Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

lý thuyết nữ quyền Hiện sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.22 KB, 10 trang )

I.

ĐẶT VẤN ĐỀ

Ngày nay chỉ số về bất bình đẳng giới được xem là một trong những chỉ số
quan trọng để đánh giá sự phát triển tiến bộ của một quốc gia. Vấn đề bất
bình đẳng giới đã nảy sinh từ rất lâu và cũng đã thu hút được sự quan tâm của
xã hội. Chúng ta đang sống trong một xã hội vă minh hiện đại đề cao tinh
thần bác ái, bình đẳng, đề cao sức mạnh nguồn lực con người…Thế nhưng ở
nhiều nơi trên thế giới bất bình đẳng giới vẫn đang tiếp diễn. Phụ nữ vẫn đang
là những người gánh chịu nhiều thiệt thòi hơn so với nam giới.
Các nỗ lực để tiến đến bình đẳng giới vẫn đang diễn ra. Đó là sự xuất
hiện của các phong trào phụ nữ, các phong trào đấu tranh vì bình đẳng giới
trên phạm vi toàn thế giới. Lực lượng tham gia không chỉ có phụ nữ mà còn
có cả nam giới, các nhà khoa học, các nhà tư tưởng, chính trị…sự xuất hiện
của các phong trào đấu tranh vì quyền lợi của phụ nữ diễn ra cho thấy rằng
nhu cầu về bình đẳng giới là hết sức cấp thiết.
Trong lịch sứ đã có nhiều cuộc đấu tranh vì phong trào phụ nữ (phong
trào nữ quyền). Cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX phong trào nữ quyền ra đời
ở nhiều nước phương tây. Mục tiêu chung của các phong trào này là xóa bỏ
sự thống trị của nhà nước tư sản đối với phụ nữ. Tuy nhiên, phong trào nữ
quyền không phải là một khối thuần nhất mà trên thực tế có những quan điểm
giống nhau và khác nhau giữa các nhóm nữ quyền do cách tiếp cận chế độ
phụ quyền ở nhiều góc độ khác nhau, cách tìm ra nguyên nhân dẫn đến những
thiệt thòi của phụ nữ cũng như là thế nào để chấm dứt sự phụ thuộc của phụ
nữ vào chế độ nam quyền cũng khác nhau. Vì mỗi lý thuyết nữ quyền tiếp cận
một dạng áp bức phụ nữ trong chế dộ phụ quyền nên đã làm ch phong trào nữ
quyền trở nên đa dạng.
Trong khuôn khổ bài tiểu luận này, tôi muốn đi sâu phân tích lý thuyết nữ
quyền Hiện sinh mà đại diện tiêu biểu là nhà văn, nhà phê bình Simone De


1


Beauvoir (1908 – 1986). Và từ đó xem xét, so sánh lý thuyết này với lý thuyết
nữ quyền Cấp tiến để tìm ra những điểm chung cũng như điểm khác nhau
giữa hai lý thuyết này.
II.

MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN

1. GIỚI
Giới là một thuật ngữ xã hội học bắt nguồn từ môn nhân học, nó nói đến
vai trò trách nhiệm và quyền lợi mà xã hội quy định cho nam và nữ, bao gồm
việc phân chia lao động, các kiểu phân chia, các nguồn và lợi ích. Giới đề cập
đến các quy tắc tiêu chuẩn theo nhóm tập thể chứ không theo thực tế cá nhân.
Vai trò giới được xác định theo văn hoá, không theo khía cạnh sinh vật học và
có thể thay đổi theo thời gian, theo các xã hội và các vùng địa lý khác nhau.
2. LÝ THUYẾT NỮ QUYỀN
Thuyết nữ quyền là một hệ thống tư tưởng trải rộng và khái quát về đời
sống xã hội và kinh nghiệm con người được phát triển từ một viễn cảnh phụ
nữ - trung tâm. Thuyết nữ quyền có tính chất phụ nữ - trung tâm theo ba cách
thức. Trước hết đối tượng điều tra là hoàn cảnh và những kinh nghiệm của
giới nữ trong xã hội. Thứ 2, nó coi phụ nữ là các “ chủ thể” trung tâm trong
quá trình điều tra - nghĩa là, nó tìm cách nhìn thế giới từ sự khác biệt của phụ
nữ trong thế giới xã hội. Thứ 3, thuyết nữ quyền có tính chất phê phán và
chính trị với tư cách của phụ nữ, tìm cách tạo ra một thế giới tốt đẹp hơn cho
nữ giới, từ đó lí luận cho cả nhân loại. Phong trào nữ quyền chia làm 2 giai
đoạn: Làn sóng nữ quyền thứ nhất: tập trung vào cuộc tranh luận về vai trò
quyết định của vật chất, về các khác biệt kinh tế giữa nam và nữ. Làn sóng nữ
quyền thứ 2: tập trung vào mối quan hệ tái sản xuất - sản xuất, sự phân công

lao động theo giới trong mối liên quan với các quan hệ về quyền lực giữa nam
và nữ, và các quan hệ xã hội cụ thể của các phương thức sản xuất tức là các
quan hệ giai cấp.

2


III.

LÝ THUYẾT NỮ QUYỀN HIỆN SINH

1. NGUỒN GỐC
Đầu thế kỷ XX, các cuộc cách mạng công nghiệp, cách mạng khoa học
và công nghệ thành công đã làm thay đổi tận góc nền sản xuất của xã hội. các
cuộc cách mạng này đã mang lại nhiều thành tựu nổi bật trong phát triển sản
xuất, khoa học và công nghệ… sự tiến bộ này được các nhà tư tưởng miêu tả
như là một thành quả của chủ nghĩa duy lý. Tuy nhiên, ngay trong thời kỳ
phát triển rực rỡ của nó, nhiều nhà triết học phi duy lý như Spengler đã nói
đến sự suy tàn của nó, cũng như nói đến những hệ lụy mà nó mang tới như
các mối quan hệ xã hội bị phá vỡ, bất hạnh và thảm họa cùa con người. Bên
cạnh đó các sự kiện xã hội lớn xảy ra trên thế giới như sự xuất hiện của chủ
nghĩa Phát xít, các cuộc chiến tranh liên tiếp nổ ra và sự đe dọa từ các vũ khí
chiến tranh tối tân và hiện đại như bom nguyên tử đã làm nên sự hoang mang
cho con người. Chủ nghĩa Hiện sinh – là một trào lưu triết học đã xuất hiện
vào những năm đầu của thế kỷ XX nhưng đặc biệt phát triển mạnh vào giai
doạn này.Sở dĩ được gọi là chủ nghĩa hiện sinh là vì chủ nghĩa này nhấn mạnh
rằng đời sống nhân loại chỉ có thể hiểu được thông qua sự hiện sinh của cá
nhân, tức là thông qua kinh nghiệm riêng biệt của anh ta về cuộc đời. Người
ta sống, chứ không phải tồn tại, trong mỗi phút giây, và kinh nghiệm về cuộc
sống của mỗi người luôn có tính chất độc đáo, khác biệt hoàn toàn với kinh

nghiệm của mọi người, và chỉ có thể được hiểu đúng thông qua sự dấn thân
của anh ta vào cuộc sống. các tác phẩm của hiện sinh luôn đi đến đề tài về tự
do. Như sự mất tự do của con người, hoặc mối đe doạ đối với tự do, và tất cả
các nhà hiện sinh, dù thuộc trường phái nào, cũng đều ưu tư đến hành động
mở rộng phạm vi tư do của nhân loại.
Quan điểm của chủ nghĩa hiện sinh là tôn vinh giá trị cá nhân và cuộc sống
hiện tại của con người trong xã hội tư sản. Điều quan trọng là trong khi tôn

3


vinh giá trị cá nhân ( cái tôi) những người sáng lập ra thuyết này đã không đề
cập đến vấn đề phụ nữ. Và Simone De Beauvoir đã tiếp cận thuyết này và tìm
ra những điểm thiếu sót của thuyết này khi không đề cập đến vấn đề phụ nữ.
Simone De Beauvoir là nhà văn và là đại diện hàng đầu của chủ nghĩa
hiện sinh, nhà hoạt động chính trị nổi tiếng. Bà được coi là người làm thya
đổi đời sống chính trĩ và trí tuệ của người phụ nữ phương tây thế kỷ XX. Bà
là tác giả của nhiều tác phẩm văn học nổi tiếng và nhận được nhiều giải
thưởng lớn. Nhưng với tác phẩm The second sex bà đã trở thành một nhà nữ
quyền kinh điển, một phụ nữ tiên phong trong phong trào phụ nữ quốc tế.
Simone De Beauvoir đã sử dụng tri thức về triết học để thể hiện tình cảm và
đưa ra tuyên ngôn của mình về chủ nghĩa nữ quyền và chủ nghĩa Hiện sinh.
Thuyết nữ quyền hiện sinh được hình thành dự vào thuyết Hiện sinh và
Simone De Beauvoir là người sáng lập ra nên Simone De Beauvoir là đại biểu
lớn nhất củ thuyết nữ quyền Hiện sinh.
2. NHỮNG QUAN ĐIỂM CHÍNH CỦA LÝ THUYẾT NỮ QUYỀN
HIỆN SINH
Năm 1949, Simone De Beauvoir cho xuất bản tác phẩm The second sex.
Những tư tưởng được Simone De Beauvoir thể hiện trong đó đã trở thành lý
thuyết kinh điển của phong trào phụ nữ trong xã hội nam trị và vạch ra con

đường dành quyền lợi cho phụ nữ - những người chiếm một nửa nhân loại.
Simone De Beauvoir nhận xét rằng :“Không phải người ta sinh ra đã là phụ
nữ, mà là con người biến thành phụ nữ.” Trong xã hội nam trị, phụ nữ xưa
nay vẫn bị coi là thứ yếu bên cạnh người đàn ông chủ yếu. Hay nói cách khác
phụ nữ không phải là chính họ mà họ chỉ là một phần của người đàn ông mà
thôi. Quan điểm phụ nữ là thứ yếu, là một phần của đàn ông là do hoàn cảnh
lịch sử tạo ra chứ không liên quan gì đến thiên tính của giới nữ. Phụ nữ bị áp
bức bóc lột do người phụ nữ không phải là nam giới. Nam giới là “cái tôi”, là

4


những người tự do, được quyền quyết định mọi việc và họ được quyền xác
địn ý nghĩa của cuộc sống của họ. Bà kêu gọi mọi người hay suy nghĩ về phụ
nữ theo cách nghĩ về nam giới.. Và Simone De Beauvoir chỉ ra rằng, phụ nữ
nếu muốn trở thàn cái ôi như nam giới thì phải thay đổi những nhãn hiệu đã
được xã hội gắn cho – những nhãn hiệu đã làm hạn chế sự tồn tại của họ. như
vậy theo quan điểm của Simone De Beauvoir phụ nữ muốn trở thành “cái
tôi” như nam giới thì phụ nữ phải biến mình thành những gì mình muốn. tức
là thay vì trở thành những gì mà nam giới gán cho thì họ phải tự làm chủ bản
thân mình, làm những gì mình muốn, trở thành những gì mình muốn, tự quyết
định cuộc đời mình và tự chịu trách nhiệm với quyết định của mình.
Cùng với các nhà Hiện sinh chống lại xã hội kỹ trị, Simone De Beauvoir
đã đi vào xem xét một thiết chế xã hội cụ thể là gia đình để xem xét thân
phận người phụ nữ. Và bà cho rằng gia đình phục vụ lợi ích của chế độ gia
trưởng (chế độ nam trị), cho lợi ích của người đàn ông. Sự thay đổi của các
điều kiện kinh tế - xã hội cũng làm cho các hình thức hôn nhân và gia đình,
vai trò vị thế của người phụ nữ thay đổi. Tuy nhiên trên thực tế vị thế, thân
phận của người phụ nữ thay đổi rất chậm. người ta đề cập đến vai trò của
phụ nữ thực chất là để níu kéo phụ nữ trở lại với các chức năng truyền thống

của người phụ nữ như sinh con , nuôi dạy con cái, làm việc nhà…Chính
những quan điểm này đã làm bị tổn thương phụ nữ và vị thế của họ trong gia
đình và ngoài xã hội. Phụ nữ vẫn còn bị phân biệt đối xử trong gia đình và
ngoài xã hội, thu nhập thấp, không được hưởng sự bình đẳng trong giáo
dục…
Từ quan điểm gia đình phục vụ lợi ích của chế độ gia trưởng, lợi ích của
đàn ông. Các công trình phân tích nữ quyền về chế độ gia trưởng ngày càng
được hoàn thiện và phổ biến. Phân tích nữ quyền về áp bức bóc lột phụ nữ

5


trong gia đình thể hiện ở ba lĩnh vực : phân công lao động theo giới trong gia
đình, quyền quyết định trong gia đình và bạo lực giới trong gia đình.
Dựa trên lập trường của chủ nghĩa Hiện sinh, Simone De Beauvoir đã
tìm ra con đường giải phóng phụ nữ độc đáo, bà được coi là một trong những
người khởi xướng làn sóng nữ quyền thứ 2. Đó là làn sóng nữ quyền tập trung
vào nghiên cứu, phân tích mối quan hệ tái sản xuất – sản xuất, sự phân công
lao động theo giới trong mối liên quan với các quan hệ về quyền lực giữa nam
và nữ, và các quan hệ xã hội cụ thể của các phương thức sản xuất tức là các
quan hệ giai cấp.
Simone De Beauvoir là người đầu tiên kết luận “ phụ nữ không phải chỉ
được sinh ra mà họ cần phải được tôn trọng”. bản thân Simone De Beauvoir
đã tích cực đấu tranh chống lại những định kiến, sự bất công vô lý và đòi
quyền bình đẳng cho phụ nữ và làm thế nào để phụ nữ thoát khỏi sự cạnh
tranh và bạo lực. bà là người nhiệt tình cổ vũ cho sự thủ tiêu cái được gọi là
sự tồn tại vĩnh viễn của vấn đề phụ nữ.
Tóm lại qan điểm chính của thuyết nữ quyần Hiên sinh là phụ nữ bị áp
bức bởi tính chất là “người khác”. Phụ nữ là người khác vì chị không phải là
nam giới. Nam giới là cái “ tôi”, là người tự do, nắm quyền quyết định mọi

việc. họ xác định ý nghĩa cuộc sống của họ. Phụ nữ là người khác,, là khách
thể bên cạnh chủ thể là nam giới, và ý nghĩa được gán, được quy định cho chị.
Nếu phụ nữ muốn trở thành “cái tôi”, chủ thể như nam giới thì phụ nữ phải
thay đổi các định nghĩa, các nhãn hiệu được gán cho họ từ trước tới nay. Phụ
nữ phải biến mình thành những gì chị muốn.
IV.

SO SÁNH LÝ THUYẾT NỮ QUYỀN HIỆN SINH VÀ LÝ
THUYẾT NỮ QUYỀN CẤP TIẾN

Cả lý thuyết nữ quyền Hiện sinh và nữ quyền Cấp tiến đều đưa ra quan
điểm rằng chính hệ thống Nam trị ( hay chế độ gia trưởng) đã áp bức phụ nữ.

6


Đặc biết của hệ thống này là : đàn ông là ngững người siêu việt hơn phụ nữ.
phụ nữ bị kiểm soát bởi đàn ông. Có một hệ thống tôn ti trật tự trong đó đàn
ông là cấp trên và thống trị, phụ nữ là cấp dưới và bị trị.
Các nhà nữ quyền cấp tiến cho rằng, không phải bản chất sinh học của
phụ nữ mang tính chất áp bức, mà sự áp bức là ở chỗ nam giới kiểm soát phụ
nữ trong vai trò sinh đẻ và nuôi dưỡng con cái. Đại diện của thuyết nữ quyền
hiện sinh Simone De Beauvoir cũng cho rằng: “ phụ nữ sinh ra không phải là
phụ nữ mà trở thành phụ nữ”. Phụ nữ là thứ yếu bên cạnh người đàn ông chủ
yếu và quan điểm này là kết quả của hoàn cảnh lịch sử tạo ra chứ không liên
quan gì đến thiên tính của giới nữ. Phụ nữ sinh ra và được gán cho các nhãn
hiệu. điều này có nghĩa là những bản chất sinh học không làm cho phụ nữ trở
thành khách thể, trở thành thứ yếu mà chính các ý nghĩa, quy định, nhãn hiệu
mà xã hội và chế độ nam trị gán cho họ, quy định cho họ đã làm cho phụ nữ
bị áp bức, bóc lột và kiểm soát.

Simone De Beauvoir và các nhà nữ quyền cấp tiến đều cho rằng phụ nữ
chịu nhiều áp lực từ việc sinh đẻ. Và theo Simone De Beauvoir thì người ta
đặt vấn đề về vai trò của người phụ nữ thực chất là muốn níu kéo phụ nữ trở
lại với các chức năngtruyền thống của họ như cong việc bếp núc sinh đẻ, nuôi
dạy con cái và coi phụ nữ như “ máy đẻ” thụ động, cấm họ ngừa thai, nạo phá
thai và chính những quan điểm này đã làm tổn thương phụ nữ và vị thế của
họ. theo quan điểm của các nhà nữ quyền Cấp tiến, nếu muốn giải phóng phụ
nữ, mỗi phụ nữ phải được quyền quyết định khi nào dùng hay không dùng các
kỹ thuật kiểm soát sinh đẻ như: tránh thai, triệt sản, nạo thai và kỹ thuật hỗ trợ
sinh sản như thụ tinh nhân tạo, thụ tinh trong ống nghiệm… Phụ nữ cũng
phải tự quyết định cho mình nuôi hay không nuôi con cái của mình. Simone
De Beauvoir cũng cho rằng phụ nữ phải được tự do sinh đẻ. Và nạo phá thai
( tức là phụ nữ phải được quyền tự do quyết định trong sinh đẻ). Simone De

7


Beauvoir cũng là người đấu tranh rất mạnh mẽ cho quyền này của phụ nữ. Và
sau này, chính nhờ sự đấu tranh mạnh mẽ của bà mà quyền tự do nạo phá thai
được pháp luật nhiều nước thừa nhận. Kết quả này được đánh giá là một
thắng lợi lớn góp phần quan trọng giải phóng phụ nữ.
Tóm lại các nhà nữ quyền hiện sinh và nữ quyền cấp tiến đều là những
người đấu tranh xóa bỏ mọi sự phân biệt đối xử giữa đàn ông và phụ nữ, và
đều cho rằng điều quan trọng là phụ nữ phải tự thay đổi cách suy nghĩ của
mình về vị trí và vai trò của họ trong gia đình và ngoài xã hội.
Điểm khác nhau giữa lý thuyết nữ quyền Hiện sinh và nữ quyền Cấp
tiến là ở chỗ họ đưa phương pháp đấu tranh cho phong trào phụ nữ khác nhau.
Simone De Beauvoir cho rằng phụ nữ phải tự thay đổi những suy nghĩ về vai
trò, vị thế của mình trong gia đình và ngoài xã hội. Nếu phụ nữ muốn trở
thành “cái tôi” giống như nam giới thì phải thay đổi các định nghĩa nhãn hiệu

vốn đã hạn chế sự tồn tại của họ. và bà kêu gọi mọi người hay suy nghĩ về
phụ nữ theo cách suy nghĩ về nam giới. tuy nhiên theo các nhà nữ quyền cấp
tiến thì để giải quyết vấn đề phụ nữ thì không thể chỉ dừng lại ở cấp độ cải
cách mà phải lật đổ chế độ này một cách triệt để. Không những phải lật đổ
các cơ cấu pháp lý và chính trị của chế độ nam quyền mà các thiết chế xã hội
và văn hóa của nó ( đặc biệt là gia đình, nhà thờ và viện hàn lâm) cũng phải
thay đổi.
Phần lớn các nhà nữ quyền Cấp tiến tập trung vào các yếu tố xã hội dẫn
đến việc áp bức phụ nữ và cho rằng cách mà nam giới thống trị phụ nữ đặc
biệt là tính dục. Nam giới kiểm soát và ngăn chặn tính dục của phụ nữ vì sự
ích kỷ của mình. Do sự áp bức về tình dục của nam giới, một số nhà nữ quyền
Cấp tiến tin rằng, để được giải phóng phụ nữ cần thoát khỏi ràng buộc về tính
dục của nam giới, rồi tạo ra tính dục riêng của phụ nữ. Từ đó họ đưa ra khái
niệm “lưỡng tính”. Họ cho rằng phụ nữ có thể sống độc thân, tự làm tình hoặc

8


đồng tính luyến ái nữ. Quan điểm của Charilotte Bunch cho rằng: để toàn tâm
toàn ý cống hiến cho phong trào nữ quyền mỗi phụ nữ phải trở thành một “
Lesbian”. Có thể nói những nhà nữ quyền Cấp tiến đã có quan điểm rất quyết
liệt vầ về vấn đề này.
Như vậy khác với Simone De Beauvoir và các trường phái nữ quyền
khác, các nhà nữ quyền Cấp tiến có quan điểm rất quyết liệt rằng : để giải
quyết vấn đề phụ nữ không thể chĩ cải cách mà phải lật đổ chế độ này (chế độ
nam trị) một cách triệt để.

V. KẾT LUẬN.
Trong quá trình phát triển của phong trào nữ quyền đã hình thành nên
những lý thuyết nữ quyền khác nhau bao gồm : lý thuyết nữ quyền Hiện sinh,

thuyết nữ quyền Tự do, Thuyết nữ quyền Cấp tiến, Thuyết nữ quyền
Mácxít…Chính điều này đã làm cho phong trào nữ quyền trở nên đa dạng
phong phú. Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Hiện sinh, Simone De
Beauvoir đã sáng lập ra lý thuyết nữ quyền Hiện sinh. Bà được coi là người
làm thay đổi đời sống chính trị và trí tuệ cửa giới phụ nữ phương tây ở thế kỷ
XX. Những tư tưởng của Simone De Beauvoir về vấn đề phụ nữ đã được các
trường phái khác nhau của phong trào nữ quyền và các trào lưu khoa học xã
hội hiện địa. Bằng sự tâm huyết và đấu tranh không mệt mỏi của mình, nhà
nữ quyền hiện sinh Simone De Beauvoir đã đưa thân phận của người phụ nữ
ra trước ánh sáng, chỉ ra tính khác biệt của phụ nữ và chính vì vậy họ chỉ
được nhận “ Phẩm chất thứ hai” không cơ bản so với nam giới. Để giải phóng
phụ nữ khỏi áp bức bóc lột của nam giới thì mỗi phụ nữ phải thay đỏi các
định nghĩa, nhãn hiệu đã được nam giới và xã hội gán cho họ. Bởi theo bà
“Không phải người ta sinh ra đã là phụ nữ, mà là con người biến thành phụ
nữ”. Tổng thống Pháp François Mitterrand từng ca ngợi bà là “một trong
những nhà văn bậc thầy, nhà tiên phong vạch thời đại. Cuộc đời của bà, các

9


tác phẩm bà viết và cuộc đấu tranh của bà đã nâng cao giác ngộ của tất cả
những người đàn ông và đàn bà nước Pháp cũng như toàn thế giới”.

10



×