Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Luận văn nâng cao khả năng cạnh tranh của gạo xuất khẩu VN trên thị trường thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (246.51 KB, 38 trang )

Mục lục
trang
- Lời mở đầu

……………………………………………....................2

- Nội dung

…………………………………………………………..4

Chương I

Những vấn đề cơ bản về …………………………..4

1.1 Lý thuyết về cạnh tranh trong thương mại quốc tế. …………….4
1.1.1 Tính tất yếu của cạnh tranh trong thương mại quốc tế……………4

1.1.2 Bản chất của cạnh tranh. ………………………………………...5
1.1.3 Vai trò của cạnh tranh……………………………………………5
1.2. Cạnh tranh sản phẩm trong thương mại quốc tế…………………6
1.2.1 Khái niệm và phân loại cạnh tranh……………………………...6
1.2.2 Nội dung và công cụ cạnh tranh sản phẩm………………………8

1.2.3 Nhân tố ảnh hưởng đến cạnh tranh sản phẩm……………………9
Chương II Thực trạng khả năng cạnh tranh ………………….11
2.1 Khái quát về tình hình xuất khẩu gạo……………………………..11

2.1.1 Tình hình xuất khẩu gạo trên thế giới. ………………………......11
2.1.2. Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam………………………......14
2.2 Khả năng cạnh tranh của sản phẩm lúa gạo……………………...24
2.3. Những hạn chế trong khả năng cạnh tranh ……………………...38



Chương III Một số biện pháp ……………………………………42
3.1. Biện pháp đối với thị trường trong nước………………………..42
3.2 Biện pháp đối với thị trường ngoài nước………………………….43
3.3 Biện pháp đối với việc sản xúât gạo. ……………………………..44
3.4. Xây dựng thương hiệu …………………………………………….44
- Kết luận …………………………………………………………….46
.
LỜI MỞ ĐẦU
Cây lúa luôn giữ vị trí trung tâm trong nông nghiệp và kinh tế Việt Nam. Hình ảnh đất Việt
thường được mô tả như một chiếc đòn gánh khổng lồ với hai đầu là hai vựa thóc lớn là ĐBSH và

1


ĐBSCL. Đây là hai Châu thổ có mật độ dân cư và thâm canh sản suất nông nghiệp thuộc loại
cao nhất trên thế giới. Điều kiện thời tiết khí hậu và địa lý thích hợp đã tạo một môi trường lý
tưởng cho sản xuất lúa gạo tại hai châu thổ này. Nhờ những điều kiện thuận lợi này mà trong sự
nghiệp đổi mới kinh tế, Việt Nam đã và đang đạt được nhiều thắng lợi khả quan trong nông
nghiệp nhất là bước ngoặt phát triển về sản xuất và xuất khẩu gạo.
Từ một nước nông nghiệp thiếu đói kéo dài, Vịêt Nam không chỉ tự túc được lương thực ổn định,
mà còn vươn lên đẩy mạnh xuất khẩu và trở thành nước xuất khẩu gạo thứ hai thế giới, chỉ sau
Thái Lan. Đó là một kỳ tích kinh tế mà cả thế giới đều biết đến ở thập niên cuối của thế kỷ này.
Thành tựu đó chứng minh đường lối đổi mới nông nghiệp của Đảng nói chung, định hướng chiến
lược sản xuất và xuất khẩu gạo nói riêng là đúng đắn. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã
đạt được thì vấn đề sản xuất và xuất khẩu lúa gạo của Việt Nam cũng còn nhiều khó khăn như
công nghệ còn lạc hậu, chất lượng gạo xuất khẩu chưa cao,
cơ sở hạ tầng còn thiếu, giá gạo còn ở mức thấp…..nên khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam so
với các nước khác còn kém.
Đặc biệt khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, trong điều kiện tình hình kinh tế, chính trị thế

giới và khu vực có nhiều biến đổi, cuộc chạy đua và cạnh tranh kinh tế toàn cầu diễn ra hết sức
gay gắt, thì vấn đề sản xuất và xuất khẩu một sản phẩm nào đó, đòi hỏi phải có một chiến lược
phát triển khôn ngoan, có sự tính toán kỹ càng, cẩn trọng trong một tổng thể chiến lược phát triển
chung mới giành được thắng lợi và đạt được hiệu quả tối ưu. Do đó để xuất khẩu gạo nước ta giữ
vững được vị trí thứ hai, không những thế mà còn vươn lên đứng đầu thế giới về xuất khẩu gạo
thì vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh cuả gạo xuất khẩu Việt Nam là vấn đề vô cùng quan
trọng, chính vì vậy em đã chọn đề tài: “Nâng cao khả năng cạnh tranh của gạo xuất khẩu Việt
Nam trên thị trường thế giới” làm đề tài nghiên cứu của mình.
Bố cục của đề án gồm các phần sau:
-Chương I: Những vấn đề cơ bản về cạnh tranh trong thương mại quốc tế.
-Chương II: Thực trạng và khả năng cạnh tranh của gạo xuất khẩuViệt Nam trên thị trường thế
giới.
-Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu gạo của Việt
Nam.

2


NỘI DUNG
Chương I

Những vấn đề cơ bản về cạnh tranh trong thương mại quốc tế.

1.1. Lý thuyết về cạnh tranh trong thương mại quốc tế.
1.1.1. Tính tất yếu của cạnh tranh trong thương mại quốc tế.
Kinh tế thị trường là nền kinh tế được điều tiết bởi thị trường. Một điều tất yếu là đặc trưng cơ
bản nhất của nền kinh tế thị trường đó là : bất kỳ một chủ thể kinh tế nào tham gia vào thị trường
đều phải chấp nhận cạnh tranh.Khi nói tới cạnh tranh là nói tới thị trường và ngược lại nói tới thị
trường là nói tới cạnh tranh. Thị trường mà không có cạnh tranh thì không còn là thị trường nữa.
Mặt tích cực của thị trường cũng là mặt tích cực của cạnh tranh. Mặt tiêu cực của thị trường, tồn

tại theo quan niệm của nhiều người cũng là mặt tiêu cực của cạnh tranh, ý đồ tạo thị trường
không có cạnh tranh, “thị trường có tổ chức” đã xụp đổ hoàn toàn vì nó không tạo ra được cơ chế
phân phối tối ưu các nguồn lực xã hội. Triệt tiêu cạnh tranh làm mất tính năng động, sáng tạo của
mỗi người cũng như của toàn xã hội, nền sản xuất xã hội sẽ không còn hiệu qủa - nguồn gốc của
việc nâng cao đời sống nhân dân.
Thực chất của cạnh tranh là sự tranh giành về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể tham gia thị
trường. Đối với người mua họ muồn mua được loại hàng hoá có chất lượmg cao, với một giá rẻ.
Còn ngược lại, người bán bao giờ cũng muốn tối đa hoá lợi nhuận của mình. Vì mục tiêu lợi
nhuận, họ phải giảm chi phí và tìm cách giành giật khách hàng và thị trường về phía mình và như
vậy cạnh tranh sẽ xảy ra.
Cạnh tranh là một điều tất yếu của thị trường. Các chủ thể tham gia thị trường bắt buộc phải cạnh
tranh ganh đua với nhau, phải không ngừng tiến bộ để giành được ưu thế tương đối so với đối
thủ. Nếu như lợi nhuận là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp tiến hành các hoạt động sản xuất
kinh doanh thì cạnh tranh bắt buộc họ phải tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh một cách
có hiệu quả cao nhất nhằm thu được lợi nhuận tối đa. Do vậy cạnh tranh là tất yếu của nền king tế
thị trường, là một phương thức vận động của thị trường. Nói đến thị trường cũng có nghĩa là nói
tới cạnh tranh giữa các chủ thể kinh tế. Do vậy quá trình sản xuất kinh doanh buộc phải tuân theo
những quy luật cạnh tranh. Theo quy luật cạnh tranh những kẻ thua sẽ bị gạt ra khỏi thị trường
còn một số khác vẫn tồn tại và phát triển hơn nữa, chính sự nghiệt ngã này buộc các doanh
nghiệp ngày càng phải hoàn thiện hơn để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình trên thị trường.

1.1.2. Bản chất của cạnh tranh.
- Cạnh tranh thực chất là sự ganh đua của các chủ thế trong nền kinh tế để đạt được
3


vị thế cao trên thương trường từ đó hướng tới mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận.
- Cạnh tranh quốc tế không chỉ đòi hỏi phải giảm giá thành mà còn yêu cầu phải
quản lý tốt lượng tiền trên phạm vi toàn cầu.
- Tình hình cạnh tranh toàn cầu luông xoay quanh vấn đề lưu lượng tiền, chính vì

vậy mà trong cạnh tranh không chỉ chú ý đến giá thành mà cần coi trọng vấn đề giá
cả.
- Để duy trì sức cạnh tranh của mình trên phạm vi toàn cầu, hiển nhiên các công ty
đa quốc gia phải thiết lập cơ sở hạ tầng chiến lược khai thác thị trường đa quốc gia,
hoàn thiện các hệ thống sảnxuất giảm đên mức tối thiểu giá thành toàn bộ hệ thống.
1.1.3. Vai trò của cạnh tranh.
Cạnh tranh là đặc trưng cơ bản của thị trường và vì thế có thể nói thị trường là vũ đài cạnh
tranh là nơi gặp gỡ giữa các đối thủ. Trong cơ chế thị trường cạnh tranh diễn ra liên tục và không
có đích cuối cùng. Cạnh tranh sẽ bình quân hóa các giá trị cá biệt để hình thành giá cả thị trường.
Vì vậy cạnh tranh là động lực để thúc đẩy doanh nghiệp thương mại không ngừng cải tiến hoạt
động kinh doanh để tồn tại và phát triển.Cạnh tranh có vai trò vô cùng to lớn đối với nền kinh tế
nó được thể hiện ở một số nội dung cơ bản sau:
- Trong cơ chế thị trường, cạnh tranh làm cho giá cả thị trường giảm xuống, nhưng chất lượng
hàng hóa ngày càng cao, phù hợp với mong muốn của người tiêu dùng.
-

Cạnh tranh sẽ loại bỏ những nước có chi phí cao trong sản xuất kinh doanh hàng hóa và

khuyến khích các nước có chi phí thấp. Từ đó cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải tối ưu hóa
các yếu tố đầu vào trong sản xuất kinh doanh.
- Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải không ngừng ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ
thuật để nâng cao chất lượng sản phẩm hạ giá bán trên thị trừờng để từ đó giữ được chữ tín với
khách hàng. Đồng thời cạnh tranh cũng buộc các nước phải nghiên cứu thị trường thế giới, nắm
bắt được thông tin và những thời cơ hấp dẫn, chú trọng công tác khuyếch trương, quảng cáo sản
phẩm và thanh thế nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu, tham gia các hoạt động trong hiệp hội
ngành hàng để cập nhật thông tin mới về tình hình giá cả, cung cầu trên thị trường cạnh tranh.
- Cạnh tranh là công cụ tước quyền thống trị về mặt kinh tế trong lịch sử.
Cạnh tranh thường xảy ra mạnh được yếu thua, các chủ thể hành vi kinh tế thích ứng với thị
trường sẽ tồn tại và phát triển, ngược lại các chủ thể hành vi kinh tế không thích ứng với thị
4



trường sẽ bị đào thải.
1.2. Cạnh tranh sản phẩm trong thương mại quốc tế.
1.2.1. Khái niệm và phân loại cạnh tranh.
* Khái niệm cạnh tranh
Trong văn kiện đại hội VIII của đảng chỉ rõ “Cơ chế thị trường đòi hỏi phải hình thành một
môi trường cạnh tranh lành mạnh, hợp pháp, văn minh. cạnh tranh vì lợi ích phát triển của đất
nước, chứ không phải làm phá sản hàng loạt, lãng phí các nguồn lự, thôn tính lấn nhau. Trong
mục tiêu tổng quát của kế hoạch 5 năm 2001-2005 đảng ta đã khẳng định cẩn phải “ Nâng cao rõ
rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế”. Vậy cạnh tranh là gì ?
Do cách tiếp cận khác nhau, bởi mục đích nghiên cứu khác nhau nên trong thực tế có nhiều quan
niệm khác nhau về cạnh tranh.
Theo Marx: “Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt gịữa các nhà tư bản nhằm giành
giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu
ngạch”
Hay cạnh tranh là quạn hệ kinh tế phản ánh mối quan hệ giữa các chủ thể của nền kinh tế thị
trường cùng theo đuổi mục đích lợi nhuận tối đa. Cạnh tranh còn là phương thức giải quyết mâu
thuẫn lợi ích kinh tế giữa các chủ thể của nền kinh tế thị trường.Với các phạm trù như trên phạm
trù cạnh tranh được hiểu: “ Cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua
nhau tìm mọi biện pháp, cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn để đạt mục tiêu kinh tế của mình, thông
thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như các điều kiện sản xuất, thị trường
có lợi nhất. Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa hoá
lợi ích. Đối người sản xuất kinh doanh là lợi nhuận, đối với người tiêu dung là lợi ích tiêu dung
và sự tiện lợi”.
* Phân loại cạnh tranh
Cạnh tranh được phân chia thành nhiều loại dựa trên các tiêu thức khác nhau:
- Dưới góc độ chủ thể kinh tế tham gia thị trường có cạnh tranh giữa những người sản xuất
(người bán với nhau, giữa những người mua và người bán, người sản xuất và người tiêu dung và
giữa những người mua vơí nhau.

- Dưới góc độ thị trường thì có hai loại cạnh tranh.
+ Cạnh tranh hoàn hảo là tình trạng cạnh tranh trong đó giá cả của loại hàng hoá là không thay
đổi trong toàn bộ địa danh của thị trường,bởi vì người mua và, người bán đều biết tường tận về

5


các điều kiện của thị trường.
+ Cạnh tranh không hoàn hảo. Đây là hình thức cạnh tranh chiếm ưu thế trong các ngành sản
xuất mà ở đó các cá nhân bán hàng hoặc các nhà sản xuất có đủ sức mạnh và thế lực có thể chi
phối được giá cả sản phẩm của mình trên thị trường.
Cạnh tranh không hoàn hảo có hai loại: độc quyền nhóm và cạnh tranh mang tính độc quyền.
Độc quyền nhóm tồn tại trong các ngành sản xuất mà ở đó chỉ có một ít người sản xuất, mỗi
người đều nhận thức được rằng giá cả các sản phẩm của mình không chỉ phụ thuộc vào sản lượng
của mình mà còn phụ thuộc vào hoạt động của những kẻ cạnh tranh quan trọng trong ngành đó.
Cạnh tranh mang tính độc quyền là một hình thức cạnh tranh mà ở đó người bán có thể ảnh
hưởng đến người mua bằng sự khác nhau của các sản phẩm của mình về hình dáng, kích thước,
chất lượng, nhãn mác.
-Dưới góc độ các công đoạn của sản xuất kinh doanh, người ta cho rằng có 3 loại: cạnh tranh
trước khi bán hàng, trong quá trình bán hàng và sau khi bán hàng

-Xét theo mục tiêu

kinh tế của các chủ thể kinh doanh trong cạnh tranh, có cạnh tranh giữa nội bộ ngành và cạnh
tranh giữa các ngành.
- Cuối cùng xét theo phạm vi lãnh thổ, người ta nói tới cạnh tranh trong nước và cạnh tranh quốc
tế. Cạnh tranh quốc tế có thể diễn ra ở ngay trong thị trường nội địa, đó là cạnh tranh giữa hàng
hoá trong nước và hàng ngoại nhập.
1.2.2. Nội dung và công cụ trong cạnh tranh sản phẩm.
* Nội dung.

-Cạnh tranh về loại hình sản phẩm: đối với mặt hàng truyền thống để có thể giữ được khách hàng
và vẫn có thể cạnh tranh đựơc trên thương trường chúng ta cần giữ giá nâng cao chất lượng hoặc
giảm giá và ổn định chất lượng. Đối với sản phẩm mới phải hướng vào lợi nhuận thì mục tiêu
chất lượng sản phẩm kinh doanh và chất lượng phục vụ khách hàng là điều quan trọng để nâng
cao sức cạnh tranh.
- Cạnh tranh giữa các sản phẩm khác nhau: doanh nghiệp cần nghiên cứu đối thủ cạnh tranh và
phải biết thái độ của thị trường có thái độ như thế nào đối với sản phẩm khác nhau và quan niệm
đối với mỗi loại để có chíên lựơc cạnh tranh cho phù hợp.
- Cạnh tranh trong cùng loại sản phẩm: giữa các sản phẩm cùng loại thì các doanh nghiệp cần đa
dạng hoá về kích cỡ, mầu sắc tăng độ bền đẹp của sản phẩm đáp ứng mọi yêu cầu của khách
hàng, muốn như vậy doanh nghiệp phải nghiên cứu nhu cầu của thị trường đối với các loại sản

6


phẩm khác nhau.
- Cạnh tranh giữa các nhãn hiệu: doanh nghiệp phải xây dựng cho mình một thương hiệu mạnh
tạo lòng tin với khách hàng có như vây mới nâng cao khả năng cạnh tranh trên thương trường.
*Công cụ trong cạnh tranh sản phẩm.
- Giá cả: là công cụ cạnh tranh hữu hiệu của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào biết giảm chi phí
hạ giá thành nhưng đồng thời chất lượng hàng hoá cao thì sẽ chiếm lĩnh thị trường.
- Dịch vụ trước trong và sau khi bán: doanh nghiệp nào biết phục vụ khách hàng tốt sẽ tạo được
ấn tượng mạnh cho khách hàng và sẽ có nhiều khách hàng đến với mình hơn.
-Thương hiệu: doanh nghiệp cần xây dựng một thương hiệu cho sản phẩm của mình để thương
hiệu đó in sâu vào trong tâm trí của khách hàng. Muốn vậy doanh nghiệp phải có hàng hoá chất
lượng cao giá cả phù hợp để tạo niềm tin cho khách hàng ngay từ đầu.Bên cạnh đó thì vấn đề về
công nghệ sản xuất sản phẩm tiên tiến cũng là điều rất cần thiết.

1.2.3. Nhân tố ảnh hưởng đến cạnh tranh sản phẩm.
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp trong đó

phải kể đến một số yếu tố sau:
- Chất lượng sản phẩm: là yếu tố vô cùng quan trọng nó quyết định đến lượng hàng
hoá bán ra và việc đưa khách hàng đến với doanh nghiệp. Để nâng cao khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường thỉ doanh nghiệp cần thực hiện một số
giải pháp như là giữ giá sản phẩm như cũ nhưng nâng cao chất lượng sản phẩm hay
giảm giá sản phẩm nhưng giữ chất lượng hàng như cũ.
-Quy mô, cơ cấu, đa dạng các loại sản phẩm: phục vụ được mọi nhu cầu của người
tiêu đùng sẽ tạo khả năng cạnh tranh cao so với các đối thủ khác.
- Giá cả: phải phù hợp với giá của thị trường, phải đủ sức cạnh tranh với hàng hoá
và dịch vụ cùng loại của các nước khác chí ít là nước trong khu vực và đối thủ cạnh
tranh với mình.
- Công nghệ sản xuất sản phẩm: phải theo kịp thời đại, bảo đảm chất lượng sản
phẩm theo quy định, doanh nghiệp nào có công nghệ tiên tiến sẽ tạo khả năng cạnh
tranh cao.

7


- Các dịch vụ trước trong và sau khi bán: đây cũng là một yếu tố rất cần thiết trong
cạnh tranh, doanh nghiệp nào có khả năng thực hiện phục vụ khách hàng các dịch
vụ này tốt sẽ thắng lợi trong cạnh tranh.
- Ngoài ra còn có một số yếu tố khác cũng ảnh hưởng đến cạnh tranh như yếu tố
văn hoá xã hội, yếu tố kinh tế - chính trị - luật pháp ….
- Lợi thế so sánh của doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp khác: Về các yếu tố
sản xuất: lao động, vốn, nguyên nhiên liệu.
Khả năng hợp tác hữu hiệu với các doanh nghiệp hữu quan.Vị thế của đất nước.
-Năng suất của quá trình sản xuất: doanh nghiệp có năng suất lao động cao sẽ đáp
ứng đầy đủ, kịp thời yêu cầu tiêu dùng của khách hàng và đáp ứng yêu cầu đồng bộ
của khách hàng.


Chương II Thực trạng khả năng cạnh tranh của gạo

Việt Nam trên thị trường thế giới.

2.1 Khái quát về tình hình xuất khẩu gạo.

2.1.1 Tình hình xuất khẩu gạo trên thế giới.
Xuất khẩu gạo thế giới tập trung chủ yếu ở các nước đang phát triển. Trong nhiều thập niên
qua, các nước đang phát triển vẫn thường chiếm 75-80% tổng lượng xuất khẩu gạo thế giới. Từ
năm 1994, thị phần xuất khẩu gạo ở một số nước công nghiệp phát triển có xu hướng tăng lên
nhưng cũng chỉ ở mức 23.5%. Những năm gần đây xuất khẩu gạo của các nước đang phát triển
chiếm trên 80% phần còn lại của các nước phát triển chiếm gần 20%. Theo phạm vi từng đại lục

8


thì Châu Á trong thời gian gần đây xuất khẩu lớn nhất, chiếm tỷ trọng trung bình khoảng 75% so
với tỷ trọng nhập khẩu trung bình 56%,sau đó là Châu Mỹ xuất khẩu chiếm trung bình trên 20%
so với tỷ trọng nhập khẩu trung bình trên 17%. Cả ba Châu còn lại là Châu Âu, Châu Đại Dương,
Châu Phi chỉ chiếm 5% tổng xuất khẩu gạo thế giới. Ngoài phần trao đổi nội bộ Châu Á xuất siêu
lớn nhất, trung bình 3,5-4 triệu tấn hàng năm, Châu Mỹ có xuất siêu nhưng không ổn định.Châu
Đại Dương không đáng kể. Như vậy hàng năm , dòng gạo thế giới lớn nhất chảy từ Châu Á sang
Châu Phi, trung bình từ 2,5-3 triệu tấn, sau đó là dòng gạo từ Châu Á chảy sang Châu Âu khoảng
gần 1triệu tấn. Nếu xét chung tình hình xuất khẩu trong suốt giai đoạn 1989-1994, có thể xếp đội
ngũ các nước xuất khẩu gạo theo trật tự sau: Thái lan, Mỹ,Việt Nam,Pakistan, Trung Quốc, Ấn
Độ. Từ năm 1995-1996 tương quan lực lượng giữa các nước xuất khẩu gạo có sự thay đổi theo
trật tự mới: Thái Lan, Ấn Độ, Việt Nam, Mỹ, Pakistan.Từ năm 1996-1997Việt Nam đã vươn lên
vị trí thứ hai sau Thái Lan và giữ vị trí đó cho đến ngày nay.
Tình hình xuất khẩu gạo ở một số nước xuất khẩu gạo chính:
Thái Lan là nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu gạo. Trong ba năm gần đây Thái Lan đã xuất

khoảng 25 triệu tấn thóc /năm, trong đó 40-50% là để cho xuất khẩu. Năm 2002, Thái Lan xuất
khẩu 7 triệu tấn gạo, trong đó gạo thơm Hương Nhài chiếm khoảng 20% và chủ yếu xuất khẩu
sang Mỹ. Gạo chất lượng cao của Thái Lan, đặc biệt là gạo thơm Hương Nhài luôn cạnh tranh
với gạo chất lượng caocủa Mỹ, Thái Lan còn là nhà xuất khẩu chính hạt gạo dài chất lượng
thấp.Mặc dầu Thái Lan đứng đầu thế giới vế lượng gạo xuất khẩu, song năng suất lúa của Thái
Lanchỉ khoảng 2,3 tấn/ha.Các giống lúa của Thái Lan được thế giới ưa chuộng và thường được
trả giá cao so với các giống lúa của đối thủ cạnh tranh trong khu vực. Giá xuất kho gạo 10% và
15% tấm của Vịêt Nam chỉ bằng khoảng 90-95% của gaọ Thái Lan với chất lượng tương
đương.Tuy nhiên gần đây ( niên vụ 2001/2002) giá gạo xuất của Việt Nam lại cao hơn của Thái
có lẽ một phần là do đồng Bạt mất giá nên cạnh tranh vế giá ngày một tăng từ phía các nhà xuất
khẩu gạo ấn định, mặt khác cũng là do một lượng lớn gạo xuất khẩu từ Việt Nam là theo các hợp
đồng cũ.Thị trường xuất khẩu gạo của Thái Lan khá đa dạng. Tuy Châu Á vẫn là thị trường xuất
khẩu gạo chính, nhưng gạo Thái Lan cũng đã thâm nhập sâu vào thị trường Châu Phi, Trung
Đông, Châu Âu và Châu Mỹ.
Việt Nam là nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới.Sản lượng lúa của Việt Nam bình quân đạt
khoảng 32,9 triệu tấn/ năm trong giai đoạn 2000-2002, trơng đó xuất khẩu gạo đạt khoảng 3.5
triệu tấn/năm và đến năm 2005 xuất khẩu gạo của Việt Nam đã đạt trên 5 triệu tấn. Kế từ năm

9


1999 khi bắt đầu thực hiện chính sách đổi mới xuất khẩu gạo của Việt Nam tăng nhanh. Gạo
xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu thuộc nhóm giống India có chất lượng trung bình và thấp.Chất
lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam đầu thập kỷ 90 đã được cải thiện đáng kể, tuy nhiên mấy năm
gần đây lại đang có chiều hướng giảm sút. Thị trường xuất khẩu gạo chính của Việt Nam là
Inđônêxia, Philippines, Singapore,Malaysia, Cuba,Châu Phi và Trung Đông(Irăc). Xuất khẩu gạo
của Vịêt Nam chủ yếu được thực hiện thông qua các hợp đồng chính phủ và thường được ký kết
thoả thuận trước một năm so với thời điểm giạo hàng.
Mỹ là nước xuất khẩu gạo lớn thứ ba thế giới hàng năm xuất khoảng 2,5-3 triệu tấn và chủ yếu
cạnh tranh trên thị trường gạo chất lượng cao- loại gạo có chất lượng gạo trung bình. Thị phần

gạo của Mỹ trên thị trường gạo thế giới 20 năm gần đây đã liên tục giảm do có sự xuất hiện của
Việt Nam cũng như các đối thủ cạnh tranh khác ở Châu Mỹ La Tinh. Gạo Mỹ chủ yếu xuất sang
thị trường Bắc Mỹ và Nam Mỹ, Mỹ xuất khẩu gạo nhiều nhất sang Mexico, khoảng 403,5 nghìn
tấn niên vụ 2000/01. Mỹ cũng xuất khẩu một lượng gạo đáng kể sang Nhật Bản trong khuôn khổ
cam kết WTO về mức tiếp cận thị trường tối thiểu. Thành công của Mỹ trong xuất khẩu gạo chủ
yếu là nhờ có gạo chất lượng cao, có tiêu chuẩn phân loại và khả năng vế mặt công nghệ đảm bảo
cung ứng đúng chất lượng đúng chủng loại giống cho khách hàng.
Trung Quốc xuất hiện trên thị trường quốc tế như là một nước xuất khẩu gạo lớn với mức xuất
khẩu kỷ lục là 3,7 triệu tấn trong năm 1998. Diện tích đất trồng lúa của Trung Quốc có xu hướng
giảm kể từ niên vụ 1999/2000 và do vâỵ xuất khẩu cũng bắt đầu giảm.
Ấn Độ cũng là một trong số các nước xuất khẩu gạo lớn, song chất gạo xuất khẩu của Ấn Độ
cũng giảm kể từ 1998. Những thay đổi trong chính sách giá cả ở Ấn Độ khiến cho lượng gạo dư
thừa không có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Ấn Độ thường xuất khẩu gạo thơm
“Basmati” chất lượng cao sang Châu Âu và Mỹ, gạo không thay đổi chất lượng thấp sang Nam
Phi và Trung Đông.
Các nước xuất khẩu gạo lớn khác bao gồm Pakistan , Úc ,Urugoay , Ai Cập
,Myanma, EU và Argentina. Tình hình xuất khẩu của một số nước này theo số liệu dưới bảng sau.

Bảng 1: Xuất khẩu gạo thế giới.
Đơn vị: 1000 tấn.
2003

2004

10

Ước 2005


Tổng cộng

Thái Lan
Việt Nam
Ấn Độ
Mỹ
Pakistan
Ai Cập
Urugoay
Trung Quốc
Argentina
Myanmar
EU-25
Austalia
Các nước khác

27550
27116
7552
10.137
3795
4295
4421
3172
3834
3090
1958
1986
579
820
675
804

2583
880
170
249
388
130
220
187
141
131
1234
1229
Theo thời báo kinh tế Việt Nam

28291
7250
5100
4500
3900
2650
1100
750
700
350
175
175
125
1516

2.1.2. Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam

2.1.2.1 Vai trò xuất khẩu gạo đối với nền kinh tế xã hội của Việt Nam.
Việt Nam là một nước nông nghiệp, chính vì vậy nền kinh tế của Việt Nam đều dựa chủ yếu vào
ngành kinh tế nông nghiệp, trong đó trụ cột là nghề trồng lúa nước. Sản xuất lúa gạo đóng vai trò
đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn Việt Nam. Khoảng 80%
trong số 11 triệu hộ nông dân tham gia sản xuất lúa gạo, chủ yếu dựa vào phương thức canh tác
thủ công truyền thống. Do sản xuất lúa gạo tạo thu nhập và cung cấp lương thực chính cho các hộ
nông dân, nên phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn gắn liền với phát triển ngành lúa gạo.
Trong gần ba thập kỷ qua, nhờ có đổi mới cơ chế quản lý Việt Nam đã đạt được thành tựu to lớn
trong sản xuất gạo, không những đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước mà hàng năm còn
xuất khẩu được 3- 4 triệu tấn gạo. Thành qủa do xuất khẩu gạo mang lại hiệu qủa kinh tế đối nội
và đối ngoại đặc biệt mang lại ý nghiã lớn trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của nước ta.
Nó đóng vai trò quan trọng trong nển kinh tế Vịêt Nam, đó là:
-Xuất khẩu gạo góp phần đem nguồn thu ngoại tệ về cho đất nước. Việt Nam là một trong năm
nhóm nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới.Và gạo xuất khẩu nằm trong nhóm mười ngành xuất
khẩu chủ lực của Việt Nam với kim ngạch xuất khẩu hàng năm khoảng từ 600 đến 900 triệu
USD.
-Xuất khẩu gạo góp phần ổn định công ăn việc làm, tăng tích luỹ và cải thiện đời sống cho người
lao động trong khu vực sản xuất nông nghiệp.Qua việc phát triển thị trường xuất khẩu gạo đã
kích thích và thúc đẩy năng lực sản xuất nông nghiệp, góp phần khai thông nhanh đầu ra cho sản

11


phẩm lúa của nông dân, thu hút nhiều lao động nông thôn vào các khâu xay xát, chế biến, kho
tang,vận chuyển.
- Bảo đảm an ninh lương thực, cung cấp nguồn lương thực 80 triệu dân. Việt Nam là quốc gia
đông dân, gạo là nguồn lương thực chính cho hơn 90% dân số thời gian qua tình hình phát triển
sản xuất và sản lượng tăng nhanh chóng đã đảm bảo an ninh lương thực việt nam. Lượng xuất
khẩu gạo của Vịêt Nam chiếm tỷ trọng 13% đến 15% tổng lượng xuất khẩu thế giới đã góp phần
và bảo đảm an ninh lương thực thế giới.

- Cung cấp nguồn nguyên nhiên liệu cho ngành chế biến thức ăn gia súc, các nghành công nghiệp
thực phẩm khác. Với lượng sản xuất thực tế hàng năm trên 32 triệu tấn lúa, ngành sản xuất lương
thực là nền tảng cung cấp nguyên liệu dồi dào cho các ngành công nghiệp thực phẩm, các ngành
chế biến thức ăn gia súc.

2.1.2.2. Thực trạng xuất khẩu gạo của Việt Nam.
2.1.2.2.1 Mặt mạnh.
*Chính sách đổi mới kinh tế của nhà nước nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp
Cùng với việc đổi mới cơ chế quản lý việc ra đời Nghị quyết 10 của bộ chính trị về “Đổi mới
quản lý nông nghiệp” đã tạo ra động lực nông dân đã đánh thức tiềm năng của nền nông nghiệp
Việt Nam.các điểm cốt lõi của nghị quyết 10 (sau này gọi là khoán 10) như sau:
- Thừa nhận sự tồn tại của bình đẳng của các thành phần kinh tế.
- Khẳng định hộ gia đình và xã viên là đơn vị kinh tế tự chủ.
- Khuyến khích gia đình và xã viên làm giàu theo phương châm: “Ai giỏi nghề gì làm nghề đó” .
- Hợp tác xã thực hiện khoán ruộng đất cho gia đình xã viên với diện tích ổn định trong 10-15
năm và mức khoán ổn định trong 5 năm.
- Bảo đảm cho hộ xã viên được hưởng 40% sản lượng khoán trở lên.
Với khoán 10 sức sản xuất trong nông nghiệp được giải phóng. nhờ vậy làm tăng diện tích và
tăng năng suất lao động do đó sản lượng lương thực, thực phẩm cũng tăng lên.
* Khả năng cạnh tranh mạnh
-Khả năng cạnh tranh mạnh của Việt Nam dựa vào
+ Ưu thế về diều kiện tự nhiên, đặc biệt là độ phì nhiêu của đồng bằng song Cửu Long.
+ Chí phí nhân công rẻ, nông dân Việt Nam cần cù, chịu khó thông minh và sang tạo, tiếp thu
nhanh những tiến bộ khoa học kỹ thuật .
12


+ Chi phí cố định để sản xuất gạo còn rẻ, do chi phí đầu tư và sử dụng đất canh tác thấp, thuế
nông nghiệp được nhà nước ưu đãi.
+ Chi phí tiêu thụ tương đối thấp nhờ vào hệ thống xay xát và hệ thống vận chuyển đường thuỷ

đã được thiết lập.
Ngoài những yếu tố thuận lợi dọ thiên nhiên mang lại , yếu tố con người giữ vị trí quyết định
người nông dân ĐBSCL đã bao đời gắn bó với cây lúa, có nhiều kinh nghiệm trồng lúa, cần cù
chịu khó nhạy bén với kỹ thuật mới và đã quen với nền sản xuất hàng hoá từ những năm trước
1975. Theo đánh giá của FAO thì ĐBSCL không chỉ là vựa lúa lớn của Việt Nam mà còn có thể
là vựa lúa lớn trong khu vực và trên thế giới.
2.1.2.2.2 Mặt yếu.
* Cơ sở vật chất còn thiếu và yếu kém.
- Tổng mức vốn đẩu tư còn thấp , tỷ lệ phân bố vốn đẩu tư giữa các thành phần kinh tế trong
nông nghiệp vẫn chưa hợp lý đầu tư cho cơ giới hoá nông nghiệp chưa hợp lý: tập trung cơ giới
lớn, xem nhẹ cơ giới nhỏ và công cụ cầm tay.
-Về điện, điện cung cấp cho nộng nghiệp còn hạn chế nên diện tích lúa gieo trồng bị hạn, bị úng
không được tưới , tiêu kịp thời nhất là vào các thời kỳ cao điểm.
- Về phân bón thuốc trừ sâu nhà nước cung cấp cho nông dân trong những năm gẩn đây tuy có
tăng lên nhanh nhưng còn rất thấp so với nhu cầu đáp ứng khoảng 60%và cung cấp không kịp
thời.
- Cơ khí phục vụ cho nông nghiệp còn rất yếu kém: thiếu các loại máy móc ngay cả những loại
thông thường như máy bơm thuốc, bơm nước, máy kéo, bình bơm thuốc trừ sâu loại lớn.
- Thiết bị hầu hết của các đơn vị đã cũ và lạchậu, phân tán nhỏ trong thời gian dài chưa được đầu
tư nâng cấp đúng mức để đảm bảo chất lượng gạo theo yêu cầu của thị trường thế giới.
- Việc ta không đủ năng lực nhận tàu cỡ lớn vào ăn gạo để đi xa, ta chưa thực hiện tốt cam kết
hợp đồng xuất khẩu gạo với nước ngoài, giao hàng không đủ, khôn đúng chất lượng tốc độ giao
hàng chậm là những nguên nhân quan trọng làm cho ta chịu thua thịêt đáng kể trong giá gạo xuất
khẩu.
-Về cơ chế quản lý nông nghiệp chậm đổi mới nên đã kìm hãm sự phát triển sức sản xuất nông
nghiệp nới chung và sản xuất lương thực nói riêng.
* Chất lượng gạo còn kém.
- Độ trắng của gạo không đồng đều.

13



- Tỷ lệ thóc còn cao thường từ 30-50 hạt/kg và còn lẫn tạp chất.
- Gạo hè thu thường có độ ẩm cao từ 140,5-150,5.
- Tỷ lệ hạt bạc bụng còn cao và không đồng đều trong các lô hàng.
- Tỷ lệ hạt hư và biến màu thường cao vào mùa mưa.
-Tỷ lệ độ gãy không đồng đều.
- Các điều kiện đóng gói, bao bì, bốc xếp, bảo quản chưa tốt làm giảm chất lượng gạo xuất khẩu.
*Chưa có uy tín trên thương trường gạo thế giới.
Thời hạn giao hàng không đảm bảo lượng gạo Việt Nam tuy nhiều nhưng khó tập trung đến cảng
trong thời gian quy định do:
- Các doanh nghiệp quốc doanh thiếu vốn thu mua.
- Bộ nông nghiệp khộng nắm chắc được chính xác và kịp thời tình hình cung cầu trên thị trường.
- Cung cấp gạo không đúng hợp đồng đã ký kết thường vi phạm chất lượng và thời gian gịao
hàng.
*Công tác tiếp thị còn yếu kém.
-Do số lượng gạo giạo dịch mua bán trên thế giới ngày càng có nhiều hạn chế nên tính cạnh tranh
để giành thị trường và thương nhân trở nên ngày càng gay gắt hơn.
- Nhiều doanh nghiệp có trình độ nghiệp vụ chuyên môn xuất khẩu còn yếu thiếu thông tin thiếu
kinh nghiệm nhưng không biết hợp tác giúp đỡ lẫn nhau lại còn cạnh tranh giành khách hàng, thị
trường để chọ thương nhân nước ngoài lợi dụng ép giá gây thiệt hại cho nhà nước và nông dân.
- Do thị trường xuất khẩu gạo của ta chưa ổn định khâu tiếp thị quảng cáo còn yếu.
*Cơ chế xuất khẩu gạo còn chưa phù hợp.
- Hệ thống tiếp thị gạo xúât khẩu qua nhiều trung gian, không thì chờ các công ty nước ngoài vào
tranh bán. Xuất khẩu gạo nhiều khi trở thành mục tiêu giành giật giữa các doanh nghiệp. Trong
mấy năm qua cơ chế quản lý xuất khẩu gạo đã có nhiều chuyển biến tuy nhiên vẫn chưa hoàn
chỉnh và ổn định có lúc còn cứng nhắc thiếu linh hoạt thiếu nhất quán gây trở ngại và khó khăn
cho hoạt động của doanh nghiệp. Mặt khác cơ chế quản lý còn chưa chặt chẽ bộc lộ nhiều sơ hở
gây ra nhiều tiêu cực như:
+ Việc mua bán quota xuất khẩu.

+ Cạnh tranh xuất khẩu trong nội bộ các doanh nghiệp trên thị trường nước ngoài tạo cơ hội cho
khách hàng ép giá.
+ Tìm cách để bán gạo dưói mức giá chỉ đạo bằng cách nâng giá hàng nhập khẩu ( phân bón,

14


xăng dầu…) hoặc hoàn lại một phần tiền hàng cho khách dưới nhiều hình thức tinh vi.
Tất cả những thực trạng nêu trên là nguyên nhân chính làm giá gạo Việt Nam thấp hơn so với các
nước khác trên thế giới. Do đó chúng ta cần tìm hướng khắc phục được những hạn chế này và
phát huy những lợi thế trong nước để gạo xuất khẩu của nước ta ngày một tăng cả về chất và
lượng.
2.1.2.2.3 Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam.
Năm 2005 lần đầu tiên xuất khẩu gạo đạt mức trên 5 triệu tấn thu về cho đất nước hơn 1,34 tỷ
USD giá gạo bình quân đạt 267 USD/tấn. Đây là múc cao nhất đạt được trên cả ba chỉ tiêu lượng,
kim ngạch, giá cả xúât khẩu kể từ khi Việt Nam tham gia vào thị trường xuất khẩu gạo thế giới.
So với năm 2004 lượng gạo xuất khẩu tăng gần 1triệu tấn (25%), kim ngạch tăng trên 400 triệu
USD(45%) và giá cả tăng 48 USD/tấn (15%).Đây là năm thứ 17Việt Nam liên tục xuất khẩu gạo
và là năm thứ ba đạt lượng gạo trên 4 triệu tấn năm thứ hại đạt kim ngạch trên 1tỷ USD và giữ
vững vị trí thứ hai về xuất khẩu gạo.
Gạo xuất khẩu của Việt Nam tăng nhanh về lượng và kim ngạch. Năm 1989, Việt Nam chính
thức tham gia xuất khẩu gạo vào thị trường thế giới với số lượng 1,42 triệu tấn, giá bình quân 204
USD/tấn và thu về cho đất nước 189 triệu USD. Thời kỳ 5 năm (1991-1995) là 1,734 triệu tấn
/năm và tăng nhanh trong thời kỳ 5 năm(1996-2000) với mức 3.663 triệu tấn/năm.Trong thời kỳ 5
năm đầu thế kỷ XXI (2001-2005) lượng gạo xuất khẩu bình quân trong thời kỳ này là 3,706 triệu
tấn/năm. Nếu so năm đầu xuất khẩu gạo(1989) thì lượng gạo xuất khẩu năm 2005 gấp 3,57lần,
giá gạo tăng gấp 63USD/tấn (267-204USD) và kim ngạch tăng gấp 7,3 lần (1382/189 triệu USD).
Bảng 2: Kết quả xuất khẩu gạo qua một số năm.
Chỉ tiêu
Số lượng

Kim ngạch
Giá xuất khẩu

Đơn vị
1991
1995
1998
triệu tấn
1,03
2,06
3,08
triệuUSD
234,5 530,2
1100
USD/tấn
226,9 257,8 268,5
Nguồn: Bộ NN&PTNT

1999
4,5
1200
266,6

2000
3,5
667
190,6

2004
4,05

941
233,5

2005
5,16
1382
268

Bên cạnh số lượng thì ta cũng cần quan tâm đến chất lượng gạo xuất khẩu.
Khoảng 10% gạo xuất khẩu không rõ phẩm cấp và khoảng dưới 1% là gạo xuất
khẩu dưới dạng đã nấu. Phần lớn gạo xuất khẩu của Việt Nam đuợc phân loại căn
cứ theo tỷ lệ tấm. Gạo có chất lượng cao ( hạt dài, ít bạc bụng ) tỷ lệ tấm thấp (từ 510%) chiếm tỷ trọng lớn có xu huớng tăng dần, đến năm 1998 khoảng 70%, trong

15


khi đó gạo có chất lượng trung bình (hạt tròn, bạc bụng) tỷ lệ tấm cao trên 10%
chiếm tỷ trọng bé và có xu hướng giảm dần, đến năm 2001 nước ta xuất khẩu
khoảng 3,7 triệu tấn gạo trong đó gạo 25% tấm chiếm 32%, gạo 100% tấm chiếm
5% mặc dù gạo chất lượng thấp thường chiếm tỷ lệ khá cạo trong tổng lượng xuất
khẩu song năm 2001 gạo chất lượng cao (5%)tấm đã chiếm trên 25% trong tổng
lượng gạo xuất khẩu. Nhờ vào những đầu tư trong khâu giống, áp dụng những giống lúa mới,
cải tiến áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào các giai đoạn gia công sau vụ mùa thu hoạch,
chế biến, tích trữ và vận chuyển cho nên chất lượng của gạo xuất khẩu Việt Nam đã được nâng
lên một cách đều đặn trong suốt thời gian qua và đã thoả mãn thị hiếu của người tiêu dùng, xâm
nhập được một số thị trường chất lượng cao. Gạo Việt Nam hiện nay đã xây dựng được vị thế
của mình và đã được chấp nhận ở nhiều khu vực thị trường. Nếu trước đây, Việt Nam xuất khẩu
chủ yếu là gạo trắng với tỷ lệ gạo tấm vào khoảng 15% và 25%, độ xay xát bình thường, thì
những năm gần đây, Việt Nam đã xuất khẩu được các loại gạo 2% tấm, 5% tấm hạt dài, độ
bóng tốt. Đặc biệt, Việt Nam đã xuất được các loại gạo cao cấp cho các thị trường như Iran,

Nhật và Hàn Quốc. Chất lượng gạo xuất khẩu Việt Nam trong những năm qua thể hiện qua
bảng sau:
Bảng 3: Tỷ trọng chất lượng loại gạo xuất khẩu.
5%-15% gạo tấm

25%-35% và gạo tấm

1989-1995

55,3%

44,7%

2000

68,3%

36,1%

2002

71,8%

28,2%

2004

71,9%

28,1%


Nguồn: Hiệp hội lương thực Việt Nam
Bảng trên nói lên rằng việc xuất khẩu gạo có chất lượng cao và trung bình của Việt Nam đã
gia tăng; ngược lại, xuất khẩu gạo chất lượng thấp thì giảm dần dần. Thực tế này cho thấy rằng
gạo Việt Nam đã được cải tiến dần về chất lượng để thoả mãn xu hướng tiêu thụ trên thị trường
thế giới. Bên cạnh mặt hàng gạo trắng, Việt Nam đang từng bước xâm nhập vào thị trường gạo
thơm thế giới. Năm 2004, Việt Nam đã xuất khẩu gạo thơm hơn 100 ngàn tấn.
16


Giá gạo xuất khẩu Việt Nam cũng tăng dần cùng với xu hướng tăng của chất lượng gạo và
quan hệ cung cầu của thị trường lúa gạo thế giới. Gía gạo xuất khẩu bình quân 4 năm 1995-1998
là 269USD/tấn tăng 61USD/tấn so với giá bình quân 6 năm trước đó (1989-1994). Khoảng cách
giữa giá gạo Việt Nam với giá gạo Thái Lan đã giảm dần: từ 40-55USD/tấn những năm 19891994 xuống còn 20-25USD/tấn những năm 1995-2000. Đến năm 1998 do đồng Bath của Thái
Lan mất giá nên giá gạo của Việt Nam đã tiếp cận giá gạo Thái Lan tuỳ theo từng loại từng thời
điểm tại thời điểm tháng 4/98 gạo Việt Nam loại 5% tấm là 310-315 USD, loại 25% tấm là 265270USD tấn so với giá 310-320USD và 265-275 USD/tấn của Thái Lan so với hai loại gạo tuơng
ứng. Đã có lúc giá gạo Việt Nam đã cao hơn giá gạo của Pakistan 8% đến 10% (1997). Tuy
nhiên giá gạo của Việt Nam so với các nước khác trên thế giới còn thấp.
Về thị trường xuất khẩu gạo: Thị trường xuất khẩu gạo của Vịêt Nam ngày càng được mở rộng.
Năm 1991 gạo của Việt Nam xuất khẩu sang trên 20 nước, năm và xuất sang trên 50 nước, hiện
nay gạo của việt Nam đã xuất sang trên 50nước, hiện nay gạo của Việt Nam đã xuất sang trên 80
nước và có mặt ở tất cả các Châu Lục trên thế giới. Thị trường xuất khẩu gạo lớn nhất của Việt
Nam là khu vực Châu Á kế đến là Châu Phi, Châu Mỹ và Châu Đại Dương. Những nứoc nhập
khẩu lớn của Việt Nam (1991-1997) là Inđonexia Trung Quốc, Philippin, Cuba, Malaysia, Iran,
Pêru, Irăc, Srilanka, SNG, Senegan…. Trong giai đoạn 1997-2001, Việt Nam xuất khẩu trung
bình hàng năm khoảng 3,7 triệu tấn, chủ yếu vẫn là xuất sang Châu Á (52%), Châu Âu

(20%) và Trung Đông (12,7%), Châu Phi (8%), Châu Mỹ1(6%),Châu Đại
Dương(1%), 5 nước đứng đầu trong danh sách nhập khẩu gạo của Việt Nam trong
giai đoạn 1997-2001 đó là: Inđônêxia (14,8%), Philippin (12,6%), Xingapo (9,9%),

Irăc (9,8%) và Thuỵ Sĩ(8,4%).

Bảng 4: Thị trường xuất khẩu gạo Việt Nam 2001-2003
2001
Lượng

2002
Kim

2003

Lượng

Kim ngạch

Lượng

Kim ngạch

3240,9

725,5

3813,3

720,5

ngạch
Tổng số


3729,5

624,7

17


Châu Mỹ

46,5

7,2

302,8

52,3

Nước Mỹ

46,3

7,2

21,6

5,7

Châu Âu

402,4


61

240,1

43,9

193,0

34,2

EU

21.2

3,3

6,5

1,2

7,1

1,2

Đông Âu

320,9

49,6


221,1

40,8

163,3

29,1

Châu Á

2198,5

394,6

2395,6

579,3

2395,2

461,8

ASEAN

1564,8

249,1

1479,8


295,8

2115,2

388,7

Trung Đông

544,3

131,0

890,9

278,9

229,5

64,1

Nhật Bản

26

4,1

5,1

1,0


46,7

8,1

Trung Quốc

32,5

8,2

14,8

2,8

3,2

0,8

C. Đại Dư

2,9

0,5

11,4

2,1

1,7


0,4

Các nước #

1392,4

205,2

291,4

48,0

1223,3

224,2

Nguồn: Tổng Cục Hải quan.

2.2. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm lúa gạo.
* Sản xuất lúa.
Sản lượng, năng suất. Thái Lan là nước sản xuất lúa và xuất khẩu lúa gạo lớn nhất.Trong giai

đoạn cuối thập kỷ, các nước xuất khẩu gạo lớn đều có xu hướng tăng diện tích lúa
gạo, cao nhất là Việt Nam với 25,4%.Tuy nhiên, trong 5 năm gần đây, hầu hết các
nước trong khu vực đều có xu hướng giảm diện tích lúa (trừ Cambodia).
Bảng 5: Diện tích và năng suất sản xuất gạo ở một số nước.

18



Diện tích
Nước

Tốc độ tăng trưởng

2004

Năng suất
2004

Tốc độ tăng trưởng năng

diện tích

suất

1995-2000

2001-2005

1995-2000

2001-2005

CPC

2098,6

-0,08


2,64

1,99

3,48

-1,28

TQ

28327

-0,5

-1,57

6,26

0,81

0,02

Ấn Độ

42300

0,89

-1,21


3,05

1,15

1,92

Myanma

6000

1,11

-1,19

3,67

2,60

2,08

Thái Lan

9800

1,73

-0,2

2,75


1,64

1,30

ViệtNam

7443,8

2,54

-0,73

4,85

2,84

3,44

Nguồn: FAO
Trong các nước sản xuất lúa gạo, năng suất của Việt Nam tương đối cao so với Ấn Độ, Myanma
(4,85>3,67>3,05) và các đối thủ cạnh tranh là Thái Lan. Điều này cho thấy lợi thế của Việt Nam
so với các nước xuất khẩu khác. Tuy nhiên, Thái Lan năng suất thấp hơn Việt Nam (2,75<4,85)
là do sản xuất lúa chủ yếu là quảng canh. Hơn nữa, Thái Lan tập trung vào lúa gạo chất lượng
cao vì thế thời gian nuôi cấy lâu hơn, hiệu quả quay vòng chậm, năng suất thấp hơn. Đối với một
số nước sản xuẩt lúa thâm canh như Trung Quốc,Indonesia thì năng suất lúa của Việt Nam lại
thấp hơn. Việc áp dụng công nghệ lúa lai thành công giúp Trung Quốc có sự tăng trưởng nhanh
về sản lượng. Hiện nay dù là nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới nhưng Việt Nam hàng
năm vẫn phải nhập lượng lúa giống lớn từ Trung Quốc. Sự phụ thuộc này đã gây khó khăn không
ít cho Việt Nam làm sản xuất lúa ở một số địa phương mất sự ổn định.Bên cạnh đó thì việc gia

tăng diện tích canh tác cũng gây khó khăn do hạn chế về đất ở Việt Nam, đồng thời ở một số
vùng nông dân có xu hướng chuyển đổi trồng lúa sang trồng các cây khác cho giá trị cao hơn.
Tuy vẫn còn có khả năng gia tăng diện tích gieo trồng bằng cách tăng vụ, song điều này sẽ dẫn
đến sự gia tăng đáng kể chi phí sản xuất trên 1 tấn lúa vì cần những đầu tư lớn hơn vào thuỷ lợi
trong khi năng suất các vụ mới có xu hướng thấp hơn.
Tóm lại, việc phân tích năng suất, diện tích canh tác và gieo trồng cho thấy, việc tăng sản lượng

19


lúa nhiều khả năng sẽ dẫn đến sự gia tăng của chi phí trên một đơn vị sản phẩm.
Chi phí sản xuất lúa.

Bảng 6: Chi phí sản xuất lúa ở đồng bằng sông Cửu Long và Thái Lan
(Đơn vị: USD/ tấn)
Năm
ĐBSCL

So sánh %

Tỷ giá

(VN/TL)

(Baht/USD)

Thái Lan

1997


8.97

9.37

95.6

31.4

1998

8.2

7.86

104.2

41.4

1999

7.01

8.62

81.4

37

2000


7.79

8.08

96.5

40.1

2001

6.35

7.36

86.3

44.4

Nguồn: MARD, đánh giá khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam, 2003.
Các số liệu điều tra cho thấy chi phí sản xuất lúa ở Việt nam thuộc loại thấp nhất ở trong khu vực.
Riêng ở đồng bằng sông Cửu long, chi phí sản xuất thuộc loại thấp nhất trên thế giới. Ví dụ như
vào năm 1996, chi phí sản xuất một tấn lúa là 106,7 đôla ở đồng bằng sông Hồng, 88,8 đô la ở
đồng bằng sông Cửu long, trong khi đó ở Thái lan, chi phí là 163,9 đôla. Chỉ số chi phí nguồn lực
nội địa (DRC) - một thước đo khả năng cạnh tranh trong trường hợp không có những sai lệch về
giá cả do những can thiệp về chính sách cũng cho thấy, khả năng cạnh tranh dựa vào chi phí của

20


Việt nam rất cao. Chỉ số DRC tính cho đồng bằng sông Cửu long là 0,5, còn của Thái lan là 0,9.

Nói cách khác, để tạo ra 100 USD sản phẩm lúa, người nông dân ở đồng bằng sông Cửu long chỉ
cần 50 USD, trong khi ở Thái lan là 90 USD. Một số nghiên cứu khác còn cho con số khả quan
hơn: DRC ở đồng bằng sông Hồng là 0,87 trong vụ đông xuân và 0,64 trong vụ hè thu; còn ở
đồng bằng sông Cửu long là 0,28 trong vụ đông xuân, 0,37 trong vụ hè thu và 0,41 trong vụ lúa
thứ ba. Tuy nhiên, các nghiên cứu đều cho thấy, lợi thế chi phí lao động rẻ đóng vai trò chủ chốt
trong lợi thế chi phí nói chung (chi phí lao động ở Việt nam chỉ bằng 1/3-1/2 chi phí lao động ở
Thái lan.Tuy nhiên, việc phân tích động thái lợi thế về chi phí cho thấy, lợi thế này có xu hướng
ngày một suy giảm.
*Công nghệ sau thu hoạch: đây là một khâu mà Việt Nam nhiều yếu kém, dẫn đến tỉ lệ mất mát
cao và những đòi hỏi về chất lượng cao còn chưa được đáp ứng tốt.
Theo các số liệu của Bộ NN và PTNN, tỉ lệ lúa mất mát khoảng 18-30%. So sánh quốc tế cho
thấy, tỉ lệ này là mức trung bình so với các nước Châu , song cao hơn nhiều so với Thái lan và do
vậy có thể thấy Việt nam vẫn có dư địa để cải thiện hiệu quả. Đồng thời, chất lượng gạo của Việt
Nam còn nhiều bất cập. Những đòi hỏi đối với gạo phẩm cấp cao về độ gẫy, màu, kích cỡ đồng
đều còn chưa được đáp ứng do những hạn chế đáng kể trong công nghệ sau thu hoạch.
Những hạn chế chính của công nghệ sau thu hoạch bao gồm thiếu các thiết bị phơi khô; hệ thống
kho lưu giữ không đáp ứng được yêu cầu do đã cũ (xây dựng từ 20-30 năm trước; các nhà máy
xay xát chế biến có công nghệ lạc hậu (sử dụng một qui trình kỹ thuật công nghệ để xay xát chế
biến các loại gạo có các đặc tính khác nhau về chiều dài, độ dày, độ ẩm) và quản lý còn bất cập
(trong đó vấn đề quá nhiều lao động trong một dây chuyền sản xuất tương đối phổ biến trong các
doanh nghiệp Nhà nước); hệ thống phân loại chất lượng còn chưa đạt yêu cầu.

Bảng 7: Tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch.

21


Chỉ tiêu

Tỷ lệ tổn thất (%)


Tổn thất lúc thu hoạch

1.3- 1.7

Tổn thất lúc vận chuyển

1.2- 1.5

Tổn thất lúc đạp tuốt

1.4- 1.8

Tổn thất lúc phơi sấy, làm sạch

1.9- 2.1

Tổn thất lúc bảo quản

3.2- 3.9

Tổn thất lúc xay xát

4.0 – 4.5

Tổng cộng

13.0- 16.0

Nguồn: số liệu điều tra của viện công nghệ sau thu hoạch và tổng cục thống


kê.

* Khâu lưu thông (marketing) trên thị trường trong nước.
Khả năng cạnh tranh quốc tế của gạo Việt nam phụ thuộc đáng kể vào hiệu quả của khâu lưu
thông. Những sự kém hoàn thiện của thị trường sẽ cản trở đáng kể những tín hiệu giá cả của thị
trường quốc tế đến người sản xuất cũng như đẩy chi phí lưu thông lên cao.
Phần này sẽ đưa ra mô tả ngắn gọn về những đối tượng tham gia chính vào trong khâu lưu thông
và những mối tương tác giữa các đối tượng này, và sau đó sẽ đưa ra một số đánh giá về những
thay đổi trong khâu này trong những năm qua.
Hộ nông dân: lúa sau khi thu hoạch, được phơi sấy, một phần trữ lại cho nhu cầu sử dụng trong
gia đình, còn lại được bán ra cho các thương lái nhỏ (hàng xáo), các nhà máy xay xát nhỏ ở địa
phương, hoặc được bán cho các doanh nghiệp quốc doanh, doanh nghiệp ngoài quốc doanh có
điểm mua gom trong khi đang vụ. Có thể mua bằng tiền hoặc đổi vật tư nông nghiệp (phần lớn là
đã được cung ứng trước). Các hộ nông dân có thể thuê xay xát nhận lại gạo. Gạo này chủ yếu
dùng cho nhu cầu bản thân, song đôi khi cũng được đem ra chợ bán cho người tiêu dùng.
Tư thương nhỏ (người thu gom): Trực tiếp mua lúa của các hộ nông dân, rồi bán lại cho các nhà
máy xay xát nhỏ hoặc thuê gia công. Các doanh nghiệp lớn cũng thường mua lúa từ các tư

22


thương nhỏ này cho mục đích dự trữ hoặc xay xát của mình. Phần gạo đã được gia công xay xát
và phụ phẩm được các tư thương nhỏ bán lại cho các tư thương lớn (Doanh nghiệp kinh doanh
gạo tư nhân), các điểm thu mua gạo nguyên liệu của các công ty lương thực Nhà nước, hoặc cung
cấp cho mạng lưới bán lẻ. Các tư thương nhỏ đôi khi còn là nguồn cung cấp tín dụng nhỏ bằng
cách ứng trước tiền hoặc hàng hóa trước khi thu hoạch để có giá rẻ.
Các nhà máy xay xát nhỏ: Tập trung chủ yếu vào gia công xay xát gạo. Đôi khi họ cũng mua trực
tiếp lúa để xay và bán thành phẩm ra thị trường qua các điểm bán lẻ, các tư thương lớn, các xí
nghiệp chế biến của các doanh nghiệp lớn. Các nhà máy xay xát nhỏ góp phần giải quyết công ăn

việc làm ở nông thôn, góp phần giảm khối lượng cũng như thể tích lúa gạo cần vận chuyển và cả
kho chứa trong quá trình dự trữ.
Các thương nhân lớn, các doanh nghiệp kinh doanh gạo ngoài quốc doanh: Tập trung thu mua lúa
gạo từ các tư thương nhỏ, nhà máy xay xát và bán lại cho các doanh nghiệp lớn hoặc thực hiện
xay xát, đánh bóng để tiêu thụ trong nước hoặc cung ứng xuất khẩu.
Các công ty lương thực quốc doanh và xuất khẩu gạo: Trực tiếp xay xát lúa đã thu mua hoặc chế
biến, đánh bóng gạo nguyên liệu thu mua được để xuất khẩu và tiêu thụ nội địa. Nhiều doanh
nghiệp đã tham gia tích cực vào chủ trương điều hành thị trường của nhà nước như: đưa gạo ra
miền Bắc, mua lúa gạo dự trữ... Cho đến năm 1998, các công ty xuất khẩu lương thực đều là các
doanh nghiệp quốc doanh được Nhà nước cấp phép quyền xuất khẩu. Tuy nhiên, như sẽ được đề
cập ngay sau đây, từ năm 1998 trở lại đây, Nhà nước đã nới lỏng qui chế xuất khẩu và khuyến
khích mọi thành phần kinh tế tham gia vào khâu này để đẩy mạnh xuất khẩu và tạo ra giá cả có
nhiều thuận lợi cho người sản xuất lúa.Kênh phân phối lúa gạo phản ánh khá rõ sự hoạt động của
cơ chế thị trường với sự tham gia của các thành phần kinh tế, đặc biệt là lưu thông trong thị
trường nội địa. Lực lượng của thành phần ngoài quốc doanh rất đông. Chính lực lượng này đã tạo
ra nhiều công ăn việc làm ở nông thôn, kịp thời tiêu thụ lúa gạo do hộ nông dân sản xuất ra. Lực
lượng xay xát ở địa phương đã góp phần giảm đáng kể khối lượng và thể tích vận chuyển do họ
nằm ngay tại khu vực sản xuất, phân bổ tương đối cân đối trong khu vực. Đồng thời nhờ các kho
chứa của mình, họ cũng giúp tăng dung lượng kho chứa nói chung. Điều này làm giảm áp lực của
sự thiếu hụt kho chứa, nhất là vào mùa vụ. Lực lượng tư thương nhỏ góp phần đắc lực trong việc
lưu thông lúa gạo từ những vùng sâu, vùng xa. Lực lượng này còn có tác dụng kích thích sản xuất

23


nhờ những hoạt động tín dụng nhỏ của mình. Các tư thương nhỏ (lực lượng mua gom phổ biến)
cũng chỉ “lấy công làm lãi” mà chủ yếu là phí vận chuyển. Mức lãi gộp ước tính từ 35 - 70 đ/kg,
tức là chỉ bù đắp chủ yếu cho công vận chuyển từ các vùng sâu, vùng xa cùng với hao hụt, tạp
chất, rủi ro mà họ có thể gặp...Từ năm 1998, Nhà nước tuyên bố khuyến khích mọi thành phần
kinh tế tham gia xuất khẩu gạo, nhưng do còn duy trì chế độ quản lý xuất khẩu gạo bằng hạn

ngạch, chỉ định đầu mối xuất khẩu gạo với khá nhiều tiêu chuẩn cụ thể... nên các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh chưa có được quyền trực tiếp xuất khẩu gạo trên thực tế. Từ tháng 5/2001, Nhà
nước thực thi cơ chế điều hành xuất - nhập khẩu mới, trong đó bỏ chế độ quản lý bằng hạn ngạch,
đầu mối đối với xuất khẩu gạo. Đây là những điều kiện thuận lợi để các thành phần kinh tế ngoài
quốc doanh tham gia trực tiếp vào hoạt động xuất khẩu gạo.
Nói tóm lại, khâu lưu thông nội địa và xuất khẩu gạo của Việt Nam đã được cải thiện đáng kể
trong 10 năm qua với sự tham gia mạnh mẽ của khu vực tư nhân vào các khâu thu mua, vận
chuyển, chế biến và gần đây tư nhân đã được phép tham gia xuất khẩu. Kết quả là thế độc quyền
của một số doanh nghiệp Nhà nước trước đây đã bị xóa bỏ và sự cạnh tranh trong khâu lưu thông
đã gia tăng mạnh mẽ, dẫn đến sự gia tăng hiệu quả và cắt giảm chi phí trong khâu này, giúp giảm
chi phí một đơn vị sản phẩm xuất khẩu.

Sơ đồ: Kênh tiêu thụ lúa gạo

Ng. b¸n bu«n

Ng. b¸n lÎ

Ng.tiªu dïng

Ng. thu gom

N«ng d©n

Nhµ xay s¸t

Xuất khẩu
24



DNQD
Kh«ng cã
H§XK

DNQD cã
H§XK

Nguồn: FAO, 2000, nghiên cứu khả năng cạnh tranh của ngành nông nghiệp Việt Nam.

* Cảng và vận tải biển: Chi phí tại cảng Sài Gòn được ước tính là 40.000 USD cho
một tàu trọng tải 10.000 tấn, trong khi chi phí này ở cảng Băng cốc chỉ bằng một
nửa. Tốc độ xếp hàng ở Sài gòn là 1.000 tấn ngày so với 6.000 tấn/ngày ở Băng
cốc, trong khi phí nộp phạt chậm trễ khá cao (6.000 USD/ngày hay tương đương 40
tấn gạo thành phẩm). Theo thông tin khảo sát gần đây của Viện NCKH Thị trường
và Giá cả thì chi phí thuê vận chuyển 1 Container gạo 20 feet từ Cảng Sài Gòn tới
cảng Indonexia là 1300 USD, trong khi đó nếu chuyển Container này từ Cảng
Bangkok chỉ hết 800 USD, tức là chỉ bằng 60% chi phí từ cảng của Việt nam
v.v….Một nghiên cứu khác về khả năng cạnh tranh của các sản phẩm chế tạo xuất
khẩu đã cho thấy những yếu kém rõ rệt trong hệ thống vận tải quốc tế bằng đường
biển của Việt nam. Theo tính toán của nghiên cứu này, tỉ trọng chi phí vận tải biển
trong giá trị xuất khẩu hàng may mặc của Việt nam từ cảng Sài gòn sang Mỹ theo
đường Thái Bình dương (chiều dài 6.996 hải lý) là khoảng 9%, trong khi tỉ trọng
này từ các cảng của các nước cạnh tranh khác sang Mỹ có là thấp hơn nhiều: Bom
bay (chiều dài 9.865 hải lý): 5,5%; Madras: (9.001 hải lý) 4,5%; Thượng hải (5.475
hải lý): 4%; Bangkok (7.470 hải lý): 4%; Cao hùng (Đài loan 5.820 hải lý): 3,5%.
Đối với hàng dệt, tỉ trọng này là 26% đối với Việt nam (xuất phát từ cảng Sài gòn),
trong khi đó tỉ trọng này thấp hơn đối với các nước cạnh tranh khác: Cochin (9.308
hải lý): 18%; Calcurta (9.110 hải lý): 12%; Madras: 10%; Bombay: 8%; Bangkok:
6%; Thượng hải: 5%; Cao hùng: 4%.Tuy chưa có những số liệu tính toán riêng cho


25


×