đi lại, c trú ở tỉnh khác. Có tên
tay sai giặc Pháp đã đề nghị triệt hạ, làm cỏ hai tỉnh với một lí do khét
tiếng: hữu Nghệ Tĩnh bất phú, vô Nghệ Tĩnh bất bần (có Nghệ Tĩnh cũng
không giàu thêm, không có Nghệ Tĩnh cũng không giàu hơn). Đó là những
việc từng xảy ra trên đất Nghệ Tĩnh, về thời gian không cách xa thời Phan
Bội Châu bao nhiêu, ảnh hởng đến Phan Bội Châu và chịu ảnh hởng của

Phan Bội Châu.

6


Điều kiện tự nhiên, lịch sử và xã hội có ảnh hởng đến con ngời. Tính
cách địa phơng của con ngời chịu ảnh hởng nhiều của điều kiện kinh tế, của
tình hình đấu tranh xã hội, của lịch sử. Trong lịch sử Nghệ Tĩnh có những
ngời thị tài kiểu Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Công Trứ, có những ngời coi
thờng công danh nh Nguyễn Thiếp, có ngời chống triều đình nh Hoàng
Phan Thái; các tác giả của Hoa Tiên, Truyện Kiều đều quê ở Nghệ Tĩnh.
Là dân xứ Nghệ nghèo khó, họ phải sống rất tiết kiệm, nhng trọng
danh dự, giàu tình nghĩa, nặng ân tình, nên đối với bà con, làng xóm, khách
khứa, bạn bè, nhất là đối với việc dân tộc, họ lại trọng nghĩa, hào hiệp rộng
rãi, dễ coi thờng tài sản, tính mệnh. Con ngời ở đây cần cù làm ăn, học
hành, tâm tình sâu đậm nh từ trớc đến nay, khắp xóm làng sông nớc đã âm
vang những câu hát đò đa:
Ai biết nớc sông Lam răng là trong là đục
Thì biết cuộc đời rằng là nhục là vinh
Thuyền em lên thác xuống ghềnh,
Non nớc là nghĩa là tình ai ơi
Phan Bội Châu sinh ra trên mảnh đất ấy, đã đợc nuôi lớn bởi truyền
thống đấu tranh bất khuất và dòng sữa thơm ngọt của quê hơng với tất cả
cái cốt tính xứ Nghệ.
Thân mẫu của Phan Bội Châu là bà Nguyễn Thị Nhàn, một bà mẹ
Việt Nam rất mực nhân hậu, dòng dõi Nho học. Bà có tính rất thơng ngời,
hay giúp đỡ kẻ khốn khó. Đối với mọi ngời, bà luôn giữ thái độ hoà nhã, có
gặp ngời nào hỗn xợc với mình, thì cũng cời rồi bỏ qua. Đặc biệt, đối với
Phan Bội Châu chẳng những bà hết sức chú ý dạy bảo cho những điều hay
lẽ phải, mà còn truyền khẩu cho những câu ca, câu thơ mà bà học đợc.

Cho nên, chẳng bao lâu, khi Phan Bội Châu mới lên bốn lên năm đã có thể
nhớ thuộc lòng đợc mấy thiên Chu Nam trong Kinh Thi, tức là quyển sách
chép nhiều thơ ca dân gian Trung Quốc thời xa.
7


Bà mất lúc Phan Bội Châu 18 tuổi, nhng ảnh hởng tình cảm của bà
đối với Phan Bội Châu thật là sâu đậm. Đúng nh đồng chí Lê Duẩn khi nói
về bà mẹ Việt Nam đã nhấn mạnh: Chúng ta phải biết ơn những bà mẹ
Việt Nam đã sinh ra những con ngời anh hùng, những ngời đã có công giữ
cho nớc ta tồn tại và phát triển đến ngày nay Phan Bội Châu tr ớc đây chịu
ảnh hởng rất sâu sắc ở mẹ. Bà thờng răn con đừng làm điều trái với lẽ phải,
và lời khuyên ấy đã hớng Phan Bội Châu đi vào con đờng cứu nớc.
Thân phụ Phan Bội Châu là Phan Văn Phổ, một ngời thâm nho, thông
hiểu kinh truyện, nhng không đỗ đạt gì, suốt đời dạy học để kiếm sống.
Theo ngời đơng thời truyền lại, ông là một bậc thiện nhân, nghĩa là ngời
hiền lành vô sự, nên ông rất đợc mọi ngời quý mến. Phan Bội Châu thờng
theo cha đến các nhà chủ nuôi để học. Ông Phổ rất chú ý đến việc học tập
của Phan Bội Châu, ông gửi Phan Bội Châu đến các thầy giỏi để học.
Nh vậy, nhờ ảnh hởng của quê hơng, gia đình, nhờ điều kiện giáo dục
tốt của thầy học, của bạn bè, nhờ những tác động từ tình hình thực tế của
đất nớc, nên ở Phan Bội Châu đã bớc đầu hình thành t tởng yêu nớc. T tởng
này ngày càng phát triển từ chỗ phôi thai đến hoàn thiện trong quá trình
hoạt động của Phan Bội Châu.
3. Bản thân con ngời Phan Bội Châu
Sinh trởng trong một gia đình nhà Nho giàu truyền thống yêu nớc,
quê hơng lại là nơi có phong trào chống xâm lợc Pháp mạnh mẽ, ngay từ
hồi còn trẻ Phan Bội Châu đã sục sôi nhiệt tình cứu nớc. Ngay từ nhỏ, Phan
Bội Châu đã nổi tiếng thông minh, 8 tuổi đã thông thạo các loại văn cử tử;
13 tuổi đi thi ở huyện, đỗ đầu; 16 tuổi đỗ đầu xứ, nên cũng gọi là Đầu Xứ

San.
Năm 17 tuổi, khi thực dân Pháp đánh Bắc Kì lần hai (1882), nửa đêm
ông đã viết bài hịch Bình Tây thu Bắc đem dán ở thân cây to bên đờng để
cổ động nhân dân chống Pháp. Năm 19 tuổi, hởng ứng lời chiếu Cần Vơng
của vua Hàm Nghi (13/7/1885), ông đã tổ chức đội quân học trò (thí sinh
8


quân) hơn 60 ngời, nhng cha kịp hoạt động thì thực dân Pháp đã kéo tới càn
quét đốt phá xóm làng, đội quân thí sinh phải giải tán.
Tiếp đến là mời năm ở nhà dạy học, tuyên truyền yêu nớc, giáo dục
lớp thanh niên u tú, sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc. Thời kì này, Phan Bội
Châu giao du mật thiết với những ngời đã từng tham gia khởi nghĩa Hơng
Khê nh Tán tơng Nguyễn Quýnh, Đốc biện Hà Văn Mỹ, Phó lãnh binh Ngô
Quảng, Quản cơ Lê Hạ, Đội Quyên Năm 1897, Phan Bội Châu vào Huế,
gặp Nguyễn Thợng Hiền, đợc xem các Tân th của Lơng Khải Siêu, Khang
Hữu Vi nh Trung Đông chiến kỷ, Phổ Pháp chiến kỷ, Doanh hoàn chí lợc
tầm mắt ông nhờ vậy đợc mở rộng thêm.
Năm 1900, Phan Bội Châu đỗ đầu khoa thi Hơng (giải nguyên) trờng
thi Nghệ An. Cũng năm đó, cụ thân sinh ra ông qua đời, Phan Bội Châu
rảnh việc nhà mới chuyên tâm lo việc cứu nớc.
Năm 1902, mợn cớ đi xem lễ khánh thành cầu sông Hồng ở Hà Nội,
Phan Bội Châu lên đồn Phồn Xơng yết kiến Hoàng Hoa Thám nhng chỉ gặp
đợc Cả Trọng là con trai của Đề Thám, hai bên giao ớc Trung Kì khởi nghĩa
trớc thì Yên Thế sẵn sàng hởng ứng.
Năm 1903, Phan Bội Châu mợn cớ vào học Quốc Tử Giám (Huế) để
tiện việc tìm đồng chí. Sau đó, ông vào Quảng Nam gặp Tiểu La Nguyễn
Hàm, một nhà hoạt động Cần Vơng nổi tiếng. Theo gợi ý của Nguyễn Hàm,
Phan Bội Châu trở về Huế bắt liên lạc với Kỳ Ngoại hầu Cờng Để, thuộc
dòng dõi Hoàng Thái tử Nguyễn Phúc Cảnh là ngời có t tởng ghét Pháp.

Cũng năm này, Phan Bội Châu viết Lu Cầu huyết lệ tân th (sách mới viết
bằng máu và nớc mắt về đảo Lu Cầu), mợn việc đảo Lu Cầu để khơI dậy
tinh thần yêu nớc chống Pháp của một số quan lại triều đình Huế, nhng
không đợc mấy ngời hởng ứng. Tuy vậy, nhờ cuốn sách đó, Phan kết giao
đợc với một vài nhà Nho tâm huyết nh: Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp,
Huỳnh Thúc Kháng

9


Đầu năm 1904, Phan vào Nam gặp nhà s Trần Thị, một nhà hoạt
động chống Pháp, bị bắt tù nhiều lần, đang tu ở chùa Thất Sơn; rồi tới Sa
Đéc gặp ông hội đồng Nguyễn Thành Hiến, một nhà yêu nớc. Hai ông này
về sau đều giúp việc đắc lực cho phong trào Đông Du.
Tiếp đó, ông vào Huế, rồi đi các nơi để kết nạp những ngời cùng chí
hớng, tranh thủ ngay cả sự đồng tình của các linh mục Thiên chúa giáo; nhờ
đó, sau này nhiều giáo dân đã tham gia sự nghiệp cứu nớc do ông đứng đầu.
Đầu năm 1905, Phan Bội Châu lãnh đạo phong trào Đông Du, từ năm
1905 1908, ông đã tổ chức cho gần 200 thanh niên yêu nớc xuất dơng
sang Nhật học tập ở các trờng Đồng văn th viện, Chấn Vũ học hiệu; lại lập
ra công hiến hội để quản lí việc học tập, tu dỡng t tởng, đạo đức của lu học
sinh. Đồng thời, ông cũng có liên lạc với các hội, đảng yêu nớc tiến bộ của
học sinh và các chính khách của các nớc có mặt ở Tôkyô (Nhật Bản) nhằm
trao đổi kinh nghiệm vận động cứu nớc, ủng hộ lẫn nhau. Đặc biệt, ông còn
sáng tác nhiều thơ văn yêu nớc nh: Việt Nam vong quốc sử, Hải ngoại
huyết th, Tân Việt Nam, Sùng bái giai nhân
Tháng 3 1909, tổ chức Đông Du bị giải tán. Phan Bội Châu bị
chính phủ Nhật trục xuất, phải về ẩn náu ở Trung Quốc một thời gian ngắn,
rồi sang Thái Lan mở trại cày Bạn Thầm để tính kế lâu dài. Năm 1911, cách
mạng Tân Hợi ở Trung Quốc thành công, ông trở lại Trung Quốc tập hợp số

anh em còn lại, tuyên bố giải tán Duy Tân Hội, thành lập Việt Nam Quang
Phục Hội với tôn chỉ duy nhất: Đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục nớc Việt
Nam, thành lập nớc Cộng hoà dân quốc Việt Nam. Hội cử ngời về nớc
hoạt động, đã gây ra một số vụ bạo động vũ trang có tiếng vang, nhng kẻ
thù thẳng tay đàn áp. Phan Bội Châu bị bọn quân phiệt Trung Quốc bắt
giam ngày 24/12/1913.
Năm 1917, khi ông ra tù, chiến tranh thế giới thứ nhất sắp kết thúc,
ảnh hởng của cách mạng tháng Mời Nga và phong trào đấu tranh giải phóng
dân tộc sôi nổi khắp thế giới, đặc biệt là ở phơng Đông. Ông dần nghiêng
10


về cách mạng thế giới, tìm hiểu cách mạng tháng Mời, viết báo ca ngợi
Lênin vĩ đại Giữa năm 1924, phỏng theo Quốc Dân Đảng của Tôn Trung
Sơn, ông đã cải tổ Việt Nam Quang Phục Hội thành Việt Nam quốc dân
Đảng. Tháng 12/1924, sau khi đợc tiếp xúc và đợc sự góp ý của Nguyễn ái
Quốc, Phan Bội Châu dự định cải tổ lại Việt Nam Quốc Dân Đảng theo hớng tiến bộ. Nhng ngày 30/6/1925 trên đờng đI từ Hàng Châu về Quảng
Châu để gặp an hem, ông bị thực dân Pháp bắt cóc đem về nớc, rồi đem xử
ở toà Đề Chính Hà Nội. Một phong trào bãi khoá, bãi công, bãi thị đã bùng
nổ rầm rộ khắp cả nớc, đòi trả tự do cho Phan Bội Châu. Cuối cùng, thực
dân Pháp phải tha bổng ông, nhng bắt an trí ở Huế.
Từ năm 1926 trở đi, Phan Bội Châu bị cách li với thực tế đấu tranh
của dân tộc. Tuy vậy, ông vẫn cố vơn lên, hi vọng tiếp tục hoạt động cứu nớc và trong điều kiện sống bị bao vây theo dõi vẫn cố gắng làm một ngời
tuyên truyền yêu nớc. Thơ văn của ông vẫn tiếp tục nói nhiều đến nỗi khổ
nhục của ngời dân mất nớc và trách nhiệm của ngời dân với nớc. Đó là các
tác phẩm: Nam nữ quốc dân tu tri, Thuốc chữa dân nghèo, Cao đẳng
quốc dân
Những năm tháng cuối đời, nhà chí sĩ Phan Bội Châu vẫn chan chứa
biết bao nỗi niềm u ái, hi vọng, tin tởng đồng bào, đồng chí. Cho đến trớc
khi mất ngày 29/10/1940 tại căn nhà tranh ở dốc Bến Ngự (Huế), ông vẫn

có lời Chúc phờng hậu tứ tiến mau.
Cuộc đời hoạt động cách mạng của Phan Bội Châu đầy gian khổ, khó
khăn nhng ông vẫn kiên quyết một lòng cho sự nghiệp cứu nớc. Phan Bội
Châu đợc coi là lãnh tụ của cách mạng trớc khi Nguyễn ái Quốc xuất hiện.

11


12


Chơng II: Nội dung t tởng canh tân
đất nớc của Phan Bội Châu
1/. T tởng của Phan Bội Châu về vai trò của nhân dân
Theo Phan Bội Châu, để Duy Tân đất nớc trớc hết phảI thấy đợc vai
trò của nhân dân. Trong toàn bộ những sáng tác thơ văn của Phan Bội Châu
đều là sự phản ánh nỗi đau, nỗi nhục mất nớc của dân tộc Việt Nam, mà
nguyên nhân đợc ông chỉ ra là xuất phát từ con ngời, theo ông: Biến cố do
con ngời gây nên, vận trời theo liền đến đó. Rõ ràng, quan niệm của Phan
Bội Châu khác hẳn với quan niệm của các nhà Nho cũ nh: Cái chỗ dựa để
dựng nớc chỉ ở nơi luân thờng vua tôi, cha con mà thôi, hay vua là gốc
của nớc, không có đạo vua thì không có thế gian. Ông khẳng định: Ngời trong một nớc đều là chủ tể của một nớc để cạnh tranh với các nớc khác,
vì vậy nhân dân là quan trọng nhất, nhân dân còn thì n ớc còn, nhân dân
mất thì nớc mất. Theo đó, Phan Bội Châu đa ra khái niệm Quốc dân thay
cho thần dân.
Theo Phan Bội Châu, Quốc dân gắn liền với dân chủ. Phan Bội
Châu cho rằng ở nớc ta vào những năm đầu thế kỉ XX, từ Quốc dân vẫn
mang tính mới mẻ. Chúng ta chỉ biết khái niệm ấy khi t tởng dân chủ t sản
thâm nhập vào nớc ta. Thế nhng, Quốc dân gắn liền với dân chủ không
phải là sản phẩm của sự khai hoá văn minh của thực dân Pháp, mà là kết

quả của quá trình đấu tranh dựng nớc và giữ nớc của nhân dân ta. Ông viết:
Nào Lâm ấp, nào Chiêm Thành, nào Mên, nào Lạp, nếu không dân ta xa
dắt đoàn dắt đội, từ Bắc vào Nam, chải gió gội ma, trèo non vợt bể, khua
nòi Chiêm, đuổi bầy Lạp, hốt mấy nghìn dặm non sông mà bỏ vào trong túi
mình, thì cơ đồ gấm vóc sau này, chúng ta làm sao trông thấy đợc. Suy thấu
lẽ ấy mới biết rằng Quốc là Quốc của dân ta, dân là ông chủ tiên chiếm của
Quốc ta.

13


Nói về quyền và vai trò của dân ta đối với đất nớc một lần nữa Phan
Bội Châu chỉ rõ: Trên dới 4000 năm, trong ngoài ba mơi vạn dặm, biết bao
giấy máu, hột mủ tuôn đổ ra cung cấp cho nớc đó, có một giọt máu nào
không phải của dân ta đâu? Vì vậy, nếu không có dân thì ai làm nên nớc?
Nếu không có nớc thời còn quý gì dân?. Và ông khẳng định: Linh hồn
của nớc là dân, khu xác thịt của dân là nớc. Nh vậy, trong t tởng của
ông, Quốc dân có nghĩa là dân làm chủ nớc, đó chính là quyền thiêng
liêng nhất của dân. Chính vì lẽ đó, không thể tách rời nhân dân với nớc. Khi
dân mất nớc là dân sẽ mất tất cả, kể cả những quyền tối thiểu của con ngời.
Khảo sát toàn bộ lịch sử nớc ta từ đầu thế kỉ XX trở về trớc, Phan Bội
Châu cho rằng, nớc ta chỉ có gia nô mà không có Quốc dân: Gặp Đinh
thời làm nô với Đinh, gặp Trần thời làm nô với Trần, gặp Lê - Lí thời làm
nô với Lê Lí, phận con hầu thằng ở, đợc đòi miếng cơm thừa canh thải
thời đã lấy làm hớn hở vinh vang, tối tăm đứng đầu ruộng mới đợc bát cơm
ăn, suốt đêm ngồi trên bàn khung cửu mới có tấm áo mặc, mà thoạt mở
miệng ra thời chỉ nói rằng cơm áo vua chúa. Điều đó có nghĩa là suốt thời
kì phong kiến, dân ta không có quyền làm chủ đất nớc. Cái quyền ấy là
quyền của vua chúa, còn dân chỉ biết phục tùng vua chúa một cách mù
quáng.

Trong suy nghĩ của Phan Bội Châu, thân phận gia nô mà ngời dân
nớc ta phải gánh chịu trong suốt thời kì phong kiến là một sự bất công, bởi
lẽ điều ấy tráI với t tởng dân vi quý của Mạnh Tử và quan điểm dân vi
bang bản trong Kinh Th.
Trên cơ sở đó, Phan Bội Châu tổng kết lịch sử ở hai vấn đề: Đó là, tại
sao dân ta mất nớc vào nửa sau thế kỉ XX? Mất nớc trách nhiệm thuộc về
ai?. Theo Phan Bội Châu mất nớc không phải do ông vua này hay ông vua
kia, mà mất nớc là do chế độ xã hội có vua quan. Ông nói: Một là vua việc
dân chẳng biết; hai là dân chỉ biết dân, mặc quân với quốc, mặc thần với

14


ai. Đây chính là bớc phát triển mới trong t tởng cứu nớc của Phan Bội
Châu, trách nhiệm mất nớc không thể quy về cá nhân cụ thể.
Mặt khác, Phan Bội Châu cho rằng: Dân thờ ơ để cho vua quan
muốn làm gì thì làm do đó đến nông nỗi mất nớc. Vua không thực lòng
làm điều tốt đẹp cho dân, quan lại xu nịnh vua, đàn áp dân, rồi dân đói dân
hàn mặc dân. Vì thế, dù thế nào cũng phải thay đổi chế độ xã hội, bởi nếu
đợc nớc mà dân vẫn nh xa thì cũng không phải là hạnh phúc của dân. Tuy
nhiên, Phan Bội Châu thấy rằng nếu chỉ kêu gọi lòng ngời, chỉ kêu gọi ngời
Pháp cải cách thì không thể đợc và qua quá trình trải nghiệm trong phong
trào Cần Vơng, Phan Bội Châu nhận ra một điều: đánh đuổi thực dân Pháp
không phải một tay, một chân là đợc mà phải có cuộc nổi dậy của đông
đảo nhân dân trong cả nớc, phải có sức mạnh của nhiều ngời. Ông viết:
Việc làm cho nớc nhà độc lập, vững mạnh không phải một sớm một chiều
mà thành công đợc, cũng không phải một tay một chân mà làm nên, mà do
tâm huyết của hàng vạn anh hùng vô danh.
Điều đó có nghĩa là, muốn khôi phục chủ quyền và địa vị của Quốc
dân thì phải có lực lợng. Do vậy, cách duy nhất để cứu nớc là nhân dân phải

đồng lòng, đồng sức. T tởng đoàn kết dân tộc của Phan Bội Châu xuất hiện
từ đây. Khác với thế hệ trớc, Phan Bội Châu cho rằng những ngời đứng trên
lãnh thổ Việt Nam xa đứng về một phía còn phía bên kia là thực dân Pháp:
Cốt rằng ngời nớc chung nhau một lòng.
Với cách phân chia nh vậy, Phan Bội Châu đã tiến hành đoàn kết mời
lớp ngời kể cả những ngời đã làm quan, làm công chức cho Pháp, kể cả lính
tập, bồi bếp, kể cả những phú hào giàu có đến những ngời nghèo khổ vào
khối đoàn kết dân tộc. Ông kêu gọi tất cả Quốc dân đồng lòng, đồng tâm.
Ông hi vọng nhờ khối đoàn kết ấy, sự nghiệp chống Pháp sẽ thành công. Từ
việc hình thành khối đoàn kết dân tộc, Phan Bội Châu chủ trơng đoàn kết
quốc tế, đoàn kết những dân tộc đồng bệnh để chống kẻ thù chung.

15


Hạn chế của Phan Bội Châu là ở chỗ ông đã đồng nhất ngời Việt
Nam ai cũng yêu nớc nh nhau. Tuy vậy, ông đã chỉ ra con đờng cứu nớc
cho dân tộc ta, dân tộc muốn đòi quyền quốc dân đã mất trớc hết phải có ý
thức về quyền quốc dân. Để làm đợc điều đó, Phan Bội Châu đã kêu gọi
toàn dân ta phải dành lấy quyền làm chủ của dân với nớc. Theo đó, Phan
Bội Châu yêu cầu mỗi con ngời phải tự thức tỉnh đợc thực trạng vong quốc
của đất nớc.
Để khắc phục đợc những hạn chế của quốc dân, dân tộc phải tự đổi
mới (Phan Bội Châu gọi là tự tân). Bởi theo ông, có tự tân thì mới có
tự cờng, mới có sức mạnh để chiến thắng bản thân và chiến thắng kẻ thù.
Tinh thần đổi mới theo quan điểm của Phan Bội Châu gồm 6 điểm:
1.

Đổi mới ý chí thái độ, nâng cao chí tiến thủ.


2.

Đổi mới cách sống, đổi mới quan hệ, tăng cờng tinh thần thơng

mến tin yêu nhau.
3.

Đổi mới hành động nghề nghiệp.

4.

Đổi mới tinh thần trách nhiệm đối với dân, nớc.

5.

Đổi mới sự nghiệp công đức.

6.

Đổi mới nhận thức và đổi mới thực hành, mối quan hệ giữa lẽ

sống và cái chết; đổi mới quan hệ giữa tri và hành; danh và lợi; hoạ và phúc.
Theo Phan Bội Châu, ta phải tự mài gơng tri thức ta cho trong, ta
phải tự khêu đèn tri thức ta cho sáng, ta phải tự biết, tự mình suy nghĩ, tự
mình làm, ta phải biết tự tân để tự tồn, ta phải biết tự trọng, tự chủ, tự
bán cái dã man, tự mua cái văn minh trong tuỷ.
Với t tởng ấy, Phan Bội Châu muốn gửi gắm kì vọng của ông vào các
thế hệ ngời Việt Nam: hãy bằng chính sức mình đa đất nớc ta lên hàng
Quốc dân cao đẳng.


16


Tóm lại, nếu lịch sử t tởng Việt Nam cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX
là giai đoạn chuyển tiếp về t tởng, thì t tởng về Quốc dân tự lập của Phan
Bội Châu là một trong những t tởng thể hiện đợc tính chuyển tiếp ấy. Thông
qua đó, Phan Bội Châu đã nói lên khát vọng của cả dân tộc về nền độc lập,
tự do, dân chủ và vai trò to lớn của ngời dân trong công cuộc cách mạng
giải phóng dân tộc cũng nh canh tân đất nớc.
2. Quan điểm của Phan Bội Châu về vấn đề chủ quyền, quân chủ và
dân chủ
Chủ quyền là quyền làm chủ của một nớc trong các quan hệ đối nội
và đối ngoại. Đặt trong hoàn cảnh một dân tộc bị mất nớc Phan Bội Châu
cho rằng chủ quyền của một nớc là sự độc lập, tự chủ. Ông viết: Điều quan
trọng của nớc là ở chủ quyền, điều quan trọng của chủ quyền là ở độc lập
ý nghĩa chữ độc lập của Châu Âu là nói nớc đối với nớc, thì nớc mình với nớc ngoài không phải ỷ vào nhau, nớc ngoài với nớc mình không dám can
thiệp lẫn nhau.
Muốn có độc lập dân tộc, có chủ quyền cho nhân dân thì phải làm
cách mạng giải phóng dân tộc ra khỏi ách xâm lợc, áp bức bóc lột của thực
dân Pháp. Về vấn đề này, Phan Bội Châu đã tỏ ra không mệt mỏi, liên tục
kêu gọi, tổ chức nhân dân cả nớc đứng lên chống kẻ thù. Ông đã viết rất
nhiều tác phẩm thơ văn tuyên truyền yêu nớc trong thời gian này nh: Việt
Nam vong quốc sử, Hải ngoại huyết th, Tân Việt Nam, Sùng bái giai nhân,
Việt Nam quốc sử khảo
Bản chất của chủ nghĩa thực dân đợc Phan Bội Châu vạch trần bằng
hai chữ dơng bác, âm toan. Ông đã chỉ rõ sự tàn bạo của thực dân Pháp:
cái dã tâm của giặc Pháp nh hổ ngoạm, tằm ăn, không thể kể xiết, nhng
mối chính là cớp mạch sống của chúng ta. Chính phủ giặc đánh thuế chúng
ta muôn nghìn thứ, quân buôn của giặc cớp lợi quyền chúng ta đến tức triệu
đờng, đến nh cứt đái dơ bẩn cũng vơ vét hết, và càng năm càng thêm chứ

không thôi.
17


Bọn thực dân Pháp cớp nớc coi dân ta nh trâu, nh chó, nh cỏ, nh
rơm, chứ chẳng có gì là khai hoá văn minh cả. Ông tố cáo mạnh mẽ chính
sách ngu dân của chúng đối với nhân dân ta:
Trờng quốc học đặt tên Pháp Việt
Dạy ngời Nam đủ biết tiếng Tây
Trăm nghề Pháp học tinh vi
Ngời mình, mình cứ ngu si mặc mình
Phan Bội Châu nhận thức giặc là giặc, nớc đã mất thì dù có bầu máu
nóng đến đâu đi nữa, rồi cũng chả biết đem rới vào đâu đợc nữa. Ông luôn
nhấn mạnh chủ quyền của dân tộc là vấn đề số một, là nhiệm vụ trung tâm
của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, không có sự thoả hiệp giữa ngời
mất nớc và kẻ cớp nớc. Phan Bội Châu xác định trớc mắt dân tộc ta chỉ có
hai con đờng: một là rới máu tơi mà đánh kẻ gian nô, hãy vùng lên giết
sạch lũ chúng; hai là diệt chủng. Và ông kiên quyết chọn con đờng thứ
nhất.
Nh vậy, Phan Bội Châu đã xác định đợc một trong những quyền cơ
bản nhất, thiêng liêng nhất của loài ngời nói chung và của ngời Việt Nam
nói riêng là quyền làm chủ vận mệnh đất nớc. Điều đó cho thấy, mặc dù
ông không trực tiếp nói đến dân chủ nhng ông đã cụ thể hoá dân chủ với
tính cách là quyền lực của nhân dân, thành quyền làm chủ của nhân dân với
đất nớc.
Và sau khi giành đợc chủ quyền dân tộc, việc thiết lập chính quyền
nhà nớc sau một cuộc cách mạng là một vấn đề cốt tử, nó là yếu tố quan
trọng giúp ta xác định tính chất của một cuộc cách mạng xã hội.
Tuy vậy, ỏ Việt Nam đầu thế kỉ XX, việc tranh luận về thể chế nhà nớc trong tơng lai lại diễn ra trong một bối cảnh khá đặc biệt: Đất nớc đang ở
giai đoạn giao thời, các yếu tố kinh tế mới đang còn trong giai đoạn manh

nha, các giai cấp trong xã hội phân hoá cha thuần thục, ảnh hởng của phong
18


kiến còn mạnh, giai cấp t sản dân tộc cha hình thành Những yếu tố đó tác
động vào t tởng các sĩ phu yêu nớc trong việc xác định mô hình nhà nớc tơng
lai. Phan Bội Châu băn khoăn: nếu nh cách mạng thành công, thực dân Pháp
bị đánh đuổi rồi thì ai? (lực lợng nào? giai cấp nào?) sẽ nắm chính quyền, sẽ
xây dựng một chính thể quân chủ hay dân chủ?
Năm 1904, Duy Tân hội đợc thành lập, Phan Bội Châu và những ngời cùng chí hớng đã sử dụng Kì ngoại hầu Cờng Để (một ông hoàng thân)
làm ngọn cờ cho Duy Tân Hội. Các nhà sàn lập Duy Tân Hội theo xu hớng
quân chủ trong đờng lối chính trị của mình đó là vì: thứ nhất, họ đã chủ trơng yêu cầu sự viện trợ của Nhật Bản, mà Nhật Bản là một nớc quân chủ.
Thứ hai, chính Phan Bội Châu giải thích rằng chủ trơng quân chủ không
phải là do thích quân chủ hơn cộng hoà, chẳng qua là để lợi dụng chiêu
bài, là sách lợc nhất thời, nh vậy mới thiết lập đợc mặt trận thống nhất của
tất cả các lực lợng yêu nớc, kể cả thân sĩ, quan trờng, hoàng tộc, mới huy
động đợc nhiều tiền bạc, của cải và sức ngời để đánh đổ thực dân Pháp.
Mặc dù theo xu hớng quân chủ, nhng trong t tởng của mình, từ ngày
tiếp thu đợc t tởng của Tân th Phan Bội Châu đã hớng hẳn về các nớc Châu
Âu rồi, nhng Phan Bội Châu sợ rằng bây giờ mà đa ra chủ trơng dân chủ
cộng hoà thì hàng ngũ yêu nớc sẽ bị chia rẽ, nhân tâm li tán sẽ ảnh hởng
xấu đến phong trào chung. Cho nên, năm 1906, khi Phan Châu Trinh trở về
nớc vẫn tiếp tục công kích chủ trơng của Duy Tân Hội, Phan Bội Châu đã
viết th nói rõ ý đồ của mình, rằng đây là thủ đoạn tuy thời, tuỳ nghi. Phan
Bội Châu chân tình bày tỏ với Phan Châu Trinh dân không còn nữa mà chủ
với ai?. Từ khi thành lập Duy Tân Hội đến trớc khi thành lập Quang Phục
Hội, Phan Bội Châu đã luôn đề cập đến vai trò của nhân dân: Nếu không
dân cũng là không có gì, nớc non rửa mặt cũng nhờ có dân. Nói cách
khác, trong t tởng của Phan Bội Châu và một số chí sĩ thuộc Duy Tân Hội
sẵn có mầm mống dân chủ. Một mặt, mầm mống này hình thành nhờ hai

lần Phan Bội Châu gặp Tôn Trung Sơn tại Nhật Bản vào đầu năm 1905. Khi
19


ấy, Tôn Trung Sơn đã kịch liệt công kích chủ trơng quân chủ lập hiến của
Duy Tân Hội, yêu cầu cách mạng Việt Nam tham gia giúp Đảng cách mạng
Trung Quốc, sau khi cách mạng Trung Quốc thành công sẽ giúp ta giành
độc lập. Cuộc gặp gỡ với Tôn Trung Sơn cha đợc thoả thuận nào nhng Phan
Bội Châu và một số chí sĩ khác thuộc Duy Tân Hội đã thấy rằng chính thể
dân chủ cộng hoà là hay, là đúng công nhận chủ trơng quân chủ chỉ là nhất
thời. Mặt khác, trong quá trình cộng tác với Vân Nam tạp chí, tiếp xúc với
các nhà hoạt động cách mạng Trung Quốc đã kéo Phan Châu đến gần chủ
nghĩa dân chủ hơn. Trong Phan Bội Châu niên biểu ông viết: Tôi đợc trao
đổi với nhiều đảng viên cách mạng Trung Quốc nên ngày càng thấm nhuần
đợc t tởng dân chủ trong bụng đã chứa sẵn một động cơ thay đổi bắt đầu
từ đó. Trong cuộc Đại hội nghị Phan Bội Châu là ngời đầu tiên đề ra và
cũng là ngời tranh luận hăng háI nhất để bảo vệ chủ nghĩa dân chủ, cuối
cùng đã đợc chấp nhận. Tôn chỉ duy nhất khi Việt Nam Quang Phục Hội đợc thành lập là Đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục nớc Việt Nam, thành lập
Cộng hoà dân quốc Việt Nam. Điều đó cũng giải thích vì sao trong tuyên
ngôn của Quang Phục Hội có câu:
Muốn cho ích nớc lợi nhà
ắt là dân chủ cộng hoà mới xong
Nhìn lại từ lúc hình thành con đờng cứu nớc của Duy Tân Hội, Phan
Bội Châu có nói là cha có chủ nghĩa gì khác thì đến đây đã ghi nhận một
cái mốc chuyển biến lớn của t tởng dân chủ trong Phan Bội Châu. Nếu nh trớc đó, Phan Bội Châu mới chỉ dừng lại quyền của dân là trừng phạt những
vua tệ, quan h: Trên là vua nên để hay nên truất, dới là quan nên thăng hay
nên giáng, dân ta đều có quyền quyết đoán cả, thì nay ông khẳng định dân
có quyền khởi nghĩa đánh đổ chế độ quân chủ độc đoán: Nếu một vài ông
vua ngoan cố gian ác không muốn trao quyền cho dân, dân sẽ liên kết thành
đại đảng để tranh đấu. Nhng muốn thiết thực giải quyết vấn đề dân quyền

thì phải xây dựng một chế độ xã hội mới, trong đó vua chỉ giữ vị trí thứ yếu,
20


vua phải lấy dân làm trời, dân chính là kẻ đứng đầu trị nớc. Quân quyền ở
đây không còn là tuyệt đối nữa mà theo Phan Bội Châu, nó đã thu hẹp tới
mức sắc chiếu của hoàng đế rất đáng tôn trọng, nhng nếu nghị viện không
đồng ý thì cũng phải thu hồi mệnh lệnh đó, trong khi đó phiếu bầu hạ viện
do tổng tuyển cử của tất cả công dân. Chính quyền không đợc làm trái ý
dân, chính phủ là đại diện cho nhân dân cả nớc mà thôi, còn cái căn bản, cái
chốt thì là ở toàn dân. Nh vậy, Phan Bội Châu đã tạo nên bớc ngoặt trong t tởng quân chủ lập hiến sang dân chủ.
Nhng ngay trong bớc ngoặt của sự chuyển biến này, t tởng Phan Bội
Châu cũng có chỗ cha triệt để. Phan Bội Châu bị hạn chế bởi lập trờng của
giai cấp xuất thân và điều kiện lịch sử nên trong một thời gian dài ông đã
không ý thức đợc vai trò của nông dân trong cách mạng dân chủ. Xã hội mà
Phan Bội Châu mơ ớc thật là một xã hội quyền làm chủ thuộc về ngời dân,
nhng thực chất cái xã hội ấy, chính phủ là công cụ thống trị của giai cấp t
sản, còn dân quyền, tự do, bình đẳng chỉ là bách vẽ lừa bịp dân. Mâu thuẫn
đó trong đời sống hiện thực chính là nguồn gốc xã hội quy định mâu thuẫn
trong t tởng của Phan Bội Châu.
Tuy vậy, Phan Bội Châu là ngời đã đóng góp nhiều công sức vào việc
vận động không mệt mỏi cho độc lập dân tộc, giành lấy chủ quyền cho
nhân dân. T tởng dân chủ của ông có sức cổ vũ to lớn cho nhân dân Việt
Nam trong đấu tranh chống thực dân xâm lợc Pháp và bè lũ tay sai của
chúng.
3. Quan điểm của Phan Bội Châu về vấn đề phát triển kinh tế
Từ những năm đầu thế kỉ XX, song song với những hoạt động sôi nổi
của Hội Duy Tân do Phan Bội Châu lãnh đạo, mà xu thế phát triển là chuẩn
bị bạo động đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục độc lập chủ quyền cho dân tộc,
còn có những hoạt động công khai hợp pháp của nhóm Đông Kinh nghĩa

thục ngoài Bắc và nhóm Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý
Cáp trong Trung đề xớng duy tân, cải cách xã hội và phát triển kinh tế.
21


Bề ngoài tởng nh Phan Bội Châu xa lạ, không quan tâm tới, nhng thực ra
bên trong và đằng sau hai xu hớng đó vẫn có một mối liên hệ khá mật thiết.
Họ rất tán thởng quan điểm của Phan Bội Châu: Dân chí phải gấp mở
mang, dân khí phải gấp bồi dỡng để làm nền tảng cho việc cứu nớc. Và
những ngời cải cách coi đó là phơng châm hoạt động của mình. Giữa Phan
Bội Châu và nhóm sĩ phu cải cách, canh tân này gần nh có một sự phân
công: ngời đi Nhật tìm mua vũ khí, ngời ở lại trong nớc truyền bá t tởng
canh tân, đôn đốc thực nghiệp. Giữa họ cũng không có gì mâu thuẫn, đều là
vì nớc, vì dân cả. Họ không khác nhau về mục đích mà chỉ khác nhau về
cách làm.
Mùa thu năm 1905, khi từ Nhật Bản về nớc lần thứ nhất, nhận thức
của Phan Bội Châu về tầm quan trọng của việc chấn hng kinh tế phục vụ
cho công cuộc vận động cách mạng, canh tân đất nớc đã đợc xác lập hơn
một bớc so với trớc khi ông xuất dơng. Nhận thức rõ tình trạng chậm trễ,
lạc hậu ghê gớm của đất nớc, và cho rằng chính tình trạng xấu ấy đã làm
cho đất nớc mình bị hèn yếu nên khi việc cầu viện quân sự bị thất bại,
Phan Bội Châu thấy đã cần phải thay đổi kế hoạch. Ông thấy cần phải có
một thời kì chuẩn bị khá dài để tạo cơ sở thực sự vững chắc. Vì vậy,
nhiệm vụ canh tân đất nớc, đa nớc nhà tiến kịp trình độ các nớc văn minh
phải đợc đặt ra một cách bức thiết, và coi đó là một sự hỗ trợ không thể
thiếu đợc đối với nhiệm vụ đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục độc lập dân tộc
cho Tổ Quốc Việt Nam. Bởi vậy, đầu năm 1906, sau khi Đặng Nguyên
Cẩn (một sĩ phu hoạt động theo xu hớng công khai hợp pháp) đề nghị với
Phan Bội Châu lập ra các hội Nông, Thơng, Học thì Phan Bội Châu đồng ý
ngay. Đến khoảng tháng 6 1906, khi trở sang Hơng Cảng, Phan Bội

Châu lập ra Việt Nam thơng đoàn công hội vừa là để kinh doanh lợi
chung, vừa là trạm nghỉ chân cho các đoàn Đông Du. Những việc làm cụ
thể đó đã đánh dấu sự chuyển hớng t tởng của Phan Bội Châu vào vấn đề
phát triển kinh tế, một mặt hoạt động không thể thiếu đợc trong chủ trơng
chính trị của ông giai đoạn này.
22


Lý tởng của Phan Bội Châu là phấn đấu cho một nớc Việt Nam độc
lập và giàu mạnh. Muốn vậy, về mặt kinh tế, phải lo phát triển kinh doanh,
sản xuất để tăng thêm của cải cho đất nớc. Phan Bội Châu cho rằng sự giàu
có về của cải là cơ sở vững chắc cho nền độc lập lâu dài của đất nớc, cho
phong trào Đông Du. Do đó, ông phải lu ý đến tài chính và của cải vật chất.
Ông đã nói lên ý đó trong lời thơ gửi về nớc:
Than ôi nỗi sự đời gian khổ,
Khổ gì hơn không có của dùng
Từ năm 1903, Phan Bội Châu đã đề cập đến vấn đề tài sản khi viết Lu
Cầu huyết lệ tân th: Tài sản là huyết mạch của nớc, huyết mạch phảI lu
thông trong tay chân và ngón đốt, không thẻ một khắc gián đoạn. Ông
cũng quan niệm rõ tài sản không chỉ là t liệu sản xuất, t liệu tiêu dùng mà
còn bao gồm cả tiền tệ. Phan Bội Châu đặc biệt nhấn mạnh những của cải
tồn tại dới dạng tiền tệ. Đồng tiền giữ vai trò đại biểu cho sức sống của xã
hội. Ông viết: Tiền của tức là máu mỡ của quốc gia. ở đây tôi không nói là
không nên yêu tiếc. Nhng yêu tiếc thì phải bảo vệ nó, làm cho nó sinh sôi
nảy nở, khiến cho tiền đó thành vật sống mà không phải vật chết. Phan Bội
Châu còn nói: Thân mình làm ra của cải thì phải lấy của cải đó mà mở
thêm thân. Đó mới là việc làm đủ cả trí lẫn thân. Lấy tiền của của mình
đã tích trữ để hô hào quốc dân hoặc mở thơng điếm hoặc lập ngân hàng,
liên hợp nhiều ngời góp vốn làm công lợi. Của ta có hạn nhng lợi thì khôn
cùng.

Mặc dầu lúc nay cha hiểu t bản là gì nhng Phan Bội Châu đã thấy
rõ cần phải biết sử dụng đồng tiền để biến nó thành món to, chớ không
phảI một món nhỏ. Phan Bội Châu nhận thấy cần thiết phải làm cho đồng
tiền sinh lợi, nên ông kêu gọi mọi ngời hãy sẵn sang góp tiền kinh doanh,
đem dùng vào những công cuộc hữu ích để lo lợi ích chung.
Ông nêu gơng sáng của các nớc Châu Âu, Nhật Bản trong việc sử
dụng tiền tệ vào những việc phát triển kinh tế, mang lại lợi ích chung cho
23


xã hội, đồng thời chỉ trích nớc mình chỉ lo giữ tiền làm ứ đọng vốn. Ông
còn công kích cả những ngời chỉ biết dùng đồng tiền vào những việc xa xỉ,
ăn uống no say Ngời ta sinh ra trăm tuổi rồi cũng chết. Lúc chết thì trong
tay không có một đồng. Khi sống thì no say. Chết rồi mục nát. Chi bằn
giảm bớt các thức ăn ngon, thức béo của mình để lo lợi ích chung cho công
chúng, tự mình đứng ra hô hào mọi ngời cùng vui vẻ nghe theo. Tóm lại,
đối với Phan Bội Châu đồng tiền phải luôn luôn trở thành vốn liếng để tăng
thêm của cảI vật chất cho quốc gia.
ở đây, vấn đề của cải vật chất đợc đặt ra gắn liền với một tinh thần
dân tộc mạnh mẽ. Ông rất đau xót khi thấy ở trong nớc tiền bạc tiêu hao,
của trời đất sinh ra để cho ngời ngoài ăn nuốt hết. Rõ ràng quan niệm trên
đây của Phan Bội Châu về của cải vật chất không tách rời với chủ nghĩa yêu
nớc.
Xuất phát từ quan niệm cần phải làm cho đồng tiền sinh sôi nảy
nở, Phan Bội Châu đã chủ trơng phải biết buôn bán và lập các Hội công thơng, bao gồm trong đó các ngành sản xuất thủ công và buôn bán hàng nội
hoá. Đối với ông việc buôn bán cũng là nhằm mục đích phục vụ cho công
cuộc vận động cách mạng. Chủ đề buôn bán cũng đợc Phan Bội Châu và
các đồng chí trong Duy Tân Hội nhắc lại nhiều lần trong các tác phẩm thơ
văn tuyên truyền yêu nớc lúc bấy giờ nh: Gọi hồn quốc dân, Hợp quần
doanh sinh thuyết, Lão Bạng phổ khuyến th

Từ những năm 1906 1909, hớng hoạt động chủ yếu của Duy Tân
Hội và Phan Bội Châu là tập trung vào chơng trình xây dựng phát triển kinh
tế, nó cũng quan trọng nh gửi thanh niên đi học. Đó là hai nhiệm vụ chính
trị phảI đợc tiến hành song song và hỗ trợ lẫn nhau.
Về việc buôn bán để sinh lợi, ngoài việc chú trọng vấn đề giao lu
hàng hoá giữa các khu vực kinh tế khác nhau trong nội địa giữa miền núi
với đồng bằng, trong Nam với ngoài Bắc, Phan Bội Châu cũng nhấn mạnh
đến tầm quan trọng của vấn đề buôn bán với nớc ngoài để khắc phục tình
24


trạng mấy lâu nay của cải của dân ta nh dầu mỡ cứ ra hoài không vào.
Ông mong muốn hàng hoá của chúng ta xuất cảng ngày càng nhiều và vợt
hẳn khối lợng phải nhập cảng: Việc buôn bán càng đợc mở mang, ngời nớc ta lại đồng lòng hiệp sức chịu xuất của cải ra để tranh đua với nớc ngoài
trên đờng buôn bán.
Về vấn đề góp vốn, Phan Bội Châu cho rằng không có nhiều vốn
thì không thể mở rộng đợc thơng điếm, sẽ không mong có cái tiểu thành
hoặc đại thành. Nhng vấn đề mà Phan Bội Châu quan tâm hơn cả là ở chỗ
mọi ngời phải đoàn kết, hợp quần với nhau trong một hoạt động có tổ chức,
ngời góp của, kẻ góp công để mu việc chung. Những ngời làm công việc
quản lí hay đứng đầu một công ty, theo ông là những ngời có đạo đức,
danh vọng, những ngời siêng năng, cần mẫn, đợc mọi ngời tin phục cử
ra.
Trong t tởng kinh tế của Phan Bội Châu, vấn đề sản xuất nông nghiệp
cũng chiếm một vị trí quan trọng. Đây cũng là một ngành sản xuất đem lại
của cải vật chất, làm giàu cho đất nớc. Nếu nh nền nông nghiệp của nớc ta
thực sự phát đạt rồi, thì ngời làm nghề nông lúc bấy giờ sẽ đợc thuận lợi
nhiều bề và rồi lúa gạo đầy đất, giàu mạnh tột trời. Hơn thế nữa, đối với
một nớc mà công thơng nghiệp cha phát triển nh Việt Nam thì nghề nông
càng có vai trò quan trọng trong đời sống quốc gia. Phan Bội Châu kêu gọi

nhân dân cả nớc hãy góp công sức, vốn liếng cùng nhau đẩy mạnh sản xuất
nông nghiệp, gieo trồng hết số ruộng đất thành thục sẵn có, chú ý đến việc
sản xuất đúng thời vụ để thu hoạch đợc nhiều. Phan Bội Châu còn đề cập tới
cả kĩ thuật trong nông nghiệp nh vấn đề dẫn nớc vào cho ruộng tốt, làm đợc
nhiều mùa, nếu sức ngời không đủ thì sẽ có máy móc giúp cho. Ông
cho rằng mỗi một tấc đất là một tấc vàng không đợc bỏ phí. Đó là những
nét mới trong t tởng của Phan Bội Châu.
Ngoài ra, đối với các ngành sảnh xuất công nghiệp, Phan Bội Châu
chú ý đến quan hệ sản xuất và quy mô sản xuất. Điều ông nhấn mạnh hơn
25


×