Tải bản đầy đủ (.docx) (163 trang)

Vận dụng kinh nghiệm dân gian của người dao ở Bắc Giang trong làm nông nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (945.24 KB, 163 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tính đa dạng của nền văn hoá Việt Nam đƣợc thể hiện bằng những giá
trị văn hoá đặc sắc của cộng đồng 54 dân tộc anh em. Trong nền văn hoá đa
dạng mà thống nhất ấy, những giá trị văn hoá của cộng đồng các dân tộc ít
ngƣời có vị trí quan trọng. Với điều kiện địa lí tự nhiên khác nhau, mỗi dân
tộc đã tìm ra phƣơng thức ứng xử thiên nhiên khác nhau, hình thành tập quán
sản xuất. Đây có thể đƣợc coi là một lâu đài văn hóa đồ sộ của mỗi tộc
ngƣời, là sản phẩm đƣợc tích lũy, chắt lọc qua hàng ngàn năm lịch sử, tạo
nên bản sắc văn hóa dân tộc, làm thành chuẩn mực để phân biệt dân tộc này
với dân tộc khác. Tuy nhiên, hiện nay, những giá trị văn hoá đã bị mai một,
thậm chí biến mất. Yêu cầu đặt ra là phải có biện pháp giữ gìn, phát huy
những di sản văn hoá đó.
Lục Nam là một huyện miền núi của tỉnh Bắc Giang với 8 dân tộc anh
em sinh sống, trong đó ngƣời Dao cƣ trú chủ yếu ở 4 xã Lục Sơn, Bình Sơn,
Vô Tranh, Trƣờng Sơn. Quá trình đấu tranh lâu dài với thiên nhiên, lao động
sản xuất để sinh tồn đã hình thành những kinh nghiệm sản xuất và đƣợc
truyền từ đời này sang đời khác tạo nên bản sắc văn hoá của ngƣời Dao nơi
đây. Tuy nhiên, để hội nhập và phát triển, việc thay đổi tập quán sản xuất và
áp dụng khoa học kĩ thuật mới là yêu cầu cấp thiết đối với nông nghiệp của
ngƣời Dao ở Lục Nam. Trong số kĩ thuật mới đƣợc áp dụng có những kĩ
thuật đem lại hiệu quả sản xuất, nhƣng cũng có kĩ thuật không phù hợp với
đặc thù về nơi cƣ trú, về tập quán và tổ chức xã hội. Điều đó cho thấy tập
quán sản xuất nông nghiệp của đồng bào dân tộc Dao ở Lục Nam có những
điểm tích cực cần đƣợc phát huy. Việc nghiên cứu về những tri thức dân gian
trong sản xuất nông nghiệp sẽ giúp các cơ quan quản lý có thêm cơ sở để giải
Vietluanvanonline.com

Page 1




2
quyết tốt vấn đề trên, nhằm tạo ra sự phát triển nông nghiệp bền vững, góp
phần xây

Vietluanvanonline.com

Page 2


dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của tộc ngƣời Dao ở Lục
Nam tỉnh Bắc Giang.
Với những lý do trên, tôi chọn nghiên cứu đề tài “Tri thức dân gian
trong sản xuất nông nghiệp của người Dao ở huyện Lục Nam tỉnh Bắc
Giang”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Về Tri thức dân gian trong sản xuất nông nghiệp của người Dao ở
huyện Lục Nam tỉnh Bắc Giang đã đƣợc nhiều nhà khoa học nghiên cứu ở các
góc độ khác nhau. Trong tác phẩm Kiến văn tiểu lục của tác giả Lê Quí Đôn
viết năm 1778 đã đề cập tới ngƣời Man (ngƣời Dao) về phong tục tập quán
và địa vực cƣ trú của họ. Đây là cơ sở để làm rõ tên gọi, những nét cơ bản về
văn hóa và địa bàn cƣ trú của dân tộc Dao ở nƣớc ta cũng nhƣ trên địa bàn
huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.
Năm 1971, chuyên khảo công phu về ngƣời Dao của Viện dân tộc học
xuất bản với nhan đề “Người Dao ở Việt Nam” đã nghiên cứu một cách tổng
thể về ngƣời Dao ở nƣớc ta về nhiều mặt nhƣ nguồn gốc ngƣời Dao, đời
sống vật chất và tinh thần của các nhóm ngƣời Dao sống ở nƣớc ta.
Bài viết Bước đầu tìm hiểu các nhóm Dao ở Việt Nam (Nguyễn Khắc
Tụng, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 87/1996) và đề tài nghiên cứu Trang

phục cổ truyền của người Dao ở Việt Nam (Nông Quốc Tuấn, Bảo tàng văn
hóa các dân tộc Việt Nam, năm 2000) đã làm rõ đƣợc cách phân biệt các
nhóm Dao ở Việt Nam qua trang phục của ngƣời phụ nữ. Các công trình đề
cập tới sự phân bố các nhóm Dao ở nƣớc ta, đây lại là một bằng chứng nữa để
phân biệt các nhóm Dao và địa bàn cƣ trú của họ trong đó có ở huyện Lục
Nam, tỉnh Bắc Giang.

Vietluanvanonline.com

Page 3


Cuốn Lịch sử Lục Nam do Ban thƣờng vụ huyện uỷ Lục Nam tổ chức
biên soạn và xuất bản năm 1994 đã trình bày những nét cơ bản về huyện Lục

Vietluanvanonline.com

Page 4


Nam và ngƣời Dao sống trên địa bàn. Tác phẩm đề cập tới vị trí địa lí, điều
kiện tự nhiên của huyện Lục Nam. Những nội dung không chỉ đề cập tới nghề
sống chính của dân tộc Kinh chiếm đa số mà còn đề cập tới nghề sống chính
của bộ phận ngƣời Dao ở đây, đó là nghề nông nghiệp. Tác phẩm cho thấy
tầm quan trọng của nông nghiệp trong đời sống của ngƣời Dao nơi đây và đặc
biệt với tầm quan trọng nhƣ vậy họ đã có những cách thức sản xuất nhƣ thế
nào để đảm bảo cuộc sống.
Công trình Địa chí Bắc Giang - Địa lí và kinh tế, do Sở văn hoá thông
tin Bắc Giang phối hợp với Trung tâm UNESCO thông tin tƣ liệu lịch sử và
văn hoá Việt Nam, (năm 2003), đã giới thiệu về dân tộc Dao ở Bắc Giang từ

địa vực cƣ trú, truyền thống văn hoá đến tập quán canh tác.
Các công trình Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Giang (2003) và Lịch sử
Đảng bộ huyện Lục Nam (2003) đã giới thiệu sơ lƣợc về ngƣời Dao nhƣ địa
bàn cƣ trú, tên gọi của các nhóm ngƣời Dao tại địa phƣơng và những truyền
thống của họ trong đời sống văn hóa vật chất và tinh thần. Tác phẩm, là cơ sở
để giải thích và làm rõ quá trình di cƣ và tên gọi các nhóm ngƣời Dao ở
huyện Lục Nam.
Năm 2006, Bảo tàng Bắc Giang xuất bản công trình “ Di sản văn hoá
Bắc Giang về Văn hoá phi vật thể”, tác phẩm là sự khái quát về những nét văn
hóa phi vật thể của cộng đồng các dân tộc ở tỉnh Bắc Giang trong đó có đề
cập tới ngƣời Dao về địa bàn cƣ trú, những nét văn hoá tiêu biểu của họ trong
đời sống vật chất và tinh thần. Tác phẩm cũng đã cơ bản giới thiệu đƣợc
những tri thức dân gian của dân tộc Dao ở Bắc Giang trong các lĩnh vực của
đời sống trong đó có những tri thức dân gian liên quan tới lĩnh vực nông
nghiệp.
Những kết quả nghiên cứu trên đây chính là ý kiến gợi mở, nguồn tài
liệu quan trọng giúp tác giả tiếp cận và nghiên cứu đề tài.
Vietluanvanonline.com

Page 5


3. Đối tƣợng, mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu: Tri thức dân gian trong sản xuất nông nghiệp
bao gồm các hoạt động trồng trọt và chăn nuôi của dân tộc Dao ở huyện Lục
Nam, tỉnh Bắc Giang trong truyền thống và hiện tại.
Mục đích: Nghiên cứu tri thức dân gian truyền thống và hiện tại
trong sản xuất nông nghiệp của ngƣời Dao ở huyện Lục Nam. Nghiên cứu
đó xác định những tri thức nào đã biến đổi, sự biến đổi đó phù hợp hoặc
không phù hợp với điều kiện tự nhiên, môi trƣờng sinh thái và phƣơng thức

canh tác hiện tại. Từ đó, đề xuất hƣớng áp dụng khoa học kĩ thuật có hiệu
quả nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững ngành kinh tế nông nghiệp của
ngƣời Dao ở địa phƣơng.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Khái quát về vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên và nguồn gốc của ngƣời Dao của
huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.
- Hệ thống lại những tri thức dân gian trong sản xuất nông nghiệp của ngƣời
Dao ở huyện Lục Nam trong truyền thống.
- Làm rõ sự biến đổi của tri thức dân gian trong sản xuất nông nghiệp dƣới tác
động của các yếu tố nội sinh và ngoại sinh thời điểm hiện nay. Từ đó đề xuất
các giải pháp nhằm phát huy tính tích cực của tri thức dân gian của ngƣời
Dao trong sản xuất nông nghiệp.
Phạm vi nghiên cứu:
Về mặt không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu các thôn bản có
đông ngƣời Dao sinh sống, đó là 4 xã Lục Sơn, Bình Sơn, Vô Tranh và
Trƣờng Sơn - huyện Lục Nam.

Vietluanvanonline.com

Page 6


Về mặt thời gian: Nghiên cứu những tri thức dân gian trong sản xuất
nông nghiệp truyền thống và hiện tại.

Vietluanvanonline.com

Page 7



4. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu của
đề tài Nguồn tƣ liệu
Nguồn tài liệu chung: Bao gồm một số sách sử và địa chí cổ; các công
trình nghiên cứu, sách, báo, tạp chí đã xuất bản của các nhà khoa học trong và
ngoài nƣớc.
Nguồn tài liệu địa phƣơng: Các công trình nghiên cứu về lịch sử, lịch
sử Đảng bộ và văn hoá tộc ngƣời ở tỉnh Bắc Giang nói chung và huyện Lục
Nam nói riêng.
Nguồn tƣ liệu điền dã: Bao gồm sự quan sát trực tiếp cảnh quan, môi
trƣờng, nguồn tài liệu truyền miệng thông qua phỏng vấn trực tiếp.
Phƣơng pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp lịch sử nghiên cứu khái quát về huyện Lục Nam, nguồn
gốc tộc ngƣời, các tập quán trong sản xuất nông nghiệp của ngƣời Dao nơi
đây và những biến đổi của nó trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Phƣơng pháp logic nhằm rút ra những nhận xét, đánh giá khách quan về vấn
đề nghiên cứu, giúp ngƣời đọc có cái nhìn hệ thống và khái quát về những tri
thức trong nông nghiệp của ngƣời Dao ở huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.
Phƣơng pháp điền dã dân tộc học khai thác đƣợc nguồn tƣ liệu thực tế
không đƣợc ghi lại thành văn đồng thời khẳng định tính chính xác của nó.
Ngoài ra, đề tài còn kết hợp với một số phƣơng pháp khác nhƣ so sánh, đối
chiếu, phân tích, tổng hợp các nguồn tƣ liệu liên quan để rút ra những kết
luận khoa học.
5. Đóng góp của luận văn
Luận văn hệ thống đƣợc những tri thức dân gian trong sản xuất nông
nghiệp của ngƣời Dao ở huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang nhƣ: chọn đất, chọn
giống, lựa chọn thời vụ, cách thức chăm sóc, bảo quản sản phẩm...
Vietluanvanonline.com

Page 8



Qua nghiên cứu Tri thức dân gian trong sản xuất nông nghiệp của
người Dao ở huyện Lục Nam tỉnh Bắc Giang làm sáng tỏ sự biến đổi của tri
thức dân gian trong sản xuất nông nghiệp dƣới tác động của các yếu tố nội
sinh và ngoại sinh. Đây sẽ là cơ sở ý tƣởng cho các công trình nghiên cứu
khoa học sau này.
Luận văn cũng góp phần vào việc giới thiệu bản sắc văn hoá của dân
tộc Dao ở huyện Lục Nam nói riêng và cộng đồng các dân tộc ở tỉnh Bắc
Giang nói chung. Luận văn là nguồn tƣ liệu cho dạy học lịch sử địa phƣơng,
giáo dục tƣ tƣởng tình cảm yêu quê hƣơng, đất nƣớc.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, nội dung chính của luận văn đƣợc chia
thành 3 chƣơng.
Chƣơng 1. Khái quát về huyện Lục Nam tỉnh Bắc Giang.
Chƣơng 2. Tri thức dân gian trong sản xuất nông nghiệp của ngƣời
Dao ở huyện Lục Nam tỉnh Bắc Giang trong truyền thống.
Chƣơng 3. Sự biến đổi của tri thức dân gian trong sản xuất nông
nghiệp của ngƣời Dao ở huyện Lục Nam tỉnh Bắc Giang hiện nay.
Cuối cùng là tài liệu tham khảo, phụ lục bao gồm một số bảng biểu và
ảnh minh họa.

Vietluanvanonline.com

Page 9


CHƢƠNG 1

KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN LỤC NAM
Lịch sử hành chính huyện Lục Nam

Vùng đất Lục Nam ngày nay vốn thuộc địa phận huyện Na Ngạn thời
Lý- Trần; huyện Na Ngạn - Lục Na thời thuộc Minh; huyện Lục Ngạn thời Lê
sơ; huyện Lục Ngạn, Phƣợng Sơn thời Mạc; huyện Lục Ngạn - Phƣợng Nhãn
- Bảo Lợi thời Lê trung hƣng - Tây Sơn và thời Nguyễn.
Thời kỳ thực dân Pháp thống trị, năm 1889, thực dân Pháp thành lập tỉnh
Lục Nam, tỉnh lỵ đóng ở thị trấn Lục Nam. Năm 1891, tỉnh Lục Nam bị giải
thể, thuộc về tỉnh Bắc Ninh [3, tr.7].
Sau ngày hòa bình lập lai, ngày 21 tháng 1 năm 1957, huyện Lục Nam
đƣợc thành lập (thuộc tỉnh Bắc Giang). Theo Nghị định số 24-Ttg của Thủ
tƣớng Chính phủ, 3 xã Cẩm Lý, Vũ Xá, Đan Hội thuộc huyện Chí Linh của
Hải Dƣơng; 2 xã Yên Sơn, Bắc Lũng thuộc huyện Yên Dũng - Bắc Giang; 7
xã: Hoà Bình A, Tam Dị, Bảo Đài, Bảo Sơn, Tiên Hƣng, Phƣơng Sơn, Tân
Lập thuộc huyện Lạng Giang-Bắc Giang đƣợc trả về huyện Lục Ngạn (cũ).
Trên cơ sở hai huyện là Lục Ngạn và Sơn Động (cũ) chia thành 3 huyện là
Lục Ngạn, Sơn Động và Lục Nam. Khi ấy, Lục Nam có 19 xã và 1 thị trấn:
Nam Sơn, Cẩm Lý, Vũ Xá, Đan Hội, Yên Sơn A, Yên Sơn B, Bắc Sơn, Bắc
Lũng, Bảo Đài, Bảo Sơn, Tam Dị, Hoà Bình A, Hoà Bình B, Tiên Hƣng, Tân
Lập, Phƣơng Sơn, Mỹ An, Nghĩa Phƣơng, Trƣờng Sơn và Thị trấn Lục
Nam. Theo Nghị định số 535-TC CQNTNĐ kí ngày 6 - 9 - 1957 hai xã là
Nam Sơn và Bắc Lũng đƣợc chia thành 4 xã là: Nam Sơn, Cƣơng Sơn, Bắc
Lũng và Khám Lạng [3, tr.7].
Ngày 28-7-1958, Bộ Nội vụ ra Nghị định số 241-NV chia xã Phƣơng
Sơn thành 2 xã Phƣơng Sơn và Thanh Sơn; chia xã Hoà Bình B thành 2 xã
Vietluanvanonline.com

Page 10


Đông Hƣng và Tiên Nha; chia xã Yên Sơn B thành 2 xã Bình Sơn và Hùng
Sơn; chia xã Mỹ An thành 2 xã Mỹ An và Trƣờng Giang. Đồng thời theo

Nghị định, xã Mỹ An đƣợc chuyển về huyện Lục Ngạn, còn xã Lan Mẫu
thuộc huyện Yên Dũng đƣợc chuyển về huyện Lục Nam.
Thực hiện chỉ thị số 23-TTg kí ngày 15-4-1963 của Thủ tƣớng Chính
phủ, 2 xã đƣợc trả lại tên cũ là Hoà Bình A thành Chu Điện và Bắc Sơn thành
Vô Tranh, 4 xã đƣợc đổi tên mới là Tân Lập thành Đông Phú, Hùng Sơn
thành Lục Sơn, Thanh Sơn thành Thanh Lâm và Nam Sơn thành Huyền Sơn.
Kể từ đây, huyện Lục Nam có 25 xã và 1 thị trấn: Bảo Đài, Bắc Sơn,
Bắc Lũng, Bình Sơn, Cẩm Lý, Cƣơng Sơn, Chu Điện, Đan Hội, Đông Phú,
Đông Hƣng, Huyền Sơn, Khám Lạng, Lan Mẫu, Lục Sơn, Nghĩa Phƣơng,
Phƣơng Sơn, Tam Dị, Tiên Nha, Tiên Hƣng, Thanh Lâm, Trƣờng Giang,
Trƣờng Sơn, Vũ Xá, Vô Tranh, Yên Sơn và Thị trấn Lục Nam.
Ngày 18-2-1997, Chính phủ ra Nghị định số 19/CP thành lập Thị trấn
Đồi Ngô trên cơ sở tách một phần dân cƣ từ xã Chu Điện, Tiên Hƣng, Tam
Dị. Thị trấn huyện lị Đồi Ngô đƣợc đầu tƣ qui hoạch, xây dựng kết cấu hạ
tầng thành trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của huyện.
Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên
Lục Nam là huyện miền núi, nằm ở phía Đông - Nam của tỉnh Bắc
Giang, có diện tích tự nhiên 59.858 ha. Địa hình của huyện chia thành ba
vùng: vùng núi, vùng trung du và chiêm trũng. Diện tích đất nông nghiệp là
14.800 héc ta, diện tích đất rừng và đồi là 31.170 héc ta.
Huyện Lục Nam nằm ở vị trí từ 21 độ 11 phút đến 21 độ 27 phút vĩ độ
Bắc; từ 106 độ 18 phút đến 106 độ 41 phút kinh độ Đông. Phía Bắc huyện

Vietluanvanonline.com

Page 11


Lục Nam giáp huyện Lục Ngạn, phía Tây Bắc giáp tỉnh Lạng Sơn, phía Nam
giáp hai tỉnh Quảng Ninh và Hải Dƣơng, phía Đông giáp huyện Sơn Động,


Vietluanvanonline.com

Page 12


phía Tây giáp hai huyện là Lạng Giang và Yên Dũng. Trung tâm huyện cách
Hà Nội 100km và cách thành phố Bắc Giang 25km.
Do nằm ở vị trí chuyển tiếp giữa khu vực núi rừng Đông - Bắc với khu
vực Trung du và đồng bằng Bắc bộ nên khí hậu Lục Nam có tính đa dạng của
chế độ hoàn lƣu gió mùa nhiệt đới phức hợp, có phân hóa rõ rệt theo mùa.
0

Nhiệt độ bình quân hàng năm là 22,9 C. Do sự ảnh hƣởng của địa hình nên
trong cùng một huyện cũng có sự chênh lệch về nhiệt độ, tạo ra những tiểu
vùng khí hậu khác nhau. Số ngày mƣa của huyện trong năm trung bình là 107
ngày, mƣa phân bố không đều giữa các vùng trong huyện, giữa các tháng
trong năm. Mùa mƣa kéo dài từ tháng 4 đến tháng 9, tập trung ở các tháng 6,
7 và 8 (chiếm từ 50 - 60% lƣợng nƣớc mƣa của cả năm).
Huyện Lục Nam có Sông Lục Nam chảy qua từ đầu đến cuối huyện.
Sông Lục Nam phát nguyên từ Đình Lập (Lạng Sơn), thời cổ mang tên là
Minh Đức và đƣợc mệnh danh là một Trƣờng Giang đẹp nhất Bắc Kì. Sông
dài 178 km, chi lƣu là các sông Cẩm Đàn, sông Thanh Luận, sông Bò. Đối
với huyện, đây là nguồn nƣớc chính phục vụ cho nông nghiệp. Nƣớc từ sông
Lục Nam đƣợc dẫn qua các kênh mƣơng về các đầm, ao, hồ tạo ra hệ thống
thủy lợi phong phú, thuận lợi. Ven sông hình thành các làng chài đánh bắt cá
và đây cũng là nghề sống chủ yếu của các làng sống ven sông. Sông Lục, núi
Huyền còn tạo ra một cảnh tƣợng hùng vĩ, rất đẹp, là nguồn lợi cho du lịch
đang đƣợc quan tâm đầu tƣ và khai thác.
Đất đai của huyện Lục Nam rất đa dạng. Đất đồi, đƣợc hình thành chủ

yếu do sự phong hóa của các loại đá mẹ sa thạch và phiến thạch, một phần do
sự phong hoá của đất phù sa cổ, do đó đất đồi của Lục Nam nghèo dinh

Vietluanvanonline.com

Page 13


dƣỡng. Đất ruộng, loại đất này cũng có nhiều loại nhƣng chủ yếu đƣợc chia
làm 3 nhóm là đất ruộng lúa nƣớc có nguồn gốc Feralit, có nguồn gốc Feralit

Vietluanvanonline.com

Page 14


bạc mầu và lúa nƣớc có nguồn gốc phù sa. Nhìn chung, đất ruộng của Lục
Nam diện tích không lớn, ít dinh dƣỡng.
Toàn huyện có 26.300 ha rừng, trong đó rừng tự nhiên và rừng tái sinh
là 14.300 ha. Rừng nguyên sinh với hai ba tầng cây, tầng thứ nhất với các loại
hầu hết là gỗ quý nhƣ đinh, lim, sến, táu, dẻ; tầng thứ hai là những cây thấp cây bụi nhƣ tre, nứa, song, mây. Tuy nhiên, do khai thác chƣa hợp lí nên
rừng nguyên sinh diện tích còn lại không nhiều, chủ yếu là rừng tái sinh, khó
định tầng, bề ngoài rậm rạp, độ che tán lớn, nhƣng bên trong rỗng, cây to gỗ
lớn còn lại ít, phần lớn là gỗ tạp hoặc rừng tre, nứa xen gỗ tạp. Nhiều nơi,
chân núi và sƣờn núi vẫn còn rừng cây che phủ nhƣng đến gần đỉnh núi chỉ
có cây bụi hoặc sim, mua, ràng ràng, cỏ gianh. Huyện Lục Nam có mỏ than
bùn khá lớn, tập trung chủ yếu ở 2 xã là Lục Sơn và Trƣờng Sơn. Ngoài ra
còn có đất sét, có hai loại là đất sét chịu lửa và đất sét làm gạch ngói.
Nhìn chung, huyện Lục Nam có điều kiện thuận lợi về đất, nƣớc, rừng
để phát triển nền nông lâm nghiệp đa dạng về cây trồng, vật nuôi đảm bảo

cuộc sống ổn định cho đồng bào các dân tộc tại địa phƣơng.
Nguồn gốc ngƣời Dao ở huyện Lục Nam
Tên gọi và nguồn gốc tộc người
Ngƣời Dao ở Việt Nam có khoảng 600 nghìn ngƣời cƣ trú ở 18 tỉnh (Hà
Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Cao Bằng, Yên Bái, Quảng Ninh, Thái
Nguyên, Bắc Cạn, Lai Châu, Lạng Sơn, Hoà Bình, Sơn La, Phú Thọ, Bắc
Giang, Thanh Hoá, Đắc Lắc, Đồng Nai và Hà Tây). Do nhiều biến cố lịch sử,
ngƣời Dao ở Trung Quốc phân tán thành nhiều nhóm nhỏ trong đó có một số
nhóm vào Việt Nam "Không còn nghi ngờ gì nữa, họ vốn có nguồn gốc ở
Trung Quốc, quá trình thiên di của họ vào Việt Nam là một thời kỳ dài". [8,
tr. 56]. Do nhiều biến cố lịch sử nhƣ, một bộ phận ngƣời Dao đã
Vietluanvanonline.com

Page 15


phải di cƣ vào Lạng Sơn và Quảng Ninh (Việt Nam) rồi từ đây đi sang các
huyện Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam và Yên Thế của Bắc Giang qua
nhiều thời kì, bằng nhiều con đƣờng, với nhiều nhóm địa phƣơng khác
nhau để sinh cơ lập nghiệp. [27; tr. 299].
Mặc dù có rất nhiều nhóm Dao với những tên gọi khác nhau, nhƣng căn
cứ vào đặc điểm văn hoá mà nét chủ yếu của nó là trang phục phụ nữ, các nhà
khoa học chia ngƣời Dao ở Việt Nam thành các nhóm sau đây:
+ Dao Đỏ còn có tên Dao Cóc Ngáng, Dao Sừng, Dao Dụ Lạy
+ Dao Quần Chẹt (Dao Sơn Đầu, Dao Tam Đảo, Dao Nga Hoàng)
+ Dao Lô Gang (Thanh Phán, Dao Đội Ván, Dao Cóc Mùn)
+ Dao Tiền
+ Dao Quần Trắng
+ Dao Thanh Y (Dao Ban Y, Dao Chàm)
+ Dao Làn Tẻn (Dao Tuyển, Dao Áo Dài, Dao Tẻn) [ 8, tr36]

Về tiếng nói ngôn ngữ dân tộc Dao đƣợc các nhà nghiên cứu xếp vào
ngữ hệ Mông - Dao. Đến nay ngƣời Dao chƣa có chữ viết riêng, từ xa xƣa,
đồng bào dựa vào chữ Hán để phiên âm ra chữ Nôm gọi là chữ Nôm Dao và
sử dụng bộ chữ này để ghi chép gia phả, sách cúng, sáng tác truyện, thơ… Về
tiếng nói, các nhóm Dao đều nói chung một thứ tiếng, đó là tiếng Dao. Sự
khác nhau về tiếng nói giữa các nhóm không nhiều, chỉ trong một số ít từ và
thanh điệu. Cũng nhƣ tiếng Dao trong cả nƣớc, tiếng Dao ở Bắc Giang cũng
gồm hai phƣơng ngữ: phƣơng ngữ thứ nhất gồm hai nhóm Dao là Lô Gang,
Thanh Phán; phƣơng ngữ thứ hai có nhóm Dao Thanh Y. Tại thời điểm hiện
tại, ngƣời Dao sinh sống tại các bản thuộc các xã của Lục Nam vẫn nói tiếng

Vietluanvanonline.com

Page 16


Dao trong sinh hoạt hàng ngày. Nhƣng khi có khách là ngƣời dân tộc khác họ
cũng có thể nói đƣợc tiếng Việt làm ngôn ngữ giao tiếp thứ hai.

Vietluanvanonline.com

Page 17


Ở Bắc Giang, thế kỉ XVII, nhóm Dao Thanh Y từ Quảng Đông và Móng
Cái qua Lục Ngạn, đến Bắc Giang, sang sông Đuống rồi ngƣợc lên Tuyên
Quang. Một bộ phận khác lên Yên Bái và Lào Cai, đƣợc gọi là Dao tuyển.
Thế kỉ XVIII, một bộ phận dân tộc Dao từ Quảng Đông và Quảng Tây vào
Quảng Ninh, Lạng Sơn, Bắc Giang, đó là nhóm Dao Lô Gang [ 21, tr.10].
Nhƣ vậy, dân tộc Dao ở Bắc Giang chủ yếu thuộc các nhóm Dao Thanh

Y, Dao Thanh Phán và Dao Lô Gang. Hiện nay họ sống thành làng riêng hoặc
xen kẽ với một số dân tộc anh em nhƣ Kinh, Tày, Nùng, Sán Chay…Kết quả
khảo sát ở địa phƣơng cho thấy ngƣời Dao sinh sống ở các xã của huyện Lục
Nam có nguồn gốc từ Quảng Ninh di thực sang. Ngƣời Dao ở đây thuộc các
nhóm là Dao Thanh Y và Dao Thanh Phán. Ngƣời Dao ở các bản Gốc Dẻ,
Văn Non, xã Lục Sơn, huyện Lục Nam vẫn nhắc tới một địa danh là Khe Sú,
Ba Trẽ nhƣ nói tới nơi cội nguồn của mình. Một số nhân chứng kể lại, vào
khoảng những năm 20, 30 thế kỉ 20 thì ngƣời Dao mới di cƣ đến đây và sinh
sống cạnh những làng của các dân tộc nhƣ Tày, Nùng hay Kinh. Điều tra xác
minh Khe Sú, Ba Trẽ đều là những bản của ngƣời Dao sinh sống thuộc huyện
Uông Bí của tỉnh Quảng Ninh [55].
Cho đến thời điểm hiện tại, để chỉ ngƣời Dao, các dân tộc khác thƣờng
gọi là ngƣời Mán, Mán Sơn Đầu. Đồng bào Dao thì tự nhận mình là Kiềm
Miền, Dìu Miền. Các công trình nghiên cứu về ngƣời Dao đều ghi rõ tên Mán
bắt đầu từ âm Man (âm Hán - Việt), là tên gọi phiếm xƣng có ý miệt thị dân
tộc vì phong kiến Trung Quốc dùng để chỉ các tộc ngƣời nhỏ bé, sinh sống
bên ngoài địa bàn cƣ trú của ngƣời Hán. Tên gọi Kiềm Miền (Kiềm nghĩa là
rừng, Miền nghĩa là ngƣời), tức là ngƣời ở rừng núi, cũng là tên gọi phiếm
xƣng, không chính xác, vì cùng với ngƣời Dao ở rừng còn có nhiều tộc
Vietluanvanonline.com

Page 18


ngƣời khác sống ở miền núi. Tên Mán Sơn Đầu cũng là tên gọi của các tộc
ngƣời

Vietluanvanonline.com

Page 19



khác đặt cho ngƣời Dao ở nhóm Dao Lô Gang, do đồng bào có tục chải đầu
bằng sáp ong.
Tên tự gọi nữa của đồng bào là Dìu Miền, âm Hán Việt: Dìu là Dao,
Miền là ngƣời; có nghĩa là ngƣời Dao. Tên gọi Dao đƣợc nhắc nhiều trong
các truyện truyền miệng, truyện cổ. Theo tài liệu “Người Dao ở Việt Nam”,
tên gọi Dao còn đƣợc ghi trong các thƣ tịch cổ của Trung Quốc. Chẳng hạn
sách “Thuyết man” viết: “Man bắt đầu từ Ngũ Khê gọi là Bàn Hồ ở rải rác
khắp vùng Sở Việt gọi là Dao, lúc bấy giờ có công nên được miễn giao dịch
gọi là Mạc Dao, về sau gọi sai đi là Dao”. Sách “Quế hải ngu hành chí” viết:
“ Người Dao vốn dòng dõi Bàn Hồ ở Ngũ Khê…”. [28, tr. 8]
Nhƣ vậy, “Dao” là tên tự nhận của ngƣời Dao, nó gắn với lịch sử hình
thành tộc ngƣời và đƣợc họ thừa nhận. vào những thập kỉ 60 – 70 của thế kỉ
trƣớc, các nhà khoa học đã đề xuất và đƣợc Chính phủ công nhận “Dao” là
tên gọi chính thức.
Địa bàn cư trú
Ngƣời Dao ở Việt Nam cƣ trú ở cả ba vùng: vùng cao, vùng giữa, và
vùng thấp. Sống ở vùng cao (trung bình từ 800 - 1000m) phần nhiều là ngƣời
Dao Đỏ, một bộ phận Dao Tiền, Dao Làn Tẻn. Cƣ trú ở vùng giữa (trung
bình từ 400-600m) chủ yếu là ngƣời Dao Quần Chẹt, Dao Lô Gang, Dao
Thanh Phán. Vùng thấp, chuyển tiếp giữa vùng núi và đồng bằng (độ cao
khoảng 200m) là địa bàn cƣ trú của ngƣời Dao Quần Trắng, Dao Quần Chẹt,
Dao Tiền v.v ...Ở Bắc Giang, dân tộc Dao là một trong 7 thành phần dân tộc
chủ yếu của tỉnh, sinh sống chủ yếu ở Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam, Yên
Thế. Tuy số lƣợng không đông lắm, dân số 7.337 ngƣời (số liệu năm 2003),
đứng thứ 7 về dân số trong 7 dân tộc chủ yếu sinh sống trên địa bàn tỉnh Bắc

Vietluanvanonline.com


Page 20


Giang và quá trình cƣ trú tại Bắc Giang chƣa lâu song đồng bào đã ổn định
cuộc

Vietluanvanonline.com

Page 21


sống của mình, coi Bắc Giang là quê hƣơng và đóng góp sức mình xây dựng
quê hƣơng mới, đồng thời mang những nét văn hóa đặc trƣng của mình đóng
góp cùng các dân tộc anh em, góp phần tạo nên sắc thái văn hóa riêng của tỉnh
Bắc Giang [27]. Các công trình nghiên cứu về ngƣời Dao ở Bắc Giang cho
biết ở Bắc Giang có 4 nhóm Dao là Dao Thanh Phán, Dao Đỏ, Dao Thanh Y
và Dao Lô Gang. Qua khảo sát thực tế tại địa bàn cƣ trú, ngƣời Dao ở Bắc
Giang có 3 nhóm Dao chủ yếu là: Dao Lô Gang, Dao Thanh Phán và Dao
Thanh Y.. Ở Lục Nam có hai nhóm Dao Thanh Phán và Dao đỏ sống chủ yếu
trong 4 xã: Lục Sơn, Bình Sơn, Trƣờng Sơn và Vô Tranh.
Bảng1. Thống kê số lượng theo nhóm người Dao ở huyện Lục Nam
năm 2009
STT

Bản



1


Gốc Dẻ

Lục Sơn

70

340

Thanh Y

2

Văn Non

Lục Sơn

178

925

Thanh Y

3

Đồng Đỉnh

Bình Sơn

115


480

Thanh Phán

4

Vua Bà

Trƣờng Sơn

72

324

Thanh Y

5

Đồng Vành 1

Lục Sơn

61

219

Thanh Phán

6


Đồng Vành 2

Lục Sơn

62

221

Thanh Phán

Vô Tranh

20

90

Thanh Phán

7

Số hộ Số khẩu

Nhóm

(Phiếu khảo sát về Các giá trị văn hóa truyền thống của gia đình các
dân tộc huyện Lục Nam, tháng 10 năm 2009)

Vietluanvanonline.com

Page 22



Ngƣời Dao Thanh Phán và Dao Thanh Y sinh sống tại các thôn bản của
huyện Lục Nam đã coi đây là quê hƣơng của mình, đang đóng góp công sức

Vietluanvanonline.com

Page 23


xây dựng cuộc sống, xây dựng quê hƣơng ngày càng giàu đẹp. Thôn bản của
ngƣời Dao thƣờng tập trung thành từng cụm gần rừng, đồi. Thƣờng mỗi hộ ở
một quả đồi, khu nào đất đẹp thì hai hay ba hộ ở cạnh nhau. Ranh giới giữa
các bản thƣờng là đƣờng mòn, khe núi, dòng suối… đƣợc dân bản công nhận
theo quy ƣớc không thành văn. Ngoài một số ruộng nƣơng đã có ngƣời sở
hữu, còn tất cả rừng, suối, núi đều thuộc quyền sử dụng chung của mọi nhà
trong bản. Đồng bào hạn chế những ngƣời ở nơi khác đến làm ruộng, nƣơng
hoặc lấy gỗ ở phạm vi thôn bản mình.
Dân cƣ trong mỗi thôn bản thƣờng chỉ có từ 2 - 3 họ, trong đó bao giờ
cũng có một họ đông ngƣời hơn và thƣờng là họ của những ngƣời đến cƣ trú
đầu tiên. Mỗi thôn, bản Dao đều có những nghi lễ chung: liên quan đến trồng
trọt, chăn nuôi, sắn bắn. Thƣờng thì trƣớc khi gieo trồng (đầu xuân), khi lúa
mọc cao (mùa hè), sau khi gặt lúa (mùa thu), lúc hạn hán kéo dài, trong bản
có dịch gia súc hoặc ngƣời ốm đau nhiều… là dân bản lại họp nhau cúng thổ
thần, bàn việc chung, tổ chức ăn uống chung.
Từ xƣa, thôn bản ngƣời Dao đã vận hành theo phƣơng thức tự quản.
Mỗi bản thƣờng có ngƣời đứng đầu, giữ vai trò trụ cột, điều hành toàn bộ
mọi hoạt động của bản. Nếu bản có một dòng họ cƣ trú thì ngƣời đứng đầu
bản do ngƣời có uy tín trong dòng họ nắm giữ. Khi thôn bản có nhiều họ cƣ
trú thì dân bản chọn ngƣời có uy tín, biết cúng thổ thần, am hiểu phong tục

tập quán dân tộc, lai lịch và mối quan hệ họ hàng của dân bản, có kinh nghiệm
đoán định thời tiết… để bầu vào chức đứng đầu bản.
Ngƣời đứng đầu thôn, bản đƣợc bà con tôn trọng và tin cậy, khi có
việc không tự phân xử đƣợc các bên đều đến hỏi ngƣời đứng đầu bản và làm
theo sự phân sử của ngƣời này. Ở các nhóm dân tộc Dao, bên cạnh vai trò
chính của ngƣời đứng đầu thôn, bản thì các cụ già làng, trƣởng họ và thầy
Vietluanvanonline.com

Page 24


cúng là những ngƣời có uy tín cao, thƣờng có mặt trong các công việc chung
của bản,

Vietluanvanonline.com

Page 25


×