TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG HÀ NỘI
KHOA QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
SINH VIÊN: PHẠM XUÂN TRANG
TÊN ĐỀ TÀI ĐỒ ÁN (KHOÁ LUẬN)
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ VÀ ĐỊNH HƯỚNG SỬ DỤNG ĐẤT SẢN XUẤT
NÔNG NGHIỆP THEO HƯỚNG SẢN XUẤT HÀNG HÓA TẠI HUYỆN
MƯỜNG KHƯƠNG, TỈNH LÀO CAI
Chuyên ngành: Quản lý đất đai
Mã ngành:
NGƯỜI HƯỚNG DẪN : Nguyễn Thị Hồng Hạnh
Tên thành phố- Năm
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn
này là trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận
văn này đã được cám ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều
đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày tháng
Tác giả đồ án
năm 20...
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AFTA
: Khu mậu dịch tự do ASEAN
APEC
: Diễn dàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái bình dương
ASEAN
: Hiệp hội các nước Đông Nam Á
Bq
: Bình quân
CNH - HĐH
: Công nghiệp hoá - hiện đại hoá
CPTG
: Chi phí trung gian
FAO
: Tổ chức lương thực và nông nghiệp thế giới
GTGT
: Giá trị gia tăng
GTSX
: Giá trị sản xuất
HTX
: Hợp tác xã
LĐ
: Lao động
LUT
: Kiểu sử dụng đất
PĐTNH
: Phiếu điều tra nông hộ
TT
: Thị trấn
TBKT
: Tiến bộ kỹ thuật
WTO
: Tổ chức thương mại thế giới
GDP
: Tổng sản phẩm quốc nội
USD
: Đô la Mỹ
TS
: Tiến sĩ
GRDP
: Tổng sản phẩm trên thị trường
HH
: Hàng hóa
VA
: Tăng trưởng giá trị gia tăng
CN-XD
: Công nghiệp xây dựng
NSTĐ
: Năng suất lao động
KH
: Kế hoạch
CK
: Cùng kỳ
LMLM
: lở mồm long móng
BQL
: Ban quản lý
PTNT
: Phát triển nông thôn
HHBL&DV
: Hàng hóa bán lẻ và dịch vụ
TTCN
: Tiểu thủ công nghiệp
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC HÌNH ẢNH
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt
không thể thay thế của sản xuất nông nghiệp nên việc sử dụng đất hợp lý, tiết
kiệm và có hiệu quả là rất quan trọng. Từ Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ VI, chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, Việt Nam đã thu được những thành quả to lớn trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội, chuyển Việt Nam từ một nước phải nhập khẩu
lương thực sang xuất khẩu gạo đứng thứ 2 trên thế giới sau Thái Lan. Nền
nông nghiệp nước ta từng bước chuyển từ sản xuất tự túc, tự cấp sang sản
xuất hàng hóa với sự tham gia nhiều hơn của máy móc và các tiến bộ khoa
học kỹ thuật trong quá trình sản xuất. Nông nghiệp có sự tăng trưởng nhanh,
sức sản xuất ở nông thôn được giải phóng, tiềm năng đất nông nghiệp dần
được khai thác.
Trong những năm qua, Việt Nam đẩy mạnh sự nghiệp CNH - HĐH đất
nước và đã thu được những thành quả to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội. Tuy
nhiên, quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa và sự gia tăng dân số đã gây áp lực
mạnh mẽ đến sử dụng đất. Việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất từ đất nông
nghiệp sang các loại đất phi nông nghiệp đã làm cho diện tích đất nông nghiệp
ngày càng bị thu hẹp. Điều đó đòi hỏi việc sử dụng đất nông nghiệp phải có hiệu
quả hơn. Để sử dụng đất nông nghiệp hiệu quả thì một trong những hướng đi đã
và đang được quan tâm đề cập nhiều là phát triển nông nghiệp theo hướng sản
xuất hàng hóa. Thực tế ở một số địa phương, nông nghiệp đã phát triển theo
hướng sản xuất hàng hoá và mang lại hiệu quả kinh tế cao nên đời sống người
dân được cải thiện hơn trước. Tuy nhiên, do nhận thức và hiểu biết của nhiều
người còn hạn chế nên việc khai thác đất nông nghiệp chưa thật hợp lý, chưa
`8
phát huy hết tiềm năng, sức sản xuất của đất. Từ đó, ảnh hưởng đến năng suất
lao động và mức sống của người nông dân. Vì vậy, sử dụng đất nông nghiệp một
cách đúng đắn và có hiệu quả là yêu cầu có tính cấp thiết hiện nay.
Mường Khương là một huyện biên giới phía bắc của Việt Nam nằm
trong tỉnh Lào Cai, cách thành phố Lào Cai 55 km về phía Đông Bắc, với
tổng diện tích tự nhiên là 556,15 km2 và diện tích đất nông nghiệp chiếm
khoảng 59% tổng diện tích tự nhiên. Nông nghiệp vẫn là ngành đóng góp
chính vào giá trị sản xuất của huyện. Trong những năm gần đây việc sản xuất
hàng hóa trên đất nông nghiệp của huyện đã hình thành, tuy nhiên quy mô
còn nhỏ lẻ, và chưa được quy hoạch cụ thể. Việc nghiên cứu và nhân rộng các
cây trồng, vật nuôi, các kiểu sử dụng đất có giá trị cần được chú trọng. Xuất
phát từ tình hình thực tế đó, tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Đánh giá hiệu quả
và định hướng sử dụng đất sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng
hóa tại huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá hiệu quả sử dụng đất theo hướng sản xuất hàng hoá và đề xuất
một số giải pháp hợp lý giúp người nông dân lựa chọn được kiểu sử dụng đất
phù hợp, có hiệu quả cao hơn trong điều kiện cụ thể trên địa bàn nghiên cứu.
3. Yêu cầu
- Nghiên cứu điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội liên quan đến sử dụng đất
- Xác định và đánh giá hiệu quả sử dụng đất của các kiểu sử dụng đất chính
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất
`9
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Một số vấn đề lý luận cơ bản về sử dụng đất
1.1.
1.1.1. Đất nông nghiệp và sử dụng đất nông nghiệp
a. Đất nông nghiệp
• Khái niệm đất sản xuất nông nghiệp
Hiện nay, theo điều chỉnh của luật đất đai thì nông nghiệp bao gồm cả đất
nông nghiệp, do đó cần phân biệt rõ khái niệm đất nông nghiệp với đất sản
-
xuất nông nghiệp.
Đất nông nghiệp : là đất sử dụng vào mục đích sản xuất, nghiên cứu, thí
nghiệm về nông nghiệp, lầm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, và mục đích bảo vệ,
-
phát triển ( theo Luật đất đai năm 2003).
Đất sản xuất nông nghiệp : là đất được sử dụng chủ yếu vào sản xuất của các
ngành như trồng trọt, nuôi trồng thủy sản hoặc sử dụng đất nghiên cứu thí
nghiệm về nông nghiệp. Ngoài tên gọi đất sản xuất nông nghiệp, đất sử dụng
-
vào sản xuất nông nghiệp còn gọi là ruộng đất.
Đất canh tác (đất trồng cây hàng năm) : là một bộ phận đất nông nghiệp dùng
vào việc trồng cây hàng năm như lúa, ngô, khoai, sắn, mía, lạc, vừng, đỗ
tương, cói, rau, đậu, cây làm thuốc…
• Tình hình sử dụng đất nông nghiệp
Hiện nay, trên thế giới, tổng diện tích đất tự nhiên là 148 triệu km 2.
Những loại đất tốt thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp chỉ chiếm 12,6%.
Những loại đất quá xấu chiếm tới 40,5%. Diện tích đất trồng trọt chỉ chiếm
khoảng 10% tổng diện tích tự nhiên. Đất đai thế giới phân bố không đều giữa
các châu lục và các nước (châu Mỹ chiếm 35%, châu Á chiếm 26%, châu Âu
chiếm 13%, châu Phi chiếm 20%, Châu Đại Dương chiếm 6%). Đã có nhiều
công trình nghiên cứu liên quan đến khái niệm, định nghĩa về đất. Có quan
điểm cho rằng: “Đất là một vật thể thiên nhiên cấu tạo độc lập lâu đời do kết
quả quá trình hoạt động tổng hợp của 5 yếu tố hình thành đất, đó là: sinh vật,
đá mẹ, khí hậu, địa hình và thời gian”. Sau này một số học giả khác đã bổ
`10
sung các yếu tố: nước của đất, nước ngầm và đặc biệt là vai trò của con người
để hoàn chỉnh khái niệm về đất nêu trên. Nhà nông học người Anh V.R
William đã đưa ra khái niệm: “Đất là lớp mặt tơi xốp của lục địa có khả năng
tạo ra sản phẩm cho cây”.
Trong phạm vi nghiên cứu về sử dụng đất, đất đai được nhìn nhận là một
nhân tố sinh thái. Với khái niệm này, đất đai bao gồm tất cả các thuộc tính
sinh học và tự nhiên của bề mặt trái đất có ảnh hưởng nhất định đến tiềm năng
và hiện trạng sử dụng đất. Đất theo nghĩa đất đai bao gồm: khí hậu, dáng đất,
địa hình địa mạo, thổ nhưỡng, thuỷ văn, thảm thực vật tự nhiên bao gồm cả
rừng, cỏ dại trên đồng ruộng, động vật tự nhiên, những biến đổi của đất do
các hoạt động của con người.
Theo Điều 13 Luật đất đai Việt Nam năm 2003 thì đất tự nhiên được chia
thành 3 nhóm lớn là: Nhóm đất nông nghiệp, nhóm đất phi nông nghiệp,
nhóm đất chưa sử dụng. Trong đó, nhóm đất nông nghiệp bao gồm: Đất sản
xuất nông nghiệp (đất trồng cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm), đất trồng
rừng, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối, đất nông nghiệp khác.
b. Một số yếu tố ảnh hưởng đến sử dụng đất nông nghiệp
Việc xác định các nhân tố ảnh hưởng đến sử dụng đất là hết sức cần
thiết, nó giúp cho việc đưa ra những đánh giá phù hợp với từng loại đất, vùng
đất để trên cơ sở đó đề xuất những phương hướng và giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả sử dụng đất. Các nhân tố ảnh hưởng đến sử dụng đất nông
nghiệp có thể chia thành 3 nhóm:
* Yếu tố tự nhiên
Theo Vũ Ngọc Hùng (2002) thì yếu tố tự nhiên bao gồm điều kiện khí
hậu, đất trồng, cây trồng, môi trường sinh thái, nguồn nước. Chúng có ảnh
hưởng một cách rõ nét, thậm chí quyết định đến kết quả và hiệu quả sử dụng
đất [3].
- Khí hậu
`11
Thực vật nói chung và cây trồng nói riêng muốn sống, sinh trưởng và
phát triển đòi hỏi phải có đầy đủ các yếu tố sinh trưởng là ánh sáng, nhiệt độ,
không khí, nước và dinh dưỡng. Trong đó, ánh sáng, nhiệt độ, lượng mưa và
độ ẩm không khí là các yếu tố khí hậu. Chính vì thế, khí hậu là một trong
những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến sinh trưởng, năng suất và sản lượng cây
trồng, ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
Việt Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa. Tuy nhiên, vì sự khác biệt về vĩ
độ địa lý và địa hình nên khí hậu có khuynh hướng khác biệt nhau khá rõ nét
theo từng vùng. Miền bắc có nhiệt độ trung bình 22,2 - 23,5 0C, lượng mưa
trung bình từ 1.500 - 2.400 mm, tổng số giờ nắng từ 1.650 - 1.750 giờ/năm.
Trong khi đó, ở miền nam, khí hậu mang tính chất xích đạo, nhiệt độ trung
bình 22,6 - 27,50C, lượng mưa trung bình 1.400 - 2.400 mm, nắng trên 2.000
giờ/năm. Trải dài trên 15 vĩ độ, Việt Nam có 7 tiểu vùng khí hậu khác nhau
nên chúng ta có thể đa dạng hoá các loại cây trồng, vật nuôi. Chính vì thế, sử
dụng đất cũng đa dạng và giảm được rủi ro vì có thể trồng các loại cây trồng
có nguồn gốc nhiệt đới, á nhiệt đới và cả ôn đới.
Yếu tố khí hậu nhiều khi ảnh hưởng rõ nét đến hiệu quả sử dụng đất nông
nghiệp với các mức độ khác nhau. Ở đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung bộ,
nhiệt độ thấp vào vụ đông và thời kỳ đầu vụ xuân kèm theo ẩm ướt, mưa phùn,
thiếu ánh sáng làm hạn chế sinh trưởng và phát triển của cây trồng ưa nắng, ưa
nhiệt nhưng lại phù hợp cho cây trồng ưa lạnh có nguồn gốc ôn đới. Trời âm u
thiếu ánh sáng cũng là điều kiện cho sâu bệnh phát triển phá hại mùa màng.
- Yếu tố đất trồng
Cùng với khí hậu, đất tạo nên môi trường sống của cây trồng. Đất trồng
với các đặc tính như loại đất, thành phần cơ giới, chế độ nước, độ phì... có vai
trò quan trọng đối với sự sinh trưởng, phát triển và năng suất của cây trồng,
ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
`12
Đất giữ cây đứng vững trong không gian, cung cấp cho cây các yếu tố
sinh trưởng như nước, dinh dưỡng và không khí. Độ phì là một trong những
yếu tố quan trọng nhất của đất. Vị trí từng mảnh đất có ảnh hưởng đến quá
trình hình thành độ phì của đất. Độ phì nhiêu của đất liên quan trực tiếp đến
năng suất cây trồng. Do vậy, tuỳ theo vị trí địa hình, chất đất mà lựa chọn, bố
trí cây trồng thích hợp trên từng loại đất mới cho năng suất, hiệu quả sử dụng
đất cao.
- Yếu tố cây trồng
Cây trồng là yếu tố trung tâm trong quá trình sản xuất nông nghiệp và sử
dụng đất nông nghiệp. Con người hưởng lợi trực tiếp từ những sản phẩm của cây
trồng. Những sản phẩm này cung cấp lương thực, thực phẩm cho các nhu cầu
thiết yếu cho con người và cho các hoạt động trao đổi hàng hóa, xuất khẩu.
Việc bố trí cây trồng và kiểu sử dụng đất hợp lý trên đất sẽ đem lại
những giá trị cao về mặt hiệu quả cho cả người sản xuất và tạo ra sự bền vững
cho môi trường đất. Ngược lại, nếu cây trồng được bố trí bất hợp lý, sử dụng
đất bừa bãi không những gây thất thu cho người nông dân mà còn ảnh hưởng
xấu đến đất.
Ngày nay, với sự phát triển nhanh chóng của những tiến bộ khoa học,
kỹ thuật trong quá trình sản xuất nông nghiệp cũng như trình độ của người
nông dân ngày càng được nâng cao, các giống cây trồng mới với chất lượng
và năng suất cao, thời gian sinh trưởng ngắn xuất hiện ngày càng nhiều góp
phần tạo tiền đề mạnh mẽ cho quá trình sản xuất hàng hóa trong sản xuất
nông nghiệp. Sản xuất nông nghiệp hàng hoá phát triển gắn với việc tăng hệ
số sử dụng đất, gia tăng giá trị kinh tế cho một đơn vị diện tích đất.
* Yếu tố kinh tế, xã hội
- Yếu tố con người
Con người là chủ thể của quá trình lao động, là nhân tố tác động trực
`13
tiếp tới đất và hưởng lợi từ đất. Con người với bàn tay và khối óc của mình có
thể tạo ra những phương thức sử dụng đất hợp lý, hiệu quả.
Theo thông tin của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đưa ra
trong định hướng phát triển Nông nghiệp Việt Nam: Khi dân số còn thấp,
trình độ và nhu cầu thấp, việc khai thác quỹ đất nông nghiệp còn ở mức hạn
chế, hiệu quả không cao nhưng sự bền vững trong sử dụng đất nông nghiệp
được đảm bảo. Ngược lại, ngày nay, khi dân số tăng nhanh kéo theo sự gia
tăng các nhu cầu thì tài nguyên đất nông nghiệp bị khai thác nhiều, triệt để
hơn nhằm đạt năng suất và hiệu quả cao hơn. Vì vậy, quy luật sinh thái và tự
nhiên bị xâm phạm, tính bền vững tài nguyên đất kém hơn. Việc đảm bảo cân
bằng giữa sử dụng và bảo vệ đất trở thành vấn đề cấp thiết.
Đối với các hoạt động kinh tế nói chung, sản xuất nông nghiệp nói
riêng, dân số vừa là thị trường cầu của sản phẩm hàng hoá và dịch vụ, vừa là
nguồn cung về lao động cho sản xuất. Các hoạt động kinh tế sẽ không thể
phát triển nếu không có thị trường tiêu thụ các sản phẩm do chúng tạo ra. Đặc
biệt, đối với một nền sản xuất nông nghiệp hàng hoá thì điều này lại càng trở
nên quan trọng.
- Yếu tố kinh tế
Đối với mỗi quốc gia, mức độ phát triển của nền kinh tế quốc dân có ảnh
hưởng lớn đến các hoạt động sản xuất nói chung và sử dụng đất nông nghiệp
nói riêng và ngược lại. Nếu sử dụng đất có hiệu quả sẽ góp phần thúc đẩy nền
kinh tế phát triển. Khi kinh tế phát triển, nó sẽ làm tiền đề cho quá trình sử
dụng đất đạt được hiệu quả cao hơn, thông qua việc đầu tư, áp dụng tiến bộ kỹ
thuật, công nghệ cao làm nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm cây trồng.
- Cơ chế chính sách
Trong hơn mười năm qua, Việt Nam đã thực hiện chính sách đổi mới
trong nông nghiệp, tập trung vào trọng tâm: làm rõ và giao cho nông dân
`14
nhiều quyền đối với ruộng đất; tự do hóa thương mại trong nước và xuất
nhập khẩu; giao quyền quyết định sản xuất cho nông dân; đổi mới các hợp
tác xã, doanh nghiệp nhà nước, khuyến khích kinh tế tư nhân. Đồng thời nhà
nước tăng đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng, cung cấp tín dụng, chuyển giao
khoa học công nghệ. Những chính sách mới đã khuyến khích mạnh mẽ nhân
dân đầu tư vào phát triển sản xuất. Nông nghiệp Việt Nam đã phát triển
nhanh, liên tục trong thời kỳ thực hiện chính sách đổi mới. Từ chỗ phải nhập
khẩu lương thực triền miên trong vài thập kỷ, nay đã xuất khẩu được trên 4
triệu tấn gạo hàng hoá đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo. Nền nông
nghiệp từng bước chuyển từ sản xuất tự cung, tự cấp sang nền nông nghiệp
hàng hóa đa dạng, hướng ra xuất khẩu.
Các chính sách đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn, chính sách tín
dụng nông thôn, chính sách về giải quyết việc làm và xoá đói giảm nghèo,
khuyến nông... thực sự đã giúp ích rất nhiều trong quá trình sử dụng đất nông
nghiệp của những người nông dân.
Theo Đặng Kim Sơn và cộng sự (2002) trong sản xuất nông nghiệp, đặc
biệt là sản xuất nông nghiệp hàng hoá, người nông dân thường chịu thiệt thòi
do hạn chế về kiến thức thị trường, thông tin thị trường, sức mua [2]... Hơn
nữa, các hiệu ứng tràn ra ngoài trong sản xuất nông nghiệp cũng làm cho sản
xuất không hiệu quả: việc sử dụng bừa bãi phân hoá học, thuốc trừ sâu, thuốc
trừ cỏ... có tác động tiêu cực đến môi trường, nguồn nước, không khí và đất.
Do vậy, việc Nhà nước can thiệp bằng các chính sách và pháp luật thích hợp
đã tạo điều kiện, khuyến khích, hướng dẫn sản xuất nông nghiệp và đảm bảo
tính bền vững của các yếu tố nguồn lực trong sản xuất nông nghiệp, góp phần
nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
Mặc dù đất đai thuộc sở hữu toàn dân nhưng Hiến pháp, pháp luật công
nhận quyền sử dụng lâu dài đối với đất. Người sử dụng đất không chỉ được
`15
quyền sử dụng lâu dài mà còn được quyền thừa kế những đầu tư trên đất.
Điều đó đã trở thành động lực quan trọng trong phát triển nông nghiệp. Nó
làm cho người nông dân yên tâm đầu tư trên đất, sử dụng đất nông nghiệp
một cách chủ động và hiệu quả, phát huy được lợi thế so sánh của từng vùng,
từng miền. Thực tế cho thấy, chính sách về đất đai thông thoáng sẽ là cơ sở để
hình thành các phương thức sản xuất mới như thâm canh, tăng vụ, nâng cao
hiệu quả sử dụng đất canh tác, đặc biệt là sử dụng để sản xuất cây trồng có giá
trị hàng hoá cao.
- Khoa học kỹ thuật
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của xã hội, những thành
tựu và khoa học kỹ thuật ngày càng được ứng dụng nhiều trong các ngành
kinh tế nói chung và nông nghiệp nói riêng. Các máy móc cơ giới liên tục
được cải tiến cho phù hợp hơn với đồng ruộng Việt Nam, các giống cây trồng
mới tốt hơn, năng suất hơn thường xuyên được ứng dụng vào sản xuất. Điều
này góp phần không nhỏ vào việc giải phóng sức lao động cũng như nâng cao
năng suất, sản lượng cây trồng hay tạo ra những sản phẩm tốt hơn, sạch hơn
cho xã hội.
c. Quan điểm sử dụng đất nông nghiệp
Sử dụng đất là một hệ thống các biện pháp nhằm điều hoà mối quan hệ
giữa người và đất đai. Mục tiêu của con người là sử dụng đất khoa học và hợp
lý. Vì vậy, sử dụng đất bền vững, tiết kiệm và có hiệu quả đã trở thành chiến
lược quan trọng. Theo Smyth và Dumanski sử dụng đất bền vững được xác
định theo 5 nguyên tắc:
- Duy trì và nâng cao các hoạt động sản xuất (năng suất).
- Giảm mức độ rủi ro đối với sản xuất (an toàn).
- Bảo vệ tiềm năng của các nguồn tài nguyên tự nhiên, chống lại sự
thoái hoá chất lượng đất và nước (bảo vệ).
`16
- Khả thi về mặt kinh tế (tính khả thi).
- Được xã hội chấp nhận (sự chấp nhận).
Năm nguyên tắc nêu trên được coi là kim chỉ nam của sử dụng đất đai
bền vững và là những mục tiêu cần phải đạt được. Nếu thực tế diễn ra đồng
bộ so với các mục tiêu trên thì khả năng bền vững sẽ đạt được. Nếu chỉ một
hay một vài mục tiêu mà không phải là tất cả thì khả năng bền vững chỉ mang
tính bộ phận.
Ngoài ra còn có các quan điểm sau:
- Tận dụng các nguồn lực, khai thác lợi thế so sánh về khoa học, kỹ
thuật, đất đai, lao động để phát triển cây trồng, vật nuôi có tỉ suất hàng hoá
cao, tăng sức cạnh tranh và hướng tới xuất khẩu.
- Thực hiện sử dụng đất nông nghiệp theo hướng tập trung chuyên môn
hoá, sản xuất hàng hoá theo hướng ngành hàng, nhóm sản phẩm, thực hiện
thâm canh toàn diện và liên tục.
- Nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp trên cơ sở thực hiện đa
dạng hoá hình thức sở hữu, tổ chức sử dụng đất nông nghiệp, đa dạng hoá cây
trồng vật nuôi, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi phù hợp với sinh thái và
bảo vệ môi trường.
- Nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp phù hợp và gắn liền với
định hướng phát triển kinh tế - xã hội của cả nước.
d. Sử dụng đất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá
Khi con người chuyển từ cuộc sống hái lượm, sử dụng thức ăn có sẵn
trong tự nhiên sang cuộc sống biết trồng trọt thì con người đã bắt đầu biết sản
xuất, sử dụng đất. Thời buổi ban đầu việc trồng trọt chỉ mang tính tự cung, tự
cấp và đáp ứng được các nhu cầu cơ bản, thiết yếu của con người. Sau này,
cùng với sự bùng nổ về dân số và phát triển của xã hội, nền sản xuất cũ không
còn thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng. Từ đó đặt ra một nền sản xuất mới và
`17
nền sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp đã hình thành.
Theo học thuyết của Các Mác, hàng hoá là sản phẩm được sản xuất ra
không phải để cho người sản xuất tiêu dùng mà nó được sản xuất ra để bán.
Hàng hoá được bán ở thị trường. Như vậy, sản xuất hàng hóa là sản xuất ra
sản phẩm để bán. Đó là hình thức tổ chức nền sản xuất xã hội trong đó mối
quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất biểu hiện qua thị trường qua việc
mua bán sản phẩm lao động của nhau. Đối với hệ thống trồng trọt, nếu mức
hàng hoá sản xuất được bán ra thị trường dưới 50% thì gọi là hệ thống trồng
trọt thương mại hoá một phần, nếu trên 50% thị gọi là hệ thống trồng trọt
thương mại hoá (sản xuất theo hướng hàng hoá).
Nông nghiệp là một hoạt động sản xuất cơ bản của mỗi quốc gia. Nhiều
nước trên thế giới có nền kinh tế phát triển, tỉ trọng của sản xuất công nghiệp
và dịch vụ trong thu nhập quốc dân chiếm phần lớn nhưng những khó khăn,
trở ngại trong nông nghiệp đã gây ra không ít xáo động trong đời sống xã hội
và ảnh hưởng sâu sắc đến tốc độ tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế nói
chung. Đối với các nước có nền kinh tế kém phát triển hơn thì nông nghiệp lại
càng đóng vai trò thiết yếu. Để nông nghiệp có thể thực hiện được vai trò
quan trọng của mình đối với nền kinh tế quốc dân đòi hỏi sản xuất nông
nghiệp phải phát triển toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc. Chuyển sang nền
nông nghiệp sản xuất hàng hóa là sự tiến hóa hợp quy luật. Đó là quá trình
chuyển nền nông nghiệp truyền thống, manh mún, lạc hậu thành nền nông
nghiệp hiện đại. Nền sản xuất hàng hoá có đặc trưng là dựa trên cơ sở vật chất
kỹ thuật hiện đại, trình độ khoa học kỹ thuật, trình độ văn hoá của người lao
động cao. Đó là nền sản xuất nông nghiệp có cơ cấu sản xuất hợp lý, được
hình thành trên cơ sở khai thác tối đa thế mạnh sản xuất nông nghiệp từng
vùng. Vì thế, nó là nền nông nghiệp có hiệu quả kinh tế cao, khối lượng hàng
hoá nhiều với nhiều chủng loại phong phú và có chất lượng cao. Chuyển sang
`18
nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá là sự tiến hoá hợp quy luật, đó là quá trình
chuyển nông nghiệp truyền thống, manh mún, lạc hậu thành nền nông nghiệp
hiện đại. Sản xuất hàng hoá là quy luật khách quan của mọi hình thái kinh tế
xã hội, nó phản ánh trình độ phát triển sản xuất của xã hội đó.
Sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hóa có những ưu thế đặc biệt.
Nó thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động
xã hội. Trong kinh tế hàng hóa có sự tác động của quy luật giá trị, sự nghiệt
ngã của cạnh tranh, sự khắt khe của thị trường và quy luật cung cầu buộc người
nông dân phải năng động và biết tính toán, cải tiến kỹ thuật, tiết kiệm, nâng cao
chất lượng các sản phẩm nông nghiệp cho phù hợp với nhu cầu xã hội. Khi có
sản xuất hàng hóa, quá trình xã hội hóa sản xuất nhanh chóng được thúc đẩy
làm cho sự phân công chuyên môn hóa sản xuất ngày càng sâu sắc, hợp tác hóa
chặt chẽ, hình thành các mối liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau, hình thành thị
trường trong nước và thế giới, thúc đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung sản
xuất, thúc đẩy quá trình dân chủ hóa, bình đẳng và tiến bộ xã hội. Vì vậy, sản
xuất nông nghiệp theo hướng hàng hoá mang lại rất nhiều lợi ích.
Ngày nay khi Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO thì vấn
đề sản xuất hàng hóa càng đóng vai trò quan trọng trong sản xuất nông
nghiệp. Hai mươi năm nay, hàng nông sản Việt Nam đã được xuất khẩu đi
nhiều nước, nhiều mặt hàng nằm trong tốp đứng đầu thế giới như: gạo trung
bình mỗi năm xuất khẩu 4,5-5 triệu tấn; cà phê 6 nghìn tấn; hồ tiêu 110 nghìn
tấn; hạt điều chế biến 50 nghìn tấn...
Theo TS. Nguyễn Quốc Vọng, kim ngạch xuất khẩu nông lâm sản năm
1995 của Việt Nam là 1,3 tỉ USD, năm 2005 đạt 5,7 tỉ USD. So với Thái Lan,
Malaixia, Philipin - các nước có tiềm năng tương tự Việt Nam, đã đạt và vượt
mức này từ lâu. Năm 2009, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam mới là 15 tỉ
USD, xấp xỉ bằng của Mailaixia năm 1986, điều này cho thấy nước ta còn rất
`19
nhiều tiềm năng về khai thác nông sản chưa được khai thác và cũng cho thấy
việc sản xuất hàng hóa ở nước ta còn yếu so với các nước trong khu vực [14].
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã chỉ rõ: “Định hướng
phát triển ngành kinh tế nông nghiệp, lâm nghiệp và kinh tế nông thôn là công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn theo hướng đẩy nhanh
chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, cơ cấu lao động, hình thành nền nông nghiệp
hàng hóa lớn phù hợp với nhu cầu của thị trường và điều kiện sinh thái trên
từng vùng”. Định hướng phát triển của vùng đồng bằng sông Hồng cũng thể
hiện rõ: “Phát triển nền nông nghiệp hàng hóa đa dạng, cùng với lương thực
đưa vụ đông thành một thế mạnh, hình thành các vùng chuyên canh rau, cây
ăn quả, chăn nuôi lấy thịt…” . Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
cũng nêu rõ: “ Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn hướng tới xây dựng một nền nông nghiệp hàng hóa lớn, đa dạng, phát
triển nhanh và bền vững, có năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh cao”.
Nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đưa nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp vào năm 2020 trong điều kiện chúng ta bắt đầu thực hiện
các cam kết của AFTA, APEC và WTO đòi hỏi phải đẩy mạnh sản xuất nông lâm - thuỷ sản theo hướng hàng hoá với cơ cấu và chất lượng sản phẩm đa
dạng nhằm nâng cao hơn nữa khả năng cạnh tranh của nông sản hàng hoá trên
thị trường trong nước và quốc tế. Do vậy, nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông
nghiệp, đẩy nhanh việc hình thành các vùng sản xuất tập trung và chuyên môn
hoá nông sản hàng hoá cả về số lượng và quy mô diện tích với chất lượng sản
phẩm đáp ứng được các yêu cầu của thị trường trong và ngoài nước là vấn đề
cấp bách.
1.1.2. Một số vấn đề về hiệu quả và hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
Trong thực tế, các thuật ngữ “sản xuất có hiệu quả”, “sản xuất không
có hiệu quả” hay là “sản xuất kém hiệu quả” thường được sử dụng phổ biến
`20
trong sản xuất. Vậy hiệu quả là gì? Đến nay, các nhà nghiên cứu xuất phát
từ nhiều góc độ khác nhau, đã đưa ra nhiều quan điểm về hiệu quả, có thể
khái quát như sau:
- Hiệu quả theo quan điểm của C.Mác đó là việc “Tiết kiệm và phân phối
một cách hợp lý”, các nhà khoa học Xô Viết cho rằng đó là sự tăng trưởng kinh
tế thông qua tăng tổng sản phẩm xã hội hoặc thu nhập quốc dân với tốc độ cao
nhằm đáp ứng được yêu cầu của quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã hội
và được viết trong cuốn Nông nghiệp nông thôn Việt Nam hai mươi năm đổi
mới quá khứ và hiện tại của Nguyễn Văn Bích (2007) [1];
- Có quan điểm cho rằng: “Hiệu quả sản xuất diễn ra khi xã hội không
thể tăng một loại hàng hoá mà không cắt giảm một loại hàng hoá khác. Một
nền kinh tế có hiệu quả, một doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả thì các điểm
lựa chọn đều nằm trên một đường giới hạn khả năng sản xuất của nó”, hoặc
“Khi sản xuất có hiệu quả, chúng ta nói rằng nền kinh tế đang sản xuất trên
giới hạn khả năng sản xuất”.
Ta có thể thấy bản chất của hiệu quả xuất phát từ mục đích của sản xuất
và phát triển kinh tế xã hội là đáp ứng ngày càng cao về nhu cầu đời sống vật
chất và tinh thần của mọi thành viên trong xã hội. Cho nên mỗi cá nhân và tổ
chức đều phải có bổn phận nâng cao hiệu quả hoạt động của mình.
Hiện nay, khi nói đến hiệu quả sử dụng đất nói chung và sử dụng đất
nông nghiệp nói riêng, chúng ta thường đề cập đến 3 khía cạnh là kinh tế, xã
hội và môi trường. Sử dụng đất có hiệu quả là đảm bảo được cả 3 yếu tố đó.
a. Phân loại hiệu quả
- Hiệu quả kinh tế: Hiệu quả kinh tế là hiệu quả do tổ chức và bố trí sản
xuất hợp lý để đạt được lợi nhuận cao với chi phí thấp hơn, là tiêu chí được
quan tâm hàng đầu, khâu trung tâm để đạt các loại hiệu quả khác. Có khả
năng lượng hoá bằng các chỉ tiêu kinh tế, tài chính.
`21
Hiệu quả kinh tế là phạm trù kinh tế mà trong đó sản xuất đạt cả hiệu
quả kinh tế và hiệu quả phân bổ. Điều đó có nghĩa là cả hai yếu tố hiện vật và
giá trị đều tính đến khi xem xét việc sử dụng các nguồn lực trong nông
nghiệp. Nếu đạt được một trong hai yếu tố hiệu quả hay hiệu quả phân bổ mới
có điều kiện cần chứ chưa phải là điều kiện đủ cho đạt hiệu quả kinh tế. Chỉ
khi nào việc sử dụng nguồn lực đạt cả chỉ tiêu hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả
phân bổ thì khi đó mới đạt hiệu quả kinh tế.
- Hiệu quả xã hội: Là hiệu quả phản ánh mối quan hệ lợi ích giữa con
người với con người, có tác động tới mục tiêu kinh tế. Hiệu quả xã hội được
thể hiện bằng các chỉ tiêu định tính hoặc định lượng.
Theo Nguyễn Thị Vòng và các cộng sự (2001) thì hiệu quả xã hội là
mối tương quan so sánh giữa kết quả xét về mặt xã hội và tổng chi phí bỏ ra
hiệu quả về mặt xã hội sử dụng đất nông nghiệp chủ yếu bằng khả năng tạo
việc làm trên một diện tích đất nông nghiệp [7].
- Hiệu quả môi trường: là hiệu quả đảm bảo tính bền vững cho môi
trường trong sản xuất và xã hội. Hiệu quả môi trường là vấn đề đang được
nhân loại quan tâm, được phản ánh bằng các chỉ tiêu kinh tế và kỹ thuật.
Hiệu quả môi trường được phân theo nguyên nhân gây nên gồm: hiệu quả
hoá học môi trường, hiệu quả vật lý môi trường và hiệu quả sinh học môi trường.
Trong sản xuất nông nghiệp hiệu quả hoá học môi trường được đánh
giá thông qua mức độ hoá học hoá trong nông nghiệp. Đó là việc sử dụng
phân bón và thuốc bảo vệ thực vật trong quá trình sản xuất cho cây trồng sinh
trưởng tốt, cho năng suất cao mà không gây ô nhiễm môi trường đất.
Hiệu quả sinh học môi trường được thể hiện qua mối tác động qua lại
giữa cây trồng với đất, giữa cây trồng với các loại dịch hại trong các loại hình
sử dụng đất nhằm giảm thiểu việc sử dụng hoá chất trong nông nghiệp mà vẫn
đạt được mục tiêu đặt ra.
`22
Hiệu quả vật lý môi trường được thể hiện thông qua việc lợi dụng tốt
nhất tài nguyên khí hậu như ánh sáng, nhiệt độ, nước mưa của các kiểu sử
dụng đất để đạt sản lượng cao và tiết kiệm chi phí đầu vào.
Trước kia, khi dân số còn thưa thớt, việc sử dụng đất ít, hệ số sử dụng
đất thấp thì đất gần như có khả năng tự phục hồi. Ngày nay, khi dân số gia
tăng, xã hội phát triển thì các hoạt động công nghiệp đã gây hậu quả môi
trường không nhỏ với đất đai. Nên việc cân nhắc phát triển kinh tế và cân
bằng sinh thái, bảo vệ môi trường đang là vấn đề được quan tâm hiện nay.
b. Tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
Theo quan điểm của tổ chức FAO (1990) đưa ra có ba tiêu chuẩn đánh
giá hiệu quả sử dụng đất bền vững là bền vững về mặt kinh tế, bền vững về
mặt môi trường và bền vững về mặt xã hội, nghĩa là định hướng sự thay đổi
về kỹ thuật và tổ chức sản xuất nhằm đảm bảo thoả mãn liên tục các nhu cầu
của con người thuộc các thế hệ hôm nay và mai sau [20]. Đối với sử dụng đất
nông nghiệp, tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả cụ thể như sau:
- Mức đạt được các mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường do xã hội đặt
ra. Cụ thể là tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, tăng chất lượng và tổng sản
phẩm hướng tới thoả mãn tốt nhu cầu nông sản cho thị trường trong nước và
tăng xuất khẩu, đồng thời đáp ứng yêu cầu về bảo vệ hệ sinh thái nông nghiệp
bền vững.
- Sử dụng đất phải đảm bảo cực tiểu hoá chi phí các yếu tố đầu vào và
theo nguyên tắc tiết kiệm khi cần sản xuất ra một lượng nông sản nhất định.
- Hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp có ảnh hưởng đến hiệu quả sản
xuất ngành nông nghiệp, đến hệ thống môi trường sinh thái nông nghiệp, đến
những người sống bằng nông nghiệp. Vì vậy, đánh giá hiệu quả sử dụng đất
phải tuân theo quan điểm sử dụng đất bền vững.
c. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
`23
- Cơ sở để lựa chọn hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đất
nông nghiệp:
+ Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông
nghiệp.
+ Nhu cầu của địa phương về phát triển hoặc thay đổi loại hình sử dụng
đất nông nghiệp.
- Nguyên tắc khi lựa chọn các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đất
nông nghiệp:
+ Hệ thống chỉ tiêu phải có tính thống nhất, tính toàn diện và tính hệ
thống. Các chỉ tiêu phải có mối quan hệ hữu cơ với nhau, phải đảm bảo tính
so sánh có thang bậc.
+ Để đánh giá chính xác, toàn diện cần phải xác định các chỉ tiêu cơ
bản biểu hiện hiệu quả một cách khách quan, chân thật và đúng đắn theo quan
điểm và tiêu chuẩn đã chọn, các chỉ tiêu bổ sung để hiệu chỉnh chỉ tiêu cơ
bản, làm cho nội dung kinh tế biểu hiện đầy đủ hơn, cụ thể hơn.
+ Các chỉ tiêu phải phù hợp với đặc điểm và trình độ phát triển nông
nghiệp ở nước ta, đồng thời có khả năng so sánh với quốc tế trong quan hệ đối
ngoại, nhất là những sản phẩm có khả năng hướng tới xuất khẩu.
+ Hệ thống chỉ tiêu phải đảm bảo tính thực tiễn và tính khoa học và
phải có tác dụng kích thích sản xuất phát triển.
- Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
Xuất phát từ bản chất của hiệu quả là nói lên mối quan hệ giữa kết quả
và chi phí, mối quan hệ này có thể là quan hệ hiệu số hoặc quan hệ thương số
nên dạng tổng quát của hệ thống chỉ tiêu hiệu quả là:
H=K-C
H = K/C
H = (K - C)/C
H = (K1 - K0)/(C1 - C0)
Trong đó, H : hiệu quả
`24
K : kết quả
C : chi phí
1
và 1 là chỉ số về thời gian
Tùy vào các hệ thống tính toán khác nhau mà các chỉ tiêu kết quả và
hiệu quả sẽ khác nhau. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế đất nông
nghiệp có những sự khác nhau tùy vào từng hệ thống kinh tế.
•
Hiệu quả kinh tế
Hiệu quả kinh tế trên 1 ha đất nông nghiệp gồm:
+ Giá trị sản xuất (GTSX)
Là toàn bộ giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ được tạo ra trong một
thời kỳ nhất định, thường là 1 năm. GTSX chính là giá trị sản lượng trên một
đơn vị diện tích đất nông nghiệp.
+ Chi phí trung gian (CPTG)
Bao gồm toàn bộ chi phí vật chất thường xuyên bằng tiền mà chủ thể
bỏ ra để thuê và mua các yếu tố đầu vào (trừ khấu hao tài sản cố định) và dịch
vụ sử dụng trong quá trình sản xuất.
+ Giá trị gia tăng (GTGT)
Giá trị gia tăng được tính theo công thức:
GTGT = GTSX - CPTG
Trong nền kinh tế thị trường, người sản xuất rất quan tâm đến GTGT, đặc
biệt trong các quyết định ngắn hạn. Nó là kết quả của việc đầu tư các chi phí vật
chất và lao động sống của từng hộ và khả năng quản lý của người chủ hộ.
Hiệu quả kinh tế trên một ngày công lao động:
Hiệu quả kinh tế trên một ngày lao động thực chất là đánh giá kết quả
đầu tư lao động sống cho từng kiểu sử dụng đất hoặc từng cây trồng, làm cơ
sở để so sánh với chi phí cơ hội của từng lao động, bao gồm: GTSX/công LĐ
`25